Nghiêng đổ về phía nghiệp

16/03/20183:40 SA(Xem: 14860)
Nghiêng đổ về phía nghiệp
NGHIÊNG ĐỔ VỀ PHÍA NGHIỆP
Quảng Tánh

Duc Phat
Cây đời chúng ta ‘sẽ phải ngã, thuận theo
chiều nghiêng xuống’
Chánh pháp hay kinh điển đều do kim khẩu của Đức Phật nói ra.
Tuy nhiên, có một số trường hợp Đức Phật không nói pháp mà các vị Thánh Đại đệ tử như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Ca-chiên-diên, A-na-luật… thay Phật tuyên thuyết. Thế Tôn chỉ xác chứng rằng những gì các Tôn giả kia đã trình bày đều hợp với ý của Ngài, và nghiễm nhiên pháp thoại đó trở thành kinh.

Tôn giả A-na-luật trong pháp thoại này đã thay Phật thuyết pháp. Ngài dùng một hình ảnh cây nghiêng vốn rất thân thuộc với đời sống núi rừng để dụ cho cảnh giới mà người chết sẽ sinh về. Cây nghiêng khi bị chặt sẽ đổ theo chiều xưa nay nó vốn đã nghiêng. Cây đời cũng vậy, khi người ta chết đi cũng nghiêng đổ về phía nghiệp thiện ác của chính người ấy.

Thế nên, trong ba nghiệp của thân, miệng, ý nếu ai biết tu học hướng thiện thì khi mãn phần, cây đời sẽ nghiêng đổ theo hướng phước thiện. Ngược lại, những ai không biết tu học hướng thiện thì khi mãn phần, cây đời sẽ nghiêng đổ theo hướng bất thiện. Vậy nghiêng đổ theo hướng tốt hay xấu, thiện hay ác cốt yếu vẫn là do hiện tại mình đang xu hướng phía nào.

“Một thời, Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn  giả  A-na-luật  ở  tại  tinh  xá Tòng Lâm, nước Xá-vệ. Khi ấy Tôn giả A-na-luật nói với các Tỳ-kheo:

Ví như cây lớn sanh trưởng mà nghiêng xuống dưới, càng nghiêng sâu càng muốn đổ. Nếu chặt rễ nó, cây sẽ phải ngã, thuận theo chiều nghiêng xuống. Cũng  vậy, Tỳ-kheo tu bốn Niệm xứ, lâu ngày nhắm thẳng tới, đào sâu, vận chuyển, hướng đến viễn ly, nhắm thẳng tới, đào sâu, vận chuyển, hướng đến giải thoát; nhắm thẳng tới, đào sâu, vận chuyển, hướng đến Niết-bàn.

Tôn giả A-na-luật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đã nói, hoan hỷ phụng hành.

(Kinh Tạp A-hàm, kinh số 545)

Pháp thoại trên cho chúng ta thấy rất rõ rằng, cây đời chúng ta ‘sẽ phải ngã, thuận theo chiều nghiêng xuống’. Đây cũng là quán ngữ mà chúng ta phải niệm hàng ngày. Quan trọng nhất là mỗi người cần tự chọn cho mình chiều nghiêng xuống.

đệ tử Phật, chiều nghiêng xuống đầu tiên phải kể đến tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin Giới, còn gọi Bốn niềm tin bất hoại. Chỉ chừng này thôi, chúng ta đã nghiêng về cõi lành, chí ít cũng sinh làm người có phước, tránh được tam đồ, ác đạo.

Kế đến, hàng Phật tử cần chọn chiều nghiêng xuống tốt lành hơn, đó là mười nghiệp thiện (thân ba thiện, miệng bốn thiện, ý ba thiện). Mười thiện nghiệp này là chánh nhân của phước báo nơi các cõi trời.

Những ai căn lành sâu dày hơn thì nỗ lực tu tập thiền quán Tứ niệm xứ. Có thể nói, Tứ niệm xứ là trái tim của thiền định Phật giáo. Tu tập Tứ niệm xứ ‘lâu ngày nhắm thẳng tới, đào sâu, vận chuyển, hướng đến viễn ly’ là sự buông bỏ trong nhẹ nhàng. Xa lìa những gì mình vốn yêu thích, tham ái, trói buộc là biểu hiện căn bản của giải thoát.

Tiếp tục sống với và nghiêng về Tứ niệm xứ ‘lâu ngày nhắm thẳng tới, đào sâu, vận chuyển, hướng đến’ thì chắc chắn sẽ ngả đổ về giải thoát, Niết-bàn. Vậy nên, có thể trong hiện tại, một người nhiệt tâm tu tập Tứ niệm xứ chưa hẳn đã đạt đến cứ cánh giải thoát song điều đó cũng không có gì phải lo lắng vì ta đang tịnh nghiệp, đang hướng về giải thoát thì chắc chắn sẽ nghiêng đổ về phía an lạc.
Quảng Tánh
Thư Viện Hoa Sen




Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :