Về mối quan hệ này,
Đức Phật đã giảng dạy qua nhiều
bài kinh được ghi chép trong
hệ thống kinh
Nguyên thủy và
Đại thừa.
Tác giả Thích
Đạo Phong cũng đã phân tích mối quan hệ giữa
cha mẹ và con cái được
Đức Phật dạy trong
kinh Thiện Sinh.
1 Bài viết này sẽ
tiếp tục bàn thêm về mối quan hệ này nhằm làm rõ hơn
vai trò trách nhiệm của
cha mẹ. Trên cơ sở đó, bổn phận người con được
nhấn mạnh theo
tinh thần Phật giáo.
Nhân duyên quyến thuộc
Sự
kết thân trở thành mối quan hệ
cha mẹ và con cái là do
nghiệp duyên. Theo
Phật giáo, có bốn loại
duyên nghiệp đưa đến mối quan hệ giữa
cha mẹ và con cái trong kiếp
hiện tại. Đó là người con sẽ
báo ân, người con sẽ báo oán, người con sẽ đòi nợ và người con sẽ trả nợ.
2 Theo thuyết này,
chúng ta có thể bổ sung
trường hợp nghiệp duyên tương trợ tức là
cha mẹ và con cái nương tựa nhau theo
nhân quả bình đẳng mà không phải nghiêng về một bên nào chịu quả
tích cực hay
tiêu cực.
Nhân duyên tạo nên mối quan hệ giữa
cha mẹ và con cái được
Đức Phật dạy trong kinh
Trung bộ. Có ba
yếu tố cần thiết tạo nên một
bào thai để sau này
trở thành người con. Ba
yếu tố đó là
cha mẹ có giao hợp, người mẹ trong
thời kỳ có thể thụ thai, và
hương ấm hay
tâm thức có
hiện tiền.
3 Như vậy, cả ba
yếu tố không tự
độc lập quyết định tạo nên mối quan hệ
cha mẹ con cái theo
ý muốn mà chính “duyên nghiệp” mới là
điều kiện quyết định.
Một người học Phật và hiểu
giáo lý nhân duyên nghiệp thì sẽ không có
thái độ trách cứ người đã tạo ra
thân phận con người hay ngược lại. Điều cần làm là người con và cả
cha mẹ nên
chấp nhận thân phận của mình để chuyển nghiệp.
Cha mẹ đối với con cái
Thông thường,
cha mẹ sinh con cái là vì
tình thương yêu đối với đứa con do chính mình tạo ra. Một cặp vợ chồng trước khi sinh con
thường có mong muốn làm
cha mẹ và có sự chuẩn bị chu đáo. Trong
trường hợp “vỡ kế hoạch” hay “ngoài ý muốn” thì
cha mẹ có
tình thương con cũng sẽ chăm sóc đầy đủ cho con khôn lớn. Chính
tình thương khiến
cha mẹ nuôi con không quản gian lao khó nhọc và không kể công nuôi nấng. Những bậc
cha mẹ có
tình thương con cái, nuôi chúng lớn khôn và tạo
điều kiện tốt cho chúng vào đời được
Đức Phật ví như Phạm Thiên đáng được
cúng dường.
4 Xưa nay, có rất nhiều câu ca dao và thơ văn
ca ngợi về
ân đức của hai đấng
song thân. Những câu ca dao như “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…” hay “Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng…” đã
ăn sâu vào tâm thức của những người con Việt. Thật sự
may mắn cho những người con có được hai đấng sanh thành có nhiều
tình thương yêu đối với con cái.
Tuy nhiên, điều
bất hạnh vẫn xảy ra đối với một số ít người con bị những bậc
cha mẹ không có
tình thương, thậm chí
nhẫn tâm với con cái. Nó
thể hiện qua việc
cha mẹ không biết lo toan cho con hay
hy sinh cho con. Có bậc
cha mẹ còn
bỏ rơi con, đánh con, bắt con phải làm để
phục vụ cho nhu cầu hưởng thụ của mình cho dù chúng còn rất nhỏ bé và ngây thơ.
Hình ảnh những trẻ em ăn xin mà không được
thọ hưởng là một ví dụ.
Bằng
tuệ giác thấy rõ nhiều hạng
cha mẹ khác nhau,
Đức Phật đã đưa ra năm bổn phận dành cho các bậc
cha mẹ đối với con cái được ghi lại trong
kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt. Năm bổn phận
bao gồm: ngăn chặn con làm điều ác, khuyến khích con làm điều thiện, dạy con nghề nghiệp, cưới vợ gả chồng xứng đáng cho con, đúng thời trao của thừa tự cho con.
5
Dựa vào lời dạy của
Đức Phật, mặc dù
tình thương của
cha mẹ đối với con cái là
thiêng liêng nhưng cũng phải có bổn phận
cụ thể. Năm bổn phận này đã được nhiều bậc tôn đức
giảng giải. Ở đây, người viết bàn thêm về điều một, hai và năm để làm rõ bổn phận của
cha mẹ theo
lời Phật dạy. Điều một và hai
nhấn mạnh bổn phận của
cha mẹ về việc
giáo dục con cái để chúng tránh ác làm thiện.
Vấn đề đặt ra là
cha mẹ giáo dục con cái như thế nào để làm trọn bổn phận của mình.
Theo nền
văn hóa phương Đông,
cha mẹ thường
giáo dục con cái tại môi trường
gia đình. Ở đây,
cha mẹ dạy con cái các phép tắc
lễ nghi hàng ngày như thưa, chào,
chắp tay, vòng tay…,
vâng lời cha mẹ, ông bà, người lớn…, tránh xa bạn xấu, nên gần bạn lành, nói lời
lịch sự, không nói
lời thô tục..., tránh giết hại
vô cớ, tránh gây gổ người khác, có
tình thương người và động vật… Những cách thức chung này các bậc
cha mẹ có
tình thương con đều
áp dụng dạy con. Một trong các
yếu tố tạo nên
hiệu quả của cách
giáo dục này là tấm gương từ
cha mẹ. Thật khó cho con cái trở nên tốt khi
cha mẹ nói và làm
mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn như
cha mẹ dạy con nói
lịch sự nhưng
cha mẹ hay chửi thề… thì
hiệu quả giáo dục khó
thành công.
Theo
truyền thống Phật giáo, tất cả những bậc
cha mẹ Phật tử phải học và hành theo
lời Phật dạy. Sự
thực hành đúng bổn phận của người
Phật tử tại gia là các bậc
cha mẹ đã đóng góp một phần lớn trong việc
giáo dục con cái theo
Phật giáo. Từ cơ sở đó,
cha mẹ có thể dễ dàng
giáo dục con
trở thành Phật tử. Có thể nói,
sự giáo dục con cái tránh ác và làm thiện không gì có thể
so sánh bằng hướng dẫn con cái
trở thành Phật tử và
tu học Phật pháp ngay từ khi chúng còn nhỏ. Chỉ cần hướng dẫn con cái
quy y Tam bảo và
thực hành năm giới hay năm điều
đạo đức của
Phật giáo là các bậc
cha mẹ có thể
hoàn thành bổn phận
giáo dục đạo đức của mình.
Rất tiếc, nhiều bậc
cha mẹ đã không
quan tâm giáo dục con cái
trở thành Phật tử.
Tình trạng cha mẹ là
Phật tử, con cháu không
tiếp tục là
Phật tử rất
phổ biến ở
Việt Nam ngày nay. Việc
cha mẹ hướng dẫn con cái
trở thành Phật tử ngay từ nhỏ để chúng được
giáo dục đạo đức tránh ác làm thiện là
hoàn toàn khả thi. Nó dễ hơn nhiều so với việc con cái
thuyết phục cha mẹ quy y Tam bảo. Điều này sẽ trình bày bên dưới.
Về điều năm,
Đức Phật dạy
cha mẹ đúng thời trao của thừa tự cho con. Theo
ngôn ngữ hiện đại, điều năm được hiểu là
cha mẹ đúng thời trao di chúc cho con.
Tuy nhiên, điều này chỉ
áp dụng với các bậc
cha mẹ có
tài sản, còn những người không có
tài sản thì không thể
áp dụng được. Với
trường hợp một, mặc dù
Đức Phật dạy
rõ ràng nhưng không nhiều bậc
cha mẹ Phật tử thực hiện bổn phận trao di chúc. Dù
lý do gì đi nữa,
nếu không trao di chúc cho con khi còn sống để khi chết con cái
tranh giành là chưa
thực hiện trọn vẹn bổn phận
cha mẹ đối với con cái theo
Phật giáo. Nội dung di chúc như thế nào
cha mẹ có toàn quyền
quyết định khi còn
minh mẫn.
Như vậy, bổn phận của bậc
cha mẹ Phật tử đối với con cái theo lời dạy của
Đức Phật cần được được
thực hành ít nhất trong
cộng đồng Phật tử.
Con cái đối với cha mẹ
Đáp lại công ơn sinh thành và
nuôi dưỡng của
cha mẹ, các người con phải
thể hiện lòng hiếu thảo hay
thực hành đạo hiếu.
Phật giáo khẳng định
công ơn cha mẹ thật
bao la vô bờ bến. Do đó,
thực hành đạo hiếu cũng phải tương xứng mới làm tròn đạo làm con. Ở đây,
trường hợp những đứa con bất hiếu không bàn.
Công ơn cha mẹ thật sự là
bao la vô bờ bến. Khi thai đã đậu, người mẹ phải mang chín hay mười tháng, rồi sinh đẻ với sự
lo âu đối với
bào thai ấy. Sau khi đã sinh, người mẹ nuôi con với sữa của mình.6 Trong kinh
Tăng nhất A-hàm,
Đức Phật dạy: “Cha mẹ ân nặng, bồng bế,
nuôi dưỡng, làm cho người con khôn lớn nên người…”
7 Kinh
Báo đáp công ơn cha mẹ giải thích chi tiết hơn
bao gồm mang thai chín tháng, sinh sản
đau đớn, nuôi con khổ nhọc, cho con ăn
thức ăn dễ tiêu, nhịn đói dành
thức ăn cho con, chịu
thiệt thòi vì con, giữ cho con sạch sẽ,
lo lắng khi con đi vắng và vì con
chịu tội.
8 Tuy nhiên, dù kể
đại cương hay
chi tiết về
công ơn cha mẹ,
chúng ta không
thể không kể đến năm bổn phận của
cha mẹ như đã nêu ở phần trên.
Sau khi dạy về năm bổn phận của
cha mẹ,
Đức Phật cũng dạy về bổn phận của người con. Năm bổn phận của người con
bao gồm cung kính vâng lời cha mẹ, phụng dưỡng
cha mẹ khi
cha mẹ già yếu,
giữ gìn thanh danh và
truyền thống gia đình, bảo quản
tài sản do
cha mẹ để lại và lo lễ tang chu đáo khi
cha mẹ qua đời.
9 Những bổn phận dành cho người con rất
thiết thực và một người con
hiếu thảo, có
tình thương cha mẹ có thể làm một cách
trọn vẹn. Trong năm điều trên, chỉ có điều thứ ba là người
Phật tử cần
lưu ý thêm. Nếu
truyền thống gia đình là
Phật giáo thì người con
hiếu thảo phải nhớ
giữ gìn và phát huy
truyền thống ấy. Người con
hiếu thảo không được và không nên
từ bỏ truyền thống Phật giáo cao đẹp của
gia đình mình dù cho bị
ép buộc hay
dụ dỗ với bất cứ
hình thức nào.
Bổn phận hay sự
báo ân của người con cũng được đề cập ở khía cạnh giúp đỡ
cha mẹ với
vai trò như là một người hướng dẫn
đời sống đạo đức tâm linh. Trong kinh Tăng chi có bốn cách
báo ân cha mẹ được ghi lại. Một là nếu
cha mẹ chưa có
đức tin Tam bảo thì người con hướng dẫn, tạo duyên cho
cha mẹ tin sâu
Tam bảo. Hai là nếu
cha mẹ có tâm
bỏn xẻn, tham đắm luyến
tiếc của cải
vật chất thì người con khuyên
cha mẹ bố thí cho người
bất hạnh,
cúng dường Tam bảo. Ba là nếu
cha mẹ làm ác thì người con khuyên
cha mẹ làm lành, bỏ ác. Bốn là nếu
cha mẹ có
tà kiến theo
tà đạo mê tín thì người con khuyên
cha mẹ học
Phật pháp,
quay về Chánh pháp.
10
Bốn cách
báo ân vừa nêu có lẽ dành cho những người con là bậc
đạo sư, các nhà
tâm linh, hay những
Phật tử thuần thành có
tu học thành công bởi những người con chưa đạt tiêu chí trên thì khó có thể
thuyết phục được
cha mẹ.
Tuy nhiên,
thực hành được bốn điều trên đối với
cha mẹ là sự
tri ân cao quý và đầy đủ.
Điều một
áp dụng cho
gia đình cha mẹ chưa là
Phật tử vì nếu
cha mẹ đã là
Phật tử thuần thành thì ắt phải tin sâu
Tam bảo. Trong
trường hợp này, người con
trở thành Phật tử trước rồi giúp
cha mẹ trở thành Phật tử tin sâu
Tam bảo như
trường hợp của ngài Xá-lợi-phất độ mẹ.
Điều hai, có những bậc
cha mẹ vì
nghiệp lực nên vẫn còn bị
tham lam,
bỏn xẻn làm khổ. Những người con có tâm
rộng lượng tạo nhiều phước báu có thể giúp cho
cha mẹ chuyển được bớt nghiệp xấu này.
Điều ba nói về nghiệp xấu của một số người khi làm
cha mẹ.
Sự thật thì không phải tất cả
cha mẹ đều có
đạo đức vì
vẫn có những bậc làm
cha mẹ phạm pháp, chịu tù tội. Trong
trường hợp này, nếu người con có
đạo đức, có phẩm hạnh tốt thì có thể giúp
cha mẹ xa lìa con đường xấu ác.
Điều bốn thuộc
trường hợp cha mẹ tin theo tà kiến. Có hai
trường hợp xảy ra: một là
cha mẹ là
Phật tử nhưng do không nghe học
giáo pháp nên
tin theo tà kiến; hai là
cha mẹ không phải là
Phật tử nên
tin theo tà kiến ngoại đạo. Người con do
tu học Phật pháp thấy
giá trị cao quý của
đạo Phật nên khéo léo đưa
cha mẹ tin theo Chánh pháp. Sự
thành công trong việc này
phụ thuộc vào sự
tu tập của người con.
Bản kinh Báo đáp công ơn cha mẹ thì dạy các cách
báo hiếu theo
tu tập và tạo phước. Kinh ghi là nếu các người con muốn
báo đáp ân dày của
cha mẹ thì phải
thực hiện các điều như sau: biên chép và
lưu truyền kinh này, vì
cha mẹ tụng kinh,
ăn năn tội lỗi,
cúng dường Tam bảo và
tu phước để
cầu nguyện cho
cha mẹ,
giữ gìn tam quy và
năm giới.
Bản kinh này dạy người con
phương cách báo hiếu cho
cha mẹ không chỉ khi đã qua đời mà còn
thiết thực khi
cha mẹ còn
tại thế. Sự
tu tập bản thân để
hồi hướng cho
cha mẹ khi họ còn
hiện tiền vẫn có giá trị nhất định. Việc
lưu truyền kinh,
tụng kinh,
cúng dường, tạo phước
thực chất là tạo phước cho chính người
thực hành. Giữ
tam quy và
năm giới cũng như
sám hối tội lỗi là những điều
thực hành của người
Phật tử. Khi
bản thân tốt thì
cha mẹ cũng hưởng
theo như là cộng nghiệp. Làm trọn bổn phận
căn bản của người
Phật tử cũng là
báo hiếu.
Từ ba
bản kinh trên, có thể rút ra hai cách
báo hiếu cho
cha mẹ là phụng dưỡng
cha mẹ và hướng dẫn
cha mẹ trở thành Phật tử khi
cha mẹ còn sống và tạo phước
cầu nguyện cho
cha mẹ khi họ đã qua đời.
Phương cách báo hiếu bằng cách giúp
cha mẹ trở thành Phật tử để
tu tập Phật pháp thường được cho là điều
tối thắng so với đạo hiếu
thế gian. Điều đó đúng trong
trường hợp cha mẹ chưa là
Phật tử hay đã là
Phật tử nhưng chưa có cơ hội
tu học Phật pháp. Dù
cha mẹ đã là
Phật tử hay chuẩn bị là
Phật tử do người con hướng dẫn thì chính các người con phải là
Phật tử thuần thành và có
tu học Phật pháp mới quan trọng. Nói cách khác,
báo hiếu trong
đạo Phật hơn
thế gian ở điểm là các người con phải là
Phật tử, có
thực tập Phật pháp. Bởi vì chính sự
thực tập Phật pháp thì người con mới có
chánh kiến, có
công đức phước báu, có
uy tín để hướng dẫn
cha mẹ theo
Phật pháp.
Nếu không như vậy,
phương pháp báo hiếu tối thắng này sẽ khó
thành công.
Thay lời kết
Mối quan hệ giữa
cha mẹ và con cái là rất
thiêng liêng.
Đức Phật thấy rõ
công ơn cha mẹ đối với con cái nên đã dạy các người con các
phương pháp báo hiếu để
trở thành người con có hiếu, nền tảng đi đến bậc Thánh. Đối với bậc
cha mẹ,
Đức Phật cũng dạy
trách nhiệm đối với con cái. Do đó, để mối quan hệ trở nên
tốt đẹp thì
cha mẹ và con cái nhớ
thực hành các bổn phận như Phật đã dạy. Năm
trách nhiệm của
cha mẹ và năm bổn phận của người con rất
thiết thực và rất cần được
thực hành trong
xã hội loài người để cuộc sống
gia đình trở nên
hạnh phúc,
xã hội bình yên.