Trong Kinh Tạng có hai bài Kinh Gaddulabaddha (Dây Trói Buộc) và hôm nay chúng ta sẽ nghiên cứu cả hai bài kinh này để hiểu rõ những gì Đức Phật muốn nói.
Bài Kinh Thứ Nhất
Một thời Đức Thế Tôn ở tại Sāvatthi. Ở đó Đức Thế Tôn gọi các vị Tỳ-kheo và nói như vầy:
“Này các Tỳ-kheo, khởi đầu của vòng luân hồi (samsara) này là không thể khám phá ra được. Điểm bắt đầu không thể nêu rõ đối với các chúng sinh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc, phải lưu chuyển và xoay quanh trong vòng luân hồi (saṃsāra).”
Nghiệp lực chỉ có thể tạo ra quả của nó dưới sự hỗ trợ của vô minh (avijjā) và tham ái (taṇhā). Không có vô minh và tham ái, nghiệp lực không thể tạo ra quả được. Vì thế trong bài kinh này Đức Phật đã giảng dạy hai nhân chính của vòng tái sanh luân hồi (saṃsāra), đó là, vô minh và tham ái.
Vô minh có nghĩa là nhận thức một cách sai lầm cho rằng có đàn ông thực, có đàn bà thực, v.v… Theo lời dạy của Đức Phật, không có đàn ông, không có đàn bà, v.v…, mà chỉ có danh và sắc tối hậu hay danh & sắc chơn đế mà thôi. Nếu ai nghĩ rằng ‘đây là một người đàn ông, một người đàn bà, đây là con trai, con gái, v.v…’ thì sự hiểu biết sai lầm của người ấy được gọi là vô minh. Khi chúng ta hành thiền (phân tích) tứ đại một cách hệ thống, chúng ta sẽ thấy được các phân tử nhỏ. Nếu chúng ta phân tích các phân tử nhỏ ấy, chúng ta sẽ thấy cả thảy có hai mươi tám loại sắc (rūpa). Hơn nữa, còn có danh (phần tinh thần) khởi lên nương vào sắc này. Như vậy chỉ có danh và sắc, ngoài ra không còn gì khác. Ngay khi danh và sắc sanh lên, chúng liền diệt, vì thế chúng là vô thường. Không có con trai, không có con gái, không có cha, mẹ, đàn ông, và đàn bà thường hằng. Nếu ai nhận thức rằng có đàn ông, đàn bà, v.v… người ấy có vô minh.
Khi có vô minh, thì tham ái, là sự dính mắc vào các đối tượng ấy, có thể phát sanh do duyên vô minh. Một khi đã có vô minh và tham ái, nghiệp lực chắc chắn sẽ tạo ra quả tốt hay xấu khi chín mùi. Đó là lý do vì sao Đức Phật dạy trong bài Kinh này như vầy: Không có điểm khởi đầu được nêu rõ đối với các chúng sinh bị vô minh che đậy và bị tham ái trói buộc, phải lưu chuyển và xoay quanh trong vòng luân hồi.
Rồi Đức Phật tiếp:
“Này các Tỳ-kheo, một thời sẽ đến khi mà biển lớn khô cạn, hoàn toàn khô cạn, và không còn hiện hữu nữa. Thế nhưng, Ta nói không có sự chấm dứt khổ đau đối với các chúng sinh bị vô minh che đậy và bị tham ái trói buộc, phải lưu chuyển và xoay quanh trong vòng luân hồi.
Theo giáo lý của đạo Phật, một ngày nào đó thế gian sẽ bị tiêu huỷ bởi lửa, hay nước hoặc gió. Trong bài Kinh này, Đức Phật mô tả những tình trạng khi thế gian bị tiêu huỷ bằng lửa. Vào thời gian ấy, số lượng mặt trời tăng lên dần. Thông thường các chúng sinh trong bốn cõi khổ sẽ chết và được tái sanh trong cõi người hoặc chư thiên. Khi có năm mặt trời xuất hiện trên bầu trời, nước trong đại dương sẽ khô cạn, hoàn toàn khô cạn và không còn hiện hữu. Thời gian ấy, thông thường tất cả chúng sinh trong cõi dục sẽ chết. Trước khi cái chết xảy ra, con người lo lắng hành thiền và đắc thiền. Nhờ thiền đó họ được tái sanh trong Phạm thiên giới. Vì thế Đức Phật nói rằng ngay cả lúc ấy (lúc biển lớn khô cạn) cũng không có sự chấm dứt của vòng luân hồi như vầy: “Thế nhưng, Ta nói không có sự chấm dứt khổ đau đối với các chúng sinh bị vô minh che đậy và bị tham ái trói buộc, phải lưu chuyển và xoay quanh trong vòng luân hồi.
Lại nữa, Đức Phật tiếp:
“Này các Tỳ-kheo, một thời sẽ đến khi mà núi Tu-di (Sineru), vua của các ngọn núi, bị thiêu huỷ, lụi tàn và không còn hiện hữu. Nhưng, Ta nói, vẫn không có sự chấm dứt khổ đau đối với các chúng sinh bị vô minh che đậy và bị tham ái trói buộc, phải lưu chuyển và xoay quanh trong vòng luân hồi.
Khi mặt trời thứ sáu xuất hiện, núi chúa Tu-di bị thiêu huỷ, lụi tàn và không còn hiện hữu nữa. Lúc đó, do vô minh và tham ái, nghiệp lực của thiền (Jhana) khiến cho các chúng sinh được tái sanh trong Phạm thiên giới. Vì thế Đức Phật dạy như vầy: “Nhưng, Ta nói, vẫn không có sự chấm dứt khổ đau đối với các chúng sinh bị vô minh che đậy và bị tham ái trói buộc, phải lưu chuyển và xoay quanh trong vòng luân hồi.”
Rồi Đức Phật tiếp tục:
“Này các Tỳ-kheo, một thời sẽ đến khi mà đất lớn (quả điạ cầu) bị thiêu huỷ, tàn lụn và không còn hiện hữu nữa. Nhưng, Ta nói, vẫn không có sự chấm dứt khổ đau đối với các chúng sinh bị vô minh che đậy và bị tham ái trói buộc, phải lưu chuyển và xoay quanh trong vòng luân hồi.
Khi mặt trời thứ bảy xuất hiện đất lớn biến đổi, tàn lụi và không còn hiện hữu nữa. Lúc đó, duyên vô minh và tham ái, các chúng sinh còn lại cố hết sức để đắc thiền. Do nghiệp lực của thiền ấy, sau khi chết họ tái sanh Phạm thiên giới. Vì thế Đức Phật nói rằng: “Nhưng Ta nói, vẫn không có sự chấm dứt khổ đau đối với các chúng sinh bị vô minh che đậy và bị tham ái trói buộc, phải lưu chuyển và xoay quanh trong vòng luân hồi.”
Rồi Đức Phật tiếp tục bài Pháp của mình với ảnh dụ một con chó:
“Ví như, này các Tỳ-kheo, một con chó bị xích bằng một sợi dây và buộc chặt vào cây cột hay cột trụ chắc chắn: nó sẽ chỉ chạy vòng quanh và chạy vòng tròn cây cột hay cột trụ ấy. Cũng vậy, kẻ vô văn phàm phu (người bình thường không được chỉ dẫn tu tập), không thấy các bậc thánh và không thiện xảo, không tu tập Pháp của các bậc thánh (ở đây là Tứ Thánh Đế), không thấy các bậc chân nhân và không thiện xảo, không tu tập Pháp của các bậc chân nhân, xem –
- sắc như là tự ngã, hay
- tự ngã như là có sắc, hay
- sắc ở trong tự ngã, hay
- tự ngã ở trong sắc.
Người ấy xem thọ như là tự ngã…Người ấy xem tưởng như là tự ngã…Người ấy xem các hành như là tự ngã … Người ấy xem thức như là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức.
Người ấy chỉ có chạy vòng quanh và chạy lòng vòng từ sắc này đến sắc khác, từ thọ này đến thọ khác, từ tưởng này đến tưởng khác, từ hành này đến hành khác, từ thức này đến thức khác.
Vì rằng người ấy cứ tiếp tục chạy vòng quanh và chạy lòng vòng quanh chúng, người ấy không giải thoát khỏi sắc, không giải thoát khỏi thọ, không giải thoát khỏi tưởng, không giải thoát khỏi các hành, không giải thoát khỏi thức. Người ấy không giải thoát khỏi sanh, già và chết; không giải thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu và não; không giải thoát khỏi khổ đau, Ta nói như vậy.
Ở đây, Đức Phật giải thích hai mươi loại thân kiến (Sakkāyadiṭṭhi), tức quan kiến sai lầm về cá nhân con người. Tôi sẽ giải thích hai mươi loại thân kiến này cho quý vị hiểu.
Pa-Auk Sayadaw giảng Tỳ kheo Pháp thông Dịch Việt.
DayTroiBuoc_PaAukTawyaSayadaw
.