Từ ngày dân ta chỉ sống thành những bộ tộc du canh, đến khi các vua Hùng lập quốc, rồi Bắc thuộc, rồi
độc lập, rồi mở đất về phương Nam... dân tộc ta đã
trải qua bao
thăng trầm. Trước thế kỷ thứ 10 thì đất nước
chúng ta chỉ vỏn vẹn từ Thanh Hóa trở ra Nam Quan. Do
hoàn cảnh địa lý và
lịch sử,
chúng ta nằm sát nách về phía Nam của một dân tộc lớn và đã từng có quá trình
lịch sử thôn tính nhiều nước nhỏ quanh vùng, nên dân tộc ta luôn phải chịu
áp lực nặng nề từ phương Bắc, mà
con đường duy nhất để giải tỏa bớt
áp lực ấy là phải tiến dần về phương Nam, nên ngay sau thời
tự chủ,
trải qua các
triều đại, các vị
minh quân Việt Nam luôn nghĩ đến việc mở mang bờ cõi về phương Nam, dù hồi ấy dân Chiêm Thành cũng là một dân tộc không dễ nuốt, vì họ cũng có một nền
văn hóa cao và một quân đội tinh nhuệ, thường mang quân sang quấy phá
biên giới phía Nam của nước ta.
Tuy nhiên, sức sống và sức Nam tiến của dân ta dù chậm như tầm ăn dâu, nhưng rất mãnh liệt. Dù
sức mạnh quân sự đã làm cho Chiêm Thành tan vỡ nhanh chóng, nhưng chính sức sống của dân tộc ta đã phá vỡ những thành lũy
kiên cố của Chiêm Thành chứ không phải chỉ là
sức mạnh quân sự.
Nói về
lịch sử Nam tiến của dân tộc ta, mà không kể
công lao của các chúa Nguyễn, thì quả là một
thiếu sót lớn lao.
Tuy nhiên, ai trong
chúng ta cũng phải
thừa nhận rằng không chỉ riêng các chúa Nguyễn có công mở nước. Nói đến
công lao mở nước về phương Nam,
chúng ta không
thể không ghi nhớ
công ơn của bao nhiêu người đã đổ rất nhiều
công lao khai phá,
xây dựng, phát triển vùng đất trù phú này mà
chúng ta đã có một
thời gian thừa hưởng. Từ
công chúa Ngọc Vạn, đến Thống Suất Nguyễn Hữu Cảnh, đến Thượng Công Lê
Văn Duyệt, đến Thoại Ngọc Hầu, đến ngay cả những người Minh Hương đã đến đất nước này, dù
mục đích chuyến đi của họ là chối bỏ Thanh triều, nhưng khi sang đến
Việt Nam họ đã góp phần không nhỏ trong công cuộc ổn định và phát triển đất Nam Kỳ.
Ngoài ra, còn biết bao
anh hùng vô danh, biết bao nhân sĩ, nhà
văn hóa, nhà kinh doanh đã góp phần mở mang vùng đất này về các
phương diện xã hội, kinh tế,
văn hóa.
Nói về sưu khảo và
nghiên cứu lịch sử mở đất phương Nam từ trước
đến nay đã có rất nhiều người làm
như như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Huỳnh Minh, Vương Hồng Sển,
vân vân, và một ít
học giả khác cũng đã có công
tìm tòi nghiên cứu về miền Nam như anh Hứa Hoành với bộ sách nhiều tập mang tựa đề “Nam Kỳ Lục Tỉnh.”
Tuy nhiên, nếu
so sánh với những người làm cùng một công việc này cho miền Bắc và miền Trung, thì
lịch sử Nam Kỳ còn cần nhiều lắm những bàn tay của con dân xứ ấy đóng góp vào.
Trong chiều hướng đó,
tác giả tập sách “
Một Thoáng Nam Kỳ Lục Tỉnh” chỉ
hy vọng mang lại một chút
thoải mái cho những ai có niềm thao thức
tìm hiểu về miền Nam, và
nếu có thể được, góp
một phần nhỏ trong công cuộc
tìm hiểu lịch sử của vùng đất mới, nhưng lại là vùng đất mang lại
sinh khí cho dân tộc, là vựa lúa cho cả nước, là niềm
hy vọng vươn lên của cả dân tộc.
Cuối cùng,
tác giả xin kính cẩn tưởng niệm đến hương linh của ông ngoại và ông chú Ba, những con dân
kỳ cựu của Vĩnh Long, đã kể lại cho cháu nghe về “Thành Xưa Tích Cũ” và những vùng đất mà hai ông đã đi qua trong xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh, cũng như tưởng nhớ đến hai anh Hứa Hoành và Nguyễn hữu Trí với những đêm trà đàm “Nhớ Về Vĩnh Long và Nam Kỳ Lục Tỉnh” tại vùng 9, trại tỵ nạn Bataan, Philippines, vào những tháng ngày
cuối năm 1984. Người viết xin
thành thật cáo lỗi trước, vì đây không phải là một tập biên khảo, mà chỉ là những
chi tiết được ông bà kể lại hay những mẩu chuyện được các bậc đàn anh kể cho nghe trong những buổi trà mạn đàm, nên có
thể không chính xác về địa danh hay niên đại.