Thư Viện Hoa Sen

Kinh Phật Dạy Ăn Chay

01/03/20251:24 SA(Xem: 1063)
Kinh Phật Dạy Ăn Chay
KINH PHẬT DẠY ĂN CHAY
Pháp Sư Hải Đào tuyển lục
Dạ Liên lược dịch

MỤC LỤC
Lời Tựa
Kinh Phật Thuyết Vua Sư Tử Tố-đà-sa Bỏ Ăn Thịt 
Kinh Bát-nê-hoàn (Trích lục)
Kinh Phân Biệt Báo Ứng Thiện Ác (Trích lục)
Kinh Ương-quật-ma-la (Trích lục)
Kinh Đại Thừa Bảo Vân (Trích lục)
Kinh Báo Ứng Của Quỷ Đói (Trích lục)
Kinh Đà-la-ni Của Thánh Trì Thế (Trích lục)
Kinh Đại Thừa Bản Sinh Tâm Địa Quán (Trích lục)
Kinh Đại Phương Đẳng Vô Tưởng (Trích lục)
Kinh Phật Thuyết Xứ Xứ (Trích lục)
Kinh Phật Thuyết Phật Y (Trích lục)
Kinh Phật Thuyết Đà-la-ni Của Bồ-tát Địa Tạng (Trích lục)
Kinh Thiện Giới Của Bồ-tát (Trích lục)
Kinh Văn-thù-sư-lợi Hỏi (Trích lục)
Kinh Luận Đại Trang Nghiêm (Trích lục)
Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm (Trích lục)
Kinh Bồ-tát Ở Trong Thai (Trích lục)
Kinh Bản Nguyện Của Bồ-tát Địa Tạng (Trích lục)
Kinh Phật Thuyết Danh Hiệu Phật (Trích lục)
Kinh Đồng Tử Tô-bà-hô Xin Hỏi (Trích lục)
Nghi Thức Thọ Giới Tâm Bồ-đề (Trích lục)
Kinh Phật Thuyết Quán Đỉnh (Trích lục)
Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi (Trích lục)
Kinh Đại Phương Quảng Hoa Nghiêm Thập Ác Phẩm (Trích lục)
Kinh Phạm Võng (Trích lục)
Kinh Thọ Giới Thập Thiện (Trích lục)
Bài Văn Thọ Năm Giới, Tám Giới (Trích lục)
Luật Ngũ Phần Hòa-hê Của Di-sa-tắc Bộ (Trích lục)
Tạp Sự Trong Tỳ-nại-da Của Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Trích lục)
Kinh Phật Thuyết Tượng Dịch (Trích lục)
Kinh Thắng Man (Trích lục)
Kinh Nhập Lăng-già (Trích lục)
Kinh Đại Phật Đỉnh Thủ-lăng-nghiêm (Trích lục) 
Kinh Đại Bát-niết-bàn (Trích lục)
Phần Sau Kinh Đại Bát-niết-bàn (Trích lục)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát-nê-hoàn (Trích lục)
Kinh Tiên Nhân Nhất Thiết Trí Quang MinhTâm Từ, Không Ăn Thịt


LỜI TỰA

Ăn chay là một trong những hành động từ bi vô cùng thù thắng của tín đồ Phật giáo. Người ăn chay trường có thể ngày ngày giữ giới không sát sinh. Vì ăn thịtgián tiếp làm hại mạng sống động vật, mỗi ngày đều sẽ tạo nghiệp ác, nên có thể nói rằng ăn chay trường là giới hạnh cơ bản nhất của người đệ tử Phật, đồng thời cũng giúp cho chúng ta không còn tích lũy thêm nghiệp sát mới nữa. Không sát sinhbước đầu tiên để nuôi dưỡng tâm từ bi, mà ăn chay lại là hạnh đơn giản, dễ làm nhất để thực hành không sát sinh. Xin đại chúng nhất thiết không được xem thường thiện hạnh nhỏ này, vì nó có thể là hạt giống đại bi để đạt được bồ-đề.
Thực ra, ăn chay bắt nguồn từ rất sớm. Trong kinh điển Phật giáo thời kỳ đầu, chúng ta thấy rằng: Đức Thế Tôn đi giáo hóa khắp nơi, nếu có cư sỹ muốn cúng dường Ngài, họ nhất định sẽ chuẩn bị đồ chay chứ không lấy thịt để cúng dường Đức Phật và các Tỳ-kheo. Không những thế, có nhiều đệ tử Phật nhìn thấy một số ngoại đạoẤn Độ thời đó ăn chay, đều cho rằng đây là đức hạnh thiện lành, dưới sự cho phép ngầm của Đức Thế Tôn, họ đã ăn chay trường, ngay cả kẻ phá hoại Tăng đoàn như Đề-bà-đạt-đa cũng kiên trì bỏ ăn thịt
Có những quốc gia và vùng lãnh thổ, chẳng hạn như Tây Tạng, tín đồ Phật giáo rất ít ăn chay. Đây là vì Tây Tạng có môi trường sinh thái khắc nghiệt, khí hậu cao nguyên lạnh giá, chênh lệch nhiệt độ ngày đêm cực lớn, khó mà trồng rau được, nên đối với vấn đề thực phẩm, không còn lựa chọn nào khác, đành phải ăn thịt. Tuy nhiên, trong nhiều nghi thức của Mật tông vẫn nghiêm khắc quy định phải ăn chay. Hiện tại, Phật giáo Tây Tạng đã truyền đến các quốc gia và vùng lãnh thổ mà Phật giáo bản địatruyền thống ăn chay, nhiều vị Lạt-ma cũng nhập gia tùy tục, thay đổi việc ăn uống của mình. Ngay cả đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, là bậc từ bi hóa thân, trong khi diễn giảng, không chỉ một lần, cũng bày tỏ rằng: “Tín đồ Phật giáo có khả năng ăn chay thì nên ăn chay.” Vì sự lợi ích ở đời này và quả bồ-đề trong tương lai, chúng ta nên ăn chay trường ngay từ bây giờ.
Lợi ích của ăn chay nhiều không nói hết. Ăn chay không chỉ có thể nuôi dưỡng tâm nhân từ, giúp hình thành tính cách ôn hòa và sức nhẫn nhục, chịu đựng, mà còn có thể đem đến hòa bình cho nhân loại. Vô số nghiệp giết hại mà chúng sinh đã tạo liên tục từ nhiều kiếp đến nay chính là nguyên nhân của chiến tranh trên thế giới. Nếu mỗi người có thể giữ tâm từ bi, yêu thươngbảo vệ tất cả mạng sống, không khởi niệm giết hại, không tạo nghiệp giết hại, thì tự nhiên thế giới sẽ tránh khỏi chiến tranh. 
Bởi vậy, để phá trừ tà kiến ăn mặn, ăn thịt, xác lập chính kiến ăn chay, nhân những lúc không bận việc hoằng pháp, tôi đã thu thập những lời khai thị của Đức Phật về ăn chay trong 40 bộ kinh điển như A-hàm, Bản Duyên, Kinh Tập, Luật, Mật... đưa vào quyển sách này; hy vọng các đệ tử Phật, sau khi đọc xong, có thể từ trong đây hiểu được ý niệm từ bi căn bản của Đức Phật và tự bản thân mình thực hành ăn chay. Không chỉ có vậy, chúng ta còn phải làm cho đức hạnh tốt đẹp này phát triển ngày càng rộng lớn, khiến thật nhiều người nhận thức được sự quan trọng và thù thắng của ăn chay. Đây là trách nhiệm của chúng ta, cũng là vinh quang của chúng ta! 
Chủ tịch Hiệp hội In kinh Trung Hoa
Thích Hải Đào 
 
KINH PHẬT THUYẾT VUA SƯ TỬ TỐ-ĐÀ-SA BỎ ĂN THỊT 
Ta nhớ vô lượng kiếp quá khứ
Có vua tên là Tố-đà-sa.
Một thời, vua ấy ra dạo núi;
Quần thần đi theo săn thú vật
Bỗng nổi sấm, mưa đá, gió dữ;
Mọi người phân tán, thảy kinh hoàng
Vua một mình vào núi rừng sâu, 
Nghỉ bên sông, không ai theo cùng. 
Sư tử cái ở núi rừng sâu,
Nhìn thấy nhà vua ngồi một mình
Đến gần bên thân của nhà vua. 
Chúng sinhduyên nghiệp ác xưa, 
Luân chuyển qua các loại địa ngục
Nỗi khổ đau không có hạn lượng. 
Vua và sư tử có duyên xưa,
Đều khởi tình dục, cùng giao hợp. 
Kẻ nhiều kiếp ăn thịt, sát sinh;
Vì thói cũ, nhập thai sư tử
Sinh ra, đầu sư tử, thân người;
Bé trai chân đốm, như thú chúa, 
Trưởng thành nhanh chóng, rất hung bạo.
Hỏi mẹ: “Con là con của ai?” 
Sư tử mẹ trả lời con rằng:
“Cha con là vua Tố-đà-sa, 
Vua của đất nước Ma-kiệt-đề.”
Sư tử con nghe như vậy rồi,
Nhanh chóng đi nước Ma-kiệt-đề, 
Tìm kiếm đến chỗ của phụ vương. 
Biểu hiện, thưa hết nhân duyên đến;
Vua nghe, tự hiểu, nhận làm con. 
Nhưng vì phụ vương tuổi già yếu, 
Lên điện, phong con, lập làm vua,
Tên là Sư Tử Tố-đà-sa.
Sư Tử Tố-đà-sa ngự triều,
Quản lý triều chính và thần dân.
sư tử lặp lại thói ác, 
Nhiều kiếp ăn thịt, hại chúng sinh;
Tuy ở ngôi vua của con người
Không ăn hoa màu và lương thực, 
Chỉ ăn chim, thú cùng các loại 
Động vật dưới nước và trên đất. 
Sắp đến lúc cung tiến thịt thà, 
Đầu bếp của vua vội rút lấy
Thịt thú mà chó ngậm trong miệng.
Thiếu thịt, đầu bếp sợ vua chém, 
Đi ra ngoài bắt những trẻ nhỏ,
Lén cắt đầu, cổ và tay chân, 
Nấu hết trong nồi, cung tiến vua. 
Vua ăn thịt đó rất ngon miệng,
Tỏ ra vẻ thích vị của thịt
Hừng hực giống như là đốt củi. 
Vua hỏi đầu bếp là thịt gì;
Đầu bếp sợ, thưa hết với vua. 
Vua: “Xá tội đó, đừng ưu sầu! 
Mỗi ngày, cung tiến thịt này đến.”
Đầu bếp đã nhận lời vua dạy, 
Thay đổi y phục và trang sức,
Mỗi ngày, bắt trộm con người ta. 
Nhiều năm, bắt trộm con người ta, 
Giống như là la-sát bộ hành,
Lại giống như là con chim ưng. 
Nhân dân trong nước cùng chịu tang, 
Vì mất con, mỗi mỗi hoang mang. 
Từng cặp cầm tay, hỏi lẫn nhau;
Uất nghẹn, không nơi nói với trời. 
Người làng ấp phòng thủ, giữ gìn
Bắt được đầu bếp trộm trẻ kia.
Đầu bếp nói hắn không tự do,
Hắn đã nhận lời của vua dạy. 
Người ở trong nước nghe như vậy, 
Bắt đầu can gián, khuyên ngăn vua. 
Vua nghe, phẫn nộ, rất quở trách:
“Ngày đó, lệnh lén tiến thịt trẻ;
Từ nay, mỗi ngày lựa một người.”
Thân thích, thần dân, lần lượt ăn, 
Như trong chuồng dê, bị dẫn đi.
Cả nước tuyệt vọng không gì nói, 
Tập hợp khắp cung, muốn trừ vua. 
Vua lên đài cao cầu thần, quỷ:
“Xin cánh, vụt bay tránh nạn này! 
Nếu được cánh, bay về các phương, 
Đầu vua trăm nước, cúng thần núi.”
Sư tử, mãnh thú, vì thói ác, 
Liền được cánh, bay trói các vua,
Giam giữ ở trên đỉnh núi cao. 
Đã được chín mươi chín vị vua, 
Chỉ thiếu một vua, chuẩn bị cúng,
Sư tử đi xuống tìm kiếm thêm. 
Lúc đó, Vương Xá, vua Bồ-tát 
Tên là Văn Nguyệt, tắm trong vườn. 
Sư tử thấy vua ngồi đá ngọc,
Xuống nắm cánh tay phải, muốn bắt. 
Khi ấy, vua Văn Nguyệt buồn khóc;
Sư tử hỏi vua: “Khóc cái gì? 
Ta nghe đại vương, trí dũng mãnh
Bồ-tát chẳng màng thân, mạng, tài. 
Nếu cũng như vậy, nên nhẫn nhục
Sao phải buồn khổ, không tự do?”
Văn Nguyệt đáp vua sư tử rằng:
“Buồn khổ, thảy chỉ vì từ bi;
Bồ-tát tu hành, đại từ bi
Tôi giờ lo cho trăm vua kia, 
Một đời phú quý, chủ thiên hạ
Nay bị giam giữ, mạng sắp hết. 
Tôi lại cầu Phật pháp trăm nước, 
Thỉnh được pháp sư phương xa đến, 
Chưa kịp nghe pháp Ngài tự dạy;
Quốc dân khát ngưỡng, chưa từng nghe. 
Đại vương thí cho tôi bảy ngày, 
Cúng dường Tam Bảo, nghe pháp âm, 
Hội họp quần thần, dặn nhiều việc,
Ngày tám sẽ tự đón đại vương.”
Bởi vì Bồ-tát không lừa dối, 
Sư tử cho phép vua bảy ngày. 
Ngày tám, Văn Nguyệt ra thành đón, 
Xả thí thân, đãi vua sư tử
Lúc đó, sư tử như mây hiện, 
Bắt Văn Nguyệt, đem ra trước chúng.
Sư tử hỏi vua: “Không sợ sao, 
Dám ra trước ta, như thú chúa?”
Văn Nguyệt đáp vua sư tử rằng:
“Thân này giả, thí cho đại vương
Thà bỏ trăm ngàn thân, mạng, tài, 
Không làm trái lời nói trước đây, 
Lỡ mất kỳ hạn của đại vương.”
Sắc mặt hòa nhãvui vẻ,
Văn Nguyệt dùng phương tiện nói rằng:
“Nghe tôi nói nhân duyên một lúc, 
Ngài muốn cúng tà thần, tà quỷ,
Các thiện thần giáng họa cho ngài; 
Hiền Thánhcõi Phật mười phương
Nhiều kiếp, ngài không nghe tên nữa. 
Thân này giả tạo, hợp nhân duyên;
Mạng như ánh chớp, chẳng dừng lại.
Năm căn, sáu thức không có ngã; 
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân là nhân. 
Biến hóa như huyễn, thấy các tướng;
Chúng sinh vọng tưởng, chấp là thật. 
Từ đầu đến chân, xét thân này,
Không có một thứ gì thường trụ
Như bong bóng nước, sát-na mất;
Khổ già, bệnh, chết cũng vô thường
Ngài nay chỉ lấy thịt nuôi thân,
Rút cuộc, ăn thịtcon đường
Không thiện, không có gì tựa nương.
Sát sinh vô lượngăn thịt
Qua lại chịu khổ trong đường ác.” 
Khi ấy, Văn Nguyệt, vô lượng kệ 
Khuyến hóa Sư Tử Tố-đà-sa. 
Sư tử nghe rồi, dần hồi tâm,
Nghe rằng: thể thật tướng vô ngã.
Sư tử hỏi vua: “Tính thế nào
Để cúng vô tội, được thần vui?”
Văn Nguyệt trả lời: “Làm món chay,
Đồ ăn tịnh, vô tội, cúng trời.” 
Sư tử y lệnh, cúng thần núi, 
Xả thân, thí cho vua Văn Nguyệt;
Các vua bị giam giữ trong núi, 
Thảy đều giao phó cho Văn Nguyệt. 
Văn Nguyệt dẫn mỗi vị về nước, 
Sắp đặt cho quản dân như cũ.
Và đưa Sư Tử Tố-đà-sa
Trở về đất nước Ma-kiệt-đề.
Sư tử ngồi ở cung của mình, 
Hòa hợp quần thần và nhân dân
Cả nước bỏ thịt, không sát sinh
Lúc đó, Văn Nguyệt phát nguyện lớn:
“Nguyện khi tôi thành Đẳng Chính Giác
Giải thoát khắp tất cả chúng sinh
Các vị vua này cùng thành Phật.
Giảng dạy diệu pháp: vua sư tử
Nguyện vua, tội nặng được tiêu trừ.”
Lại nhớ a-tăng-kỳ kiếp trước đây, vua Thích-đề-hoàn-nhân ở cung trời Đao-lợi, vì tập khí ăn thịt trong quá khứ còn sót lại, nên biến thân thành chim ưng đuổi theo chim bồ câu. Lúc đó, ta làm vua, tên là Thi-tỳ, thương xót con chim bồ câu ấy, cân thân cắt thịt, thay nó đền mạng. Vua Thi-tỳ, là thân ta, đời sau làm vua, tên là Văn Nguyệt. Vua Thích-đề-hoàn-nhân hóa thành chim ưng khi ấy, đời sau làm vua Sư Tử Tố-đà-sa. Thích-đề-hoàn-nhân vì nếm thịt ta, nên vẫn sinh trong đường ác; huống hồ những chúng sinh khác, không thẹn, chuyên giết, ăn uống máu thịt chẳng có lúc dừng.
Hết thảy chúng sinh, vô thủy đến nay, không có ai không từng làm cha mẹ, họ hàng của ta. Họ chuyển sinh làm chim, thú, ta nhẫn tâm ăn họ sao? Người ăn thịt, trong nhiều kiếp, sinh vào loài chim, thú, ăn uống máu thịt của chúng sinh khác, qua lại đền mạng cho nhau. Nếu người sinh ở nhân gian, chuyên giết hại, thích ăn thịt, thì chết đọa ngục A-tỳ, không có lúc nào tạm ngừng. Nếu có thể bỏ ăn thịt trong một đời, thì cho đến khi thành Phật, không có lý do gì ăn lại nữa.
 
KINH BÁT-NÊ-HOÀN 
(Trích lục)
Bắt đầu từ ngày nay, tự quy y Đức Phật, tự quy y đạo pháp, tự quy y Thánh chúng
Thọ giới của người cư sỹ: thân không giết, không lấy trộm, không dâm dục, không lừa dối, không uống rượu, không ăn thịt; chẳng dám vi phạm.
 
KINH PHÂN BIỆT BÁO ỨNG THIỆN ÁC 
(Trích lục)
Lại nữa, nghiệp gì đạt được quả báo sinh ở cõi người? Có mười loại nghiệp. Những gì là mười nghiệp? 
Một, lìa sự sát sinh.
Hai, lìa sự không cho mà lấy.
Ba, lìa hạnh không thanh tịnh.
Bốn, lìa lời giả dối.
Năm, lìa lời tạp uế.
Sáu, lìa lời ly gián.
Bảy, lìa lời thô ác.
Tám, lìa sự uống rượu, ăn thịt.
Chín, lìa sự hôn ám của si mê.
Mười, lìa tà kiến, vững tin Tam Bảo.
Tu hành mười loại nghiệp mềm như vậy đạt được quả báo sinh ở cõi người
 
KINH ƯƠNG-QUẬT-MA-LA 
(Trích lục)
Thượng tọa Ca-diếp bỏ các loại đồ ăn quý lạ, ngon miệng; bỏ đồ ăn có vị thịt, thọ trì, tu hành pháp không ăn thịt. Khất thực từng nhà, không nghĩ từng điều ác. Trước sau thường như nhau, khổ vui không thay đổi. Những nơi Ngài xin, có các loại người, hoặc nói không có, hoặc mạ nhục Ngài. Ngài đáp an vui, sau đó bỏ đi, tâm không dao động.
***
Văn-thù-sư-lợi bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Vì Như Lai Tạng, chư Phật không ăn thịt ư?”
Đức Phật nói: “Đúng như vậy! Tất cả chúng sinh sống chết từ vô thủy đến nay, đời đời luân chuyển, không có ai không làm cha, mẹ, anh, chị, em. Như người múa hát, biến đổi vô thường. Thịt mình và thịt chúng sinh chính là một; vì vậy, chư Phật đều không ăn thịt. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi, cõi mình và tất cả cõi chúng sinh chính là một, thịt ở các cõi chính là một; vì vậy, chư Phật đều không ăn thịt.”
Văn-thù-sư-lợi bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Vỏ sò, mật ong, da thú, tơ tằm không phải là thịt của cõi mình ư?”
Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Đừng nói lời này! Như Lai lìa xa tất cả thế gian. Như Lai không ăn. Nếu nói Như Lai tiếp cận vật thế gian là sai. Nếu tiếp cận thì là pháp phương tiện. Nếu vật đến gián tiếp thì có thể tiếp cận. Nếu chỗ vật xuất hiện thì không được tiếp cận. Nếu như đến gián tiếp, lìa khỏi tay người giết, thì có thể tiếp cận.”
Văn-thù-sư-lợi bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Giờ trong thành này, có một thợ da làm được giày da, có người mua bố thí, là đến gián tiếp, Phật nên nhận hay không? Lại nữa, bạch Đức Thế Tôn, nếu trâu tự chết, chủ trâu lấy da từ chiên-đà-la đem giao cho thợ da, sai làm giày da, bố thí cho người giữ giới. Đến gián tiếp như vậy, có thể tiếp cận hay không?”
Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Nếu trâu tự chết, chủ trâu đem da dùng làm giày da, bố thí cho người giữ giới, thì nên nhận hay không? Nếu không nhận thì là pháp Tỳ-kheo. Nếu nhận, không có từ bi, nhưng không phá giới.”
***
Văn-thù-sư-lợi bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Người thế gian lâu nay cũng tự chế định là không ăn thịt.”
Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Nếu người thế gian có chế định thuận theo lời Phật, thì nên biết đó đều là lời Phật.”
Văn-thù-sư-lợi bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Người thế gian cũng nói có giải thoát, nhưng sự giải thoát đó không phải giải thoát, chỉ Phật phápgiải thoát; cũng nói có xuất gia, nhưng không phải xuất gia, chỉ Phật phápxuất gia. Bạch Đức Thế Tôn! Người thế gian cũng nói tôi không ăn thịt, nhưng họ chẳng có tôi, cũng chẳng có không ăn thịt; chỉ trong pháp của Thế Tôn, có tôi nhất định không ăn thịt.”
 
KINH ĐẠI THỪA BẢO VÂN 
(Trích lục)
Bồ-tát Ma-ha-tát ở rừng thi-đà, luôn khởi từ bi, thương xót chúng sinh, giữ giới thanh tịnh, có đủ oai nghi, luôn tập ăn chay, ủng hộ mạng sống. Vì sao? Này thiện nam! Trong rừng thi-đà này có các phi nhân nương ở, ăn uống máu thịt con người. Nếu thấy Bồ-tát ăn cá thịt, liền khởi tâm ác, đến xúc phạm, khiến cho tức giận.
 
KINH BÁO ỨNG CỦA QUỶ ĐÓI 
(Trích lục)
Một quỷ hỏi rằng: “Tôi sinh con trai, con gái, thảy đều cân đối, đáng yêu; nhưng đều chết sớm, nhớ rất đau khổ, tội gì gây nên?”
Đáp rằng: “Khi ngươi là người, thấy con sát sinh, giúp đỡ, vui mừng, cùng ăn thịt đó. Vì giết nên nay con ngươi chết sớm, vì vui nên nay ngươi rất đau khổ. Nay thọ nhận hoa báo, quả báođịa ngục.”
 
KINH ĐÀ-LA-NI CỦA THÁNH TRÌ THẾ 
(Trích lục)
Đức Phật bảo Trì Thế: “Nếu lại có người ăn chay, tu phạm hạnh, bỏ ăn thịt, uống rượu, ngày đêm luôn luôn tụng, thì đạt phú quý lớn.” 
 
KINH ĐẠI THỪA BẢN SINH TÂM ĐỊA QUÁN 
(Trích lục)
Bồ-tát Di-lặc, con Pháp Vương
Từ đầu, phát tâm không ăn thịt
Do nhân duyên này, tên Từ Thị
Vì muốn hoàn thiện các chúng sinh
 
KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG VÔ TƯỞNG 
(Trích lục)
Vì sao được tàm quý? Vì sao được thân tốt? Vì sao lại có thể được thân mà mọi người kính yêu? Vì sao được không tham? Vì sao được không sân? Vì sao có thể được ánh sáng vi diệu? Vì sao được chính tính? Vì sao được tự tại? Vì sao có thể được đại chúng quyến thuộc? Vì sao có thể được quyến thuộc bất hoại? 
Không thoái lui, không sai lầm, không tham ăn uống, thường tu biết đủ, trước sau không ăn thịt; đối với các chúng sinh, thường sinh tâm yêu thương. Thường được thế gian cung kính, được gọi là người đại thí tất cả, được gọi là đại lực, được gọi là đại định. Tổng trì đại từ, đại bi, đại xả, đại hỷ, đại tuệ. Thuận theo thế gian, để làm thế gian an định, vui mừng.
 
KINH PHẬT THUYẾT XỨ XỨ 
(Trích lục)
Đức Phật nói: “A-la-hán không ăn thịt, xem xét súc sinh từ đầu tới chân, mỗi nơi tự có tên, chẳng có tên của thịt. Bích-chi Phậtxem xét việc ăn thịtbất tịnh nên không ăn thịt. Phật xem xét tất cả thiên hạ đều không, vô sở hữu, có liền diệt, diệt lại sinh; vì phải quay về không, cho nên vô sở hữu.”
 
KINH PHẬT THUYẾT PHẬT Y 
(Trích lục)
Con người ăn thịt ví như ăn con của họ. Các súc sinh đều từng làm cha mẹ, anh em, vợ con của ta. Số ấy không thể đếm nổi.
Cũng có sáu nhân duyên không được ăn thịt: một là không tự giết, hai là không bảo giết, ba là không đồng lòng với việc giết, bốn là thấy giết, năm là nghe giết, sáu là nghi vì mình nên giết...
Người có thể không ăn thịt, được cái phúc: không kinh sợ.
 
KINH PHẬT THUYẾT ĐÀ-LA-NI CỦA BỒ-TÁT ĐỊA TẠNG 
(Trích lục)
Đức Phật bảo A-nan: “Nếu như có chúng sinh đang chịu hình phạt, gông cùm xiềng xích, bệnh tật khốn khổ, quỷ quái bám dựa; thì nhất tâm kính lạy Bồ-tát Địa Tạng, xưng danh hiệu Ngài, chí tâm tụng trì chú này, sám hối tội nặng căn bản, phát tâm bồ-đề. Bắt đầu từ nay đến tận cùng đời tương lai, không giết, không trộm, không dâm, không nói dối, không uống rượu, không ăn thịt, không ăn năm món cay. Thọ ba tụ giới. Những gì là ba? Giới nhiếp thiện pháp, giới nhiếp chúng sinh, giới nhiếp luật nghi. Cho đến bồ-đề, quy mạng chúng Phật, Pháp, Tăng, không quy y chín mươi sáu loại ngoại đạo, tà pháp.”
 
KINH THIỆN GIỚI CỦA BỒ-TÁT 
(Trích lục)
Bồ-tát Ma-ha-tát phát tâm bồ-đề, không mất chính niệm; với các chúng sinh, không khởi tâm hại; không ăn thịt, không lừa dối. Thường lấy thiện pháp giáo hóa chúng sinh; chúng sinh không nhận, chẳng bỏ, chẳng buồn. Có thể tự điều phục mình, cũng có thể điều phục người. Tùy nơi mà Ngài giáo hóa chúng sinh, đều có thể khiến sinh trưởng phúc nghiệp. Nếu vì nhân duyên khách trần phiền não đọa ba đường ác, thì có thể nhanh được ra. Tuy cùng chịu khổ, không sinh đau khổ. Thấy người chịu khổ, sinh tâm thương xót. Bồ-tát bắt đầu phát tâm bồ-đề đã được vô lượng công đức như vậy.
***
Bồ-tát Ma-ha-tát vì phá những điều ác của chúng sinh, thọ trì thần chú, đọc tụng lưu loát, làm lợi ích cho chúng sinh. Vì chú thuật nên thọ trì năm pháp: một là không ăn thịt, hai là không uống rượu, ba là không ăn năm món cay, bốn là không dâm, năm là không ăn ở trong nhà bất tịnh. Bồ-tát có đủ năm pháp như vậy, có thể làm lợi ích lớn cho vô lượng chúng sinh; những quỷ thần ác, những chất độc, những loại bệnh, không có gì không trị được. 
 
KINH VĂN-THÙ-SƯ-LỢI HỎI 
(Trích lục)
Đức Phật lại bảo Văn-thù-sư-lợi: “Chúng sinh không có sức từ bi, mang ý giết hại, vì nhân duyên này, nên cấm ăn thịt. Này Văn-thù-sư-lợi! Có chúng sinh thích y phấn tảo, ta nói y phấn tảo. Giống như thế, có chúng sinh thích khất thực, ngồi dưới cây, ngồi nơi đất trống, ở a-lan-nhã, ở giữa mộ, ăn ngày một bữa, quá giờ không ăn, gặp đâu ở đó, giữ ba y, vân vân; vì giáo hóa chúng sinh đó, ta nói đầu-đà. Như vậy, này Văn-thù-sư-lợi, chúng sinh nếu có tâm giết hại, vì tâm ấy sẽ sinh ra vô số tội lỗi, nên ta cấm ăn thịt.”
 
KINH LUẬN ĐẠI TRANG NGHIÊM 
(Trích lục)
Lúc đó, Tỳ-kheo hỏi bà-la-môn: “Ông nay vì sao giơ tay về phía mặt trời, nằm trên đất bụi, lõa thể, ăn cỏ, ngày đêm không nằm, đứng nhón chân lên? Thực hành những khổ hạnh này để cầu điều gì?”
Bà-la-môn đáp: “Tôi cầu làm vua.”
Bà-la-môn này sau đó ít lâu thân thể bị bệnh, đến hỏi thầy thuốc phương pháp chữa bệnh. Thầy thuốc đáp rằng: “Cần phải ăn thịt.”
Thế là, bà-la-môn nói với Tỳ-kheo rằng: “Thầy có thể đến nhà đàn việt xin lấy cho tôi ít thịt để trị bệnh của tôi không?”
Khi ấy, Tỳ-kheo suy nghĩ như vầy: “Bây giờ chính là lúc mình giáo hóa người này.” Nghĩ như thế rồi, hóa ra một con dê, trói bên cạnh bà-la-môn.
Bà-la-môn hỏi Tỳ-kheo: “Thịt mà thầy lấy cho tôi, giờ ở chỗ nào?”
Tỳ-kheo đáp rằng: “Dê chính là thịt.”
Bà-la-môn rất tức giận, nói lời này: “Lẽ nào tôi giết dê để ăn thịt ư?”
Thế là, Tỳ-kheo nói kệ, đáp rằng:
Ông nay thương con dê, 
Hãy còn không muốn giết;
Sau nếu làm quốc vương
Trâu, bò, dê và heo, 
Gà, chó và thú hoang, 
Giết hại vô số lượng. 
Ông ngồi trên chỗ vua, 
Đầu bếp cúng đồ ăn;
Ông, nếu lúc tức giận, 
Sẽ nói chém đầu hắn, 
Hoặc nói chặt tay chân, 
Có khi, lệnh móc mắt.
Ông thương một con dê, 
Lại muốn giết hại nhiều. 
Nếu thật có tâm bi
Nên bỏ cầu làm vua.
Như người sắp chịu phạt, 
Sợ khổ, uống nhiều rượu. 
Rừng hoa cực tươi tốt, 
Lửa mạnh sắp đốt thiêu.
Lại như mang xích vàng, 
Tuy tốt, có thể trói.
Vương vị cũng như vậy, 
Thường có tâm sợ hãi
Ra oai với người hầu,
Trang sức bằng châu báu;
Không thấy tai họa sau,
Phàm phu tham, nguyện cầu. 
Đã tạo các việc ác, 
Đọa lạc ba ác đạo
Như ngài tham ánh lửa,
Lao vào, tự chết thiêu. 
Tuy có năm dục lạc, 
Tên được nghe biết khắp, 
Thường mang nhiều sợ hãi
Họa buồn khổ cực sâu. 
Giống như bắt rắn độc
Ngược gió, cầm bó đuốc,
Không bỏ, nguy hại đến,
Cũng như khổ lâm chung
Khi vua dạo ra ngoài, 
Trên đầu đội long mão, 
Các báu làm anh lạc
Mặc y phục trang nghiêm,
Tinh diệu và tốt nhất. 
Ngựa nổi tiếng, xe báu, 
Vua ngồi, ra đi tuần;
Tùy tùng mấy trăm ngàn, 
Uy thế cực mãnh liệt. 
Nếu khi có quân địch, 
Giáp báu, tự trang nghiêm;
Thắng thì giết hại nhiều, 
Thua thì mất thân mạng
Hương tuyệt diệu bôi thân, 
Áo lấy hương thơm xông. 
Ăn các đồ thịt, cá, 
Trăm món, tha hồ ăn. 
Cần gì đều tùy ý
Không có người trái nghịch. 
Đi lại hoặc nằm ngồi, 
Cử động, thảy nghi sợ.
Thân hữu cũng không tin,
Lại nữa, tuy thân hữu
Thường có tâm hại, sợ.
Làm sao gọi là vui?
Như cá nuốt mồi câu, 
Như mật bôi dao sắc, 
Cũng như là bẫy lưới;
Cá, thú tham mùi vị
Không thấy khổ nạn sau. 
Phú quý cũng như vậy, 
Chết chịu khổ địa ngục
Tường, phòng, đất địa ngục
Đều cháy rất dữ dội.
Tội nhân ở trong đó, 
Lửa xuất, tự thiêu thân, 
Chịu khổ vô hạn lượng.
Ông nên tự suy nghĩ:
Điều là vui đã ít,
Khổ nạn lại rất nhiều. 
Vì vậy, nên nghĩ khổ, 
Đừng cầu, quý tự tại
Ông bỏ tâm nguyện cầu, 
Chỉ có cầu giải thoát
Các khổ, thảy tiêu trừ.
Bà-la-môn nghe bài kệ này xong, im lặng không đáp, rồi chắp tay, hướng về Tỳ-kheo, bạch rằng: “Bạch tôn giả! Thầy khéo có biện tài, làm tâm con khai ngộ. Giả sử được làm vua của trời Ba Mươi Ba, con cũng không vui thích.” 
Liền nói bài kệ rằng:
Ý tốt, phương tiện khéo
Trí sáng quan sát được. 
Vì con trừ nguyện tà, 
Chỉ dẫn đường chân chính
Bạn lành nên như vậy, 
Người thế gian ca ngợi.
Thường nên gần bạn này, 
Không có họa tranh, phiền.
Khéo dẫn tâm ý con
Bỏ tà, vào chính đạo
Chỉ con tướng ác, thiện, 
Khiến đạt được giải thoát.
 
KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM 
(Trích lục)
Này thiện nam! Khi chư Bồ-tát ở giữa mộ, đối với các chúng sinh, thường trụ vào tâm từ bi và tâm làm lợi ích; giữ vững giới luật thanh tịnh, bảo hộ giữ gìn oai nghi, tắm sạch thân thể, không nên ăn thịt. Vì sao? Ở trong rừng lạnh, nên đề phòng hai lỗi: một là vì lìa sự chê trách, phỉ báng của ngoại đạo; hai là vì lìa sự thừa cơ, nhân tiện của phi nhân.
 
KINH BỒ-TÁT Ở TRONG THAI 
(Trích lục)
Đức Phật bảo Bồ-tát Tự Tại rằng: “Ông nay ngước mắt nhìn về phương Tây, thấy các vua sư tử chia ra trụ phương ấy, làm thường xuyên sáu việc, đứng lặng yên bất động, màu lông thuần trắng, bộ ngực vuông vức. Đây đều do phúc báo của đức hạnh đời trước. Tuy nhận thân súc sinh, nhưng phân biệt thiện ác. Chân giẫm trên hoa sen, cáu bụi không bám nhiễm. Trước sau không sát sinh, ăn thịt và uống máu. Sư tử vừa rống lên, loài bay liền rơi xuống, loài đi liền ẩn nấp. Cũng đều giữ năm giới, không phạm vào ba lỗi, nên được quả báo này. Tuy đọa đường súc sinh, sẽ chuyển thân, thành đạo.” 
 
KINH BẢN NGUYỆN CỦA BỒ-TÁT ĐỊA TẠNG 
(Trích lục)
Khi Đức Phật nói lời này, trong hội có một quỷ vương, tên là Chủ Mạng, bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nghiệp duyên căn bản của con là chủ trì mạng người Diêm-phù. Khi sinh, khi tử, con đều chủ trì. Về lời thề nguyện gốc, con thật sự muốn làm lợi ích cho chúng sinh. Do những chúng sinh này không hiểu ý của con, khiến cho sinh, tử đều không được an. Vì sao? Những người Diêm-phù này, khi mới sinh con, bất kể trai gái, hoặc khi sắp sinh, thì chỉ làm việc thiện, để tăng thêm lợi ích cho nhà cửa; tự khiến Thổ Địa hoan hỷ vô cùng, ủng hộ mẹ con đạt được sự an vui lớn, làm lợi ích cho quyến thuộc. Khi đã sinh con, thận trọng không được giết hại, lấy các đồ tươi cung cấp cho sản phụ; và tụ tập đông quyến thuộc, uống rượu, ăn thịt, ca hát, vui cười, đánh đàn, thổi sáo. Làm vậy có thể khiến cho mẹ con không được an vui. Vì sao? Lúc sản nạn này, có vô số ác quỷ và quái vật, yêu tinh muốn uống máu tanh. Là con sớm lệnh cho các thần nhà cửa và đất đai bảo hộ mẹ con, khiến cho an vui và được lợi ích. Những người như vậy, vì thấy an vui, phải cùng làm điều phúc, đáp đền các Thổ Địa. Họ lại giết hại, tụ tập quyến thuộc; vì nguyên nhân này, tự chịu tai ương, mẹ con đều bị tổn hại.”
 
KINH PHẬT THUYẾT DANH HIỆU PHẬT 
(Trích lục)
Bồ-tát Bảo Đạt phút chốc tiến về phía trước, lại vào một địa ngục tên là Dao Bay. Địa ngục đó dài rộng mười lăm do-tuần, tường sắt bao xung quanh, lưới sắt phủ lên trên. Bốn góc của thành đó, có gió nóng dữ dội thổi vào những núi sắt. Những núi đó mài vào nhau liền tạo thành những dao sắc. Hai lưỡi của những dao đó cũng giống như mũi nhọn. Trong không trung đì đùng, cũng giống như tiếng sấm. Dao va vào nhau, tia lửa bắn ra, cũng giống như sét. Từ không trung bay đến, đâm vào đầu tội nhân, xuyên vào từ trên đầu, xuyên ra ở dưới chân; xuyên vào từ trên lưng, xuyên ra ở trước ngực; xuyên vào từ bên phải, xuyên ra ở bên trái. Khói lửa cùng bốc lên. Một ngày một đêm, chịu tội muôn vàn, ngàn vạn lần sống, ngàn vạn lần chết. Nếu được làm người, sinh bệnh lở ác tính, khắp xung quanh thân thể
Bảo Đạt hỏi rằng: “Các Sa-môn này làm những hạnh gì, chịu khổ như vậy?”
La-sát đầu ngựa đáp rằng: “Các Sa-môn này thọ tịnh giới của Phật mà không giữ cho thanh tịnh, tâm chẳng từ bi, uống rượu ăn thịt, nói là không có tội báo. Tội ăn thịt, về đạo lý, chẳng thể tha. Vì nhân duyên này, chịu tội như vậy.”
Bồ-tát Bảo Đạt nghe lời nói đó, buồn khóc mà đi. 
 
KINH ĐỒNG TỬ TÔ-BÀ-HÔ XIN HỎI 
(Trích lục)
Nếu có người trì tụng tất cả pháp thần chú, trước hết khởi tâm tôn kính sâu xa đối với chư Phật, sau đó phát tâm bồ-đề vô thượng, vì độ chúng sinh mà rộng phát lời nguyện lớn, lìa xa các nghiệp tham lam, si mê, kiêu căng, ngạo mạn, vân vân. Lại nữa, đối với Tam Bảo, sinh lòng trân trọng sâu xa, cũng nên thành kính tôn sùng Đại Kim Cương Bộ. Phải lìa xa giết hại, trộm cướp, tà dâm, nói gian dối, nói thêu dệt, nói thô ác, nói hai chiều, cũng không uống rượu và ăn thịt.
***
Lại nữa, này đồng tử Tô-bà-hô, người trì tụng, đối với bốn oai nghi, thường phải khởi tâm chú ý, đừng khiến thân tâm bất an, luống cuống, mất sự tiết chế. Không được vỗ tay, chơi nhạc, múa hát, tổ chức hôn lễ, đánh bạc và không được đi xem. Cũng không phỉ báng người tại gia và nói ngôn từ nịnh bợ, a dua. Không nói chuyện tốt xấu của người khác, không ngủ chẳng phải thời, không nói lời vô nghĩa, không tìm học văn chương và các tà pháp. Tức giận, phẫn nộ, oán hận, keo kiệt, tham lam, ngạo mạn, phóng túng, lười biếng, đều phải lìa xa. Cũng không uống rượu và ăn thịt.
 
NGHI THỨC THỌ GIỚI TÂM BỒ-ĐỀ 
(Trích lục)
Bài Văn Sám Hối Thọ Giới Phát Tâm Bồ-đề Của Giáo Pháp Tối Thượng Thừa 
Đệ tử... vân vân, từ vô thủy trong quá khứ cho đến ngày nay, các phiền não như: tham lam, sân giận, si mê, vân vân; và các phiền não tùy thuộc như: phẫn nộ, oán hận, vân vân; làm loạn thân tâm. Rộng làm tất cả nghiệp thân bất thiện như: giết hại, trộm cướp, tà dâm; nghiệp miệng bất thiện như: nói gian dối, nói thêu dệt, nói thô ác, nói hai chiều; nghiệp ý bất thiện như: tham lam, sân giận, tà kiến. Các loại phiền não, từ vô thủy, liên tục làm tâm ô nhiễm, khiến thân miệng ý tạo tội vô lượng, như: giết cha mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật ra máu, phá Tăng hòa hợp, phỉ báng Tam Bảo, đánh trói chúng sinh, phá trai, phá giới, uống rượu, ăn thịt và ăn năm món cay. Những tội như vậy vô lượng vô biên, không thể nhớ biết. Ngày nay thành tâm phát lộ, sám hối. Một khi sám hối rồi, sau này vĩnh viễn không tiếp tục tạo, càng không dám tạo. Nguyện xin tất cả chư Phật, chư Bồ-tát lớn trong mười phương gia trì, hộ niệm, có thể khiến cho tội chướng của chúng con bị tiêu diệt!
 
KINH PHẬT THUYẾT QUÁN ĐỈNH 
(Trích lục)
A-nan lại nói: “Này bốn chúng đệ tử! Nếu cõi nước nào, có người bị bệnh tật, khổ nạn, tà thần hoành hành, bọn rồng ác và đám sơn tinh ngậm lửa đốt người, còn phun ra khí độc, xâm phạm trăm họ. Khi có những tai biến không cát tường này, nên đánh răng súc miệng, thọ và hành trai giới một cách thanh tịnh, không ăn năm món cay, không được uống rượu ăn thịt. Nên lễ lạy, cung kính chư Phật trong mười phương, treo phan lọng bằng vải dệt, thỉnh mời chúng Tăng, một ngày tụng kinh Đại Thần Chú Gọi Rồng này bảy lần; thì tà khí tiêu trừ, các điều thiện lành tụ tập nơi thân, bệnh tật được hóa giải, nhiệt độc bị tiêu tan, hết nỗi khổ bệnh tật, được cái phúc cát tường.”
 
KINH TƯỢNG PHÁP QUYẾT NGHI 
(Trích lục)
Bọn Tỳ-kheo ác cũng lại trì luật, với tạng tỳ-ni, không hiểu thâm nghĩa, bèn nói lời này: “Trong tạng tỳ-ni, Phật cho ăn thịt.” Này thiện nam! Nếu như ta giải thích ý nghĩa ăn thịt, Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ-tát Thập Địa Bậc Dưới nghe thì lờ mờ, Tỳ-kheo phàm phu nghe thì phỉ báng. Vì vậy, những chỗ cho ăn thịt trong tạng tỳ-ni đều là không thể nghĩ bàn.
Này thiện nam! Ta xưa kia thành đạo cho đến ngày nay, tất cả đệ tử nơi nơi nhận đồ ăn là thịt, người phàm phu thật sự thấy ăn thịt. Lại có người thấy các Tỳ-kheo thị hiện ăn thịt. Lại có người biết rằng các Tỳ-kheo, khi ăn thịt, đi sâu vào vô lượng những môn đối trị: vô lượng Tỳ-kheo đoạn trừ phiền não bậc trên, vô lượng Tỳ-kheo đoạn trừ phiền não bậc giữa, vô lượng Tỳ-kheo đoạn trừ phiền não bậc dưới, vô lượng Tỳ-kheo độ thoát chúng sinh, khiến nhập Phật đạo.
Như Lai giáo hóa không thể nghĩ bàn! Ta từ khi thành Phật đến nay, các đệ tử của ta chưa từng ăn thịt chúng sinh. Ta ở trong tỳ-ni cho ăn thịt, nhất định biết thịt này không sinh từ bốn đại, không sinh từ thai, không sinh từ trứng, không sinh từ nơi ẩm ướt, không sinh từ sự biến hóa, không kết hợp với thức, không kết hợp với mạng. Nên biết người thế gian đều không có thịt này. 
Này thiện nam! Trong đời tương lai, bọn Tỳ-kheo ác ở khắp mọi nơi giảng thuyết kinh luật, theo văn lấy nghĩa, không biết những bí mật ẩn che của Như Lai. Này thiện nam! Không có điều này: Phật xuất hiện ở đời, lệnh cho các đệ tử ăn thịt của chúng sinh. Nếu như ăn thịt thì sao gọi là “đại bi”?
 
KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG HOA NGHIÊM THẬP ÁC PHẨM 
(Trích lục)
Bồ-tát Ca-diếp bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Người sát sinh luộc thịt, nướng thịt, chặt thịt lần lượt đọa những chỗ nào?”
Đức Phật bảo Ca-diếp: “Người luộc thịt đọa địa ngục Vạc Nước Sôi, dài rộng năm trăm do-tuần, trong đó có vạc nước, dưới vạc nước có lửa, lấy lửa đốt vạc, nước sôi sùng sục. Lùa người luộc thịt vào vạc nước này, chịu nỗi khổ lớn. 
Người nướng thịt đọa địa ngục Giường Nướng, dài rộng tám vạn do-tuần, trong đó có giường bằng sắt, dưới giường có lửa, lấy lửa đốt giường. Lùa người nướng thịt nằm ở bên trên, thịt khô cháy nát, chịu nỗi khổ lớn.
Người chặt thịt đọa địa ngục Tỏa Đối, trong đó có năm trăm lực sĩ chặt người ấy ra làm vạn khúc, thổi thành bụi nhỏ, rồi nhận lại thân, liền bị chặt nữa, chịu nỗi khổ lớn.”
Bồ-tát Ca-diếp bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Người ăn thịt không phải là đệ tử của Như Lai, mà chính là quyến thuộc của ngoại đạo.”
Đức Phật bảo Ca-diếp: “Người ăn thịt không giác ngộ, không biết, không nghe, không thấy. Nếu như ăn thịt thì: hoặc vua ăn thịt thần, hoặc thần ăn thịt vua, hoặc con ăn thịt cha, hoặc cha ăn thịt con, hoặc em trai ăn thịt anh, hoặc anh ăn thịt em trai, hoặc em gái ăn thịt chị, hoặc chị ăn thịt em gái, hoặc vợ ăn thịt chồng, hoặc chồng ăn thịt vợ, hoặc ăn thịt quyến thuộc bên nộibên ngoại. Người ăn thịt chính là ăn thịt của cha mẹ, quyến thuộc.”
Bồ-tát Ca-diếp bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Người ăn thịt đọa địa ngục ở đâu?”
Đức Phật bảo Ca-diếp: “Người ăn thịt đọa địa ngục Phân Dơ, dài rộng đúng bằng tám vạn do-tuần, trong đó có phân, sâu một vạn trượng. Lùa người ăn thịt vào địa ngục này, chịu nỗi khổ lớn, năm trăm vạn đời không có ngày ra... 
Này thiện nam! Người chặt thịt chính là chặt cha của họ. Người cắt thịt chính là cắt mẹ của họ. Ví dụ, cha chết phải làm trâu dê, họ cầm dao hại nó chính là hại cha mình. Tất cả chúng sinh, tâm bị điên đảo. Người ăn thịt chính là ăn thịt cha, người gặm xương chính là gặm xương cha, người uống nước thịt chính là uống máu cha.
Này thiện nam! Tất cả chúng sinh, nếu có tàm quý, không nên ăn thịt. Tuy trước đây ăn thịt, nhưng có thể phát lộ, tâm sinh niềm hối hận lớn thì cũng được phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.” 
***
Bồ-tát Ca-diếp bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nguyện xin Như Lai giải thích cho con, người không uống rượu, không ăn thịt được bao nhiêu phúc đức?”
Đức Phật bảo Ca-diếp: “Giả sử có người, voi, ngựa, trâu, dê, lưu ly, châu báu, anh lạc, đất nước, thành thị, vợ con, đem dùng bố thí, cũng vẫn không bằng có người bỏ được rượu thịt, trăm ngàn vạn phần không bằng một phần. Gác lại việc đó, giả sử có người, trăm ngàn lượng vàng, đầy khắp thế giới tam thiên đại thiên, đem dùng bố thí, cũng vẫn không bằng có người bỏ được rượu thịt, trăm ngàn vạn phần không bằng một phần. Gác lại việc đó, giả sử có người đúc được mấy trăm người bằng vàng, đem dùng bố thí, cũng vẫn không bằng có người bỏ được rượu thịt, trăm ngàn vạn phần không bằng một phần. Gác lại việc đó, giả sử có người làm phan, hoa, lọng báu đầy khắp thế giới tam thiên đại thiên, cũng vẫn không bằng có người bỏ được rượu thịt, trăm ngàn vạn phần không bằng một phần. Gác lại việc đó, giả sử có người xây bảo tháp Phật lớn, lần lượt từng ngôi, nhiều như lúa, đay, trúc, lau, cao đến tầng trời Thanh Tịnh, cũng vẫn không bằng có người bỏ được rượu thịt, trăm ngàn vạn phần không bằng một phần. Này thiện nam! Người không ăn thịt, đời này là Bồ-tát, chứ không phải phàm phu!”
 
KINH PHẠM VÕNG 
(Trích lục)
Nếu là Phật tử, không được cố ý ăn thịt. Tất cả thịt, không được ăn. Người ăn thịt mất hạt giống Phật tính đại từ bi, tất cả chúng sinh thấy liền bỏ đi. Vì vậy, hết thảy Bồ-tát không được ăn tất cả thịt chúng sinh. Ăn thịt mắc vô lượng tội. Nếu cố ý ăn, phạm tội khinh cấu. 
***
Nếu là Phật tử, vì tâm từ bi, làm việc phóng sinh, nên nghĩ như vầy: tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta, không đời nào ta không từ cha mẹ sinh ra, nên chúng sinh sáu đường đều là cha mẹ ta. Nếu giết ăn, chính là giết cha mẹ ta, cũng là giết thân cũ của ta. Tất cả đất, nước là tiền thân của ta; tất cả lửa, gió là bản thể của ta. Vì vậy, đời đời sinh ra, nên làm việc phóng sinh. Khi thấy người đời giết hại súc sinh, nên dùng phương tiện cứu hộ, giải trừ khổ nạn của chúng. Thường giáo hóa, giảng thuyết giới Bồ-tát, cứu độ chúng sinh. Nếu là ngày cha mẹ anh em mất, nên thỉnh pháp sư giảng kinh luật về giới Bồ-tát. Phúc đức này giúp người mất được gặp chư Phật, sinh trên cõi người, cõi trời. Nếu không như vậy, phạm tội khinh cấu.
 
KINH THỌ GIỚI THẬP THIỆN 
(Trích lục)
Hết thảy yêu quý mắt, 
Yêu quý con cũng vậy, 
Yêu tuổi thọ vô cùng
Vì vậy, không sát sinh 
Gọi là “phạm hạnh nhất”.
Không giết, không nghĩ giết, 
Cũng không ăn thịt thà, 
Thấy kẻ giết như giặc, 
Phải biết: đọa địa ngục.
Người ăn thịt nhiều bệnh, 
Hại mạng, tự trang nghiêm
Nên hành tâm đại từ
Kính giữ giới không giết, 
Ắt thành đạo bồ-đề.
 
BÀI VĂN THỌ NĂM GIỚI, TÁM GIỚI 
(Trích lục)
Các Phật tử lắng nghe! Nói tám giới là:
Một, không giết hại;
Hai, không trộm cướp;
Ba, không nhiễm dục;
Bốn, không nói dối;
Năm, không uống rượu, ăn thịt;
Sáu, không bôi dầu thơm lên thân và trang sức bằng vòng hoa;
Bảy, không múa hát, chơi nhạc và cố ý đi xem nghe;
Tám, không lên giường cao lớn và ăn quá giờ ngọ.
Bắt đầu từ bây giờ cho đến sáng sớm mai, một ngày một đêm, theo Phật xuất gia, trong khoảng thời gian đó, không được vi phạm, có thể giữ được không?
***
Các Phật tử lắng nghe! Nói giới ưu-bà-tắc là:
Một, không giết hại;
Hai, không trộm cướp;
Ba, không tà hạnh;
Bốn, không nói dối;
Năm, không uống rượu, ăn thịt.
Bắt đầu từ bây giờ cho đến tận cùng đời tương lai, trong khoảng thời gian đó, không được vi phạm, có thể giữ được không?
 
LUẬT NGŨ PHẦN HÒA-HÊ CỦA DI-SA-TẮC BỘ 
(Trích lục)
Khi ấy, trong thành Xá-vệ, có ưu-bà-di, tên là Tu-ti, tin ưa Phật pháp, thấy pháp, đắc quả, quy y Tam Bảo, thường thỉnh chư Tăng cung cấp thuốc thang. Sau này, ưu-bà-di đó đi vào Tăng phường, thấy một Tỳ-kheo uống thuốc nôn ra, hỏi rằng: “Đại đức! Bây giờ cần gì?” Tỳ-kheo đáp: “Thầy nôn ra, người suy nhược, muốn ăn thịt.” Ưu-bà-di nói: “Đại đức! Ngày mai, con sẽ đưa đến, nguyện xin nhận cho!”
Thế là về nhà, sáng sớm hôm sau, sai người cầm tiền đi tìm mua thịt. Ngày đó, vua Ba-tư-nặc có lệnh: nếu người nào giết hại, sẽ ghép cho tội nặng. Người được sai đi, không thể mua được, về thưa như vậy. Ưu-bà-di lại đưa tiền, sai đi tìm khắp mọi nơi, nói rằng: “Bất kể giá trị, nếu phải lớn bằng toàn bộ số tiền, thì cũng nên mua.” Vẫn không thể nào mua được. Ưu-bà-di nghĩ như vầy: “Hôm qua mình đã hứa, nếu không có được thịt, có thể thầy sẽ chết.” Liền cầm dao sắc, đi vào trong phòng, cắt thịt trong đùi, đưa người hầu gái, sai nấu rồi đưa đến cho Tỳ-kheo. Tỳ-kheo có được, bèn ăn thịt đó, bệnh tật liền khỏi.
Khi ấy, chồng về, không thấy vợ mình đi lại, ra vào, bèn hỏi: “Tu-ti ở đâu?” Vợ đáp: “Ở trong, bị bệnh.” Chồng liền vào hỏi: “Thấy đau chỗ nào?” Vợ kể lại sự việc để trả lời. Chồng nói: “Sợ rằng, bệnh này của em không lẽ nào khỏi, nhân lúc chưa chết, mai nên bày cơm trưa, thỉnh Phậtchư Tăng.” Vợ nói: “Rất tốt!” Liền bảo chồng thỉnh Phậtchư Tăng. Chồng đến lạy chạm đầu vào chân Phật, bạch Đức Phật rằng: “Nguyện Phật và chư Tăng, mai đến thăm, ăn cơm.” Phật im lặng nhận lời. 
Chồng trở về nhà, thâu đêm làm nhiều đồ ẩm thực ngon. Sáng sớm bày biện chỗ ngồi, sai người bạch Phật: đến giờ. Phật và chư Tăng vây quanh trước sau, đi đến nhà họ, vào chỗ, ngồi xuống. Chồng tự dâng nước, Phật không nhận, nói: “Gọi ưu-bà-di Tu-ti ra đây!” Chồng liền sai người vào nói: “Thế Tôn gọi cô.” Vợ đáp: “Có thể lấy tên của tôi, hỏi thăm sức khỏe Thế Tôn, tôi bệnh không thể ra được.” Người đó liền bạch Phật, nhưng Phật vẫn gọi cô. Như vậy đến lần thứ ba, bèn lấy áo, cùng khiêng cô đến chỗ Phật. Thấy Thế Tôn rồi, vết thương liền khỏi, màu thịt như trước, sinh tâm hy hữu: “Mình có vị đại sư và những người đồng phạm hạnh như thế này!” Hoan hỷ, hăng hái, tự tay chuẩn bị đồ ăn. Ăn xong, dâng nước, rồi lấy giường nhỏ, ngồi ở trước Phật. Phật vì cô nói bài Kệ Vui Theo, giống bài kệ nói cho Tỳ-lan-nhã. Phật lại vì cô nói các diệu pháp, hiển thị ý nghĩa, dạy bảo tu hành, khiến được lợi ích, làm cho hoan hỷ, rồi về chỗ ở. 
Đức Phật vì việc này, tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi vị Tỳ-kheo kia: “Hôm qua, thầy ăn những gì?” Tỳ-kheo đáp: “Con ăn thịt.” Phật lại hỏi: “Thịt ngon không?” Tỳ-kheo đáp: “Ngon!” Phật nói: “Thầy là kẻ ngu si! Vì sao không hỏi mà ăn thịt người? Từ nay, ăn thịt không hỏi phạm tội đột-kiết-la, nếu ăn thịt người phạm tội thâu-lan-già.” 
 
TẠP SỰ TRONG TỲ-NẠI-DA CỦA CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ 
(Trích lục)
Đức Phật nói rằng: “Đồ lọc nước có năm loại:
Một là phương la. (Nếu thường dùng, phải là vải dệt ba thước hoặc hai thước, một thước. Tăng sỹ dùng hai miếng, tùy thời lớn hoặc nhỏ. Vải làm đồ lọc nước đều là hàng dệt. Phải mịn, trùng không lọt qua mới được. Nếu thưa mỏng, căn bản là không thể dùng. Có người dùng loại vải xấu và vải mỏng, vải gai, vốn không có ý bảo vệ trùng.) 
Hai là pháp bình... 
Ba là quân trì... 
Bốn là chước thủy la...
Năm là y giác la...”
Những đồ lọc nước này đều thấy dùng ở Ấn Độ. Bậc đại sư thương xót, vì cứu tế chúng sinh, nên còn cấm ăn thịt; đại từsát sinh, lẽ nào sẽ thành Phật? Giả sử tạm thời ra ngoài chùa, thì phải đem đồ lọc nước cùng dây thừng nhỏ và đồ phóng sinh. Nếu không đem, thì đã không trực tiếp xem kinh Phật dạy, cũng lấy gì để khuyên dạy và dìu dắt môn đồ? Hành giả hãy nghĩ về điều này, đặc biệt nên giữ gìn, vì lợi ích của mình và người.
 
KINH PHẬT THUYẾT TƯỢNG DỊCH 
(Trích lục)
Đức Phật nói: “Này Văn-thù-sư-lợi! Nếu có Bồ-tát muốn thông hiểu bài đà-la-ni này, nên ưa thích hạnh thanh tịnh, không ăn thịt, không bôi dầu lên chân, không đến chỗ đông người; thường đối với chúng sinh, khởi lên tâm từ bi. Đừng làm người phi pháp, bất tịnhđọc kinh này; cũng đừng đọc ở nơi không sạch sẽ.” 
 
KINH THẮNG MAN 
(Trích lục)
Bạch Đức Thế Tôn! Từ ngày hôm nay cho đến bồ-đề, nếu thấy những chúng sinhác luật nghi như săn bắt, chăn nuôi và các việc phạm giới, con trước sau không bỏ. Khi nào con có năng lực, thấy những chúng sinh như vậy, ở những nơi chốn như vậy; người nên chế phục thì con chế phục, người nên nhiếp thọ thì con nhiếp thọ. Vì sao? Vì sự chế phục, nhiếp thọ khiến cho pháp trụ lâu dài. Pháp trụ lâu dài thì: đường trời, người đầy lên, những đường ác giảm xuống; có thể quay theo bánh xe pháp mà Như Lai đã quay. Vì thấy lợi ích này, con nhiếp thọ, không bỏ. 
 
KINH NHẬP LĂNG-GIÀ 
(Trích lục)
Lúc đó, Thánh giả Bồ-tát Ma-ha-tát Đại Tuệ bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Con quan sát người thế gian, sinh tử lưu chuyển, tâm oán kết lại nối liền với nhau, đọa những đường ác, đều do ăn thịt, giết hại lẫn nhau; tăng trưởng tham và sân, không được vượt thoát ra, thật là nỗi khổ lớn! Bạch Đức Thế Tôn! Người ăn thịt mất hạt giống đại từ, người tu Thánh đạo không nên ăn thịt. Bạch Đức Thế Tôn! Những kẻ ngoại đạo nói pháp tà kiến, nói thuyết thuận theo thế tục của Lô-già-da-đà, rơi vào trong đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến; đều ngăn ăn thịt, tự mình không ăn, không cho người ăn. Vì sao trong pháp thanh tịnh của Như Lai, người tu phạm hạnh: mình ăn, người ăn, thảy không hạn chế? Đức Như Lai, Thế Tôn, đối với các chúng sinh, từ bi như nhau, vì sao mà cho phép lấy thịt làm đồ ăn? Lành thay, Thế Tôn! Ngài thương xót thế gian, nguyện Ngài vì con nói tội lỗi của việc ăn thịtcông đức của việc không ăn thịt. Con và tất cả chư Bồ-tát nghe rồi, được dựa theo chân như tu hành, rộng tuyên bố, lưu truyền, khiến các chúng sinhhiện tại, tương lai, tất cả được biết.”
Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ rằng: “Lành thay, lành thay! Lành thay, Đại Tuệ! Ông vì đại từ bi, thương xót chúng sinh, nên có thể hỏi ý nghĩa này. Ông nay lắng nghe, ta sẽ nói cho ông.”
Bồ-tát Đại Tuệ bạch Đức Phật rằng: “Lành thay, Thế Tôn! Vâng, xin thọ giáo.”
Đức Phật bảo Đại Tuệ rằng: “Người ăn thịtvô lượng tội lỗi. Chư Bồ-tát Ma-ha-tát tu đại từ bi, không được ăn thịt. Tội lỗi của ăn và công đức của không ăn, ta nói ít phần, ông nay lắng nghe.
Này Đại Tuệ! Ta quan sát chúng sinh, từ vô thủy đến nay, vì thói quen ăn thịt, tham mê mùi vị thịt, nên giết hại lẫn nhau, lìa xa bậc Hiền Thánh, chịu nỗi khổ sinh tử. Người bỏ mùi thịt, ngửi mùi chính pháp; đối với địa vị Bồ-tát, tu hành phù hợp giáo pháp chân thật; nhanh đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Lại còn khiến cho chúng sinh đi vào chỗ đình chỉ của địa vị Thanh VănBích-chi Phật. Đình chỉ rồi, khiến cho nhập vào địa vị Như Lai. Này Đại Tuệ! Những lợi ích như vậy, tâm từ bi là gốc. Người ăn thịt mất hạt giống đại từ, làm sao thích hợp đạt được những lợi ích lớn như thế?
Vì vậy, này Đại Tuệ, ta quan sát chúng sinh, luân hồi nơi sáu đường, cùng ở trong sinh tử, cùng sinh đẻ lẫn nhau, thay nhau làm cha mẹ, huynh đệ và tỷ muội. Người thân, quyến thuộc bên nội bên ngoại, hoặc nam hoặc nữ; có người sinh qua đường khác, đường thiện hay đường ác, luôn luôn là quyến thuộc. Vì nhân duyên này, ta nhìn chúng sinh ăn thịt lẫn nhau, không có ai không phải là người thân. Do tham vị thịt, luân phiên ăn nhau, thường sinh tâm hại, tăng trưởng nghiệp khổ, lưu chuyển trong sinh tử, không được vượt thoát ra.”
Lúc Đức Phật nói lời này, những la-sát ác nghe lời Phật nói, thảy bỏ tâm ác, thôi không ăn thịt. Khuyên bảo lẫn nhau phát tâm từ bi, hộ mạng chúng sinh hơn hộ thân mình, lìa bỏ không ăn tất cả các thịt, buồn khóc rơi lệbạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Con nghe Ngài nói, nhìn kỹ sáu đường, thịt mà con ăn đều là người thân. Mới biết rằng ăn thịt, chúng sinh rất oán hận, mất hạt giống đại từ, tăng trưởng nghiệp bất thiện, là cội gốc khổ lớn. Bạch Đức Thế Tôn! Con từ hôm nay, bỏ không ăn thịt, và quyến thuộc con cũng không cho ăn. Đệ tử Như Lai có người không ăn, con sẽ ngày đêm thân cận, ủng hộ. Nếu người nào ăn thịt, con sẽ làm cho họ rất không có lợi ích.”
Đức Phật nói: “Này Đại Tuệ! Ác quỷ la-sát luôn luôn ăn thịt, nghe lời ta nói còn phát tâm từ, bỏ thịt không ăn; huống hồ đệ tử ta, người thực hành thiện pháp, nên cho phép ăn thịt? Nếu người nào ăn thịt, nên biết rằng chính là oán gia lớn của chúng sinh, mất hạt giống Thánh của ta. Này Đại Tuệ! Nếu đệ tử ta nghe lời ta nói, không quan sát kỹ mà lại ăn thịt, nên biết chính là loại chiên-đà-la, không phải đệ tử ta, ta không phải là thầy của những người ăn thịt. Vì vậy, này Đại Tuệ, nếu như người nào muốn làm quyến thuộc với ta, tất cả các thịt, thảy không nên ăn. 
Lại nữa, này Đại Tuệ, Bồ-tát nên quán tất cả các thịt đều là những thân thể bất tịnh, dựa vào máu mủ đỏ trắng, không sạch của cha mẹ hòa hợp mà sinh ra. Vì vậy, Bồ-tát quán thịt bất tịnh, không nên ăn thịt
Lại nữa, này Đại Tuệ, người ăn thịt, chúng sinh ngửi mùi, thảy đều kinh sợ, bỏ chạy, lìa xa. Do đó, Bồ-tát tu hạnh phù hợp giáo pháp chân thật, vì giáo hóa chúng sinh, không nên ăn thịt.
Này Đại Tuệ! Ví như, chiên-đà-la, thợ săn, đồ tể, người bắt cá chim; tất cả những chỗ họ đi, chúng sinh từ xa nhìn thấy, khởi lên ý nghĩ như vầy: ‘Chúng ta nay chết chắc rồi! Người đi đến kia là kẻ đại ác, không biết tội phúc, hại mạng chúng sinh, cầu lợi trước mắt, nay đi đến đây để tìm chúng ta. Giờ thân chúng ta, thảy đều có thịt, nên nay hắn đến, chúng ta chết chắc!’ Này Đại Tuệ! Người do ăn thịt mà có thể khiến chúng sinh nhìn thấy đều sinh ra sự kinh sợ như vậy. 
Này Đại Tuệ! Hết thảy chúng sinh ở trong trời đất, thấy người ăn thịt, đều sinh kinh sợ, mà khởi ý nghi ngờ rằng: ‘Ta nay chết hay là sống? Kẻ ác như vậy, không tu tâm từ, cũng giống lang sói du hành thế gian thường tìm thịt ăn; giống trâu ăn cỏ, bọ hung tìm phân, không biết no đủ. Thân ta là thịt, chính là đồ ăn của kẻ ác đó, không nên gặp hắn.’ Lập tức bỏ chạy, lìa xa kẻ đó, giống như người sợ la-sát không khác. Này Đại Tuệ! Người ăn thịt có thể khiến chúng sinh nhìn thấy đều sinh ra sự kinh sợ như vậy. 
Nên biết rằng ăn thịt, chúng sinh rất oán hận. Do đó, Bồ-tát tu hành từ bi, vì nhiếp chúng sinh, không nên ăn thịt. Thịt không phải là đồ mà người có trí tuệ của bậc Thánh ăn. Những kẻ ăn thịt, tiếng ác lan truyền, Thánh nhân khiển trách. Vì vậy, này Đại Tuệ, Bồ-tát vì nhiếp các chúng sinh mà không nên ăn thịt
Lại nữa, này Đại Tuệ, Bồ-tát vì bảo vệ niềm tin của chúng sinh mà không nên ăn thịt. Vì sao? Này Đại Tuệ! Nói về Bồ-tát, chúng sinh đều biết là loại người có tâm từ bi của Đức Phật Như Lai, có thể làm chỗ quy y cho chúng sinh; người nghe tự nhiên không sinh ra nghi sợ, nghĩ là bạn thân, nghĩ là thiện tri thức, nghĩ không sợ hãi; nói rằng được chỗ quy y, được chỗ an ổn, được thiện đạo sư. Này Đại Tuệ! Do không ăn thịt mà có thể làm sinh ra những niềm tin như thế của chúng sinh. Nếu ăn thịt, chúng sinh liền mất tất cả niềm tin, bèn nói rằng thế gian không có người đáng tin, bị mất đi tín căn. Do đó, này Đại Tuệ, Bồ-tát vì bảo vệ niềm tin của chúng sinh, tất cả các thịt, thảy không nên ăn. 
Lại nữa, này Đại Tuệ, các đệ tử của ta vì giữ cho thế gian đừng phỉ báng Tam Bảo mà không nên ăn thịt. Vì sao? Vì thế gian có người thấy ăn thịt, bèn phỉ báng Tam Bảo, nói như vầy: ‘Trong Phật pháp, chỗ nào có Sa-môn và bà-la-môn chân thật, tu hạnh thanh tịnh? Bỏ đồ mà Thánh nhân vốn nên ăn; ăn thịt chúng sinh, giống như la-sát ăn thịt đầy bụng, say ngủ, bất động. Dựa người thế tục giàu sang, quyền thế để tìm thịt ăn. Giống như vua la-sát, làm chúng sinh kinh sợ.’ Vì vậy, nơi nơi, xướng lời như vầy: ‘Chỗ nào có Sa-môn và bà-la-môn chân thật, tu hạnh thanh tịnh? Không có pháp, không có Sa-môn, không có tỳ-ni, không có người tu hạnh thanh tịnh.’ Sinh ra vô lượng vô biên tâm ác như thế, cắt đứt bánh xe pháp của ta, mất sạch hạt giống của bậc Thánh. Tất cả đều do tội lỗi của người ăn thịt. Do đó, này Đại Tuệ, các đệ tử của ta vì giữ cho người ác đừng phỉ báng Tam Bảo, thậm chí không nên sinh ý nhớ thịt, huống hồ ăn thịt
Lại nữa, này Đại Tuệ, Bồ-tát vì cầu cõi Phật thanh tịnh, giáo hóa chúng sinh, không nên ăn thịt. Nên xem các thịt như xác người chết, mắt không muốn thấy, khỏi cần ngửi mùi, huống hồ có thể ngửi, và chạm vào trong miệng. Tất cả các thịt cũng giống như vậy. Này Đại Tuệ! Như thiêu xác người chết, mùi hôi thối, bất tịnh; với thiêu các thịt khác, hôi dơ giống như nhau; làm sao ở trong đó, có ăn hay không ăn? Do đó, này Đại Tuệ, Bồ-tát vì cầu cõi Phật thanh tịnh, giáo hóa chúng sinh, không nên ăn thịt.
Lại nữa, này Đại Tuệ, Bồ-tát vì cầu vượt thoát khỏi sinh tử, nên chuyên nhớ nghĩ hạnh từ bi, ít muốn biết đủ, chán nỗi khổ thế gian, nhanh chóng cầu giải thoát, nên bỏ sự hỗn loạn huyên náo, tìm lấy sự rảnh rỗi nhàn hạ. Ở rừng thi-đà, ở a-lan-nhã, ở giữa mộ, ở dưới cây, ngồi một mình tư duy. Quán các thế gian không có một điều gì đáng vui. Nghĩ vợ con, quyến thuộc như gông xiềng. Nghĩ cung điện, đài các như ngục tù. Nhìn các thứ châu báu, nghĩ như đống phân. Thấy các đồ ăn uống, nghĩ như máu mủ. Nhận các đồ ăn uống như bôi thuốc lên ung nhọt, vết loét. Liền được bảo toàn mạng sống, chuyên nhất nhớ nghĩ Thánh đạo, không tham mùi vị. Những đồ có mùi hôi như: rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi, kiệu; bỏ hết không ăn uống. Này Đại Tuệ! Người như vậy là chân thật tu hành, có thể nhận tất cả trời, người cúng dường. Nếu đối với thế gian, không sinh tâm chán lìa, tham mê mùi vị, gặp cơ hội thuận tiệnăn uống rượu, thịt, đồ mặn, năm món cay, thì không nên nhận đồ tín thí của thế gian.
Lại nữa, này Đại Tuệ, có các chúng sinh, quá khứ từng tu vô lượng nhân duyên, có gốc thiện nhỏ, được nghe pháp ta, tin tưởng xuất gia, ở trong pháp ta. Quá khứ từng làm quyến thuộc của la-sát, sống trong loài hổ, sói, sư tử, mèo, báo; nay tuy ở trong pháp của ta, thói quen ăn thịt còn sót lại, thấy người ăn thịt, hoan hỷ, thân cận. Vào các thành thị, làng mạc, chùa tháp, uống rượu ăn thịt, cho là vui sướng. Các vị trời nhìn xuống thấy giống như la-sát tranh giành ăn xác chết, không có gì khác biệt; mà không tự mình biết, đã mất chúng của ta, thành quyến thuộc la-sát. Tuy mặc cà sa, cạo bỏ râu tóc; chúng sinh nhìn thấy, tâm sinh sợ hãi, như sợ la-sát. Vì vậy, này Đại Tuệ, nếu như là người lấy ta làm thầy, tất cả các thịt, thảy không nên ăn.
Lại nữa, này Đại Tuệ, các thầy chú thuật tà kiếnthế gian, nếu họ ăn thịt thì chú thuật không hoàn thành. Để hoàn thành tà thuật còn không ăn thịt, huống hồ đệ tử ta vì cầu Thánh đạo vô thượng của Như Laisự giải thoát xuất thế. Tu đại từ bi, chuyên siêng khổ hạnh, còn e không được, nơi nào có sự giải thoát như vậy để những kẻ ngu si ăn thịt mà đạt được? Do đó, này Đại Tuệ, các đệ tử của ta vì cầu niềm vui giải thoát xuất thế, không nên ăn thịt.
Lại nữa, này Đại Tuệ, ăn thịt có thể phát khởi khí lực, người ăn thịt tham mê nhiều. Nên quan sát kỹ tất cả chúng sinhthân mạng trong thế gian, mỗi mỗi tự bảo trọng, sợ hãi nỗi khổ chết; bảo vệ, quý trọng thân mạng, người và súc sinh không khác. Thà vui với thân của con dã cán ghẻ, không thể bỏ mạng để nhận niềm vui của các vị trời. Vì sao? Vì sợ nỗi khổ chết. Này Đại Tuệ! Theo sự quan sát này thì cái chết là nỗi khổ lớn, là pháp đáng sợ. Bản thân sợ chết, làm sao nên ăn thịt chúng sinh khác? Vì vậy, này Đại Tuệ, người nào muốn ăn thịt, trước nhớ nghĩ thân mình, sau quan sát chúng sinh, mà không nên ăn thịt.
Lại nữa, này Đại Tuệ, người ăn thịt, các vị trời lìa xa, huống hồ bậc Thánh nhân. Vì vậy, Bồ-tát, để gặp Thánh nhân, nên tu từ bi, không nên ăn thịt. Này Đại Tuệ! Người ăn thịt ngủ cũng khổ, lúc dậy cũng khổ. Nếu như ở trong mơ, thì thấy những điều ác, kinh sợ lông dựng đứng, tâm luôn luôn bất an; vì không có tâm từ, thiếu các sức mạnh thiện. Nếu họ ở một mình nơi trống vắng, phần nhiều bị phi nhân chờ cơ hội thuận tiện làm hại; hổ, sói, sư tử cũng đến rình tìm, muốn ăn thịt họ; tâm thường kinh sợ, không được an ổn
Lại nữa, này Đại Tuệ, những người ăn thịt, lòng tham khó đầy, ăn không biết lượng, không thể tiêu hóa, tăng thêm bốn đại, hơi miệng tanh tưởi. Lại nữa, trong bụng có nhiều vô lượng trùng độc, thân thể có nhiều bệnh như: lở loét, nấm ngoài da, phong trắng, và những thứ bất tịnh. Hiện tại phàm phu không hoan hỷ nghe nhìn, huống hồ có thể đạt được thân người không bệnh, thơm sạch trong tương lai. 
Lại nữa, này Đại Tuệ, ta nói phàm phu vì cầu mạng sống thanh tịnh mà ăn thực phẩm thanh tịnh, còn nên sinh tâm nghĩ như thịt của con, huống hồ cho ăn đồ Thánh nhân không ăn. Thánh nhân lìa thịt vì thịt có thể sinh ra vô lượng tội lỗi, làm mất tất cả công đức xuất thế, vì sao nói ta cho các đệ tử ăn uống những đồ máu thịt bất tịnh? Kẻ nói ta cho là phỉ báng ta. Này Đại Tuệ! Ta cho đệ tử ăn những thực phẩmThánh nhân nên ăn, không nói những thực phẩmThánh nhân lìa xa. Thực phẩm của Thánh nhân có thể sinh ra vô lượng công đức, lìa xa các tội lỗi. Này Đại Tuệ! Những đồ mà Thánh nhân quá khứhiện tại ăn là: gạo tẻ, đại mạch, tiểu mạch, đậu, các loại dầu và mật, mía, nước mía, khiên-đà, mạt-can-đề, vân vân. Với những đồ này, bất cứ lúc nào có được, cho ăn là pháp thanh tịnh
Này Đại Tuệ! Ở đời tương lai, có người ngu si nói rằng các loại tỳ-ni bảo được ăn thịt. Vì huân tập ăn thịt trong quá khứ, yêu thích vị thịt, theo kiến giải của tâm mình mà nói như thế. Phật và Thánh nhân không nói thịt là đồ ăn tốt đẹp. Này Đại Tuệ! Người không ăn thịt phải nhờ quá khứ cúng dường chư Phật, trồng các gốc thiện, tin được lời Phật, trụ vững trong tỳ-ni, tin các nhân và quả, cho đến thân và miệng có thể tự tiết chế, không vì thế giantham mê các mùi vị, nhìn thấy người ăn thịt có thể sinh tâm từ.”
***
“Này Đại Tuệ! Chúng sinh ăn thịt, theo sự huân tập ăn thịtquá khứ, phần nhiều sinh trong loài la-sát, sư tử, hổ, sói, chó rừng, báo, mèo, cáo, diều hâu, cú, đại bàng, cò, chim ưng, bồ cắt, vân vân. Những loài có mạng sống, mỗi mỗi tự hộ thân, không để thừa cơ bắt, nên chịu nỗi khổ đói. Thường sinh tâm ác, nhớ nghĩ ăn thịt của chúng sinh khác. Qua đời lại đọa đường ác, khó được sinh làm thân người, huống sẽ đắc đạo niết-bàn. 
Đại Tuệ nên biết: người ăn thịtvô lượng những tội lỗi như vậy, người không ăn thịt chính là chỗ tích tụ vô lượng công đức. Này Đại Tuệ! Các phàm phu không biết những tội lỗi như vậy của việc ăn thịtcông đức của việc không ăn, ta nay nói sơ lược, không cho phép ăn thịt
Này Đại Tuệ! Nếu tất cả mọi người không ăn thịt, thì cũng không có người giết hại chúng sinh. Do người ăn thịt, nếu không có gì có thể ăn được, thì tìm mua khắp nơi; nên người vì tài lợi, giết hại để buôn bán. Họ vì người mua mà giết; do đó, người mua và người giết không có khác gì nhau. Nên ăn thịt có thể làm chướng ngại Thánh đạo.
Này Đại Tuệ! Người ăn thịt yêu thích vị thịt, đến khi không có súc sinh bèn ăn thịt người; huống hồ hoẵng, hươu, chim trĩ, thỏ, ngỗng, chim nhạn, heo, dê, gà, chó, lạc đà, lừa, voi, ngựa, rồng, rắn, cá, ba ba; những loài có mạng sống dưới nước và trên đất, có được mà không ăn? Do mê vị thịt, tìm các phương tiện giết hại chúng sinh. Chế tạo các loại lưới, bẫy, giăng trên núi, đặt dưới đất, chặn ngang sông, ngăn dưới biển. Khắp dưới nước trên đất, bố trí lưới, bẫy, hố, cung, dao, tên độc... không còn chỗ trống. Các loài chúng sinh trên trời, dưới đất, trong nước đều bị giết hại để ăn thịt. Này Đại Tuệ! Thợ săn, đồ tể, người ăn thịt, vân vân, tâm ác kiên cố, có thể làm việc bất nhẫn; thấy các chúng sinh hình thể tươi mập, da thịt đầy đặn, sinh tâm ăn thịt, chỉ cho nhau xem, nói là ăn được, không sinh một ý niệm tâm thương xót. Vì vậy, ta nói người ăn thịt mất hạt giống đại từ.
Này Đại Tuệ! Ta quan sát thế gian chẳng có gì là thịt mà không phải mạng sống. Tự mình không giết, không dạy người giết, người khác không có vì mình mà giết. Chẳng có điều này: không từ mạng ra mà lại là thịt. Nếu có thịt này: không từ mạng sống ra và là đồ ăn ngon, ta vì cớ gì không cho người ăn? Tìm cầu khắp thế gian, chẳng có thịt như vậy. Do đó, ta nói ăn thịt là tội, mất hạt giống của Như Lai, nên không cho ăn.
Này Đại Tuệ! Sau khi ta nhập niết-bàn, ở đời tương lai, lúc pháp sắp mất, trong pháp của ta, có người xuất gia cạo bỏ râu tóc, tự xưng: ‘Tôi là Sa-môn Thích tử’; mặc cà sa của ta, ngu si như trẻ nhỏ; tự xưng là luật sư, rơi vào chấp hai bên; các loại giác và quán giả dối làm loạn tâm. Tham mê vị thịt, theo kiến giải của tâm mình, nói trong tỳ-ni bảo được ăn thịt; cũng phỉ báng ta, nói chư Phật Như Lai cho phép người ăn thịt; cũng nói theo chế độ mà cho phép ăn thịt; cũng phỉ báng ta, nói Như Lai Thế Tôn cũng tự mình ăn thịt. Này Đại Tuệ! Trong tất cả kinh như: Tượng Dịch, Ương-quật-ma-la, Niết-bàn, Đại Vân, vân vân, ta không cho ăn thịt, cũng không nói rằng thịt được xếp vào đồ ăn. Này Đại Tuệ! Nếu cho các đệ tử Thanh Văn ăn thịt, ta trước giờ không được thường ca ngợi người tu đại từ bi, thực hành hạnh phù hợp với giáo pháp chân thật; cũng không ca ngợi hành giả đầu-đà trong rừng thi-đà; cũng không ca ngợi người trụ đại thừa, tu hành đại thừa; cũng không ca ngợi người không ăn thịt. Ta không tự ăn, không cho người ăn. Do đó, ta khuyên tu hạnh Bồ-tát, ca ngợi không ăn thịt, khuyên nên xem chúng sinh giống như là con một. Vì sao xướng lên rằng ta cho phép ăn thịt? Để các đệ tử tu hạnh ba thừa nhanh chóng đắc quả, ta ngăn tất cả thịt, thảy không cho phép ăn. Vì sao nói rằng ta trong tỳ-ni cho người ăn thịt?
Lại còn nói rằng, trong các kinh khác, Như Lai nói ba loại thịt cho phép ăn. Nên biết rằng người này vì không hiểu tỳ-ni lần lượt đoạn trừ thịt, xướng lên là được ăn. Vì sao? Này Đại Tuệ! Thịt có hai loại: một là bị giết, hai là tự chết... Chúng sinh vô tội bị giết ngang ngược, cho nên ta chế định: thịt bị giết, tự chết, toàn bộ không được ăn. Thấy, nghe, nghi gọi là ‘bị giết’, không thấy, nghe, nghi gọi là ‘tự chết’. Vì vậy, này Đại Tuệ, ta trong tỳ-ni, xướng lời như vầy: ‘Phàm tất cả thịt, đối với hết thảy Sa-môn Thích tử, đều là đồ ăn bất tịnh, làm bẩn mạng sống thanh tịnh, gây chướng ngại phần Thánh đạo, không có phương tiện gì mà có thể được ăn.’ Nếu có người nói: Phật trong tỳ-ni, nói ba loại thịt, vì không cho ăn, chẳng vì cho ăn; nên biết người này vững trụ tỳ-ni, không phỉ báng ta.
Này Đại Tuệ! Nay, trong kinh Nhập Lăng-già này, ta nói rằng tất cả thịt trong tất cả thời, cũng không phương tiện gì mà có thể được ăn. Ta ngăn cản ăn thịt, không phải vì một người; thời hiện tại, tương lai, tất cả không được ăn. Vì vậy, này Đại Tuệ, nếu người ngu si đó tự bảo là luật sư, nói trong tỳ-ni cho người ăn thịt; cũng phỉ báng ta, nói Như Lai tự ăn; người ngu si đó tạo thành tội chướng lớn, đêm dài đọa vào chỗ không lợi ích, chỗ không Thánh nhân, chỗ không nghe pháp; cũng không được gặp các đệ tử Hiền Thánh hiện tại và tương lai, huống hồ sẽ được gặp các Đức Phật Như Lai
Này Đại Tuệ! Những đồ mà các vị Thanh Văn thường nên ăn như: gạo, mì, dầu, mật, các loại mè, đậu... có thể làm sinh ra mạng sống thanh tịnh. Phi pháp chứa súc vật, phi pháp nhận súc vật, ta nói là bất tịnh, còn không cho phép ăn, huống hồ cho ăn uống máu và thịt bất tịnh.
Này Đại Tuệ! Các đệ tử Thanh Văn, Bích-chi Phật, Bồ-tát của ta ăn pháp thực, không ăn ẩm thực, huống hồ Như Lai. Này Đại Tuệ! Chư Phật Như Lai ăn phù hợp với pháp, nương pháp mà trụ, không phải thân ẩm thực, không phải tất cả thân nương ẩm thực mà trụ... Chư Phật Như Lai thấy các chúng sinh, thương xót bình đẳng. Vì vậy, này Đại Tuệ, ta thấy tất cả các chúng sinh giống như là con một, sao mà cho lấy thịt làm đồ ăn? Cũng không vui theo, huống hồ tự ăn. 
Này Đại Tuệ! Hết thảy hành, hẹ, tỏi, kiệu hôi dơ, bất tịnh, có thể ngăn che Thánh đạo, cũng ngăn che chỗ thanh tịnh của trời, người thế gian, huống hồ quả báo cõi thanh tịnh của chư Phật. Rượu cũng như vậy, có thể ngăn che Thánh đạo, có thể tổn hại nghiệp thiện, có thể sinh ra các lỗi. Vì vậy, này Đại Tuệ, người đến Thánh đạo, những đồ có thể xông mùi hôi như: rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi và kiệu, thảy không nên dùng.”
Lúc đó, Thế Tôn nói lại bằng bài kệ rằng:
Bồ-tát Đại Tuệ hỏi:
“Rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi, 
Phật nói là bất tịnh
Tất cả, không cho ăn.
La-sát, vân vân, ăn
Không phải đồ Thánh ăn. 
Người ăn, Thánh khiển trách 
tiếng xấu lan truyền. 
Nguyện Phật phân biệt nói
Tội ăn, phúc không ăn.”
Đại Tuệ, ông lắng nghe, 
Ta nói tội của ăn. 
Rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi
Ngăn che phần Thánh đạo.
Ta nhìn trong ba cõi 
Và chúng đắc Thánh đạo
Cõi vô thủy đến nay,
Qua lại là người thân.
Vì sao ở trong đó 
Mà có ăn, không ăn?
Quán nguồn gốc của thịt,
Xuất xứ bất tịnh nhất, 
Máu mủ và sống tạp,
Kết hợp phân, tiểu, mủ, 
Nước mắt và nước mũi.
Người tu hạnh thanh tịnh
Nên quán, không nên ăn.
Không ăn thịt và hành, 
Rượu cũng không được uống;
Các loại hẹ và tỏi, 
Tu hành, thường lìa xa.
Thường lìa xa dầu mè,
Không ngủ giường khoét lỗ, 
Vì làm hại mạng sống
Của các trùng bay nhỏ.
Ăn thịt tăng sức mình,
Do sức, sinh tà niệm, 
Tà niệm sinh tham dục
Nên không cho ăn thịt
Do ăn thịt sinh tham, 
Tham dẫn đến mê say,
Mê say tăng ái dục
Không giải thoát sinh tử.
Vì lợi, giết chúng sinh
Làm thịt, theo tiền tài;
Cả hai tạo nghiệp ác
Chết đọa ngục Kêu Gào.
Ba loại thịt thanh tịnh:
Không thấy, nghe và nghi, 
Đời không có thịt này. 
Ăn thịt phần nhiều thường 
Sinh trong loài ăn thịt
Hôi dơ, đáng chán ghét;
Sinh làm người điên cuồng
Sinh làm chiên-đà-la, 
Sinh vào nhà thợ săn 
Và nhà của đồ tể;
Sinh làm la-sát nữ, 
Sinh vào chỗ ăn thịt
Sinh trong loài la-sát
Và trong loài mèo, cáo. 
Kinh Tượng Dịch, Đại Vân,
Niết-bàn và Thắng Man
Và kinh Nhập Lăng-già, 
Ta không cho ăn thịt.
Chư Phật và Bồ-tát, 
Thanh Văn cũng khiển trách. 
Người ăn thịt chúng sinh 
Không có sự hổ thẹn
Đời đời thường điên cuồng.
Nói trước: thấy, nghe, nghi, 
Đã bỏ tất cả thịt. 
Vọng tưởng, không hiểu biết
Nên sinh ý ăn thịt
Như lỗi tham dục đó,
Cản trở Thánh giải thoát
Rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi, 
Thảy ngăn che Thánh đạo.
Chúng sinh đời tương lai, 
Về thịt, ngu si nói:
“Thịt thanh tịnh, vô tội, 
Phật cho chúng ta ăn.”
Nghĩ thực phẩm thanh tịnh,
Ăn giống như uống thuốc, 
Như ăn thịt của con.
Biết đủ, sinh chán lìa,
Tu hành, đi khất thực.
Người an trụ tâm từ, 
Ta nói người đó thường
Chán lìa tất cả thịt. 
Sư tử, báo, hổ, sói 
Có thể cùng dạo, nghỉ.
Những người nào ăn thịt
Chúng sinh thấy, sợ hãi
Sao mà có thể ăn? 
Vì vậy, người tu hành
Từ bi, không ăn thịt
Ăn thịt mất tâm từ,
Lìa giải thoát niết-bàn, 
Trái lời Thánh nhân dạy, 
Nên không cho ăn thịt.
Những người không ăn thịt
Sinh trong bà-la-môn,
Và các đường tu hành.
Trí tuệ và phú quý 
Là do không ăn thịt.
 
KINH ĐẠI PHẬT ĐỈNH THỦ-LĂNG-NGHIÊM 
(Trích lục)
Này A-nan! Lại nữa, chúng sinh sáu đường ở các thế giới, tâm không giết hại, thì không theo sự sinh tử liên tục. Các thầy tu tam-muội, vốn ra khỏi trần lao, tâm giết hại không trừ, trần lao chẳng ra được. Dù có nhiều trí, thiền định hiển hiện, nếu không bỏ giết, thì chắc chắn rơi vào đường quỷ thần. Người phẩm trên làm quỷ đại lực; người phẩm giữa thì làm dạ-xoa phi hành, các chủ soái quỷ, vân vân; người phẩm dưới sẽ làm la-sát bộ hành. Những quỷ thần đó cũng có chúng đệ tử, mỗi mỗi tự nói là thành đạo vô thượng. Sau khi ta diệt độ, trong thời kỳ mạt pháp, những quỷ thần này đầy rẫy thế gian, tự nói ăn thịt đắc đạo bồ-đề. Này A-nan! Ta lệnh cho các Tỳ-kheo ăn năm loại thịt thanh tịnh. Những thịt này đều là thần lực của ta biến hóa sinh ra, vốn dĩ không có tuổi thọ. Chỗ Tăng lữ các thầy, đất đai nóng ướt nhiều, cộng thêm cát và đá, rau cỏ không sinh trưởng. Ta dùng thần lực đại bi gia hộ, vì đại từ bi, giả gọi là thịt, để cho các thầy có được món đó. Làm sao sau khi Như Lai diệt độ, người ăn thịt chúng sinh được gọi là Thích tử? Các thầy nên biết: người ăn thịt này dù được khai ngộ tâm linh, giống như đắc tam-ma-địa, đều là la-sát lớn, quả báo hết rồi ắt chìm trong biển khổ sinh tử, không phải là đệ tử Phật. Những người như vậy giết hại, ăn nuốt lẫn nhau không ngừng; làm sao những người này được ra khỏi ba cõi? Thầy dạy người đời tu tam-ma-địa, kế bỏ sát sinh; đây gọi là lời dạy quyết định, thanh tịnh, rõ ràng thứ hai của Như Lai và các Đức Phật Thế Tôn trước đây. Vì vậy, này A-nan, nếu như không bỏ giết, người tu thiền định ví như là kẻ tự bịt tai mình, lớn tiếng kêu to, cầu người không nghe; những người này được gọi là “kẻ muốn ẩn lại càng lộ”. Tỳ-kheo thanh tịnh và chư Bồ-tát đi ở đường nhánh, không giẫm cỏ tươi, huống lấy tay nhổ. Vì sao đại bi mà lấy máu thịt của các chúng sinh làm đồ ăn uống?
***
Này A-nan! Tất cả chúng sinh ăn lành nên sống, ăn độc nên chết. Những chúng sinh này cầu tam-ma-địa, nên bỏ năm món cay của thế gian. Năm món cay này, ăn chín phát dâm, ăn sống tăng hận. Người ăn năm món caythế giới này, dù có thể tuyên giảng mười hai bộ kinh, trời và tiên ở mười phương chán ghét sự hôi dơ của người đó, thảy đều lìa xa. Những con quỷ đói, theo số lần ăn, liếm môi người đó. Thường ở với quỷ, phúc đức ngày càng tiêu trừ, lâu dài không có lợi ích. Người ăn năm món cay này tu tam-ma-địa, Bồ-tát, trời, tiên, thiện thần mười phương không đến bảo hộ. Ma vương đại lực có được cơ hội thuận tiện, hiện làm thân Phật, đến nói pháp cho người đó: phỉ báng giới cấm, ca ngợi dâm dục, phẫn nộ, si mê. Qua đời tự nhiên thành quyến thuộc của ma vương, hưởng hết phúc của ma, đọa địa ngục Vô Gián. Này A-nan! Người tu bồ-đề, vĩnh viễn bỏ năm món cay. Đây gọi là cấp bậc từng bước tu hành tăng tiến thứ nhất.
***
Này A-nan! Chúng sinh như vậy nhập tam-ma-địa, trước phải giữ nghiêm giới luật thanh tịnh, mãi bỏ tâm dâm, không dùng rượu thịt, ăn đồ sạch nấu chín, không ăn đồ còn sống. Này A-nan! Không có điều này: người tu hành đó không đoạn trừ dâm và sát sinh mà ra khỏi ba cõi. Nên xem dâm dục giống như rắn độc, như gặp kẻ xấu bị người oán hận. Trước trì bốn giới Khí và tám giới Khí của Thanh Văn, giữ thân không động; sau hành giới luậtoai nghi thanh tịnh của Bồ-tát, giữ tâm không khởi. Giới cấm trì hoàn thành thì đối với thế gian, vĩnh viễn không có nghiệp sinh nhau và giết nhau. Việc trộm cướp không làm, thì không mắc nợ nhau; cũng đối với thế gian, không trả nợ quá khứ. Người thanh tịnh này tu tam-ma-địa, bằng thân xác thịt mà cha mẹ sinh, không cần mắt trời, tự nhiên nhìn thấy các thế giới trong mười phương; thấy Phật nghe pháp, tự mình kính nhận lời Phật khuyên răn; đắc thần thông lớn, dạo các cõi trong mười phương; mạng sống quá khứ thanh tịnh, được không gian nan, nguy hiểm. Đây gọi là cấp bậc từng bước tu hành tăng tiến thứ hai.
 
KINH ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN 
(Trích lục)
Khi đó, Bồ-tát Ca-diếp bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Người ăn thịt không nên bố thí thịt. Vì sao? Con thấy người không ăn thịtcông đức lớn.”
Đức Phật khen ngợi Ca-diếp: “Lành thay, lành thay! Ông nay có thể khéo biết ý ta, Bồ-tát hộ pháp thì nên như vậy. Này thiện nam! Bắt đầu từ ngày hôm nay, không cho đệ tử Thanh Văn ăn thịt. Khi nhận đồ tín thí của đàn việt, nên quán tưởng đồ ăn này như thịt con.”
Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao Như Lai không cho ăn thịt?”
– Này thiện nam! Người ăn thịt mất hạt giống đại từ.
Ca-diếp lại hỏi: “Vì sao Như Lai trước cho Tỳ-kheo ăn ba loại thịt thanh tịnh?”
– Này Ca-diếp! Ba loại thịt thanh tịnh này dựa theo tình hình sự việc mà dần chế định.
Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mười loại thịt không thanh tịnh, thậm chí chín loại thịt thanh tịnh, mà lại không cho ăn?”
Đức Phật bảo Ca-diếp: “Cũng là dựa theo tình hình sự việc mà dần chế định. Nên biết rằng đây chính là biểu hiện ý nghĩa bỏ thịt.”
Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao Như Lai khen ngợi cá thịt là đồ ăn ngon?”
– Này thiện nam! Ta cũng không nói các loại cá thịt là đồ ăn ngon. Ta nói mía, gạo tẻ, đường phèn, tất cả ngũ cốc và lúa mạch, đường đen, phô mai, bơ là đồ ăn ngon. Tuy nói nên chứa các loại y phục, thứ mà nên chứa phải là hoại sắc, huống hồ tham mê vị cá thịt này. 
Ca-diếp lại nói: “Như Lai nếu chế định không ăn thịt, thì năm món ăn uống là: phô mai, sữa lên men, bơ sống, bơ chín, dầu mè; và các loại y phục, y kiều-xa-da, vỏ sò, da thú, đồ đựng bằng vàng bạc; những thứ như vậy cũng không nên nhận.”
– Này thiện nam! Không nên giống như cách nhìn của ông Ni-cán. Tất cả giới cấmNhư Lai chế định, mỗi giới có ý nghĩa khác. Vì ý nghĩa khác nên cho ăn ba loại thịt thanh tịnh. Vì ý nghĩa khác nên cấm mười loại thịt. Vì ý nghĩa khác nên cấm hết thảy thịt, kể cả thịt của con vật tự chết. Này Ca-diếp! Ta từ ngày hôm nay, chế định các đệ tử không được ăn lại tất cả thịt nữa.
– Này Ca-diếp! Người ăn thịt nếu đi, đứng, ngồi, nằm, tất cả chúng sinh ngửi mùi thịt của người đó, thảy sinh tâm sợ hãi. Ví như có người đã gần sư tử, mọi người thấy người đó, ngửi mùi hôi sư tử, cũng sinh tâm sợ hãi. Này thiện nam! Như người ăn tỏi, hôi dơ đáng ghét, người khác thấy người đó, ngửi mùi hôi bỏ đi; giả sử thấy từ xa, hãy còn không muốn nhìn, huống hồ đi đến gần. Những người ăn thịt cũng giống như vậy. Tất cả chúng sinh ngửi mùi thịt họ, thảy đều sợ hãi, sinh ý sợ chết; những loài có mạng sống ở nước, đất, không trung, thảy bỏ họ mà đi, đều nói: “Bọn này là oán gia của chúng ta.” Vì vậy, Bồ-tát không quen ăn thịt, vì độ chúng sinh, thị hiện ăn thịt; tuy thị hiện ăn, kỳ thật không ăn. Này thiện nam! Bồ-tát như vậy, đồ ăn thanh tịnh, hãy còn không ăn, huống hồ ăn thịt
– Này thiện nam! Vô lượng trăm năm sau khi ta nhập niết-bàn, Thánh nhân bốn đường đều nhập niết-bàn, chính pháp bị diệt rồi, trong thời kỳ tượng pháp, sẽ có Tỳ-kheo, dường như trì luật, ít đọc tụng kinh, ham thích ăn uống, nuôi dưỡng thân thể. Mình mặc y phục thô xấu, hình thể dung mạo tiều tụy, không có oai thế, đức hạnh. Chăn nuôi trâu dê, gánh củi vác cỏ. Đầu tóc, râu, móng, thảy đều dài sắc. Tuy mặc cà sa, nhưng giống thợ săn; nhìn kỹ, đi chậm như mèo rình chuột. Thường xướng lên lời này: “Ta đắc A-la-hán.” Bị nhiều các bệnh khổ, ngủ nằm trên phân dơ. Ngoài hiện ra hiền minh, lương thiện; trong chất chứa tham lam, đố kỵ; giống như những bà-la-môn thọ nhận pháp tu cấm khẩu. Thực sự không phải Sa-môn, mà hiện tướng của Sa-môn, tà kiến đầy rẫy, phỉ báng chính pháp. Những người như vậy phá hoại giới luật, chính hạnhoai nghiNhư Lai chế định; nói quả giải thoát lìa pháp thanh tịnh, và phá hoại những giáo pháp bí mật vô cùng sâu xa. Mỗi người tự tùy ý, thuyết trái ngược kinh luật, và nói lời như vầy: “Như Lai đều cho chúng ta ăn thịt.” Tự sinh lời luận này, mà nói là Phật thuyết, cùng tranh cãi lẫn nhau, mỗi người tự xưng mình là Sa-môn Thích tử. Này thiện nam! Khi đó, còn có những Sa-môn cất giữ, tích chứa hạt ngũ cốc; nhận lấy cá thịt, tự tay làm ăn. Cầm nắm bình dầu, lọng báu, giày da. Thân cận quốc vương, đại thần, trưởng giả. Xem tướng, chiêm tinh, siêng tu y đạo, nuôi dưỡng nô tỳ. Tích lũy vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, pha lê, trân châu, san hô, hổ phách, ngọc bích, vỏ sò, các loại dưa, quả. Học các kỹ nghệ, vẽ tranh, nặn tượng, viết sách, dạy học, trồng trọt, cày cấy, chế độc, luyện chú, hòa các loại thuốc, múa hát, chơi nhạc, bôi hương, đeo hoa, đánh bạc, chơi cờ, học các công nghệ. Nếu có Tỳ-kheo lìa được những việc ác như vậy, nên nói người này thật là đệ tử của ta!
Lúc đó, Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di nhờ người khác mà sống, nếu như khi khất thực, được đồ ăn lẫn thịt, làm thế nào được ăn, tương ứng pháp thanh tịnh?”
Đức Phật nói: “Này Ca-diếp! Nên lấy nước rửa, khiến tách khỏi thịt, sau đó mới ăn. Nếu bát đựng đồ ăn đó bị thịt làm cho dơ bẩn, chỉ cần khiến không có mùi, cho phép dùng không có tội. Nếu thấy trong đồ ăn có nhiều thịt thì không nên nhận. Tất cả thịt làm sẵn, toàn bộ không nên ăn, người nào ăn có tội. Điều ta nay khởi xướng là chế định cấm thịt, nếu nói rộng thì không thể cùng tận. Giờ nhập niết-bàn đến, cho nên nói tóm lược, đây gọi là có thể theo lời hỏi mà đáp.”
 
PHẦN SAU KINH ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN 
(Trích lục)
Sau khi ta nhập niết-bàn, ông nên chuyên chú, siêng năng, để khéo léo răn dạy các quyến thuộc của ta, trao cho họ diệu pháp, chuyên tâm dạy dỗ, khuyên răn; không được trêu đùa, phóng túng, loạn tâm, nhập vào các cảnh giới, nhận và hành tà pháp. Chưa thoát nỗi thống khổ của thế gian ba cõi, sớm cầu vượt thoát thế gian năm trược và ái dục này. Nên sinh ý nghĩ lo lắng, sợ hãi, không có cứu hộ; một khi mất thân người, khó có thể khôi phục. Hết một đời này, thường phải cảnh giác; đại quỷ vô thường, xin tha, khó thoát. Thương xót chúng sinh, không giết hại nhau; cả loài bò trườn, nên bố thí cho sự không sợ hãi. Nghiệp thân thanh tịnh, thường sinh cõi diệu. Nghiệp miệng thanh tịnh, lìa các tội lỗi. Không ăn thịt, không uống rượu. Điều phục con rắn tâm, khiến nhập vào đạo quả. Nghĩ sâu xa quả báo thiện ác của hạnh nghiệp, như bóng theo hình; nhân quả ba đời tuần hoàn không mất, đời này luống qua, hối hận không kịp. Giờ niết-bàn đến, ta dạy như vậy.
 
KINH PHẬT THUYẾT ĐẠI BÁT-NÊ-HOÀN 
(Trích lục)
Có thợ săn giỏi, ở thành Vương Xá, sát sinh cúng thí, thỉnh Phật và Tăng, nguyện xin thương nhận! Nhưng Phật Thế Tôn chưa từng ăn thịt, bình đẳng xem tất cả giống như La-hầu-la, liền vì thợ săn nói bài kệ này:
Nên quán người trường thọ
Vì không hại chúng sinh
Tất cả đều sợ chết
Ai cũng sợ đánh đập. 
Tha mình là ví dụ, 
Không giết, không đánh đập.
 
KINH TIÊN NHÂN NHẤT THIẾT TRÍ QUANG MINH VÌ TÂM TỪ, KHÔNG ĂN THỊT 
Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Phật trú tại tinh xá Tự Tại Thiên Từ ở thôn Di-gia-nữ, thuộc đạo tràng Tịch Diệt ở nước Ma-già-đề. Khi ấy, con trai của bà-la-môn Ca-ba-lợi, tên là Di-lặc, thân thể màu vàng, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tỏa ánh sáng bạc, trang sức bằng vàng, như ngọn núi bạc, oai quang vô lượng, đi đến chỗ Phật. Lúc đó, Đức Thế Tôn và một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo kinh hành trong rừng.
Lại có năm trăm phạm chí kết tóc. Họ từ xa thấy Di-lặc oai nghi điềm đạm, khoan thai; tướng tốt, vẻ đẹp thanh tịnh. Năm phần thân thể chạm đất như ngọn núi bạc sụp đổ, tạo thành đống hoa màu vàng có xen lẫn các thứ báu; lại như trên đài màu vàng, có hoa màu vàng và quả bằng bảy thứ báu. Từ trong đài, phát ra âm thanh vi diệu, nói kệ rằng:
Con thấy đức Mâu-ni, 
Diện mạo thường thanh tịnh
Một trăm tướng phúc đức 
Kỳ lạ và đặc biệt
Thế gian không sánh bằng.
Cáu phiền não mãi hết, 
Trí tuệ đều viên mãn.
Trước giờ, thường quy mạng,
Thân tâm chẳng mỏi mệt. 
Vì vậy, con đỉnh lễ
Năm phần thân chạm đất, 
Mong muốn mình đạt được 
Sự an lạc thù thắng
Thoát khổ, không sợ hãi
Kính lạy đức Thích-ca!
Bấy giờ, các phạm chí thấy nghe sự việc này, bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Vị đồng tử này, oai nghi điềm đạm và khoan thai, ánh sáng vô lượng giống với Phật. Vị này ban đầu phát tâm đạo ở nơi Đức Phật nào? Thọ trì kinh của ai? Nguyện xin Đức Thiên Tôn giảng giải cho chúng con!”
Đức Phật nói với vị phạm chí tên là Thức-can rằng: “Ông nay lắng nghe, khéo léo nhớ nghĩ, ta sẽ vì ông giảng giải từng điều, khiến ông hoan hỷ. Vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp về đời quá khứ, có thế giới tên là Thắng Hoa Phu và Đức Phật tên là Di-lặc. Đức Phật đó thường lấy tâm từ và bốn pháp vô lượng giáo hóa tất cả. Ngài nói kinh tên là Từ Tam-muội Quang Đại Bi Hải Vân. Nếu người nào nghe, liền được vượt qua tội sinh tử trong trăm ức vạn kiếp, ắt được thành Phật, không nghi, không lo.
Lúc đó, trong cõi nước ấy, có vị bà-la-môn lớn, tên là Nhất Thiết Trí Quang Minh, thông tuệ, đa trí, rộng hiểu nhiều kinh; sáu mươi bốn năng lực kỹ thuật và nghệ thuật của thế gian, không có gì không nghiên cứu, học tập. Nghe Đức Phật xuất thế, nói kinh Từ Tam-muội Quang Đại Bi Hải Vân, liền lấy tất cả nghĩa lý, luận thuyết của thế gian hỏi vặn Đức Phật ấy. Ông dùng hết tài ăn nói, biện luận của mình nhưng không thể khuất phục Đức Phật, bèn tin phục, làm đệ tử Phật, rồi liền phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề và nói lời này: ‘Con nay ở trong Phật pháp, tụng trì kinh Từ Tam-muội Quang Đại Bi Hải Vân. Nhờ công đức này, nguyện trải qua bao nhiêu kiếp tương lai, ắt được thành Phật, tên là Di-lặc.’ Thế là ông liền bỏ nhà, vào núi sâu, để tóc dài, tu phạm hạnh. Trong tám ngàn năm, ít dục, không việc, khất thực tự sống, tụng trì bộ kinh này, nhất tâm trừ tán loạn.
Bấy giờ, thế gian xuất hiện mưa sao băng, quốc vương hoang dâm, sao chổi bay ngang trời, mưa liên tục không ngớt, nước lụt bỗng dâng mạnh, tiên nhân ngồi ngay thẳng, trải qua bảy ngày, không thể khất thực.
Lúc đó, trong khu rừng ấy, có năm trăm con thỏ trắng. Hai mẹ con thỏ chúa thấy tiên nhân bảy ngày không ăn, bèn nói lời này: ‘Bây giờ, vị tiên nhân này vì Phật đạo mà không ăn nhiều ngày, mạng không còn dài, tràng pháp sắp đổ, biển pháp sắp cạn. Ta nay nên vì đại pháp vô thượng, khiến được trụ lâu, không tiếc thân mạng.’ Liền bảo bầy thỏ: ‘Tất cả các hành, thảy đều vô thường. Chúng sinh yêu thân, sống chết vô ích, chưa từng vì pháp. Ta nay muốn làm cây cầu lớn cho tất cả chúng sinh, khiến pháp trụ lâu, cúng dường pháp sư.’
Khi ấy, thỏ chúa liền vì bầy thỏ mà nói kệ rằng:
Nếu có loài súc sinh 
Được nghe tên chư Phật, 
Mãi lìa ba đường ác
Không sinh chỗ tám nạn
Nếu nghe pháp, phụng hành
Nơi sinh, thường gặp Phật.
Tin Pháp, không nghi hoặc
Quy y Hiền Thánh Tăng, 
Thuận theo các giới hạnh
Như thế, nhanh thành Phật
Ắt đến niết-bàn lớn, 
Thường đạt được niềm vui 
Không có gì cao hơn.
Lúc đó, thỏ chúa nói kệ này rồi, bảo bầy thỏ rằng: ‘Ta nay muốn lấy thân cúng dường pháp, mỗi đứa trong các ngươi nên vui theo. Vì sao? Ta từ nhiều kiếp, chết vô số lần; ba độc khiến mang hình thể chim, thú; sống chết vô ích, chưa từng vì pháp. Ta nay muốn vì pháp vô thượngxả bỏ thân mạng, cúng dường pháp sư.’
Bấy giờ, thần cây núi liền chất củi thơm rồi đốt lửa lên. Mẹ con thỏ chúa nhiễu quanh tiên nhân đầy đủ bảy vòng, rồi bạch rằng: ‘Bạch đại sư! Con nay vì pháp, cúng dường tôn giả.’ Tiên nhân hỏi: ‘Ngươi là súc sinh, tuy có tâm từ, sao làm được chứ?’ Thỏ bạch tiên nhân: ‘Con tự lấy thân cúng dường nhân giả, để pháp trụ lâu, khiến các chúng sinh đạt được lợi ích.’ Nói lời này rồi, liền bảo con nó: ‘Con có thể tùy ý tìm cỏ và kiếm nước. Buộc tâm lại, tư duy; chính niệm về Tam Bảo.’ Lúc đó, thỏ con nghe lời mẹ nói, quỳ thưa mẹ rằng: ‘Như lời mẹ nói: muốn cúng dường đại pháp vô thượng, con cũng ngưỡng mộ và vui thích.’ Nói lời này rồi, tự nhảy vào trong lửa, mẹ nhảy vào theo sau. Khi Bồ-tát xả thân, trời đất chấn động lớn; cho đến các tầng trời của cõi Sắc, đều mưa hoa trời, đem dùng cúng dường.
Sau khi thịt chín, bấy giờ, thần cây núi bạch tiên nhân rằng: ‘Mẹ con thỏ chúa vì cúng dường mà nhảy vào trong lửa. Giờ thịt đã chín, ngài có thể ăn.’ Khi ấy, vị tiên nhân kia nghe thần cây nói, buồn không kể xiết, đem sách kinh mà mình tụng đặt lên lá cây, rồi nói kệ rằng:
Thà thiêu đốt thân, phá hủy mắt, 
Không nỡ giết hại, ăn chúng sinh
Các Đức Phật nói kinh Từ Bi
Trong kinh đó nói: người hành từ 
Thà nát xương tủy, bỏ đầu, não, 
Không nỡ ăn thịt của chúng sinh
Như Đức Phật nói: người ăn thịt
Người này hành từ không đầy đủ, 
Thường nhận thân chết sớm, nhiều bệnh, 
Mê chìm sinh tử, không thành Phật.
Bấy giờ, tiên nhân kia nói bài kệ này rồi, liền phát lời thề rằng: ‘Nguyện tôi đời đời chẳng khởi lên ý nghĩ giết hại, mãi mãi không ăn thịt, nhập vào tam-muội Bạch Quang Minh Từ, cho đến khi thành Phật, chế giới không ăn thịt.’ Nói lời này rồi, tự nhảy vào hố lửa, bỏ mạng cùng với thỏ. Lúc này, vì sức mạnh của thiên thần, trời đất chấn động sáu cách, cây phát ra ánh sáng màu vàng, chói lọi, chiếu một ngàn cõi nước.
Khi ấy, những người dân trong nước đó thấy ánh sáng màu vàng từ cây núi phát ra. Họ tìm theo ánh sáng mà đến thì đã thấy tiên nhân và hai con thỏ chết ở trong lửa. Họ thấy bài kệtiên nhân nói, và có được kinh Phật, đem về dâng lên vua. Nhà vua nghe pháp này, truyền cùng nhau tuyên bố; khiến người nghe pháp này đều phát tâm đạo chân chính, vô thượng.”
Đức Phật bảo Thức-can: “Bây giờ ông nên biết, thỏ chúa màu trắng khi ấy, nay là thân ta – Phật Thích-ca Mâu-ni. Thỏ con khi ấy, nay là La-hầu-la. Tiên nhân tụng kinh khi ấy, nay trong chúng đây, là Bồ-tát Ma-ha-tát Di-lặc – con trai của bà-la-môn. Năm mươi sáu ức vạn năm sau khi ta nhập niết-bàn, sẽ ở chỗ tòa kim cương, dưới cây bồ-đề Long Hoa, trong vườn Hoa Lâm, thuộc nước của Chuyển luân thánh vương Nhương-khư, được thành Phật đạo, quay bánh xe diệu pháp. Năm trăm con thỏ khi ấy, nay là năm trăm Tỳ-kheo như: Ma-ha Ca-diếp, vân vân. Hai trăm năm mươi thần cây núi khi ấy, nay là hai trăm năm mươi Tỳ-kheo như: Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, vân vân. Một ngàn nhà vua khi ấy, nay là một ngàn Bồ-tát như: Bạt-đà-bà-la, vân vân. Những người dân được nghe kinh ở nước của nhà vua kia, nay là những đệ tử thọ pháp, đắc đạo trong khoảng từ khi ta xuất thế đến khi Phật Lâu-chí xuất thế.”
Đức Phật bảo Thức-can: “Bồ-tát cầu pháp, cần lao, khắc khổ, trải qua nhiều kiếp, không tiếc thân mạng. Tuy lại theo quả báo, nhận lấy thân súc sinh, nhưng luôn luôn có thể vì pháp mà không tiếc thân mạng, nhảy vào hố lửa, lấy thân cúng dường, khiến được vượt qua tội sinh tử trong chín trăm vạn ức kiếp. Vì vậy, được thành Phật đạo trước Di-lặc và trước vô lượng chư Phật như cát của con sông Hằng. Các ông cớ sao không siêng vì pháp?”
Khi Phật nói lời này, năm trăm phạm chí như: Thức-can, vân vân, xin Phật xuất gia. Đức Phật nói: “Hoan nghênh!” Râu tóc họ tự rụng, lập tức thành Sa-môn. Đức Phật nói pháp cho, họ khai ngộ, thông hiểu, trở thành A-la-hán. Tám vạn vị trời cũng phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Bấy giờ, đại chúng trong hội nghe lời Phật nói, mỗi mỗi khen ngợi việc Bồ-tát làm.
Xá-lợi-phất bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Lúc đó, vị tiên nhân kia nhảy vào hố lửa rồi, thì sinh ra ở nơi nào?”
Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: “Lúc đó, vị tiên nhân kia nhảy vào hố lửa rồi, sinh ra ở thế giới của Phạm Thiên, vì khắp tất cả, nói pháp đại thanh tịnh; cho đến thành Phật, quay bánh xe đại thanh tịnh. Kinh điển mà Ngài nói cũng tên là Từ Tam-muội Quang Đại Bi Hải Vân. Ngài chế ba-la-đề-mộc-xoa là: người không thực hành từ bi gọi là người phạm giới cấm, người ăn thịt đó phạm vào giới nặng, thân sau sinh ra ở chỗ thường uống nước đồng nóng. Đến khi vị tiên nhân kia được thành Phật thì giống như kinh Bồ-tát Di-lặc Hạ Sinh nói.” 
Tôn giả A-nan nghe lời Phật nói, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, mặc y để lộ một bên vai phải, gối phải chạm xuống đất, chắp tay, hướng về Phật, quỳ thẳng, bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Ngài Di-lặc thành Phật, giới pháp mà Ngài nói, chính là lấy tâm từ, chế giới không ăn thịt, ăn thịt phạm giới nặng. Thật kỳ lạ, đặc biệt!” Khi ấy, đại chúng trong hội, khác miệng đồng âm, đều cùng khen ngợi giới không ăn thịt của chúng sinh nước đó, nguyện sinh đến nước đó. Đức Thế Tôn thọ ký rằng tất cả sẽ được vãng sinh
Tôn giả A-nan lại bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nên gọi kinh này là gì? Thọ trì kinh như thế nào?”
Đức Phật bảo A-nan: “Cương yếu của pháp này gọi là Bồ-tát Thỏ Chúa Màu Trắng Không Tiếc Thân Mạng, Vì Đạo Vô Thượng; cũng gọi là Kinh Tiên Nhân Nhất Thiết Trí Quang MinhTâm Từ, Không Ăn Thịt. Như vậy mà thọ trì.”
Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo nghe lời Phật nói, hoan hỷ phụng hành.

Xem thêm sách:
https://thuvienhoasen.org/p19393a42081/an-chay-qua-lang-kinh-phat-giao-tam-dieu

blank



                      
Tạo bài viết
free website cloud based tv menu online azimenu
Thầy Chân Pháp Từ nói với tôi rằng đạo tràng Tâm Kim Cương do thầy đứng đầu, tổ chức pháp thoại vào chiều ngày thứ năm, và trung bình có khoảng 30, 40 người Việt trẻ tuổi tham dự.
Sáng ngày 5 tháng 5 năm 2025, đoàn chúng tôi theo chân TS Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch Công ty sách Thái Hà, đơn vị vừa xuất bản cuốn sách “Thánh đế Thánh đạo – Lời Phật dạy trực chỉ đến giải thoát” đến gặp riêng Đại lão Hòa thượng Tỳ kheo Bodhi, tác giả của chính cuốn sách này. Chúng tôi vô cùng hân hạnh và xúc động ngay từ khi chuẩn bị đi, khi đến nơi, lúc ngồi đợi, khi ngài bước ra gặp và trong quá trình bên Ngài.
Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, chư Phật tử và quý đồng hương hảo tâm Từ thiện. Hôm nay 29. April 2025 chúng con xin tiếp tục tường trình hình ảnh cứu trợ động đất Myanmar đợt 6. Sau thời gian cứu trợ thực phẩm, thuốc men, tiền bạc cho Chư Tăng Ni & người dân Miến mua nhu yếu phẩm, đến nay mọi thứ tạm ổn định Hội từ thiện chúng con tiếp tục chung tay với chư Tăng Ni cứu trợ tại Myanmar lo xây dựng những ngôi nhà tre nứa cho chư Tăng và người dân có chỗ trú ngụ, tu hành..