VỀ VIỆC DỊCH TAM TẠNG PALI SANG TIẾNG VIỆT
* Kinh Tiểu Bộ III (Trưởng lão tăng kệ, Trưởng lão ni kệ) - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch. * Kinh Tiểu Bộ IV (Chuyện Tiền thân, 1-120) - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch. * Kinh Tiểu Bộ V (Chuyện Tiền thân, 121-263) - Hòa thượng Thích Minh Châu và Giáo sư Trần Phương Lan dịch. * Kinh Tiểu Bộ VI (Chuyện Tiền thân, 264-395) - Hòa thượng Thích Minh Châu và Giáo sư Trần Phương Lan dịch. * Kinh Tiểu Bộ VII (Chuyện Tiền thân, 396-473) - Giáo sư Trần Phương Lan dịch. * Kinh Tiểu Bộ VIII (Chuyện Tiền thân, 474-520) - Giáo sư Trần Phương Lan dịch. * Kinh Tiểu Bộ IX (Chuyện Tiền thân, 521-539) - Giáo sư Trần Phương Lan dịch. * Kinh Tiểu Bộ X (Chuyện Tiền thân, 540-547) - Giáo sư Trần Phương Lan dịch. Làm việc trên nhiều bản dịch đối chiếu là một điều cần thiết đối với người nghiên cứu kinh điển Phật học. Ngoài ra sự hiểu rõ văn kinh để thực hành đúng đắn các kĩ thuật tu tập cũng rất cần thiết cho những người hành thiền. Ví dụ, trong kinh Quán Niệm Hơi Thở (Anàpànasati sutta) trích từ bản dịch của Tỳ Khưu Thích minh Châu, có đoạn: “…Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập…” Hầu hết các người thực hành quán niệm hơi thở đều căn cứ trên văn bản này và hiểu chữ “thân” (kàya) là toàn bộ thân thể vật lý của người hành thiền. Nhưng các thiền sư tại trường thiền Pa Auk, Myanmar lại có sự giải thích hoàn toàn khác về chữ “thân” (kàya) trong ngữ cảnh này: “Cảm giác toàn thân hơi thở tôi sẽ thở vào vị ấy tập. Cảm giác toàn thân hơi thở tôi sẽ thở ra, vị ấy tập.” Ở đây khi Đức Phật nói toàn thân có nghĩa là toàn bộ hơi thở từ đầu đến cuối. “Cảm giác toàn thân hơi thở ” tức là theo dõi được hơi thở ra- vào liên tục không gián đoạn từ đầu đến cuối. Hành giả chánh niệm được điểm đầu, điển giữa và điểm cuối của hơi thở. Nó không có nghĩa là hành giả cảm giác về toàn thân cơ thể.“Thân” ở đây không được hiểu là toàn thân cơ thể như tay, chân, đầu, mình v.v… Vì hành giả đang phát triển chánh niệm trên đề mục là hơi thở chứ không phải bất kỳ một đề mục nào khác. Vì vậy nếu hành giả cùng một lúc có hai đối tượng khác nhau,” Đây là một ví dụ cụ thể cho thấy ngay việc hiểu rõ từng danh từ Pali trong ngữ cảnh của nó cũng là điều rất quan trọng. Một số các “minh sư” liên tục công kích những người đặt nặng sự nghiên cứu kinh điển. Thưa, đây hoàn toàn không phải là vấn đề say mê chữ nghĩa, trích cú tầm chương, mà thực sự là vấn đề “sinh tử” của hành giả trên đạo lộ tu tập. Như vừa đề cập ở trên, việc không hiểu đúng ngữ nghĩa của một chữ “thân” (kàya) mà nhiều thế hệ đã bế tắc trên con đường tu tập! Việc dịch thuật Tam Tạng Pali, giảng giải kinh điển, bảo vệ chánh pháp v.v… là do công sức của nhiều người. Giáo pháp của Đức Phật cao siêu, không dễ tiếp thu, qua hàng ngàn năm nên có thể bị hiểu nhầm và giảng dạy sai lệch. Vậy, trong thời đại thông tin bùng nổ hiện nay, luôn cần phải có những phát hiện mới lạ, đúng đắn có tính chỉnh sửa để giúp làm khôi phục rõ ràng con đường tu tập theo đúng Chánh Pháp. Phạm Doãn |