KINH THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO
Thích Giải Hiền soạn dịch
CHƯƠNG VII: MƯỜI HÀNH VI
XÂY DỰNG HẠNH PHÚC NHÂN SANH
[Long Vương! Nhược ly sát sanh, tức đắc thành tựu thập ly não pháp. Hà đằng vi thập? Nhất, ư chúng sanh, phổ thí vô úy; Nhi thường ư chúng sanh khởi đại từ tâm; Tam, vĩnh đoạn nhất thiết sân nhuế tập khí. Tứ, thân thường vô bệnh. Ngũ, thọ mạng trường viễn. Lục, hằng vi phi nhơn chi sở thủ hệ. Thất, thường vô ác mộng, tẩm giác khoái lạc. Bát, diệt trừ oán kết, chúng oán tự giải. Cửu, vô ác đạo bố. Thập, mạng chung sanh thiên. Thị vi thập. Nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề giả, hậu thành phật thời, đắc Phật tùy tâm tự tại thọ mạng.] Đoạn kinh giới thiệu về lợi ích của không sát sinh. Trước khi giới thiệu lợi ích giới sát cần tìm hiểu rõ thế nào là sát sinh. Nhiều người đối với nội hàm của sát sinh không thể lý giải chính xác, hoặc cho rằng, động vật sanh ra là để cho con người ăn cho nên việc ăn thịt động vật là điều hiển nhiên, không có gì đáng phải suy tư cả, hoặc lại cho rằng cây cỏ cùng có sinh mệnh, nên ăn chay cũng là sát sanh, nên nếu không sát sanh để ăn thì con người làm sao mà sống. Quan điểm này có sai lệch, không chính xác.
Từ quan điểm của Phật, trâu, bò, dê, lợn. cũng như con người đều là chúng sanh trong lục đạo, chỉ khác nhau ở tầng thứ sanh mạng, nếu đời này chúng ta không biết chỉ ác hành thiện, không trồng nhân thiện, không tu nhân thiên thừa thì kiếp sau vẫn có thể bị đọa vào đường súc sanh. Phật giáo đem sanh mạng có cảm giác, có tư duy, có tình thức liệt vào hữu tình chúng sanh, còn cây cỏ thực vật liệt vào vô tình chúng sanh. Hành vi làm thương hại đến hữu tình sinh mạng đều thuộc về sát sinh.
Một vấn đề cần đề cập khác nữa là người học Phật có phải ăn chay không? Vấn đề này tuy trong ngũ giới không quy định rõ. Nhưng trong ngũ giới và thập thiện giới thì giới sát luôn đứng hàng đầu. Nếu biết dùng tâm bình đẳng để nhìn chúng sanh thì mới căn bản đoạn nghiệp sát được. Còn khi đã là Phật Giáo Bắc Tông thì nhất định phải ăn chay vì đó là truyền thống được truyền thừa từ nghìn đời. Còn đối với Phật giáo nam Tông thì ăn ngũ tịnh nhục. Không bảo giết, không thấy giết, không nghe giết, con vật tự chết, động vật khác ăn còn sót lại.
Sát sinh được định nghĩa là hành vi ác tâm đoạn trừ sanh mệnh hữu tình, và hội đủ bốn điều sau thì sẽ tạo thành sát nghiệp.
[Long Vương! Nhược ly sát sinh, tức đắc thành tựu thập ly não ác, hà đẳng vi thập] Phật bảo Long Vương nếu viễn ly các hành vi sát sinh trên thì có thể thành tựu mười loại thiện pháp viễn ly phiền não cũng chính là đạt được mười loại kết quả an vui, hạnh phúc của nhân sanh. Mười kết quả ấy là:
[Thị vi thập, nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề giả, hậu thành Phật thời, đắc Phật tùy tâm tự tại thọ mạng] nếu đem công đức tu tập thập thiện hồi hướng vô thượng Phật quả. Như trên đã nói, nếu không sát sanh thì bất kể đối với sự tu dưỡng của tự thân hay sự phát triển sanh mạng ở tương lai đều có lợi ích rất lớn.
[Phục thứ Long Vương, nhược ly thâu đạo, tức đắc thập chủng khả bảo tín pháp. Hà đẳng vi thập? Nhất giả, tư tài doanh tích, vương, tặc, thủy hỏa cập phi ái tử, bất năng tán diệt. Nhị đa nhân ái niệm. Tam, nhân bất khi phụ. Tứ, thập phương tán mỹ. Ngũ, bất ưu tổn hại. Lục, thiện danh lưu bố. Thất, xử chúng vô úy. Bát , tài mệnh sắc lực an lạc, biện tài cụ túc vô khuyết. Cửu, thường hoài thí ý. Thập, mạng chung sanh thiên. Thị vi thập. Nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề giả, hậu thành Phật thời, đắc chứng thanh tịnh đại Bồ Đề trí]. Đoạn kinh văn giới thiệu mười lợi ích của không trộm cướp.
Thâu đạo là không cho mà lấy, là giới thứ 02 trong 05 giới. Phàm chiếm làm của mình những vật mà chủ nhân chưa cho đều thuộc về trộm cướp, như: lừa gạt, cưỡng đoạt, trộm cắp, cướp, chiếm đoạt… Phải đầy đủ 05 điều kiện sau mới tạo thành nghiệp lực của trộm cướp. Một cố ý khởi tâm trộm, hữu ý trộm cướp mà không phải là vô tâm, hai đồ đạc thuộc của người khác mà không phải của chính mình, nếu lấy đồ của chính mình không còn gọi là trộm cướp nữa, ba biết rõ là của người khác vẫn rắp tâm chiếm đoạt đây chính là hành vi lừa gạt. Bốn đã có động cơ và sự sắp đặt kế hoạch trộm cướp từ trước như kế hoạch thực hiện, cương lĩnh hành động. Năm không phải lấy nhầm. Đủ năm điều kiện trên sẽ tạo nên nghiệp trộm cướp.
[Phục thứ, Long Vương! Nhược ly thâu đạo, tức đắc thập chủng khả bảo tín pháp. Hà đẳng vi thập?] Phật nói Long Vương rằng nếu xa rời hành vi trộm cướp sẽ đạt được mười loại kết quả cuộc sống được người tin tưởng.
[ Nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam miệu Tam Bồ Đề giả Hậu thành Phật thời, đắc chứng thanh tịnh đại bồ đề trí ]
Như trên đã nói mười công đức lợi ích trong đời sống hiện tại, và lợi ích ở kiếp sau của hành vi thiện không trộm cướp. Nếu biết đem công đức ấy hồi hướng vô thượng Phật quả, chính là lấy bồ đề tâm để thực hiện tịnh giới không trộm cướp, thì khi thành Phật sẽ chứng đắc trí tuệ Bồ đề thanh tịnh không ô nhiễm.
[ Phục thứ Long Vương! Nhược ly tà hạnh, tức đắc tứ chủng tối sổ tán pháp. Hà đẳng vi tứ? Nhất, chư căn điều thuận. Nhị vĩnh ly huyên trạo. Tam, thể sở xưng tán. Tứ, thê mạc năng xâm. Thị vi tứ. Nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam Miêu Tam Bồ Đề giả, hậu thành Phật thời, đắc Phật trượng phu ẩn mật tàng tướng ]
Tà hạnh là mối quan hệ nam nữ không được pháp luật của đất nước và đạo đức xã hội thừa nhận còn gọi là tà tâm. Tà hạnh chủ yếu do bốn nhân tố cấu thành. Một phi cảnh, hành vi tà dâm nam nữ ngoài quan hệ vợ chồng được pháp luật công nhận đều thuộc về tà dâm. Hai phi đạo, hành vi giao cấu không bằng bộ phận sinh dục thông thường mà bằng bộ phận khác cũng thuộc về tà dâm. Ba phi thời, quan hệ khi có mang thai, khi giữ giới… đều thuộc về tà dâm. Bốn phi xứ, những nơi tôn nghiêm chùa viện, Phật tháp… mà quan hệ đều thuộc về tà dâm.
[ Phục thứ, Long Vương! Nhược ly tà hạnh, tức đắc tứ chủng trí sở tán pháp. Hà đẳng vi tứ? ] Đức Phật bảo Long Vương: Nếu viễn ly tà dâm thì sẽ được bốn loại lợi ích được người trí xưng tán ca ngợi là:
[ Nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề giả, Hậu thành Phật thời đắc Phật trượng phu ẩn mật tàng tướng ]. Người phát tâm hồi hướng công đức ấy đến đạo quả Bồ Đề thì sau khi thành Phật sẽ có được tướng tốt thứ 32 của Phật chính là tướng mã Âm tàng.
[ Phục thứ, Long Vương! Nhược ly vọng ngữ tức đắc bát chủng thiên sở tán pháp. Hà đẳng vi bát? Nhất, khẩu thường thanh tịnh ưu bát hoa hương. Nhị, vi chư thể gian chi sở tín phục. Tam, phát ngôn thành chứng , nhân thiên kính ái. Tứ, thường dĩ ái ngữ, an ủy chúng sanh. Ngũ, đắc thắng ý lạc, tam nghiệp thanh tịnh. Lục, ngôn vô ngộ thất tâm thường hoan hỷ. Thất, phát ngôn tôn trọng, nhân thiên phụng hành. Bát, trí tuệ thù thắng, vô năng chế phục, thị vi bát. Nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề giả, hậu thành phật thời, tức đắc Như Lai chân thật ngữ ].
Vọng ngữ là lời nói không chân thât. Trong Phật Giáo vọng ngữ lại có đại vọng ngữ, tiểu vọng ngữ, phương tiện vọng ngữ. Đại vọng ngữ là tuy chưa chứng đắc thánh quả nhưng vì lợi dưỡng, danh tiếng... mà mạo xưng mình đã chứng đắc. Phương tiện vọng ngữ tức vì cứu độ, giúp đỡ, an ủi chúng sanh mà đành phải nói sai với sự thật nhưng phải trên nguyên tắc là vì chúng sanh chứ không phải vì lợi ích của bản thân. Còn lại các hình thức nói sai sự thật khác đều thuộc tiểu vọng ngữ.
Vọng ngữ ngoài sự khác biệt về thuộc tính ra, lại còn khác biệt về phương thức như dùng lời gian dối lừa người, dùng văn tự bóp méo sự thật, hoặc bôi nhọ, hoặc ám chỉ để đưa đến sự nhận biết sai lạc, hoặc mượn lời người khác để đạt được mục đích lừa dối. Bất kể là dùng hình thức nào nếu cố ý để đạt được mục đích lừa gạt người khác đều là vọng ngữ.
Nghiệp vọng ngữ được xác lập khi hội đủ bốn yếu tố sau:
[ Phục thứ Long Vương! Nhược ly vọng ngữ, tức đắc bát chủng thiên sở tán pháp. Hà đẳng vi bát? ]. Đức Phật bảo Long Vương nếu xa lìa vọng ngữ sẽ thành tựu tám loại thiện pháp trời người xưng tán là:
6. “Lục, ngôn vô ngộ thất, tâm thường hoan hỷ”. Người không vọng ngữ thường có thể nói rõ suy tư của mình một cách trực tiếp rõ ràng khiến cho người nghe dễ dàng lĩnh hội được ý kiến của mình và sanh tâm hoan hỷ.
7. “Thất, phát ngôn tôn trọng, nhân thiên phụng hành”. Người không vọng ngữ lời nói luôn được mọi người tôn trọng, hoan hỷ tiếp nhận và theo đó để thực hiện vì lời nói của họ luôn có uy tín với người khác.
[ Thị vi bát, nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề giả, hậu thành Phật thời, tức đắc Như Lai chân thật ngữ ]
Trên đây là tám loại thiện báo mà người xa rời vọng ngữ sẽ có được. Nếu dùng Bồ Đề tâm giữ giới không vọng ngữ rồi đem tất cả công đức giữ giới ấy hồi hướng về Phật quả trong tương lai khi viên mãn vô thượng Bồ Đề thì sẽ thành tựu chân thật ngữ như chư Phật.
[ Phục thứ, Long Vương! Nhược ly lưỡng thiệt, tức đắc ngũ chủng bất khả hoại pháp. Hà đẳng vi ngũ? Nhất, đắc bất hoại thân, vô năng hại cố. Nhị, đắc bất hoại quyến thuộc, vô năng bạt cố. Tam, đắc bất hoại tín, thuận bổn nghiệp cố. Tứ, đắc bất hoại pháp hành, sở tu kiên cố cố. Ngũ, đắc bất hoại thiện tri thức, bất cuống hoặc cố. Thị vi ngũ, nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề giả, hậu thành Phật thời, đắc chánh quyến thuộc, chư ma ngoại đạo bất năng trở hoại ]
Lưỡng thiệt là những lời nói tạo điều thị phi, gây sự ly gián phá hoại sự đoàn kết, hòa hợp giữa mọi người và đoàn thể. Như tới người A nói chuyện người B, để tạo sự mâu thuẫn giữa hai người, tạo sự nghi vấn thậm chí dẫn đến sự tranh đấu giữa họ để đạt được mục đích không thể cho người khác biết của mình, cũng có người chỉ vì tính nhiều chuyện của mình mà tạo nên sự mâu thuẫn, thị phi làm tổn người mà cũng chẳng lợi gì cho mình.
Tạo nghiệp lưỡng thiệt phải hội đủ bốn yếu tố sau:
[ Nhược ly lưỡng thiệt đắc ngũ chủng bất khả hoại pháp, hà đẳng vi ngũ ]. Lưỡng thiệt sẽ phá vỡ mối quan hệ hòa hợp giữa người với người. Ngược lại không lưỡng thiệt sẽ đem đến lợi ích cho tha nhân và thành tựu nên quả lành là những gì chúng ta làm không bị người khác phá hoại. Đức Phật bảo với Long Vương rằng xa lìa lưỡng thiệt sẽ có được năm thiện pháp bất hủy hoại là:
[ Thị vi ngũ. Nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề giả, hậu thành Phật thời, đắc chánh quyến thuộc, chư Ma ngoại đạo bất năng trở hại ]. Nếu dùng Bồ đề tâm để tu bất lưỡng thiệt còn đem công đức lợi ích đó hồi hướng về vô lượng Phật quả, trong tương lai sau khi thành Phật sẽ được quảng đại vô biên quyến thuộc giúp đỡ hoằng pháp, khiến cho ma quỷ và ngoại đạo có tâm muốn hại cũng không làm được.
[ Phục thứ, Long Vương! Nhược ly ác khẩu, tức đắc thành tựu bát chủng tịnh nghiệp. Hà đẳng vi bát? Nhất ngôn bất quai độ, nhị ngôn giai lợi ích, tam ngôn tất khế lý, tứ ngôn từ mỹ diệu, ngũ ngôn khả thừa lĩnh, lục ngôn tắc tín dụng, thất ngôn vô khả cơ, bát ngôn tận ái lạc. Thị vi bát. Nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam miệu Tam Bồ Đề giả, hậu thành Phật thời, cụ túc Như Lai phạm âm thanh tướng].
Đoạn kinh văn giới thiệu tám loại lợi ích mà người không ác khẩu có được. Ác khẩu còn gọi là lời thô ác. Những lời nói nhằm phỉ báng, công kích, chê bai, bới móc làm tổn hại người khác đều thuộc phạm trù ác khẩu.
Nghiệp ác khẩu được tạo thành khi hội đủ bốn yếu tố sau:
[ Phục thứ, Long Vương! Nhược ly ác khẩu, tức đắc thành tựu bát chủng tịnh nghiệp. Hà đẳng vi bát]. Phật Bảo Long Vương nếu người xa lìa hành vi ác khẩu có thể thành tựu tám loại thiện nghiệp thanh tịnh:
[Thị vi bát. Nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam miệu Tam Bồ Đề giả, hậu thành Phật thời, cụ túc Như Lai phạm âm thanh tướng]. Phạm âm thanh tướng là một trong ba mươi hai tướng tốt của Phật, chỉ cho âm thanh của Phật có năm tướng thanh tịnh là chính chực, hòa nhã, rõ ràng, tròn đầy, vang xa. Đó là tám loại lợi ích mà người xa lìa ác khẩu có được. Nếu biết đem tất cả công đức ấy hồi hướng vô thượng Phật quả thì sau khi thành Phật sẽ đầy đủ tướng phạm âm vi diệu viên mãn như chư Phật.
[Phục thứ, Long Vương! Nhược ly ỷ ngữ, tức đắc thành tựu tam chủng quyết định. Hà đẳng vi tam? Nhất, định vi trí nhân sở ái; nhị, định năng dĩ trí như thật đáp vấn; tam, định ư nhân thiên uy đức tối thắng, vô hữu hư vọng. Thị vi tam. Nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam miệu Tam Bồ Đề giả, hậu thành Phật thời, tức đắc Như Lai chư sở thọ ký, giai bất đường quyên].
Ỷ ngữ còn gọi là tạp uế ngữ, tức là những lời nói nhiễm ô, còn gọi là vô nghĩa ngữ, chỉ cho những lời tán gẫu vô nghĩa. Những lời nói này không có ích lợi gì cho việc tu tâm dưỡng tính, thậm chí còn đem đến những ảnh hưởng không tốt, làm tăng trưởng sự phiền não vô minh của chúng ta.
Nghiệp ỷ ngữ được tạo nên khi hội đủ hai yếu tố sau:
[Phục thứ, Long Vương! Nhược ly ỷ ngữ, tức đắc thành tựu tam chủng quyết định]. Đức Phật bảo Long Vương nếu trong quá trình tu tập có thể xa lìa ỷ ngữ thì sẽ thành tựu ba loại lợi ích quyết định.
[Thị vi tam. Nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam miệu Tam Bồ Đề giả, hậu thành Phật thời, tức đắc Như Lai chư sở thọ ký, giai bất đường quyên]. Trên đây là ba loại công đức mà người không ỷ ngữ có được. Nếu trên cơ sở của phát Bồ Đề tâm mà tu tập không ỷ ngữ thì trong tương lai sau khi thành Phật bởi do công đức của không ỷ ngữ mới có thể như Phật mà thọ ký cho chúng sinh. Thọ ký là lời dự ngôn mà Đức Phật nói với những chúng sinh phát đại tâm lớn như trải qua thời gian bao lâu, ở tại chỗ nào sẽ được thành Phật.
[Phục thứ, Long Vương! Nhược ly tham dục, tức đắc thành tựu ngũ chủng tự tại. Hà đẳng vi ngũ? Nhất, tam nghiệp tự tại, chư căn cụ túc cố; nhị, tài vật tự tại, nhất thiết oán tặc bất năng đoạt cố; tam, phước đức tự tại, tùy tâm sở dục vật giai bị cố; tứ, vương vị tự tại, trân kì diệu vật giai phụng hiến cố; ngũ, sở hoạch chi vật, quá bổn sở cầu bách bội thù thắng, do ư tích thời, bất xan tật cố. Thị vi ngũ. Nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam miệu Tam Bồ Đề giả, hậu thành Phật thời, tam giới đặc tôn, giai cộng kính dưỡng].
Tham dục là một trong ba độc làm tổn hại đến thân tâm của chúng hữu tình, ngoài tham dục còn có sân hận và si mê. Tất cả phiền não đều nơi đây mà phát sinh, cũng là ba hình thức biểu hiện của ba loại phiền não gọi là căn bản phiền não. Phiền tức là ưu, não tức là loạn, vì phiền não làm ưu loạn sự bình tĩnh của nội tâm chúng ta, khiến cho chúng ta không được yên ổn. Còn gọi là tam bất thiện căn, tức là ba loại nhân được phát sinh từ pháp bất thiện.
Tham dục chủ yếu được biểu hiện ở tham trước và chiếm hữu. Là phàm phu thường có sự biểu hiện của ý muốn chiếm hữu rất mãnh liệt, không chỉ là sự chiếm hữu về bốn phương diện ăn, mặc, ở, đi lại mà còn muốn chiếm hữu trên phương diện địa vị, danh lợi, chiếm hữu các loại hưởng lạc trên thế gian. Sự chiếm hữu này xuất phát từ nơi tâm tham trước, biểu hiện rõ nhất nơi thân thể của chúng ta. Từ khi chúng ta có mặt ở đời, hầu như luôn bận rộn cho nhu cầu ăn, mặc, ở, ngủ của bản thân mà lao công nhọc trí.
Trong Phật giáo còn đề cập đến ngũ dục, đó là tài, sắc, danh, thực, thùy và sắc, thanh, hương, vị, xúc. Sắc dục là ham muốn của mắt thấy đối với đối tượng như phong cảnh, người đẹp. Thanh dục tức là ham muốn của lỗ tai đối với âm thanh như lời xưng tán hoặc âm nhạc. Hương dục là sự ham muốn của lỗ mũi đối với khí vị. Vị dục là ham muốn của lưỡi khi nếm các vị. Xúc dục là sự tiếp thọ của thân thể đối với hoàn cảnh. Trong đời sống con người thường say đắm và truy cầu trong ngũ dục. Tuy ăn, mặc, ở, đi lại đều là nhu cầu tất yếu của cuộc sống nhưng lòng ham muốn thường không có điểm dừng. Khi những nhu cầu thiết yếu căn bản đã được đầy đủ, chúng ta lại muốn đến các điều kiện cao cấp hơn, mặc đẹp hơn, sang hơn, ở rộng hơn, hào hoa hơn và cứ như vậy, con người say đắm trong những ham muốn không ngừng ấy.
Sự ham muốn về ngũ dục của mỗi người lại khác nhau, có người nặng về tiền tài, lại có người ham mê sắc đẹp, người khác lại say đắm với danh vọng, tiếng tăm, có người lại mê ăn, người khác thì mê ngủ. Nhưng ngũ dục vốn không phải hoàn toàn sanh ra đã có sẵn mà phần nhiều được nuôi dưỡng lớn mạnh từ trong cuộc sống hằng ngày.
[Phục thứ, Long Vương! Nhược ly tham dục, tức đắc thành tựu ngũ chủng tự tại. Hà đẳng vi ngũ?]. Phật bảo Long Vương nếu rời xa tham dục thì có thể thành tựu được năm loại tự tại. Thế nào gọi là tự tại? Đó chính là tâm tưởng sự thành, không vướng không bận. Thông thường người ta cho rằng hạnh phúc đều đặt cơ sở trên dục vọng, khi dục vọng được đáp ứng đầy đủ thì sẽ cảm thấy khoái lạc hạnh phúc, nếu không được đầy đủ thì sẽ cảm thấy đau khổ thất lạc. Đó chính là bị ngũ dục ràng buộc làm cho đời sống không được tự tại.
Trong kinh có nói: “tu huệ bất tu phước, La Hán thác không bác; tu phước bất tu huệ, hương tượng quải anh lạc”. Trong Phật giáo phước huệ phải song tu thì mới có thể viên thành Phật quả.
[Thị vi ngũ. Nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam miệu Tam Bồ Đề giả, hậu thành Phật thời, tam giới đặc tôn, giai cộng kính dưỡng]. Nếu biết đem đức hạnh của bất tham dục hồi hướng về vô thượng Phật quả thì sau khi thành Phật sẽ được chúng sinh trong tam giới kính trọng.
[Phục thứ, Long Vương! Nhược ly sân nhuế, tức đắc bát chủng hỉ duyệt tâm pháp. Hà đẳng vi bát? Nhất, vô tổn não tâm; nhị, vô sân nhuế tâm; tam, vô tránh tụng tâm; tứ, nhu hòa chất trực tâm; ngũ, đắc thắng giả từ tâm; lục, thường tác lợi ích, an chúng sanh tâm; thất, thân tướng đoan nghiêm, chúng cộng tôn kính; bát, dĩ hòa nhẫn cố, tốc sanh phạm thế. Thị vi bát. Nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam miệu Tam Bồ Đề giả, hậu thành Phật thời, đắc vô ngại tâm, oán giả vô yểm].
Sân nhuế cũng là một trong tam độc. Tác dụng của nó ngược với tham dục. Tham dục tức là chiếm hữu cái mình muốn, còn sân nhuế thì phá bỏ cái mình không ưa. Phẫn nộ là hình thức biểu hiện của sân nhuế như một lời nói không thích hợp tạo nên sự tranh chấp, đôi khi dẫn đến sự thù hận làm ảnh hưởng rất lớn đến tâm linh của mỗi người. Nên sự thù hận thường đem đến tổn hại to lớn nhất là cho chính mình. Nếu đem điều ấy đến với người khác thì sẽ tạo nên sự tổn hại cho tha nhân.
Lòng đố kị cũng là một hình thức biểu hiện của sân nhuế. Không vui với thành tựu của người khác nên tìm cách cản trở. Đối trị với phiền não này, Phật giáo dạy phải lấy tâm tùy hỉ, tức là vui với sự thành tựu của người khác, tùy hỉ với công đức của người khác.
[Phục thứ, Long Vương! Nhược ly sân nhuế, tức đắc bát chủng hỉ duyệt tâm pháp. Hà đẳng vi bát?] Phật bảo Long Vương nếu rời xa sân nhuế thì sẽ được sự an ổn thân tâm, sự định tĩnh và tán tâm hỉ duyệt.
[Thị vi bát. Nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam miệu Tam Bồ Đề giả, hậu thành Phật thời, đắc vô ngại tâm, oán giả vô yểm]. Nếu lấy công đức của sự tu tập không sân nhuế hồi hướng về vô thượng Phật quả thì trong tương lai sau khi thành Phật sẽ được tâm vô chướng ngại, khiến cho người thấy đều sanh tâm hoan hỉ không oán ghét.
[Phục thứ, Long Vương! Nhược ly tà kiến, tức đắc thành tựu thập công đức pháp. Hà đẳng vi thập? Nhất, đắc chân thiện ý lạc, chân thiện đẳng lữ; nhị, thâm tín nhân quả, ninh xả thân mạng chung bất tác ác; tam, duy quy y Phật, phi dư thiên đẳng; tứ, trực tâm chánh kiến, vĩnh ly nhất thiết kiết hung nghi vọng; ngũ, thường sanh nhân thiên, bất cánh ác đạo; lục, vô lượng phước tuệ, chuyển chuyển tăng thắng; thất, vĩnh ly tà đạo, hành ư thánh đạo; bát, bất khởi thân kiến, xả chư ác nghiệp; cửu, trú vô ngại kiến; thập, bất đọa chư nạn. Thị vi thập. Nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam miệu Tam Bồ Đề giả, hậu thành Phật thời, tất chứng nhất thiết Phật pháp, thành tựu tự tại thần thông].
Tà kiến tức là nhận thức sai lầm về vũ trụ và nhân sanh. Kiến tức là nhận thức và cái nhìn. Tà kiến là ngược lại với chánh kiến, đó là một hình thức biểu hiện của vô minh. Nhận thức sai lạc với chân thật của vũ trụ, nhân sanh làm trở ngại cho sự tu hành giải thoát, cản trở mục đích hoàn thiện nhân cách. Ngược lại, nếu nhận thức tương ứng với chân lí và tương ứng với việc tu hành giải thoát thì đều thuộc về chánh kiến.
Trong đời sống hiện thực, tà tri và tà kiến đặc biệt thịnh hành. Nhiều người nhìn không thấy được đời sống ở quá khứ và vị lai nên đã không tin vào nhân quả, cho rằng người chết như đèn tắt, không có cái gì là báo ứng, cũng chẳng có luân hồi. Đây chính là tà kiến của rất nhiều tôn giáo, lại cho rằng người do thần linh sáng tạo, sau khi chết một là được sanh lên trời hưởng phước vĩnh viễn, hai là phải đọa xuống địa ngục vạn kiếp bất phục. Phật giáo cho đây đều là tà kiến. Cũng có nhiều người phủ định thánh hiền, không tin trong thế gian có sự khác biệt giữa người thánh và kẻ phàm, cho rằng trong cuộc sống dù làm thiện hay làm ác, chỉ cần khi nhắm mắt chôn xuống đất thì tất cả đều không còn. Đời sống con người dù có để lại điều chi đi chăng nữa, khi chết đều chỉ là không. Phật giáo cho đây cũng là tà kiến. Lại cũng có người cho rằng cuộc đời ngắn ngủi nên phải tranh thủ để mà hưởng lạc, có quyền có chức không biết hưởng thụ thì thật uổng phí, người không vì mình hưởng thọ hành lạc trời tru đất diệt, cũng là tà kiến. Tất cả đều vì không hiểu rõ được nhân quả của ba đời. Chúng ta nếu muốn được giải thoát, điều đầu tiên là phải xây dựng chánh kiến để diệt trừ vô minh. Nếu vô minh được diệt trừ tận gốc thì tà kiến cũng không còn, bởi vì vô minh chính là cội gốc của tà kiến. Người học Phật phải từ văn, tư, tu để làm nền tảng nhưng nhiều người đã bỏ qua yếu tố căn bản này.
Văn chính là sự học rộng, nghe nhiều và không ngừng tăng trưởng cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Bởi vì như vậy mới có thể thâm nhập nghĩa lí sâu xa của Phật Pháp. Không phải chỉ học mà còn phải thông qua con đường tư duy về kinh giáo để đem quan điểm của Phật Pháp thành quan điểm của tự thân và quán sát nó với các hiện tượng của thế gian, từ đó để chỉ đạo hành vi của bản thân. Tu tập như vậy mới phát sinh hiệu quả. Cho nên yếu tố then chốt của việc tu học chính là xây dựng chánh kiến và xa rời tà kiến.
[Phục thứ, Long Vương! Nhược ly tà kiến, tức đắc thành tựu thập công đức pháp. Hà đẳng vi thập?]. Đức Phật bảo Long Vương nếu xa rời được tà kiến thì sẽ thành tựu được mười thiện pháp.
[Thị vi thập. Nhược năng hồi hướng A Nậu Đa La Tam miệu Tam Bồ Đề giả, hậu thành Phật thời, tất chứng nhất thiết Phật Pháp, thành tựu tự tại thần thông]. Nếu đem công đức thiện quả không tà kiến hồi hướng Phật quả vô thượng thì khi thành Phật sẽ chứng được chứ pháp thập tướng, thành tựu được thần thông vô ngại. Chúng ta sở dĩ không thể chứng đắc được chân đế của vũ trụ nhân sanh là vì sự chướng ngại của kiến hoặc trên con đường tu tập. Hai chướng ngại kiến hoặc và tu hoặc sẽ làm trở ngại trên con đường tu chứng. Kiến hoặc tức là sự sai lầm về nhận thức làm chướng ngại cho sự nhận thức của chúng ta về vũ trụ nhân sanh và chướng ngại cho sự chứng đắc về chân lí.
[Thành tựu tự tại thần thông]. Viễn ly tà kiến không những có thể chứng đắc được thật tướng của chư pháp mà còn có thể chứng đắc được thần thông tự tại vô ngại, đạt được sự giải thoát tự do triệt để. Từ quan điểm của Phật Pháp, tự do được thể hiện trên hai phương diện, một là tâm giải thoát không có bất cứ phiền não nào, đó là sự tự do của nội tại tâm linh; hai là tuệ giải thoát, tức là thấu triệt được thật tướng của vũ trụ nhân sinh, đó chính là tự do trong tư tưởng nhận thức. Từ trên ý nghĩa này, thấy rằng nếu như con người vẫn còn phiền não nội tâm thì không thể nói đến sự tự do chân chánh được.
Từ những lợi ích của việc tu tập thập thiện nghiệp đạo, chúng ta thấy rằng tu tập thập thiện sẽ đem đến lợi ích trong đời sống, không những là hạnh phúc trong đời sống hiện tại mà bao gồm cả hạnh phúc trong đời sống vị lai. Ngược lại, nếu không tu thiện nghiệp mà tạo ác nghiệp thì đó chính là căn nguyên của mọi đau khổ trong đời sống nhân sanh.