Chương Thứ Bảy Phật Thuyết Minh Tánh Của Các Đại Vốn Không Ngăn Ngại Gì Nhau, Nhằm Khi Thị Chơn Lý : Sắc Không, Không Sắc

23/03/201112:00 SA(Xem: 16002)
Chương Thứ Bảy Phật Thuyết Minh Tánh Của Các Đại Vốn Không Ngăn Ngại Gì Nhau, Nhằm Khi Thị Chơn Lý : Sắc Không, Không Sắc

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM GIẢNG GIẢI
SURAMGAMA SUTRA
Lê Sỹ Minh Tùng
Cuốn Một

Chương Thứ Bảy PHẬT THUYẾT MINH TÁNH CỦA CÁC ĐẠI
VỐN KHÔNG NGĂN NGẠI GÌ NHAU, NHẰM KHI THỊ CHƠN LÝ : SẮC KHÔNG, KHÔNG SẮC


Bấy giờ Ngài Phú Lâu Na Di La Ni Tử ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy quỳ gối chắp tay cung kính bạch Phật rằng :


- Thế Tôn khéo vì chúng sinh mà diễn bày đệ nhất nghĩa đế. Từ lâu Thế Tôn thường khen con là thuyết pháp đệ nhất trong hàng người thuyết pháp. Vậy mà nay con nghe pháp âm nhiệm mầu Như Lai vừa dạy chẳng khác nào người điếc cách xa trăm bước lắng nghe tiếng muỗi mòng. Muỗi mòng còn không thấy còn nói gì đến chuyện nghe. Dù Phật dạy rõ ràng, nhưng chưa hiểu rốt ráo làm tâm con nghi hồ mơ hoặc. Như các Ngài A Nan, vì họ tuy đã khai ngộ nhưng tập lậu chưa trừ. Còn chúng con là những người đã được vị vô lậu trong chúng hội, mọi tập lậu đã sạch, nhưng khi nghe Như Lai thuyết pháp này, sao chúng con vẫn còn bối rối , nghi ngờ hối hận?


Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả các thứ : 5 ấm, 12 xứ, 18 giới và 7 đại trong thế gian đều là hiện tượng biểu hiện xuất phát từ tánh thanh tịnh bản nhiên của Như Lai Tạng, vậy thì tại sao Như Lai Tạng bỗng nhiên lại sanh các tướng hữu vi vô thường vận động thay đổi trước sau, vô cùng vô cực như thế?


Bạch Thế Tôn! Như Lai cũng đã từng nói : Địa, thủy, hỏa, phong bốn đại bản tánh viên dung, khắp cùng khắp giới, vắng lặng thường trú. Bạch Thế Tôn! Nếu địa đại cùng khắp thì làm sao dung được thủy đại?


Nếu thủy đại cùng khắp thì làm sao hỏa đạiđiều kiện phát sinh? Làm sao có thể hiểu biết được rằng : Thủy đạihỏa đại đều cùng khắp pháp giới mà không đối kháng hủy diệt nhau? Bạch Thế Tôn! Tánh địa đại thì ngăn ngại, tánh hư không là rỗng suốt, làm sao có sự kiện hai đại đồng khắp cùng trong một bầu pháp giới? Con không biết nghĩa ấy là thế nào. Xin Phật rủ long từ, vén mây mê lầm cho con và đại chúng. Nói lời ấy rồi, tôn giả Phú Lâu Na năm vóc gieo xuống đất, kính mong lời dạy từ bi vô thượng của Đức Như Lai.


Sau khi Đức Phật đã thu ngũ uẩn, lục nhập, thập nhị xứ, thập bát giớithất đại về Như Lai Tạng bản thể tức là tánh thanh tịnh bản nhiên thì các vị có căn cơ Đại thừa đều nhận rõ tâm tính viên mãn sáng suốt. Duy chỉ có các vị trong hàng Thanh văn tuy đã phá được chấp ngã, nhưng vẫn còn chấp pháp nên không thấu rõ cái chơn đối với cái vọng mà chưa lãnh hội được. Vì thế Ngài Phú Lâu Na đại diện các vị định tánh A la hán mà hỏi Phật hai điều như sau :


1) Tại sao trong Như Lai Tạng tánh vốn thanh tịnh bản nhiên bỗng dưng lại chuyển biến sinh ra những hiện tượng hữu vi như như núi, sông, đất, liền…?


Sự thật, tất cả hiện tượng vạn pháp đều cùng chung một bản thể : Như Lai Tạng. Từ trong Như Lai Tạng bản thể vận động, biến chuyển duyên khởi những chủng tử mà tạo tác, hình thành các loài hữu tình và vô tình chúng sinh. Hiện tượng này còn được gọi là bất biến tùy duyên của pháp giới duyên khởi.


2) Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến và thức thì trong bảy đại này tánh chất có đối kháng nhau. Thí dụ nước kỵ lửa kỵ, gió kỵ đất…Nếu thế, tại sao chúng có thể dung hợp được với nhau trong Như Lai Tạng mà không tương tàn, tương diệt?


Phật dạy rằng : ”Tánh sắc chơn không” nghĩa là tánh của sắc là không mà hư không thì bao trùm bao la vô cùng vô tận. ”Tánh không chơn sắc” nghĩa là trong hư không đã có đủ tất cả tánh chất của sắc hay nói chung của địa, thủy, hỏa, phong…, nhưng từ cái thể tánh thanh tịnh của hư không khi hội tụ đủ nhân duyên sẽ biến hiện thành ra sắc.


Tuy thủy đại đầy khắp hư không pháp giới tức là nơi nào trong không gian vô tận cũng đều chứa nước mà nước đâu có dập tắt lửa (hỏa đại) và nước cũng không làm ngập chìm cả thế gian nên Phật nói rằng : ”Tánh thủy chơn không”. Trong hư không tức là pháp giới không đại, vốn không phải nước (thủy đại) vậy mà trong không đại khắp đầy thủy đại. Do đó Phật mới dạy rằng : ”Tánh không chơn thủy”.


Hỏa đại cũng thế, lửa thì đầy khắp hư không mà không làm cháy nhà cửa, xe cộ, núi rừng hay vạn hữu thế gian. Vì vậy Phật mới nói : ”Tánh hỏa chơn không”. Trong hư không vốn không có lửa, nhưng khi chúng sinh cần thì lửa sẽ có trong hư không, cho nên Phật dạy rằng : ”Tánh không chơn hỏa”.


Nói tóm lại, tánh của các đại vốn không ngăn ngại gì nhau vì thế tuy trong hư không có đầy đủ các đại mà chúng không tương tàn, tương diệt vì các đại cùng chung một thể tánh. Đó là chơn không (bất biến).
Thế nào là định tánh A la hán?


Khi đã đọan trừ hết kiến hoặc, tư hoặcvi tế hoặc thì chứng được quả vị A la hán. Các vị A la hán tuy đã trừ được phiền não chướng, nhưng tri kiến chướng tức là vô minh thì chưa phá nổi. Niết bàn mà chư vị A la hán có chỉ là hóa thánh nghĩa là đây chỉ là tiểu Niết bàn chứ chưa phải là bảo sở Niết bàn tức là sự thanh tịnh, tịch diệt rốt ráo, hoàn toàn của các vị Bồ-tát, chư Phật. Nếu các vị A la hán muốn tiến tu để phát huy trí tuệ Đại thừahoàn thành Phật đạo thì gọi là Tuệ tánh A la hán. Còn nếu họ thỏa chí với quả vị A la hán mà không chịu tiến tu thì họ là Định tánh A la hán. Vì không chịu tiến tuphát tâm Bồ-đề mà chỉ muốn an hưởng Niết bàn cho riêng mình nên Đức Phật đã từng quở trách và gọi họ là mầm thối và hạt giống bị đốt cháy, không lợi ích cho chúng sinh.


Tôn giả Phú Lâu Na không biết nguyên nhân sanh khởi ra nhân sinh vũ trụ và không ngộ được chơn tánh viên dung nên không biết được sự diệu dụng của thế giới bản thểhiện tượng. Chỉ có Đức Thế Tôn là người đã đạt được Nhất Thiết Chủng Trí mới có thể thấu hiểu tận nguyên nhân sinh khởi của nó.


Tới đoạn kinh này, Đức Phật muốn khai thị một giáo lý thậm thâm vi diệu của nhà Phật. Đó là “sắc tức là không và không tức là sắc” nằm trong Bát nhã tâm kinh. Trong Phật giáo, danh từ sắc và không rất phổ thông khi nói về thế giới hiện tượngbản thể. Vậy thế nào là không?


Có ba thứ không, người đệ tử Phật cần nên để ý :


1) Cái “không” thứ nhất là rỗng không nghĩa là cái không này từ vô thỉ nó không có mà mãi về sau nó cũng chẳng có gì. Cái không rỗng toét này thì nhà Phật gọi là “ngoan không” và nó không dính dáng gì với cái không của nhà Phật.


2) Đương thể tức không : Khi con người hành thâm Bát nhã ba-la-mật-đa thời thì họ thấy rằng tất cả vạn pháp trong thế gian là giả tạm, không bền, không chắc, có đó rồi mất đó. Vì thế chothế gian vũ trụ vẫn sờ sờ trước mắt, nhưng dưới mắt của họ tất cả đều là không. Tại sao là không? Bởi vì vạn pháp là do nhân duyên tác tạo hình thành nên đến khi duyên tan thì nó sẽ hoại diệt. Vì thế sinh sinh diệt diệt, không có gì là trường cửu cả. Đó là tại sao ngày xưa Đức Phật tuy vẫn sống trong thế gian này, nhưng đối với Ngài thì tất cả đều là không nên Ngài mới có vô thượng Niết bànvô thượng Bồ-đề.


3) Cái không mà được dùng rộng rãi trong Bát nhã tâm kinh : ”Sắc tức là không và không tức là sắc” thì nhà Phật gọi là “chơn không” mà diệu hữu. Tất cả vạn pháp trong thế giới hữu vi như trời, trăng, mây, nước, chim bay, cá lặn mà con người nhận biết được thì gọi là có. Nhưng cũng trong cái thế giới vũ trụ bao la vô cùng vô tận này, cái mà con người không nhận thấy, biết được thì gọi là không. Mặc dù con người gọi nó là không, nhưng chính bên trong nó diệu hữu nghĩa là nó có tất cả những dữ kiện, những nguyên nhân, những chủng tử để khi hội đủ duyên thì nó sẽ biến thành cái có.

Nói cách khác cái có là cái mà mắt thấy được như núi, sông, trời, trăng, mây, nước. Còn cái không là cái mà mắt không thấy được. Nhưng thật sự trong cái không đó có chứa đầy đủ các chủng tử của vạn pháp, những yếu tố, những dữ kiện để khi hội đủ nhân duyên thì nó sẽ tổng hợp mà hình thành ra vạn pháp. Do đó cái không này chính là chơn không mà diệu hữu tức là bất biến tùy duyên nghĩa là khi tỉnh thì tất cả là không còn khi động thì mọi vật đều là có. Sự biến chuyển hình thành một cách huyền diệu này chỉ có thể dùng trí mà biết chớ không thể dùng mắt thường mà biết được.

Thí dụ không khí là vô hình vô sắc nên mắt thường không thấy được nên gọi nó là không. Nhưng khoa học ngày nay phân tích và xác định rằng trong không khí có chứa biết bao hóa chất như dưỡng khí oxygen, khí nitrogen, hơi nước và biết bao hóa chất khác. Nếu không có dưỡng khí oxygen thì làm sao con người và sinh vật sống được, nhưng đâu có ai thấy biết Oxygen ở chỗ nào? Cũng dựa trong thí dụ trên là trong không khí thì nơi nào cũng chứa rất nhiều hơi nước, nhưng mắt thường không thấy biết được hơi nước nên chúng ta một lần nữa gọi không khí là không. Nhưng bây giờ nếu nhiệt độ không khí giảm xuống và có tiếng sấm tức là luồng điện tạo ra phản ứng hóa học thì hơi nước sẽ chuyển thành mưa. Hơi nước là không mà khi hội đủ nhân duyên thì từ hơi nước (không) biến thành mưa tức là có. Vậy trong cái không có chứa tất cả những dự kiện như địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức. Nói cách khác trong không gian vũ trụ này thì chỗ nào cũng có địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại (nhận thức trực giác) và thức đại (nhận thức tư duy, phân biệt).


Vì trong không gian vô cùng vô tận có chứa đầy đủ địa đại. thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại và thức đại nên từ đó con người, sinh vật và vạn pháp mới được cấu tạo, hình thành một cách mầu nhiệm. Thí dụ như nước Việt Nam năm 1975 dân số chỉ có khoảng 20 triệu người, nhưng đến năm 2010 thì có gần 100 triệu. Nước Trung Hoa thì tăng từ bốn, năm trăm triệu đến ngoài 1.3 tỷ người. Ở Hoa Kỳ cũng thế, năm 1975 dân số chỉ có khoảng 200 triệu mà ngày nay sau 35 năm đã tăng lên trên 350 triệu. Nói chung khắp nơi trên thế giới, nước nào dân số cũng tăng vọt. Nếu lý luận theo tư tưởng thường kiến là khi một người chết thì linh hồn vẫn tồn tại để nhập vào và tái sinh thành một con người mới, vậy nếu có một triệu người chết mà lại sinh ra thêm 100 triệu người mới thì tư tưởng thường kiến giải thích hiện tượng này như thế nào? Linh hồn mới ở đâu mà nhập vào để tăng vọt dân số nhanh như vậy? Phật giáo hoàn toàn phủ nhận tư tưởng thường kiến vì không có một linh hồn nào tồn tại sau khi chết cả, hay nói cách khác trong Phật giáo không có cái gì gọi là linh hồn.

Cái mà con người lầm lẫn gọi là linh hồn thì thật ra chỉ là những chuỗi thức kết nối liên tục trong cuộc sống. Chuỗi thức cuối cùng trước khi chết sẽ kết nối với thức đầu tiên của đời sống mới và cứ như vậy mà tiếp diễn không ngừng từ đời này sang đời khác. Nhưng trong không gian, kiến đại và thức đại lúc nào và ở nơi nào cũng có, trùm khắp pháp giới, vì thế khi nhân duyên hội tụ đầy đủ dựa theo nghiệp lực của họ thì thất đại hòa nhập mà kiến tạo nên con người. Nói cách khác nếu có bao nhiêu con người sinh ra thì kiến đại, thức đại tác động vào mà kiến tạo để cho con người có đầy đủ kiến, văn, giác, tri. Kiến, văn, giác, tri là cánh cửa của lục căn (nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý) của con người tức là mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc, ý biết Lục căn chia làm 4 bộ : Kiến thuộc về mắt, văn thuộc về tai, giác thuộc về mũi, nếm thuộc về thân, tri thuộc về ý.

Trong Bát Nhã tâm kinh đã giải thích rõ ràng rằng : “sắc tức là không, không tức là sắc…thức tức là không, không tức là thức” vì thế thân xác (sắc) khi sống (tức) là không vì tự nó không có tự thể và khi chết thì cũng từ cái không ấy lại tác tạo để hình thành cái thân xác (sắc) khác. Thức cũng vậy khi sống thì thức (tức) là không vì thức là huyển hóa, không thật, nhưng khi chết rồi thì thức (không) trong không gian lại tác động vào thân xác mới để có đủ những đức tính thấy, nghe, hay, biết (thức) của một con người. Chỉ có tư tưởng thâm sâu trong kinh Lăng Nghiêm mới giúp chúng sinh thấu hiểu rõ ràng việc kiến tạo hình thành chẳng những cho con người mà còn áp dụng cho tất cả nhân sinh vũ trụ.

PHẬT CHỈ NGUỒN GỐC VỌNG TƯỞNG CỦA HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ


Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo ông Phú Lâu Na và các đại A la hán rằng :


- Nay Như Laiđại chúng chỉ bày tánh chơn thắng nghĩa trong thắng nghĩa, khiến cho hàng định tánh Thanh văn chưa được nhơn không và pháp không, hướng về Đại Thừa. Các ông hãy lắng nghe cho kỹ, tôi sẽ vì đại chúng mà nói. Phật dạy :


- Phú Lâu Na! Như ông vừa nói : Đã là bản nhiên thanh tịnh tại sao bỗng nhiên lại sinh ra ấm, nhập, xứ, giới núi sông đất liền sum la vạn tượng? Ông có nghe Như Lai đã từng dạy : ”Tánh giác là diệu minh, bản giác là minh diệu hay không?


- Bạch Thế Tôn! Con đã nghe, Phú Lâu Na thưa.


- Ý ông hiểu thế nào? Tánh giác tự minh mà gọi là giác hay tánh giác không minh phải dùng tánh minh để minh tánh giác?
Ngài Phú Lâu Na bạch với Phật :


- Bạch Thế Tôn! Tánh giác tự minh nên gọi là tánh giác diệu minh. Nếu tánh giác không minh thì còn lấy gì để gọi là minh tánh giác.
Phật dạy rằng :


- Đúng vậy. Phú Lâu Na! Nếu tánh giác không tự minh thì không lấy cái gì để minh tánh giác. Và nếu tánh giác là cái sở minh thì không còn gọi là tánh giác nữa. Vậy ông nên hiểu : Tánh giác vốn minh mà chúng sinh lầm tưởng phải nhờ cái minh để minh tánh giác. Sự thật tánh giác vốn không phải là cái sở minh. Nhân vì lầm tưởng mà tánh giác trở thành ra sở. Cái vọng về sở đã thành, tất cái vọng năng của ông. Nguồn gốc của vọng tưởng phát nguyên là như vậy.


Đức Phật muốn xiễn dương một chân lý mới mà các vị A la hán chưa thấu suốt. Thắng nghĩa còn được hiễu là liễu nghĩa. Dựa theo Thành Duy Thức luận, tất cả lời Phật dạy đều là thắng nghĩa, tuy nhiên trong các thắng nghĩa cũng có cao có thấp và được chia ra làm bốn loại :


1) Thế gian thắng nghĩa là phân tích ra 5 uẩn, 6 nhập, 12 xứ, 18 giới, 7 đại…


2) Đạo lý thắng nghĩa dạy về Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo).


3) Chứng đắc thắng nghĩa dạy về Nhị Không Chân Như nghĩa là phá trừ chấp ngã chấp pháp mà chứng được chân như.


4) Thắng nghĩa thắng nghĩa dạy về Nhất chân pháp giới tức là Đệ nhất nghĩa đếĐức Phật đang chỉ dạy trong đoạn kinh này.

 

Cũng trong Duy thức luận, có năm lớp quán, từ địa vị tư lương là :

Nải chí vị khởi thức
Cầu trụ duy thức cảnh
Ư nhị thủ tùy miên
Du vị năng phục diệt


Nghĩa là từ khi chúng sinh chưa biết tu hành đến khi tu theo duy thức mà vẫn còn hai món thủ trong tâm trí, chưa hóa giải hết được là năng thủ tức là chấp ngã đối với mình và sở thủ tức là quan niệm chấp pháp đối với vạn vật thì người tu như vậy gọi là tu “Du vị”.

 

Bài quán cho địa vị gia hành kế tiếp :


Hiện tiền lập thiểu vật
Vị thị duy thức tánh
hữu sở đắc cố
Phi thật trụ duy thức


Nếu người tu theo duy thức mà còn thấy có mục tiêu để mong đạt đến để viên thành Phật tánh của duy thức thì không bao giờ tu thành duy thức được vì lòng còn mong mỏi tức là tâm vẫn còn tham.

Bài quán thứ ba là :

Nhược thời ư sở duyên
Trí đô vô sở đắc
Nhỉ thời trụ duy thức
Ly nhị thủ tướng cố.


Nghĩa là khi nào chúng sinh nhìn sự vật hiện tượng vạn pháp (sở duyên) tức là đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì thấy, nghe, ngửi, biết tất cả mà như là không thấy biết gì hết thì mới tu thành tựu theo duy thức được bởi vì chính họ đã xa lìa được hai chấp: chấp ngãchấp pháp.

 

Bái quán thứ thư là :

Vô đắc bất tư nghì
Thị xuất thế gian trí
Xả nhị thô trọng cố
Tiện chứng đắc chuyển y.


Nghĩa là bất cứ chúng sinh nào mà tu hành đến chỗ không còn thấy mình chứng đắc gì hết thì người đó mới đạt được cái trí xuất thế gian. Nhưng thế nào là vô đắc? Trên phương diện tu hành, người đệ tử Phật làm tất cả điều thiện, lìa xa tất cả những điều ác mà thấy mình chả có chứng đắc, công đức, phước đức gì hết. Trên phương diện độ sanh, người đệ tử Phật độ cho tất cả chúng sinh mà thấy chẳng có chúng sinh nào được mình độ nghĩa là thi ân bất cầu báo vậy. Trong Bát nhã tâm kinh cũng xác định rằng : “Dĩ vô sở đắc cố” nghĩa là không có cái gì gọi là chứng đắc cả. Cái thanh tịnh Niết bàntrí tuệ Bồ-đề vốn đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh, nhưng vì bị vô minh che lấp nên con người không thấy biết vậy thôi. Nay nếu chúng sinh biết hồi đầu thị ngạn, quay thuyền trở lại bến xưa thì Niết bàn hiển lộ, Bồ-đề phát hiện chứ đâu có chứng đắc cái gì mà cầu với mong.


Hai câu sau nghĩa là nếu chúng sinh có thể lìa được hai chướng là phiền não chướngtri kiến chướng (thô trọng) thì có Niết bàn, có Bồ-đề. Nói cách là chúng sinh chuyển phiền não thành Niết bàn, chuyển vô minh, sinh tử thành trí tuệ Bồ-đề.

 

Bài quán thứ năm là :


Thử tức vô lậu giới
Bất tư nghì thiện tường
An lạc giải thoát thân

Đại mâu ni thanh pháp.

bài kệ sau cùng là :


Thử chư pháp thắng nghĩa

Diệc tức thị chân như

Thường như kỳ tánh cố

Tức duy thức thật tánh.


Sau cùng người đệ tử Phật hiểu thấu suốt được như vậy thì mới hiểu được thắng nghĩa tức là chân lý tột cùng của vạn pháp. Hiểu được như vậy cũng có nghĩa là hiểu được lý chân như, tánh thường như của vạn phápthật tánh của duy thức. Thật vậy, trong Đệ nhất nghĩa đế thì tất cả các pháp, dù thánh hay phàm, đều là bình đẳng bởi vì hiện tượng vạn pháp cùng chung một bản thể Như Lai Tạng.


Người đệ tử Phật nếu có niệm viễn ly để buông xả thì chính họ có được an vui, thanh thoảng và tự tại. Mà muốn đạt đến trình độ này thì họ phải phá chấp ngã và chấp pháp để có được nhơn không và pháp không. Nhơn không có nghĩa là thấy mình không thật nên không tham ái mà khổ vì thân. Còn pháp khôngnhận biết thế gian vũ trụ cũng là không thật, có đó rồi mất đó nên tâm không dính mắc. Khi chúng sinh đã có được nhân khôngpháp không rồi thì bây giờ chỉ có một con đường duy nhất để hoàng thành Phật đạonhất thừa Phật giáo cũng như trăm sông cùng đổ về biển lớn như Phật đã thuyết trong kinh Pháp Hoa.


Vậy thế nào là tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu?


Tất cả chúng sinh từ loài hữu tình đến vô tình đều có chung tự tánh thanh tịnh bản nhiên mà nhà Phật gọi là tánh giác. Tánh giác mà tác động vào con người thì gọi là Phật tánh, còn tác động vào các loài vô tình như cỏ cây, hoa lá thì gọi là Pháp tánh. Thế thì từ con người cho đến đất, nước, cây, cỏ, núi cao, rừng thẳm đều cùng có tự tánh thanh tịnh như nhau, không có cái gì gọi là tội lỗi, phiền não, khổ đau cả. Nguyên nhân mà có phiền não là do cái nhìn, thấy, biết chứa đầy vọng niệm mà nhìn với tâm phân biệt. Nói cách khác con mắt của mình là năng phân biệt để nhìn đối tượng là sở phân biệt. Đây chính là do vọng mà sinh ra năng và sở. Thí dụ như tất cả con người ai ai cũng đều là do thất đại hội tụ lại mà thành nghĩa là bất cứ con người nào cũng đều có địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức (thất đại) giống như nhau cho nên không có con người nào có tội lỗi hay phiền não chi cả.

Còn vạn pháp trong thế gian thì cũng được kết thành bởi địa, thủy, hỏa, phong, không (ngũ đại) thì đâu có cái gì tự nó có phiền não hay tội lỗi chi. Nhưng khi mắt thấy hoa đẹp, nhà sang, xe tốt làm tâm phân biệt mà có sự lấy hay bỏ, thích hay không thích, thương hay ghét. Đây là do vọng niệm phân biệt phát khởi và là nguyên nhân gây ra mọi phiền não, khổ đau của con người. Cái mà con người cho rằng tội lỗi xấu xa là do cái nhìn có vô minh, tham đắm của mình mà ra. Khi vọng niệm phát khởi phân biệt thì nhìn cái gì cũng mê, cũng thích, cũng muốn chiếm lấy thì đây chính là vẫn đục đeo trước con mắt khiến con người nhìn thế gian là bất toàn, khổ não. Nhưng nếu bây giờ lấy cái vẫn đục kia đi và cũng nhìn cái thế gian đó với tâm trong sáng, thanh tịnh thì cái tội lỗi khổ đau kia biến mất và thế giới biến thành an vui, cực lac. Vậy ai cột trói mình? Chính mình tự cột trói lấy mình, tự mình chuốc lấy bao hệ lụy của phiền não khổ. Bỏ vọng chấp thì có cuộc sống an vui tự tại nghĩa là tự mình không trói mình thì cần gì phải cởi trói.


Tánh giác vốn minh chớ không cần phải nhờ cái minh bên ngoài tức là sở minh để minh (nhận biết các sự vật của) tánh giác nghĩa là tánh giác vốn trong sáng thanh tịnh, thường diệu, thường minh nên gọi là tánh giác diệu minh. Nhưng khi con người lầm lẫn chạy theo vọng chấp nghĩa là sở minh bên ngoài để chuyển năng minh bên trong của mình mà có sự phân biệt để tạo nghiệp và tự trói mình trong sinh tử khổ đau. Khi chúng sinh biết hồi đầu thị ngạn, quay thuyền trở lại bến xưa thì tánh giác bây giờ trở thành bản giác nghĩa là giác tánh bản lai sẳn có của mình. Bản giác ấy thường minh và thường diệu, nhưng trong bản giác, minh và diệu luôn luôn hợp với nhau chớ không tách rời như trong lúc phát khởi vọng thức mê lầm ở trên. Vì thế mới gọi là bản giác minh diệu. Nói cách khác, Phật tánh có ba, đó là chánh nhân, duyên nhânliễu nhân. Trong mỗi chúng sinh, tánh mầu nhiệm sẳn có vốn tự viên thành, không nhờ vào công phu tu tập nên gọi là chánh nhân. Bây giờ, nếu chúng sinh phải nhờ minh sư, hay thiện tri thức khai phát thì Phật tánh mới hiện bày, đây là nhờ duyên khởi nên gọi là duyên nhân. Sau cùng nhờ công phu tu tập rồi mới ngộ nên gọi là liễu nhân. Do đó tánh giác diệu minh chính là Chánh Nhân Phật tánh. Còn bản giác minh diệu là Liễu Nhân Phật tánh vậy.


Đã là tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu thế nhưng tại sao con người có thể bị mất đi cái đó để rồi phải chuốc lấy phiền não khổ đau mà chìm đắm trong sinh tử luân hồi?


Phật dạy rằng tánh giác tất minh, vọng vi minh giác nghĩa là do vọng tưởng phát khởi mà sinh ra phân biệt rồi chấp mắc hiện tượng vạn hữu. Cái phân biệt của con người trở thành năng minh để chống lại cái tánh giác diệu minh của hiện tượng vạn phápchấp thủ sai lầm về cái bản giác minh diệu của chính mình. Do vọng tưởng sai lầm đó mà dẫn đến những nhận thức sai lầm để có mừng, giận, thương, yêu, sợ, ghét…Đây là những khách trần phiền não, có đến có đi, nhưng con người lại mở toan sáu căn (năng minh) mà đón mời nó vào để nó luôn chiếm ngự ở mãi lòng ta. Nói cách khác, vạn pháp vốn thanh tịnh, lục trần vốn thanh tịnh, lục căn vốn thanh tịnh, nhưng con người lấy lục căn phân biệt lục trần cho nên lục trần bây giờ trở thành đối tượng bị phân biệt tức là sở minh và lục căn biến thành năng minh. Mà đã có năng có sở nghĩa là có sự phân biệt đối đãi và đó là nguyên nhân của phiền não khổ đau.


Tánh giác nhất định phải là diệu minh chớ không cần nhờ vào Minh để làm sáng tỏ. Còn Vọng là minh giác nghĩa là vừa dấy động một niệm sở minh thì chính mình đã đánh mất tánh giác diệu minh rồi. Tánh giác thì bao trùm khắp pháp giới vốn không có năng minh, không có sở minh, không có năng giác, không có sở giác, nhưng vì do vọng chấp mê lầm mà mình cho rằng mình có năng giác còn đối tượng bên ngoài có sở giác. Khi có sự thiết lập của năng và sở tức là trong và ngoài thì sự phân biệt đối đãi hình thành và dĩ nhiên vọng niệm cũng phát khởi từ đây. Thí dụ như khi quán chiếu thấy tượng Phật bên ngoài tức là sở minh thì chúng ta dùng hình ảnh Đức Phật bên ngoài mà xoay lại để thấy được Phật tánh bên trong của mình tức là năng minh. Còn nếu chạy theo hình tượng Phật bên ngoài mà quên đi Phật tâm, Phật tánh thanh tịnh, bất sinh bất diệt của chính mình thì chúng ta chạy theo sở minh mà quên bỏ năng minh vậy.


Đây là nguyên nhân của phiền não khổ đau. Vì thế tánh giác vốn tự minh tự diệu, không có gì đáng gọi là sở minh. Nhưng do vọ mà giả dối lập ra sở minh và đối đãi phân biệt sinh ra cái năng minh của chúng sinh.

PHẬT KHAI THỊ NGUỒN GỐC DUYÊN KHỞI CỦA HIỆN TƯỢNG VẬT CHẤT

Phật dạy rằng :


A Nan! Bản thể của hiện tượng vốn chung cùng, do nhơn duyên mà biến hiện. Trong thể tánh không đồng không dị, phân giải sinh ra thành dị. Khác với các dị hóa hợp lại thành đồng. Tánh đồng dị đã phát minh, hai lực hấp dẫn và đề kháng cũng tự thành năng lực. Giữa sự nhiễu loạn mâu thuẫn bên trong của vật lý tâm lý và tánh hư không; những tánh chất năng động hợp thành thế giới, tánh thể bất độnghư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Đồng dị hay không đồng dị, tất cả đều gọi là pháp hữu vi.


Bản thể của hiện tượngNhư Lai Tạng thì bao trùm khắp mười phương pháp giới, khắp không gian và khắp cả thời gian. Nó chính là chơn không mà diệu hữu nghĩa là từ cái không trùm khắpbiến hóa duyên khởi một cách thần diệu, nhiệm mầu để hình thành ra muôn sinh vạn vật của thế giới hữu vi. Nhưng khi duyên hết thì tất cả các đại sẽ thu về với tự tánh ban đầu chớ không có cái gì thật mất. Vì thế không có vật gì là thật sinh hay thật mất mà chỉ là hiện tượng duyên khởi của thế gian vũ trụ trong tiến trình bất biến tùy duyêntùy duyên bất biến. Nói cách khác, bản thể là chung cùng, nhưng tùy theo nhân duyên mà biến hiện thành ra thế giới hữu vi.

Trong chân tâm thường trụ của pháp giới nhất chân vốn không có tướng đồng tướng dị, nhưng vì một niệm vọng động mà biến chân như chuyển theo duyên mà có sinh có diệt, tạo nên A lại da thức. Thí dụ như trong không khí thì tất cả đều giống nhau tức là không đồng không dị, nhưng nếu đem phân tích thì không khí có chứa nào là dưỡng khí, nào là khí Nitrogen, nào là hơi nước, nào là những thứ khí ô nhiễm khác...tức là có đồng có dị rồi. Nên nhớ ngày nay con người dựa theo khoa học mà phân tích những thành phần trong không khí, nhưng 2500 trước Đức Phật cũng đã nhìn thấu suốt như vậy thì đủ biết trí tuệ thâm sâu của bậc Đại Giác Ngộ quả thậtbất khả tư nghì.


Tánh đồng dị nghĩa là âm dương đối chọi. Có ba trường hợp về tánh đồng và dị :


1) Đồng năng tương bội nghĩa là tất cả các đồng cùng trợ lực cho nhau thì sẽ tăng thêm sức mạnh. Thí dụ một người không thể kéo một khúc cây to được, nhưng nếu cộng thêm năm mười người nữa thì việc kéo rất dễ dàng.


Dị năng tương để nghĩa là ngược lại của đồng năng tương bội. Mười người đang kéo khúc cây dễ dàng như vậy, bỗng nhiên bốn năm người vì có việc phải đi nên chỉ còn lại 5 người kéo thành thử kéo khúc cây bây giờ rất khó khăn.


2) Đồng tánh tương cự nghĩa là cùng giống thì khắc nhau và Dị tánh tương hấp nghĩa là khác giống thì hạp nhau. Thí dụ hai người đàn ông nói chuyện vài phút đã thấy chán sinh ra cãi vã, trong khi một cặp nam nữ nói chuyện suốt ngày. Cũng như cực âm và dương của một cục nam châm. Để hai cực dương hay cực âm gần với nhau thì nó sẽ đẩy ra, nhưng nếu để cực âm gần với cực dương thì nó sẽ hút lại.


3) Đồng chủng tương ứng, Dị chủng tương xích nghĩa là cùng loại thì phụ cho nhau nhau và khác loại thì bị khai trừ. Thí dụ cọp chỉ sống với cọp còn bỏ dê hay thỏ vào là bị cọp ăn sống ngay.


Vì thế trong Như Lai Tạng, chủng tử cơ bản của vạn pháp có thể kết hợp thành từng nhóm quyện chặt với nhau để tạo thành một chỉnh thể hiện tượng vạn hữu. Ngược lại những chủng tử cũng có thể phân giải hoàn toàn hoặc chuyển hóa dần dần từ lượng dẫn đến chuyển hóa hoàn toàn về chất để rồi sự vật củ mất đi để hình thành sự vật mới nối tiếp.


Tất cả sự vật dù là đồng tánh hay dị tánh, đồng chủng hay dị chủng, đồng năng hay dị năng duyên khởi mà tạo ra muôn loài hữu tình và vô tình chúng sinh. Mà đã là vạn vật hữu hình thì tất cả đều là pháp hữu vi. Tại sao lại là pháp hữu vi? Bởi vì các pháp đó là do duyên khởi, duyên sanh hội hợp lại mà thành, chớ không có gì chắc thật cả. Vì thế mà kinh Kim Cang có câu : “Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán” nghĩa là tất cả các pháp hữu vi đều như mộng, như huyển, như bọt nước, như bóng, như sương, như điện chớp, có đó rồi mất đó.

PHẬT DẠY RÕ VỀ 3 TƯỚNG TƯƠNG TỤC


1) THẾ GIỚI TƯƠNG TỤC :


Phật bảo rằng :


-Phú Lâu Na! Tánh giác thì sáng suốt; hư không thì bất động vô tri. Hai thứ tác động thành tác năng dao động. Do đó, trong thế giớihiện tượng lay động phát sinh (gió: phong đại). Trong tánh năng dao động, những thứ đồng chủng hòa hợp với nhau kết thành tánh chất ngại. Đây là hiện tượng kim luân được hình thành để bảo trì quốc độ (kim luândị dạng của địa đại, nhiếp thuộc về địa đại).

Kim luân cọ sát với không khí trong hư không biến ra năng lượng. Hiện tượng hỏa đại phát huy từ đó. Kim luân sanh nước. Tánh nước chảy xuống. Tánh lửa bốc lên. Thủy đại chảy xuống, hỏa đại bốc lên, địa đại bảo trì. Từ đó hiện tượng vật chất đủ điều kiện hoàn thành viên mãn. Chỗ sâu có là nước biển, chỗ cạn là cồn bãi, lục địa. Do nguyên nhân đó, trong biển lửa thường sanh khởi. Cồn, bãi, lục địa, sông lạch thường tuôn chảy không ngừng. Chỗ thế nước kém thế lửa kết tụ thành núi cao cho nên đánh đá thì lửa nhoáng ra. Chỗ thế đất kém thế nước hay sinh cây cỏ. Vì vậy, rừng cháy thành đất, vắt ép gỗ chảy ra nước.

Sự vật hiện tượng trong thế giới tương quan làm nhân quả cho nhau mà sanh. Xoay vần làm nhân duyên cho nhau không dứt, vì vậy thế giới duy trì tương tục vô cùng. Phần trên Đức Phật đã chỉ rõ nguyên nhân của các pháp hữu vi là do không giác ngộ chơn tánh khiến vọng tưởng phân biệt phát sinh mà thành. Vì sự mê lầm ấy mà phát sinh ra thế giới, chúng sinhnghiệp quả.


Phong đại là gió, tượng trưng cho sức lay động vô hình. Mà vô hình là hư không vốn không có tri giác nghĩa là hư không, không hề biết thế nào là lay động hay thế nào là không lay động. Nhưng vì tâm mê mờ chơn tánh nên có năng có sở đối đãi phân biệt tạo thành vọng tưởng. Vọng tưởng này kích động tâm thể, chứa đầy hư vọng rồi biến thành tập khí đầy ắp trong hư khôngbiến thành gió. Tất cả cảnh giớithế gian đều nương vào vọng tâm vô minhtồn tại, cho nên có phong đại (gió) nắm giữ trong thế giới là vậy.


Địa đại cũng là loài vô tri vô giác, không tự mình biết là loài hữu tình hay vô tình, là lỏng hay cứng, là to hay vi tế. Nhưng vì giác tánh phân biệt, nương theo nghiệp mà phát minh ra tính cứng, lập ra sự ngăn ngại cho nên trong thế gian mới có đất, đá, sỏi, cát khắp mọi nơi. Vì địa đại có tánh ngăn ngại nên tất cả những gì mà choáng một phần không gian to lớn như núi cao rừng thẳm và cực nhỏ như những vi tử trong nước hay trong không khí đều là địa đại cả. Quả địa cầu cũng như tất cả những hành tinh khác trong thế gian vũ trụ này đều kết cấu giống như nhau. Đó là bên ngoài được kết tập bằng những lớp đất đá rất cứng, nhưng bên trong là những nham thạch rất nóng ở thể lỏng, xoay động dựa theo tiến trình di động của trái đất mà nhà Phật gọi là Kim luân tức là cái nền móng căn bản để kiến tạo vật thể trên thế gian.


Gió thì lay động gặp đất ngăn cản nên có sự ma xát mà sinh ra lửa (hỏa đại). Hỏa đại không nhất thiết phải là lửa, mà có thể là tất cả sự nóng lạnh. Khi độ nóng tăng cao thì những chất cứng sẽ chảy thành nước. Nước là thể lỏng nên chảy từ cao xuống thấp trong khi lửa cháy thành khí nên bốc lên cao. Vậy tánh lửa bốc lên, tánh nước chảy xuống và tánh đất thì ngăn ngại và từ đó hiện tượng vật chất có đủ điều kiện hình thành viên mãn mà tạo ra hình dáng của thế giới.

Thời gian trôi qua khiến vật chất thay hình đổi dạng. Chỗ sâu nước dồn xuống thì gọi là biển, chỗ cạn là cồn, bãi. Chỗ đất cao nổi lên thì gọi là đồi. Vì sự sinh biến mà trong biển lửa thường sinh khởi. Thí dụ ngày nay chúng ta thấy có rất nhiều vụ núi lửa nổ tung tận đáy biển sâu khoảng 4,000 ft ở Thái Bình Dương. Lửa cháy ở đáy biển cũng giống y như lửa cháy ở trên mặt đất vậy. Gần đây nhất, có vụ núi lửa nổ tung tận dưới lòng nước ở xứ Iceland mà ngọn lửa bốc lên cao hơn mặt nước biển. Khoa học ngày nay cũng mới khám phá một loại nham thạch trong các rặng san hô mà chỉ cháy trong nước.


1) Chỗ nào thế lửa (hỏa đại) bốc lên mạnh hơn thế nước (thủy đại) thì đất nổi lên thành núi cao. Vì thế, nếu lấy hai viên đá đập vào nhau sẽ phát ra tia lửa hoặc nấu các cục đá kia thì nó sẽ chảy thành nước.


2) Chỗ nào thế đất (địa đại) yếu hơn thế nước (thủy đại) thì đất hóa ra mềm làm sinh ra cây cỏ. Nhưng nếu đem những cây đó đốt đi thì nó sẽ cháy thành tro (đất, địa đại) hoặc nếu đem ép những cây gỗ thì có nước chảy ra (thủy đại). Xét như vậy thì đâu đâu cũng đều có đất, nước, gió, lửa tùy theo nhân duyên mà phát sinh những hiện tượng khác nhau. Sự vật hiện tượng trong thế giới làm nhân làm duyên cho nhau, khi thành, khi trụ, khi hoại, khi không, không ngừng, không dứt. Vì vậy thế giới được duy trì tương tục vô cùng vô tận.


Vậy “Tánh giác diệu minh” làm mê mờ chân lý vũ trụ quan khiến vọng tưởng phát sinh mà tạo thành vạn pháp trong vũ trụ. Nói cách khác vạn pháp trong thế giới này là do tâm niệm của chúng sinh phát khởi mà thành. Vì thế nếu thế gian có được mưa thuận gió hòa cũng bởi con ngườitâm niệm lành, biết thương yêu đồng loại, biết xóa bỏ tranh chấp đố kỵ. Ngược lại nếu con ngườitư lợi, tranh chấp, giết hại lẫn nhau thì dĩ nhiên vọng tưởng phát sinh liên tục khiến cho đất, nước, gió, lửa bất hòa mà tạo thành cuồng phong, bảo tố. Ngày nào con người còn tranh chấp, còn ý nghĩ tiêu diệt lẫn nhau thì ngày ấy còn động đất lớn, còn có những lượn sóng thần, còn bảo tố, còn núi lửa để cảnh giác con người. Do đó muốn sống hạnh phúc thanh nhàn thì do con người mà gánh chịu cảnh tang tóc đau thương thì cũng do con người chớ trời Phật không can dự vào.

2) CHÚNG SINH TƯƠNG TỤC :


Lại nữa, Phú Lâu Na! “Vọng minh” không phải là cái khác lạ. Do vì chúng sinh dùng cái kiến minh tri để minh tánh giác mà có sự lỗi lầm. Từ đó có cái sở minh. Sở minh đã có thì cái năng minh bị lệ thuộc vào. Vì vậy, tánh nghe không ngoài âm thanh, tánh thấy không ngoài màu sắc; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, sáu vọng trần đã hình thành làm đối tượng cho “vọng năng”. Những cái thấy, nghe, ngửi, nếm, biết sanh khởi. Hễ đồng nghiệp thì hấp dẫn lúc hợp lúc ly, khi tình khi tưởng. Tánh thấy “năng minh” có thì đương nhiên có sắc sở minh hiển hiện. Chủ thế đối tượng tác động vào nhau, từ cảm tính chuyển sang lý tính, từ lý tính nảy sinh khái niệm, từ khái niệm dẫn đến tư duy.

Do tư duy có sự tưởng tượng nhận thức : Hễ ý kiến bị phủ nhận, sanh tâm lý ghen ghét. Tư tưởng được đồng tình, sanh tâm lý yêu thương. Dòng nước yêu thương kết thành chủng tử, thu nạp tưởng tượng hấp dẫn nghiệp đồng, tác hợp với “yết la lam” thành trạng thái của phôi trong thời gian gọi là “ngưng hoạt” (tinh trùng và noãn sào mới hợp nhau trong ba bốn tuần đầu). Thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh, tuỳ nghiệp đồng và thích ứng của mỗi loài mà cảm ứng. Thai nhơn tình mà có. Noãn do tưởng mà sinh. Thấp bởi hợp mà cảm. Hóa vì ly mà ứng. Tình, tưởng, hợp, ly luôn luôn vận động đổi thay theo nghiệp sở hành mà cảm thọ : Khi đi lên, lúc đi xuống xoay vần trong sáu nẻo. Đó là nguồn gốc làm chúng sinh tương tục không dừng.


Trong pháp giới thanh tịnh vốn không có chúng sinh, nhưng vì do vọng niệm từ vô thỉ mà thành vô minh rồi dần dần biến thành căn nguyên sinh ra chúng sinh. Do vậy vọng minh chínhvô minh và cũng từ cái vô minh này mà dần theo thời gian hình thành sở tướng của tứ đạihấp thụ tứ đại để làm thân. Vọng tưởng sai lầm đã biến con người thành “vọng năng” và dĩ nhiên chấp nhận có “sở năng” bên ngoài. Một khi chấp có “năng sở” nghĩa là chấp có chủ thể và đối tượng tức là chấp có sự đối đãi phân biệt. Năng minh là lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) ở bên trong của con người và sở minh chính là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tức là ngoại trần. Vì thế tuy thế giới vạn phápbao la vô cùng vô tận, nhưng cũng không ra ngoài căn, trần cả.

Thật vậy, khi lục căn tiếp xúc với lục trần nghĩa là năng minh hòa nhập với sở minh thì ý thức vọng niệm được phát khởi. Vì nhân duyên đó mà con người chỉ nghe khi có tiếng, có âm thanh và chỉ thấy khi có sắc tướng chớ không thể thấy, nghe xa được. Nói cách khác lúc ấy kiến, văn, giác, tri nghĩa là thấy, nghe, hay, biết được hình thành. Tuy thế giới thay đổi tùy theo sở minh, nhưng tựu trung tất cả cũng nằm trong quy luật thành, trụ, hoại, không nghĩa là có đó rồi mất đó. Khi năng minh, sở minh hòa hợp thì tư tưởng phát sinh. Nếu chúng sinh đồng một tư tưởng thì thương yêu nhau, ngược lại, nếu ý bất đồng thì ghét nhau. Dòng nước ân ái yêu thương kết thành tập khí chủng tử. Ba món “Căn, Trần, Thức” hòa hợp làm nhân tạo nghiệp cho nên quả khổ tứ sinh cũng bám theo. Nếu đồng nghiệp ràng buộc nhau thì hình thành vào thai sinh hay noãn sinh. Còn ly nghiệp thì hình thành vào loài thấp sinh hay hóa sinh.

Thí dụ thai sinhcon người sinh ra con người hay con bò cũng sinh ra con bò…Noãn sinh là con vật được sinh ra bằng trứng. Chẳng hạn như con gà, con vịt, con chim, con cá sấu đẻ trứng rồi trứng mới nở thành con gà..Thấp sinh là do những cơ cảm, biến đổi của thiên nhiên tạo thành. Thí dụ như con đom đóm là do hợp với khí ẩm ướt của những cây rơm, cây lúa và mưa. Do đó con đom đóm là loài thấp sinh. Còn hóa sinhhóa hiện để sinh về một cõi tốt lành hơn mà không cần đầu thai vào người mẹ. Thí dụ, ngày xưa trưởng giả Cấp Cô Độc Tu Đạt Đa đã cúng dường tịnh xá Kỳ Viên cho Phật và chư đệ tử nên khi chết được hóa thân vào cung trời Đầu Suất (Tushita) để hưởng phước lợi.


Nhưng nguyên nhân của sự đầu thai như thế nào?

Thật ra chúng sinh trong loài tứ sinh cũng đều do một niệm vô minh mà hình thành. Chúng sinh vì tạo vọng nghiệp nên sau khi chết đi vào thân trung ấm, sắc thân không còn mà chỉ còn ngũ thông nên mắt nhìn thấy rất xa. Do tập khí ái nhiễm nên thần thức nhất định phải tìm một cảnh để yêu, cho dù xa xôi ngàn dặm, nhưng do chiêu cảm nên thấy rất gần cho nên thấy sáng thì sắc phát hiện. Khi chiêu cảm cảnh ái ân, thần thức liền chạy đến chỗ đó và “tưởng” bắt đầu hình thành.

Ngay trong lúc nam nữ đang giao cấu thì “tưởng” trong thân trung ấm phát hiện. Nếu thân trung ấm là nam thì ghét cha thương mẹ, nếu thân trung ấm là nữ thì ghét mẹ thương cha. Đó là “dị kiến thành ghét, đồng tưởng thành yêu” và thân trung ấm hấp thụ dòng ái đó mà lưu vào thai mẹ rồi thành chủng tử thọ hình. Bây giờ “tưởng” bám vào tinh cha huyết mẹ mà lập thành chấp ngã. Do “nghiệp ái làm nhân, cảnh ái làm duyên” mà ở trong thai bảy ngày nên gọi là yết-ma-lam. Được hai tuần thì bào thai gọi là Át-bồ-đàm. Ba tuần thì gọi là Tế-thi. Kiện nam là bốn tuần và Bát-la-xa là hình thể khoảng 35 ngày. Sau 35 ngày thì lục căn mới đầy đủ.

Nói tóm lại, tùy theo nghiệp đã tạo mà cảm ứng sinh vào một trong bốn loài : thai, noãn, thấp và hóa. Đó là theo nghiệp mà lưu chuyển và do dòng nước ái ân yêu thương kết thành tập khí chủng tử. Nếu hấp dẫn đồng nghiệp thì tác hợp với phôi. Phôi lớn thành thai rồi dần theo thời gianlục nhập, xúc, thọ, ái…được phát triển. Vì vậy thai sinh là do nhân tình mà có. Noãn sinh là do tưởng (niệm) mà sinh nghĩa là loài thú không có lòng yêu thương như con người mà chỉ có tưởng niệm về dục vọng. Thấp sinh nhờ hợp mà thành và Hóa sinh bởi phân ly mà ứng hiện. Tưởng thì nhẹ nhàng còn tình thì nặng nề. Bởi nhân duyên đó mà chúng sinh tương tục

3) NGHIỆP QUẢ TƯƠNG TỤC :


Phật bảo :


- Phú Lâu Na! Tưởng và ái gắn bó ràng buộc lẫn nhau. Ái mãi không rời kết thành nghiệp nhân tương tục : Cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu tương tục sanh lên sanh xuống không có thời kỳ chấm dứt. Hạng chúng sinh này do “dục tham” làm gốc. Tham và ái đắm đuối nặng nề, tham ái mãi không thôi. Nghiệp nhơn này khiến cho các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau. Hạng chúng sinh này do “sát tham” làm gốc.


Phú lâu Na! Do những bất thiện nghiệp như vậy, người này mắc nợ thân mạng người kia. Người kia trả nợ cũ cho người này. Người này thương cái lòng tốt của người kia. Người kia yêu cái sắc đẹp của người này. Do nhơn duyên đó trải trăm nghìn kiếp ở mãi trong ràng buộc sinh tử khổ đau. Ba món Sát, Đạo, Dâm là những yếu tố căn bản tạo thành nghiệp quả tương tục.


Phú Lâu Na! Sở dĩ có ba thứ tương tục điên đảo là do nhận thức sai lầm : Rằng phải nhờ lấy cái minh để minh tánh giác; Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu, đại địa san hà vũ trụ vạn hữuhiện tượng hữu vi, có sinh có diệt là do kiến chấp vọng tưởng của con người. Sự thật, thể tánh của các hiện tượng vốn thanh tịnh bản nhiêndiệu dụng của Như Lai Tạng biểu hiện. Khi tư tưởng yêu thương ràng buộc lẫn nhau thì con người trôi nổi trong sinh tử trầm luân. Lúc thì tái sinh làm cha, làm mẹ. Khi thì đầu thai làm con làm cháu, lên xuống không cùng không tận. Tưởng ái đồng kết lại thì lòng yêu thương không thể rời cho nên cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh em…sanh nhau trong thế gian không bao giờ dứt. Cái khổ quả sinh tử này chung quy cũng tại vì lòng tham dục.

Tham và ái hổ tương cho nhau thì lòng tham không bao giờ ngừng dứt. Con người vì bị vô minh che lấp nên chạy theo ái dục mà phải chịu luân hồi. Thí dụ, bà vì quá thương cháu mà tái sinh làm con của cháu mình. Vì thế mà thế giới này mới là dục giới. Một khi tâm dục nghĩa là lòng mình muốn chiếm hữu hay đoạt lấy vật gì thì lòng tham bắt đầu phát khởi. Một khi lòng tham phát khởi thì tất cả các loài như thai sinh, noãn sinh, thấp sinhhóa sinh tùy theo sức mạnh của nó mà ăn nuốt những loài khác để tạo thành sát nghiệp. Thí dụ, con cọp ăn thịt con nai yếu đuối. Loài người săn bắn giết hại vô số súc vật. Ở biển cả sông ngòi, cá lớn nuốt cá bé…Bởi cũng vì sát nghiệploài người, loài vật thay nhau tái sinh để chịu quả báo luân hồi. Thí dụ con người đi săn giết hại con nai. Con nai chết tức tưởi nên một kiếp nào đó nó tái sinh làm người và cũng đi săn để giết chết con nai khác chính là người thợ săn quả báo làm nai.

Nói cách khác vì nghiệp sát sinhbốn loài sát hại giết chết nhau, ăn nuốt nhau và sau cùng phải thọ báo để bị thảm hại, ăn nuốt trở lại. Đời này qua, đời khác đến vô cùng vô tận biết đến chừng nào mới chấm dứt. Do đó tư tưởng Phật giáo khuyên chúng sinh nên phát triển lòng từ bi để thương yêu tất cả mọi loài và chấm dứt nghiệp sát hại thì quả báo luân hồi mới có thể chấm dứt được. Con người vì sống với lòng tham dục nên phải chạy theo sinh tử luân hồi. Cũng vì tham dụccon người giết hại, ăn nuốt lẫn nhau. Chủ nhân, phú hộ muốn giàu thêm nên chèn ép người nghèo khó, thế cô. Kiếp này mình ỷ thế chèn ép người tức là cướp không của người, là nợ người vì thế sang đến đời sau phải đầu thai trả nợ cho người.


Nói chung con ngườichìm đắm trong sinh tử khổ đau cũng chỉ vì chạy theo tham, sân, si. Từ đó Sát, Dâm, Đạo hình thành, sai sử khiến con người càng ngày càng lún sâu trong vòng tội nghiệp. Trong Phật giáo nghiệp sát hại là đại nghiệp vì thế người Phật tửlòng từ bi thương xót chúng sinh, thương người như thương mình và thấy nỗi đau của chúng sinh chính là nỗi đau của mình nên không giết hại. Con người ăn thịt chúng sinh thì ngày sau chúng sinh đổi kiếp ăn thịt con người trở lại. Nếu cưỡng giết mạng chúng sinh để lấy thịt ăn thì gọi là Đạo. Mà có nợ thân mạng thì cũng là do sát tham mà ra. Do đó, nếu đền nợ cũ cho người thì gọi là đạo tham vậy. Ngày xưa tôn giả Mục Kiền Liên là đệ nhất thần thông, có tài thiên biến vạn hóa, thế mà trong tiền kiếp làm nghề chài lưới giết hại quá nhiều chúng sinh nên vào thời Đức Phật tuy đã tu thành Thánh mà những chúng sinh đã bị Ngài sát hại bây giờ tái sinh làm bọn ngoại đạo để sát hại Ngài.

Do đó, ngày nay ta sát hại chúng sinh thì ngày mai chúng sinh quay trở lại sát hại lại chúng ta. Vì thế nếu muốn tiêu diệt nghiệp sát sinh thì ngay bây giờ phải chấm dứt sát hại làm đau thương đến muôn loài và bồi dưỡng cũng như phát huy tình thương, lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh. Tuy không còn tâm sát hại, nhưng nếu vẫn còn tâm dâm thì con người vẫn bị tái sinh luân hồithần thức trong thân trung ấm còn cảm nhận dục tình khi thấy cảnh ái ân của nam nữ mà lưu vào thai mẹ để trở thành chủng tử thọ hình. Muốn thoát khỏi luân hồi thì tâm dâm phải dứt cho nên thần thức lúc nào cũng như như bất động cho dù đứng trước cảnh dục tình. Lấy của người làm người đau khổ tức là nợ của người đó rồi nên kiếp sau phải đầu thai để trả cho hết những mối nợ này. Vì thế không tham, không dâm, không sát hại, không đạo thì sẽ không còn sinh tửdĩ nhiên chặt đứt dây luân hồi

 

GIÁC KHÔNG SINHTHẤT ĐẠI DUNG ĐƯỢC NHAU MÀ KHÔNG CÓ GÌ TRỞ NGẠI

GIÁC KHÔNG SINH


Ông Phú Lâu Na thưa :


- Bạch Thế Tôn! Nếu tánh giác vốn nhiệm mầu trong sáng cùng với tâm Như Lai không kém không hơn. Thế mà vô cớ bỗng nhiên lại sinh núi sông, đất liền các hiện tượng hữu vi sinh diệt. Vậy hiện nay Như Lai đã chứng nhập bản thể giác minh (tánh giác diệu minh, bản giác diệu minh ấy) ví phỏng chừng nào Như Lai sinh lại vọng tưởng phân biệt đối với các pháp hiện tượng hữu vi? Và chừng nào hoặc lậu của Như Lai sinh trở lại?


Phật bảo :


- Phú Lâu Na! Ví như có người do mê mà lầm cho phương Nam là phương Bắc, cái mê như vậy, không nhân mê mà có, vì mê vốn không có gốc rễ, không có hình dáng kích thước, cũng không phải màu sắc, càng không phải nhân ngộ, vì ngộ là tỉnh, là sáng suốt, ngộ không sinh mê. Người mê đang lúc mê bỗng có người ngộ giải thích chỉ bày cho được ngộ; người mê hóa giải, dứt được cái mê thì phương hướng Bắc Nam không còn lầm lẫn nữa. Mười phương Như Lai cũng vậy. Mê vốn không gốc rễ, tánh của nó là không. Xưa vốn không có mê, tựa hồ như có mê, có giác. Giác được mê thì mê diệt, giác vốn không sanh ra mê. Lại cũng như người nhặm mắt, thấy hoa đóm đầy khắp hư không. Nếu trị dứt bịnh nhặm mắt thì hoa đóm trong không tự hết. Nếu ao đó mong chờ cho hư không sanh hoa trở lại là kẻ quá ngu si, với hạng người như vậy, không thể nói : Rằng họ là người ngu hay trí.


- Lại nữa! Phú Lâu Na! Ví như quặng vàng lẫn lộn với vàng rồng. Khi vàng đã nấu lọc tinh rồi thì vàng không là quặng nữa. Lại cũng như gỗ đã đốt thành tro, tro không thể hoàn nguyên thành gỗ được.


- Phú Lâu Na! Vấn đề Niết bàn của mười phương Như Lai cũng như vậy. Như Lai không bao giờ sanh lại vọng tưởng phân biệt để chấp mắc các hiện tượng hữu vi. Và cũng không có việc Như Lai sanh lậu hoặc trở lại.


Ngài Phú Lâu Nađại đệ tử đã chứng Thánh quả nên chính Ngài đã thừa hiểu rằng một khi chúng sinh đạt được “Chơn tâm thường trú, Thể tánh tịnh minh” thì cái thường, cái thật, cái có sẳn là của chính mình. Còn cái bất giác (chưa giác ngộ), cái mê, cái tham, sân, si, mạn, nghi…là những cái vọng thành. Chúng chỉ là những “khách trần” phiền não có đến rồi đi. Vì thế câu hỏi của Phú Lâu Na là để giúp cho những người hữu học có một cái nhận định chắc chắn trên con đường tu học.


Tất cả chúng sinh từ loài hữu tình đến vô tình đều có chung tự tánh thanh tịnh bản nhiên mà được gọi là “tánh giác”. Đối với con người thì cái tánh giác này là Phật tánh. Phật tánh hay tánh giác thì lúc nào cũng thanh tịnh, trong sáng, thường diệu, thường minh nên gọi là “tánh giác diệu minh” mà không cần cái minh bên ngoài tức là sở minh để có minh. Nhưng con ngườilầm lẫn chạy theo vọng chấp tham-sân-si nên mới tạo nghiệp và tự cột họ vào trong sinh tử luân hồi. Bây giờ biết hồi đầu thị ngạn, tự quay thuyền trở lại bến xưa thì tánh giác sẽ trở thành bản giác tức là cái giác tính bản lai sẳn có của mình. Cái bản giác này thường minh và thường diệu nên gọi là bản giác minh diệu. Phật tánh thì lúc nào cũng sẵn có trong tất cả mọi chúng sinh, vì thế, Phật tánh hay tánh giác diệu minhChánh Nhân Phật tánh nghĩa là tánh mầu nhiệm vốn sẵn có. Còn bản giác minh diệu là Liễu Nhân Phật tánh nghĩa là Phật tánh nhờ công phu tu tập rồi mới ngộ.


Như thế cái bản thể giác minh mà ông Phú Lâu Na hỏi Đức Phật chính là Liễu Nhân Phật tánh tức là bản giác minh diệu của Ngài. Khi Chư Phật đã loại bỏ tất cả phiền não chướng, tri kiến chướng để trở thành Liễu Nhân Phật tánh thì cái bản giác minh diệu này là thường hằng, là cái thật có, là cái minh cái diệu lúc nào cũng sẵn có trong Như Lai.


Thí dụ, chúng ta ở Hoa Kỳ lái xe bên tay mặt, nhưng người Anh Quốc lại lái xe bên tay trái nên khi đi du lịch qua bên đó, chúng ta lái xe lộn bên, lầm lẫn dễ gây ra tai nạn, may có người chỉ cho thì bây giờ chúng ta đâu còn lái xe bên tay mặt nữa. Do đó một khi đã chứng ngộ, đạt được minh tâm kiến tánh hay nhất tâm bất loạn thì không bao giờ trở lại làm phàm phu.


Trong kinh Duy Ma Cật, khi nói về chứng đắc tôn giả Xá Lợi Phất đã hỏi vị Thiên nữ rằng :


- Chừng nào người được Vô thượng Bồ-đề, thưa Thiên nữ?


- Chừng nào ngài Xá Lợi Phất trở lại làm phàm phu thì tôi mới thành Vô thượng Bồ-đề.


- Tôi không bao giờ trở lại làm phàm phu.


- Thì tôi cũng không bao gờ được quả Vô thượng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bồ-đề “vô sở trụ”. Thế nên Bồ-đề không có cái “được”.

 

Bồ-đề, Phật tánh đối với chúng sinh cũng ví như vàng còn lẫn lộn trong mỏ với đất cát sỏi đá. Nay nếu đem về rửa sạch đất cát cũng như con người loại bỏ tất cả tham-sân-si mạn nghi thì sẽ thấy vàng nguyên chất cũng như Phật tánh sẽ hiện bày. Một khi đã có vàng nguyên chất thì làm gì còn đất cát sỏi đá cũng như chúng sinh đã liễu ngộ thì không bao giờ trở lại làm phàm nhân lầm lẫn.


Cũng như có bịnh lòa thì thấy có hoa đóm giữa hư không. Nhưng hoa đóm là do bệnh lòa mà có chớ không phải thật có. Đến khi chữa trị hết bệnh lòa thì hoa đóm cũng không còn. Vì vậy tất cả các pháp hữu vi đều do cái bệnh bất giác (mê) biến thành chớ không phải thật có. Do đó khi thức tỉnh giác ngộ thì cái hữu vi cũng chẳng có và tướng hữu vi cũng chẳng còn.


Lại như cây đã đốt thành tro thì không thể đâm chồi mọc lá được. Vì thế, Chư Phật đã giác ngộ hoàn toàn, diệt trừ tận gốc tất cả những mê lầm sinh diệt thì làm sao còn sinh được các pháp hữu vi?


Như thế tuy chúng sinh có đồng tánh giác diệu minh như Chư Phật, không thêm không bớt, nhưng vì sống trong điên đảo nên không nhận được giác tính thường diệu thường minh nên phải trôi nổi trong sinh tử luân hồi. Ngược lại, Chư Phật hoàn toàn thức tỉnh nên các Ngài đã trừ hết cội gốc của mê lầm, nên tuy cùng giác tính đó mà các Ngài đã thực chứng giác tính, diệu dụng của mình tức là đã có bản giác minh diệu nên sẽ không bao giờ còn mê lầm được nữa. Nói cách khác, khi đã giác ngộ thì sẽ không bao giờ còn mê lầm nghĩa là khi đã thành Phật sẽ không bao giờ trở lại làm chúng sinh.

Chỉ Các Đại Có Thể Dung Nhau


Phật bảo :


- Này Phú Lâu Na! Ông còn nghi ngờ. Vì sao thất đại : Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức lại có thể dung nhau? Trong thực tế ông thấy chúng thường tự xâm đoạt hủy diệt nhau.


- Phú Lâu Na! Ví như hư không, không thể của nó vốn không phải hình tướng, nhưng nó không chống đối các tướng phát huy trong nó. Phú Lâu Na! Bầu hư không vô cực kia, hễ mặt trời soi thì sáng, mây ùn thì tối, gió lay thì động, trời tạnh thì trong, hơi đọng thì đục, bụi nổi thì mù, nước lặng thì lóng lánh. Phú Lâu Na! Ông hiểu thế nào? Các tướng hữu vi sai khác dường ấy. Vậy nó nhân những cái đã có kia mà tự sinh hay nhân hư không mà có? Phú Lâu Na! Nếu bảo rằng do những cái kia tự sanh, vậy khi mặt trời soi, mặt trời sáng thì mười phương thế giới đều thành sắc của mặt trời, làm sao giữa hư không lại còn thấy mặt trời tròn? Nếu bảo rằng hư không sáng thì hư không tự soi lấy, cớ sao giữa lúc đêm mây mù không có ánh sáng soi? Vậy nên biết rằng : Cái sáng không phải mặt trời, không phải hư không, nhưng không ngoài hư khôngmặt trời.


- Phú Lâu Na! Ông nên biết rằng : Đứng bên hiện tượng mà nhìn thì hiện tượng vốn vọng, cho nên không làm sao chỉ bày chính xác và đích thực được. Nhưng đứng trên bản thểtư duy, ta sẽ thấy bản thể là chơn : “Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu”, cho nên “địa” vốn không là “địa”. “Không” vốn chẳng là “không”. Thủy, hỏa, phong…cũng vậy thì làm chi có việc trở ngại không dung nhau được.


Trong bản tánh minh diệu của Như Lai Tạng, ông cần phát minh hư không thì có hư không hiện ra. Ví như một dòng nước in bóng mặt trăng. Hai người cùng trông thấy bóng mặt trăng in đáy nước. Rồi người đi về Đông, người đi về Tây cả hai đều thấy có mặt trăng theo mình mà không có chuẩn đích cho mặt trăng cố định. Trước sự kiện đó không nên gạn hỏi : Mặt trăng là một, sao có thể đi theo hai hướng khác nhau? Cũng không được hỏi : Mặt trăng đã thành hai, sao trước kia hiện ra có một?


Phú Lâu Na! “Duyên sanh như huyển” là vậy đó. Vì vậyNhư Lai dạy : ”Tánh sắc chơn không”. Và cũng vì vậy, Như Lai nói: “Tánh không chơn sắc…” Không có pháp nào có tự thể độc lập cố định của chính mình.


Tôn giả Phú Lâu Na đã dùng ý thức của tâm phân biệt mà nghi rằng bản tính của tứ đại vốn trái ngược và tiêu diệt lẫn nhau như nước kỵ lửa hay gió kỵ đất thì làm sao các đại có thể nương tựa, dung nạp với nhau? Đối với Phật giáo, khi chúng sinh còn chấp vào ý thức phân biệt thì họ còn chấp chặc vào sự tướng sinh diệt biến đổi nên không thể nhìn thấu thật tướng của vạn pháp bằng trí tuệ Bát nhã được. Các đại có thể dung nhau là vì tánh chất duyên sanh của nó. Vì thế hiện tượng vạn pháp là do nhân duyên sanh cho nên không có pháp nào có tự thể độc lập hay cố định đích thực cho riêng mình.


Tất cả vạn pháp trong thế gian hay tứ đại nói riêng đều là pháp giới tánh, đều là bản tánh chân như trong Như Lai Tạng. Mà đã là pháp giới tánh thì bao trùm khắp cả thì làm sao lại không dung được nhau.


Bởi vậy Phật mới dạy rằng :


Tánh sắc chơn không, tánh không chơn sắc…
Tánh thủy chơn không, tánh không chơn thủy…
Tánh hỏa chơn không, tánh không chơn hỏa…
Tánh phong chơn không, tánh không chơn phong…


Tất cả đều thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới, nhưng tùy chúng sinh tâm, ứng sở tri lượng mà tuần nghiệp phát hiện.


Thật tánh của tất cả sắc, thủy, hỏa, phong là không nên trong chơn không các đại dung nạp nhau rất tự tại. Nhưng một khi nhân duyên xuất hiện thì từ trong chơn không mà diệu hữu một cách nhiệm mầu để biến thành sắc, thủy, hỏa, phong. Chơn không, pháp giới tánh thì lúc nào cũng bản nhiên thanh tịnh, nhưng pháp giới tánh duyên khởi trùng trùng vô cùng vô tận. Mỗi khi có tâm niệm thì pháp giới tánh cũng duyên theo tâm niệm ấy mà thay đổi. Nếu chúng sinh tâm niệm nước thì pháp giới tánh duyên ra thành nước.

Nếu bây giờ chúng sinh tâm niệm về gió thì pháp giới tánh duyên ra thành gió. Nếu tâm niệm tất cả thì pháp giới tánh duyên ra tất cả đầy đủ đất, nước, gió, lửa. Trong hư không thì không thấy gì cả, mà thật ra cũng chính cái hư không này ngầm chứa đầy đủ các đại. Tại sao? Bởi vì trong hư không, không hề có tướng cho nên nó không ngăn ngại các tướng phát huy trong đó. Thí dụ như trong cái bầu trời này, nơi nào cũng có lửa, nơi nào cũng có gió, nơi nào cũng có nước, nơi nào cũng có sắc. Chúng dung nạp, nương tựa vào nhau và chỉ xuất hiện khi nào chúng sinhtâm niệm cần đến nó mà thôi. Hiện tượng này là bất biến tùy duyên. Vì vậy hư không chỉ xuất hiện là do tướng sở minh từ tánh giác diệu minh vọng tưởng mà sinh ra. Nói cách khác, nếu tâm mình vọng tưởng hư không thì hư không mới xuất hiện.

Các đại cũng thế, nếu chúng sinh vọng tưởng gió thì sẽ có gió. Vọng tưởng đất, nước, lửa thì các đại này sẽ dần dần xuất hiện. Nói tóm lại, nếu chúng sinh không còn vọng tưởng thì tất cả các tướng hữu vi sinh diệt sẽ bị tiêu diệtdĩ nhiên tâm sẽ biến thành bản giác diệu minh nên lúc nào cũng có thanh tịnh, an vui và tự tại. Cũng như khi còn trong chiêm bao, tất cả những cảnh tướng hiện ra rất rõ ràng, nhưng khi thức giấc (giác ngộ) thì cảnh tan, tướng mất, đâu còn. Vì thế nếu chúng sinh quay về soi thấu tự tâm của chính minh để sống với tánh giác diệu minh, với chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh thì tất cả những hình tướng hữu vi trong thế giới này sẽ hoàn toàn biến mất trong tâm của họ. Khi ấy vọng tưởng không còn và chúng sinh sẽ sống trong cảnh giới thanh tịnh, an lạc mà nhà Phật gọi là chơn như tịch tịnh Niết bàn.


Thí dụ, có hai người đứng gần nhau trên một hồ nước. Cả hai cùng thấy có một mặt trăng soi chiếu dưới hồ. Bây giờ nếu một người đi về hướng Tây thì thấy ánh trăng cũng đi theo người đó về hướng Tây. Đến khi người khác đi về hướng Đông thì ánh trăng cũng theo người kia về hướng Đông. Thế thì mỗi người đi mỗi hướng mà mỗi người đều thấy ánh trăng đi theo mình. Vì là huyển, nên ánh trăng tuy chỉ có một mà có thể theo hai hướng khác nhau và cũng là huyển, nên ánh trăng trước là một mà nay lại biến thành hai. Bởi vậy, sự vật duyên khởi như huyển như hóa tùy theo tâm niệm, nhưng tự tánh vẫn là pháp giới tánh, Như Lai Tạng thanh tịnh nhiệm mầu.

CHỈ TÁNH DIỆU MINH HỢP VỀ NHƯ LAI TẠNG, RỜI CẢ HAI NGHĨA “PHI” (KHÔNG LÀ) VÀ “TỨC” (TỨC LÀ)

CHỈ VỀ TRÁI VỚI GIÁC TÁNH, HỢP VỚI TRẦN TƯỚNG


Phật bảo :


- Phú Lâu Na! Do nhận thức đánh giá của ông về Sắc Không của Như Lai Tạng thì Như Lai Tạng theo cái nhận thức của ông mà có Sắc Không khắp cùng pháp giới. Vậy nên ông thấy gió thì động, hư không thì tịnh, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối. Ông và tất cả chúng sinh mê lầm, sống trái với giác tánh mình mà hợp với trần tướng cho nên sanh khởi cái nhận thức trần lao. Do đó có các tướng thế gian đối tượng.


Đoạn kinh này chỉ về cái tướng trái với giác tánh và hợp với trần tướng. Giác tánh chính là bản tâm thanh tịnh của chúng sinh và trần tướng là những tướng trần lao bên ngoài như nhà cửa, xe cộ….Như lai Tạngchơn tâm thường trú nên rất tịch tịnh, vắng lặng, nhiệm mầu. Nhưng nếu chúng sinh vọng tưởng thì Như Lai Tạng sẽ tùy theo vọng tưởng Sắc hay Không Sắc đó mà hiển bày. Thí dụ như chúng sinh vọng tưởng về gió thì gió sẽ lay động, vọng tưởng về nước thì sẽ có nước chảy…Tại sao? Vì những hiện tượng này phát khởi từ trong tâm thức của con người.

Đó cũng tại vì chúng sinh mê chấp nên từ bản tánh thanh tịnh sinh lầm ra vọng tưởng, trái với giác tánh chân thật. Và một khi vọng tưởng được thiết lập thì nó sẽ duyên theo cảnh giới bên ngoài nên mới gọi là hợp với trần tướng. Con người thường nhận thức, đánh giá và đặt tên cho những sự vật trên thế gian tùy theo tri kiến chủ quan của mình vì thế mới có chủ thể và đối tượng tức là có năng và có sở. Vì có năng có sở nên vọng thức phân biệt sinh khởi làm bản tánh thanh tịnh biến mất. Ngược lại, Đức Phật không nhận thức đánh giá sai lầm những sự vật hiện tượng trong thế gian theo tri kiến điên đảo chủ quan, mà Đức Phật sống đúng, sống hợp với tánh giác diệu minh, với chơn tâm thường trú, với Như Lai Tạng tịnh tịch và tánh duyên sanh của tất cả hiện tượng vạn hữu nên Ngài mới có Vô thượng Bồ-đềVô thượng Niết bàn là vậy. Thí dụ, mắt thấy cảnh đẹp làm tâm thích, tâm chạy theo si mê cảnh giới này.

Cảnh giới bên ngoài là trần tướng mà con người đem chặt vào tâm nên vọng tưởng si mê phát sinh. Không có cảnh đẹp là lòng không vui, như thiếu vắng cái gì. Niệm ưa thích phát khởi rồi con người sinh ra ái nhiễm, say đắm vào nó. Do đó khi vọng tưởng phát sinh ra hợp với trần tướng rồi thì các tướng hữu vi trần lao thay nhau sinh khởi trong tâm. Vì vậy muốn trở về với bản tâm thanh tịnh, con người phải diệt hết vọng niệm. Chính Lục Tổ ngày xưa đã dạy trong Pháp Bảo Đàn kinh rằng muốn trở về với bản lai diện mục thanh tịnh của mình, chúng sinh đừng để tâm trụ vào sự tướng bên ngoài (vô sở trụ) nghĩa là thấy mà như không thấy, nghe mà như không nghe…thì tâm mới được tự tại. Và vô niệm là tâm đừng vọng tưởng, hướng ngoài mà phải quay vào bên trong. Khi tâm không còn niệm thiện, niệm ác, niệm tốt, niệm xấu nghĩa là tâm không còn phân biệt chấp trước thì lúc ấy tâm sẽ trở về với thể tánh thanh tịnh tịch tĩnh của nó. Đó chính là chơn tâm, Phật tánh, bản lai diện mục, tánh giác diệu minh của tất cả mọi chúng sinh.


CHỈ TÁNH DIỆU MINH HỢP VỚI NHƯ LAI TẠNG


- Phú Lâu Na! Như Lai sử dụng tánh giác diệu minh không sai lầm nhận thức, không đánh giá điên đảo. Như Lai Tạng là tánh giác diệu minh khắp trùm pháp giới. Vậy nên đối với Như Lai : Một là tất cả, tất cả là một. Trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, ngồi tại đạo tràng bất động mà như ở khắp mười phương. Một thân mà trùm cả hư không vô tận, đầu một mảy lông mà hiển hiện ra vô vàn cõi Phật. Ngồi trong vi trần bé bỏng mà vận chuyển đại pháp luân, diệt hết nhận thức sai lầm trần tướng, sống hợp với giác tánh cho nên Như Lai nhìn đâu cũng là tánh chơn như sáng suốt nhiệm mầu.


Tánh giác vốn trong sáng thanh tịnh, thường diệu, thường minh nên được gọi là tánh giác diệu minh. Tánh giác luôn bao trùm khắp pháp giới, là bản thể chân không nên không có trọng lượng, kích thước, không tùy thuộc vào sự biến dịch của thời gian hay sự thay đổi của không gian. Trong tánh diệu chân như ấy, tất cả đều bình đẳng, không có lớn, không có nhỏ, không có một hay không có nhiều mà tất cả đều là bất nhị, không hai không khác. Vì Như Lai Tạng chính là tánh giác diệu minh chiếu soi khắp pháp giới cho nên mới có khả năng bao bọc cho nhau, lớn nhỏ dung nhiếp vào nhau. Do vậy mà trên đầu một sợi lông có thể hiện ra tam thiên đại thiên thế giới, hiện ra các cõi nước Phật và trong mây bụi trầnĐức Phật chuyển bánh xe pháp. Nếu chúng sinh diệt trần để quay về với tánh giác thì sẽ phát khởi chân như diệu giác minh tánh. Chính Đức Phật đã chứng nhập pháp giới tánh và Ngài đã diệu dụng pháp giới tánh đến chỗ tột cùng nên có thể biến hiện tất cả hoàn toàn tự tại vô ngại

CHỈ NHƯ LAI TẠNG LÀ “PHI” (KHÔNG LÀ) TẤT CẢ


Như Lai Tạng vốn là bản thể nhiệm mầu viên mãn. Tuy nhiên, nó không phải là tâm, không phải là không, không phải địa, không phải thủy, không phải hỏa, không phải phong. Nó không phải nhãn, không phải nhĩ, không phải tỷ, không phải thiệt, không phải thân, không phải ý. Nó không phải là sắc, không phải thanh, không phải hương, không phải vị, không phải xúc, không phải pháp. Nó không phải nhãn thức giới cho đến không phải ý thức giới. Nó không phải minh, không phải vô minh, không phải hết vô minh cho đến không phải lão tử, không phải hết lão tử. Nó không phải khổ, không phải tập, không phải diệt, không phải đạo. Nó không phải trí cũng không phải đắc. Nó không phải bố thí, không phải trì giới, không phải nhẫn nhục, không phải tinh tấn, không phải thiền định, không phải trí tuệ. Nó không phải là Như Lai, là ứng cúng, chánh biến tri. Nó không phải đại niết bàn, không phải thường, lạc, ngã, tịnh vì Như Lai Tạng không phải là pháp thế gian mà cũng không phải là pháp xuất thế gian.


Đoạn kinh trên cũng chính là Bát Nhã Tâm kinh. Đó là khi Quán Tự Tại Bồ Tát đã hành thâm Bát Nhã đến chỗ rốt ráo tột cùng thì Ngài thấy tất cả là không. Có thể nói rằng Bát Nhã Tâm kinh đã được trích ra từ trong đoạn “Như Lại Tạng là “không là” tất cả” của kinh Lăng Nghiêm cho nên Thủ Lăng Nghiêm mới được xiển dương là kinh khai mở trí tuệ, giúp chúng sinh tiến sâu vào Bát Nhã, thông hiểu tường tận tánh không mà nhập vào đại định để có giải thoát giác ngộ.


Cũng như Ngài Quán Tự Tại hành thâm Bát Nhã ba-la-mật-đa trong Tâm Kinh, ở đây Như Lai Tạng bản thể cũng không có chứa bất cứ tướng nào cả, cho dù đó là pháp thế gian hay pháp xuất thế gian. Cái mà con người gọi là trí tuệ để đạt, Niết bàn để chứng đắc, thành tựu Như Lai, Ưng cúng, Chánh biến tri, ngay cả lục căn, lục trần, mười tám pháp giới…đều là tướng của thế gian, chớ không phải là tướng của Như Lai Tạng bởi vì Như Lai Tạngbản thể chơn như của hiện tượng vạn pháp. Vì thế khi hành giả đi sâu vào đại định Thủ Lăng nghiêm thì tất cả các niệm ngay cả vi tế niệm cũng không còn. Nếu tâm chúng sinh còn một chút vọng niệm về thực chứng hay mong cầu mong đạt được đại định cho dù đó là vi tế thì đại định biến mất. Nói cách khác khi chúng sinh ly được tất cả các pháp của thế gian ngay cả xuất thế gian (chứng đắc) thì mới có thể hòa nhập vào trong Như Lai Tạng bản tánh thanh tịnh hoàn toàn mà được gọi là Thủ Lăng Nghiêm đại định.


CHỈ NHƯ LAI TẠNG “TỨC” (LÀ) TẤT CẢ


Nhưng cái bản thể nhiệm mầu viên mãn Như Lai Tạng lại cũng tức là tâm, là không, là địa, là thủy, là hỏa, là phong. Cũng tức là nhãn, là nhĩ, là tỷ, là thiệt, là thân, là ý. Cũng tức là sắc, là thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp. Cũng tức là nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Cũng tức là minh, là vô minh cho đếnlão tử, là hết lão tử. Cũng tức là khổ, là tập, là diệt, là đạo. Cũng tức là trí, là đắc. Cũng tức là bố thí, là trì giới, là nhẫn nhục, là tinh tấn, là thiền định, là trí tuệ cho đến cũng tức là Như Lai, là ứng cúng, là chánh biến tri. Cũng tức là đại niết bàn, là thường, là lạc, là ngã, là tịnh. Vì vậy, Như Lai Tạng biểu hiện qua tất cả các pháp thế gianxuất thế gian.


Đoạn kinh trên, Đức Phật dạy rằng trong Như Lai Tạng bản thể chơn như thì tất cả đều là không. Không có các pháp thế gian ngay cả đến các pháp xuất thế gian như chứng đắc, trí tuệ, Niết bàn…cũng là không. Nhưng đến đoạn kinh này, Đức Phật lại dạy rằng trong bản thể nhiệm mầu Như Lai Tạng thì tất cả các pháp thế gianxuất thế gian là có, là thật. Tại sao lại có sự mâu thuẫn như vậy? Trong Như Lai Tạng bản thể chân như thì không có tướng trạng nên tất cả đều hòa đồng, dung nhiếp nên gọi là không. Nhưng trong cái chơn không lại duyên khởi một cách mầu nhiệm để phát sinh ra mọi vật mà tạo thành cái thế giới hữu vi sinh diệt này. Trong pháp giới duyên khởi gọi hiện tượng này là bất biến tùy duyên nghĩa là từ cái chơn không mà diệu hữu ra tất cả nên mới có pháp thế gian và ngay cả pháp xuất thế gian là vậy. Nói cách khác hai đoạn kinh giúp chúng sinh thấu hiểu tường tận ý nghĩa sắc tức là không và không tức là sắc để phá bỏ cái chấp phải là “toàn sắc” hay “toàn không”.

DÙNG PHẬT NHÃN NHÌN HIỆN TƯỢNG VẠN PHÁP, KHÔNG CÓ VẤN ĐỀ “LÀ) HAY “KHÔNG LÀ” TRONG NHƯ LAI TẠNG BẢN THỂ CHÂN NHƯ NHIỆM MẦU


Này Phú Lâu Na! Như Lai Tạng vốn nhiệm mầu trong sáng, vượt ngoài sự phê phán đánh giá “là” hay “không là”. Vậy nên, chúng sinh trong ba cõi và hàng Thanh văn, Duyên giác dùng cái tri thức cạn cợt thì làm sao mà đo lường Bồ-đề vô thượng của Như Lai. Đem ngôn ngữ hạn hẹp của thế giandiễn đạt cái tri kiến Phật thậm thâm sao cho đến được. Ví như những cây đàn cầm, sắt, không hầu, tỳ bà, tuy có tiếng hay, nhưng nếu không có ngón tay thì rốt cuộc cũng không phát ra những tiếng hay. Ông và chúng sinh cũng vậy. Chơn tâm giác minh mọi người đều đầy đủ. Thế mà Như Lai ấn ngón tay thì rực rỡ hào quang, còn các ông vừa móng tâm thì trần lao đã nổi dậy. Đó là do các ông không siêng năng cầu vô thượng giác mà ham ưa pháp tiểu thừa, được chút ít cho là đủ.


Khi ra biển ngắm những làn sóng lặn hụp lên xuống thì “sóng “là” nước hay sóng “không là” nước? Nếu nói sóng và nước thì chắc chắn sóng và nước là hai tức là sóng “không là” nước. Còn nếu nói rằng nếu sóng mà không có nước thì làm gì có sóng do đó sóng “là” nước và nước “là” sóng. Như vậy sóng là hiện tượng của nước và nước là bản thể của sóng, tuy hai nhưng mà một bất khả phân ly. Khi động (có gió) thì nước nổi thành sóng, nhưng khi tịnh (gió tan) thì sóng trở về với thể tánh yên tịnh của nước vậy thôi. Như Lai Tạng cũng vậy, là bất tức bất ly bởi vì Tạng là tổng thể trùm chứa tất cả mọi nguyên nhân và kết quả của sự vật hiện tượng. Còn Như Laithường hằng bất biến, nhưng trong cái thường hằng bất biến này lại tùy duyên mà phát sinh ra muôn sinh vạn vật. Đó là bất biếntùy duyên. Thí dụ, trong thế gian này nơi nào cũng đều có đất tức là dạng của địa đại, nhưng cũng từ đất này mà tùy duyên tạo thành nhà cửa, chén đĩa, lâu đài, thành quách….nhưng một ngày nào đó thì những sự tướng kia cũng theo thời gianbiến đổicuối cùng cũng trở về lại với đất. Đây là tùy duyênbất biến vậy.


Như Lai Tạng bây giờ nếu tùy duyên tác động vào tâm chúng sinh, con người sẽ phát sinh ra những cảm giác vui buồn, hờn giận, thương ghét, tốt xấu, hơn thua, phải quấy…nhưng nếu chúng sinh biết xoay về bản thể chân thật của mình thì vui buồn tan biến, thương ghét không còn và tâm sẽ trở về với tự tánh thanh tịnh bất biến của nó. Nói cách khác, Như là bất biến còn Lai là tùy duyên. Vì thế Như Laibất biến tùy duyên và cũng tùy duyên bất biến. Có tùy duyên bất biến nên chúng sinh mới có thể hóa giải vô minh phiền não để trở về sống với chơn tâm, tánh giác diệu minh của chính mình.

Như Lai Tạngbản thể chơn như của tất cả hiện tượng vạn pháp, vốn thanh tịnh bản nhiên nên lìa tất cả các pháp. Vì thế trong Như Lai Tạng bản thể, không có gì gọi là chứng đắc, không có gì gọi là đạt được (bất khả đắc). Như Lai Tạng tuy rời tất cả tướng thế gian, nhưng nó không phải là cảnh giới xa xôi nào khác vì Như Lai Tạng chính là tất cả các pháp tức là Như Lai Tạng “là” và “không là”. Con người vì sống trong vô minh điên đảo nên chỉ biết hiện tượng vạn pháp mà không hề nghĩ đến bản thể Như Lai Tạng mầu nhiệm này.

Nhưng nếu suy nghĩ kỷ lại thì tất cả những thứ buồn vui, thương ghét, tánh tham, tật đố…đều phát xuất từ bản tâm hoàn toàn thanh tịnh, trong sáng của tất cả mọi người. Vì thế thanh tịnh thì do ta mà phiền não thì cũng do ta do đó mà trong kinh Duy Ma Cật mới có câu : ” Tùy kỳ tâm kinh, tắc Phật độ tịnh” là vậy. Cái thể tánh tuyệt đối Như Lai Tạng không thể dùng ngôn ngữ hạn hẹp của con người để chứng nhập nó được. Thật ra cái thể tánh tuyệt đối đó con người vốn có sẳn như Chư Phật, nhưng chúng sinh phải quay về thể nghiệm mà trực nhận thể tánh ấy thẳng nơi tự tâm của mình (thực chứng Bát nhã) chớ không thể chỉ biết nghiên cứu qua lời Phật dạy (văn tự Bát nhã) mà quên đi tâm tánh của chính mình.

Ở đây, Phật ví Như Lai Tạng như người có cây đàn tốt mà không biết đàn thì rốt cuộc cũng không phát ra những âm thanh hay được. Bây giờ cây đàn tốt gặp người chơi đàn giỏi thì sẽ phát ra những âm thanh huyền diệu tuyệt vời. Như Lai Tạng cũng thế, tuy chúng sinh vốn đã có sẵn tâm tánh nhiệm mầu, nhưng con người cần phảitrí tuệ sáng suốt để phát khởi diệu dụng, quay về sống với chơn tâm thường trú, tánh giác diệu minh của chính mình thì mới thoát khỏi trần lao phiền não và phá trừ chấp ngã, chấp pháp mà có được giải thoát giác ngộ.

Đức Phật vì tâm hoàn toàn thanh tịnh nên chơn tâm hiển bày, Pháp thân hiển lộ nên Ngài có hào quang sáng chói, rực rỡ huy hoàng. Ngược lại chúng sinh vì tâm còn chất đầy vọng tưởng nên trần lao nổi dậy mà sống trong điên đảo khổ đau. Đối với các vị trong hàng Thanh văn, Duyên giác tuy mới chứng đắc lục căn thanh tịnh mà cho là đầy đủ nên không cầu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác vì thế các vị trong hàng Nhị thừa chưa thấy được Pháp thân thanh tịnh Như Lai, chưa vào được trong Như Lai Tạng bản tánh chơn như. Không chứng được Pháp thân thanh tịnh viên mãn thì làm sao thành Phật được?


Nói tóm lại, trong tất cả mọi chúng sinh ai ai cũng đều có Phật tánh, chơn tâmbản tánh thanh tịnh Bồ-đề, nhưng con ngườichạy theo dục vọng, làm nô nệ cho vô minh phiền não mà quên bỏ đi cái trí tuệ Bồ-đề sẳn có của mình nên sống trong trần lao, khổ ải và phải chịu sinh tử khổ đau. Bản tánh Bồ-đề vốn thanh tịnh, nhưng vì một niệm vô minh mà sinh ra muôn vàn cảnh giới để phải chịu sinh tử luân hồi.

MÊ VỌNG KHÔNG CÓ NGUYÊN NHÂN. HẾT MÊ TỨC LÀ BỒ ĐỀ (GIÁC)


Ông Phú Lâu Na thưa :


- Bạch Thế Tôn! Chơn tâm thanh tịnh giác ngộ viên mãn của tôi và của Như Lai không hai; vậy mà tôi thì bị vọng tưởng vô thỉ sai sử cho nên ở trong luân hồi lâu xa nhiều kiếp. Nay dù được thánh quả mà còn chưa rốt ráo. Thế Tôn thì các vọng tưởng được gạn lọc sạch trong, còn thuần một tâm tánh chơn thường mầu nhiệm. Tôi xin hỏi Như Lai : Tất cả chúng sinh do nguyên nhân nào mà có vọng để rồi tự che mất tâm tánh sáng suốt nhiệm mầu của mình, phải chịu luân hồi trôi nổi khổ đau?


Câu hỏi này của Ngài Phú Lâu Na rất thực dụng cho hoàn cảnh của tất cả chúng sinhĐức Phật dạy rằng trong tất cả mọi người ai ai cũng đều có Phật tánh, chơn tâm thế mà tại sao chỉ có Như Lai mới sống được trong tự tánh thanh tịnh nhiệm mầu này, còn chúng sinh do nguyên nhân nào mà chạy theo khách trần phiền não trần lao để phải chịu trôi mình trong sinh tử trầm luân? Vậy Như Laichứng đắc gì chăng? Cái mà con người gọi là chứng đắc chẳng qua là trở về với bản tánh cố hữu tức là bản lai diện mục của mình vậy thôi.

Quả vị Phật mà Như Lai chứng đắc là vô thực mà vô hư. Tại sao? Bởi vì quả vị Phật mà Như Lai thành tựu thì không có hình tướng, không có màu sắc, không có văn tự diễn tả nên cái chứng đắc này là không thật có, không tìm đâu ra. Nhưng nếu không thật thì quả vị Phật phải là hư? Thế mà cái chứng đắc trên lại là vô hư. Tại sao? Mặc dù không ai thấy được hình tướng của sự chứng đắc, nhưng chính Đức Phật có được bảo sở thanh tịnh Niết bàn, có được vô thượng Bồ-đề nên Ngài không bao giờ còn bị vô minh phiền não quấy phá. Thế thì cái chứng đắc chính là vô hư tức là có thật.


Phật dạy rằng :


Phú Lâu Na! Ông dù trừ được tâm nghi, nhưng tư tưởng mê lầm chưa dứt. Ông há không nghe trong thành Thất La Phiệt có chàng Diễn Nhã Đạt Đa vào một buổi sáng mai, đứng trước gương soi mặt, bỗng dưng ham thích cái đầu trong gương, còn cái đầu của mình tự bấy lâu nay anh ta cho là đồ yêu quái vì anh chẳng thấy được mày, mắt, mặt, mũi, đẹp đẽ như cái mặt trong gương. Rồi chàng ta kinh hãi phát điên ôm đầu chạy hoảng.


Phú Lâu Na! Ông nghĩ thế nào! Diễn Nhã Đạt Đa do nguyên nhân gì bỗng dưng phát điên ôm đầu chạy hoảng?


- Bạch Thế Tôn! Tâm người ấy điên chớ không duyên cớ gì khác.


- Phú Lâu Na! Tánh giác thì tròn đầy sáng suốt nhiệm mầu từ xa xưa đến nay vẫn không lúc nào tạm vắng ở trong ông. Còn cái vọng? Đã gọi là vọng thì làm sao có nguyên nhân! Nếu có nguyên nhân thì sao gọi là vọng được? Vọng tưởng tự xoay vần làm nhân cho nhau, từ cái mê này thêm cái mê khác tích lũy qua số kiếp như vi trần cho nên dù Phật chỉ rõ mà ông hãy còn chưa biết trở về. Cái nhân của mê do mê mà tự có. Biết được cái mê không có nguyên nhân thì cái vọng không có chỗ gá sanh. Thế thì cái sinh còn không có, còn đem cái gì để làm cái diệt? Giả sử có cái diệt thì diệt để diệt cái gì?


Phú Lâu Na! Người được đạo Bồ-đề ví như người tỉnh giấc, kể chuyện trong chiêm bao. Tâm ghi nhớ rõ ràng nhưng không sao lấy vật trong chiêm bao ra được. Huống chi cái mê vốn không, không nhân, không gì cả thì tìm sao cho nó có cội nguồn? Như cái điên của chàng Diễn Nhã đâu có nguyên nhân, tự sợ đầu mình mà bỏ chạy. Khi hết điên thì cái đầu cũng vẫn là cái đầu của anh vốn có. Lúc điên loạn, cũng không vì vậy mà anh tạm mất cái đầu.


Phú Lâu Na! Tánh của cái vọng là như vậy, làm sao tìm có nguyên nhân? Ông chỉ cần đi ngược dòng tương tục của ba thứ : Thế gian, nghiệp quảchúng sinh. Ba duyên đã chặt đứt thì ba nhân chẳng có cơ sở để sanh. Bấy giờ cái tánh điên cuồng Diễn Nhã Đạt Đa trong tâm ông tự hết. Hết tức là Bồ-đề. Cái chơn tâm trong sáng khắp cùng pháp giới xưa nay, không do ai cho mà tự được, chẳng cần tu chứng nhọc nhằn vất vả lôi thôi. Ví như người có hạt như ý châu trong vạt áo mà không biết không hay, gần suốt cuộc đời tha phương cầu thực cùng khổ lang thang bỗng có người thiện hữu phát hiện, chỉ hạt châu cho, bấy giờ người cùng khổ trở thành giàu có nhất đời. Ngồi gẫm lại nửa đời lưu lạc tự hận cho số kiếp dại khờ :

Thì ra viên như ý châu không phải từ ngoài, ai đem đến. Trước khi trả lời ông Phú Lâu Na về nguyên nhân nào mà có vọng để che mất tâm tánh sáng suốt nhiệm mầu của mình, Đức Phật dùng phương tiện lấy một người điên trong thành Thất La Phiệt mà làm thí dụ để diệt trừ mối nghi hoặc trong tâm ông Phú Lâu Na. Anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa một buổi sáng mai, lấy gương soi mặt, thấy cái đầu trong gương mặt mày, mắt, mũi đẹp đẽ mà nghĩ rằng cái đầu mình biến mất nên bổng phát điên, rồi sợ hãi bỏ chạy.


Vậy nguyên nhân nào khiến anh chàng này phát điên mà ôm đầu bỏ chạy? Thật ra chả có nguyên nhân nào cả, chỉ vì anh ta sống trong mộng tưởng điên đảo, lấy giả làm chân rồi đâm ra sợ hãi bỏ chạy.


Bát Nhã Tâm kinh dạy rằng : ”Y Bát Nhã ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết bàn” nghĩa là Bồ-tát y theo Bát Nhã ba-la-mật-đa nên tâm không còn ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không còn sợ hãi, xa lìa điên đảo, mộng tưởngđạt đến cứu cánh Niết bàn. Vậy anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa nếu không phải sống trong mộng tưởng điên đảo chớ là gì?


Nếu đã là mộng tưởng thì làm gì có thật. Tưởng là những sự phân biệt thương ghét, vui buồn, hờn giận hằng ngày. Còn mộng cũng là những sự phân biệt vui buồn, thương ghét nhưng ở trong chiêm bao vì thế mộng, tưởng đều là vọng thức, là giả huyển, là không thật. Cho nên Bồ-tát nếu lìa xa những vọng thức giả huyển này thì tâm mới được thanh tịnh mà có được Niết bàn. Vậy vọng thì làm gì có nguyên nhân.

Tại vì con người còn chấp ngã, chấp pháp nên sinh ra vọng. Nhưng tâm tánh của con người luôn luôn sáng suốt nhiệm mầu, lúc nào cũng ở trong tâm của chúng sinh, chớ không bao giờ mất cả. Con ngườinhận thức chủ quan sai lầm thiếu sáng suốt nên vọng thức mới sanh. Cái vọng này sang cái vọng khác, xoay vần mãi mãi trong vô lượng kiếp ngay đến khi được Phật chỉ dạy rõ ràng mà vẫn không chịu giác ngộ tâm tánh của mình. Có hồi đầu thị ngạn, quay về với chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh của mình thì vọng tan, chơn hiện mà sống trong thanh tịnh, an lạc của Niết bàn.


Vọng là do mê, là tánh mê, tánh bất giác chớ không có nguyên nhân gì khác. Vì thế trong Bát Nhã, không có cái gì gọi là diệt. Không có vô minh cũng không có cái hết vô minh. Không có tuổi già sự chết và cũng không có cái hết tuổi già sự chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí tuệ cũng không có chứng đắc chi cả. Vì là phàm nhân nên còn thấy có vô minh phiền não cần phải diệt. Còn thấy có khổ, tập, diệt, đạo nên cần tu chứng để có trí tuệchứng đắc.

Nhưng trong trí tuệ Bát Nhã thì vạn pháp duyên sanh như huyễn nên không có cái gì là thật cả. Đã là không thật thì lấy gì để diệt, để trừ, để chứng, để đắc, vô minh hay hết vô minh. Đối với phàm nhân thì họ nhìn thế gian là thật, đau khổ là thật, vô minh là thật, phiền não là thật nên cả đời lo tìm cách hóa giải, diệt trừ. Trừ phiền não này chưa xong, phiền não khác lại đến. Vô minh này chưa hết thì vô minh khác lại hiện ra nên cả đời sống trong điên đảo khổ đau. Ngược lại, Bồ-tát cũng nhìn cái thế gian này mà đối với họ tất cả đều là huyển nên tâm không bao giờ dính mắc. Phàm nhân thấy cái gì cũng thật nên mới ham, mới thích khiến tham-sân-si dấy khởi mà tạo nghiệp để phải chịu quả khổ đời đời.


Người mê ví như người còn ngủ trong giấc chiêm bao, thấy cảnh tượng cho là thật nên mới có khổ vui, thương ghét, hờn giận đến khi thức tỉnh thì cảnh hãi hùng tan biến, cơn ác mộng bay đi vì tất cả chỉ là giả huyển. Cũng như anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa khi điên thì ôm đầu chạy, nhưng cái đầu đâu có mất bao giờ. Con người cũng thế. Tuy chúng sinh sống trong vô minh phiền não, nhưng tánh giác diệu minh, chơn tâm vĩnh hằng của mình không hề bị mất. Khi thức tỉnh giác ngộ thì chơn tâm tự hiển bày, vô minh phiền não biến mất. Trong đạo Phật không hề có chứng đắc.

Tại sao? Bởi vì một khi chúng sinh biết hồi đầu thị ngạn, biết quay thuyền trở lại bến xưa để sống đúng với chơn tánh, với tánh giác trong sáng của mình thì người đời gọi là chứng đắc chớ thật ra cái tánh giác trong sáng kia đã có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh rồi vì thế tu hành trong nhà Phật thì gọi là hồi đầu thị ngạn thế thôi. Cũng như người trong túi đã có sẵn viên ngọc bích mà không biết nên cả đời sống trong lầm than đau khổ. Nay có người thương tình chỉ cho nên đem viên ngọc bán đi thì cái nghèo biến mất, đâu còn. Nhưng nghĩ lại viên ngọc bích lúc nào cũng có chớ đâu phải làm ăn khổ cực gì để tạo ra hay do ai cho?


Vậy đoạn kinh này dạy chúng sinh phải tin vào khả năng thành Phật của mình mà khi thành đạo, chính Đức Phật đã khẳng định rằng : ”Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” nghĩa là trong tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật. Chúng sinh phải tin vào khả năng hóa giải tất cả mọi vô minh phiền não bằng chính khả năng và nghị lực của chính mình. Người đệ tử Phật không thể cầu khẩn nơi thần thánh, tha nhân nào đó hay gởi gắm tâm hồn nơi vô định để có được an vui hạnh phúc, Bồ-đề hay Niết bàn là một sự tin tưởng sai lầm đáng thương xót.


Con ngườichạy theo trần cảnh làm nhiễm ô tâm tánh của mình mà phát sinh ra ngã chấppháp chấp. Ngày xưa Đức Phật chỉ có tam y nhất bát, ngày ngày đi khất thực thính chúng, đêm ngủ dưới gốc cây không quá ba ngày cũng là một hình thức đối trị để phá bỏ hoàn toàn ngã chấp. Hễ có chấp ngã như địa vị, chức tước, quyền hành…thì sẽ có ngã sở hữu như danh vọng, tiền tài, nhà cửa, xe cộ…Con người có làm những điều tàn ác, giết hại lẫn nhau cũng chỉ vì muốn bảo vệ bản ngãngã sở hữu của mình mà cội nguồn của nó vẫn là vô minh, si mê tăm tối. Bao cuộc chiến tranh trên thế giới từ xưa đến nay cũng không ngoài mục đích thỏa mãn bản ngãngã sở hữu của mình.

LẠI RƠI VÀO NHẬN THỨC ĐỐI ĐÃI CỦA THUYẾT NHƠN DUYÊNTỰ NHIÊN


Bấy giờ ông A Nan đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch rằng :


- Đức Thế Tôn nói về các nghiệp sát, đạo, dâm và ba duyên đoạn rồi thì ba nhân không sanh, tánh Diễn Nhã Đạt Đa trong tâm tự hết. Hết tức Bồ-đề, không do ai đem đến.


- Bạch Thế Tôn! Như thế rõ là nhân duyên rồi, tại sao Như Lai bác bỏ nghĩa nhân duyên? Chẳng riêng gì tôi mà một số Thanh Văn trong hội này : Mục Kiền Liên, ông Xá Lợi Phất, ông Tu Bồ-đề…đều do nghe lý nhân duyên của Phật mà phát tâm tỏ ngộ, được thành quả lậu.


Nay Phật dạy Bồ-đề không do nhân duyên, vậy thì các thuyết tự nhiên của bọn ngoại đạo Câu Xa Ly, thành Vương Xá lại là đệ nhất nghĩa rồi sao? Xin Phật rũ lòng đại bi chỉ giáo cho kẻ chưa hết mê mờ.

Diệu tánh bản nhiên vốn tự viên thành chớ không do người khác đưa tới và cũng không phải nhờ khổ công tu tập. Trong đoạn kinh trên, Đức Thế Tôn bất đắc dĩ tạm mượn chuyện anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa mê cái đầu để chứng minh điều đó nhằm khai thị cho chúng sinh biết nguồn vọng vốn không nhân. Bởi diệu giác minh tâm xưa nay không hư vọng, mà đã là vọng thì đâu có nhân gì bởi vì có nhân thì không gọi là vọng được. Ba duyên tức là sát, đạo, dâm đã dứt thì ba nhân tức là thế giới, chúng sinhnghiệp quả cũng không thể phát sinh được. Thế thì diệu giác minh tâm xưa nay vốn không mê, không phải có được do bên ngoài cũng giống như tâm điên của Diễn Nhã Đạt Đa nếu hết thì anh chàng này sẽ biết rằng cái đầu kia không phải do bên ngoài mà được.

Tuy A Nan nghe Phật nói diệu tâm đốn chứng chớ không phải nhờ sự tu hành, nhưng tôn giả vẫn cho rằng đó là do nhân duyên bởi vì A Nan nghĩ rằng Phật tánh nhờ nhân duyênhiển bày. Mà Phật tánh là thứ sẵn có chớ không cần tu mà được thì rõ ràng Phật tánh chính là tự nhiên rồi. Thêm nữa, ông A Nan lại còn dẫn chứng nhiều vị đệ tử Phật và ngay cả ông nữa, cũng do nhân duyên mà được giác ngộ. Vì thế nếu giác ngộ không do nhân duyên, thì không lẽ giác ngộ lại do tự nhiên và đã là tự nhiên thì giáo pháp của Như Lai có khác gì những thuyết tự nhiên của ngoại đạo? Trên thế gian này tất cả hiện tượng vạn hữu không có sự vật nào tự nhiên mà có. Muốn no thì phải ăn chớ không tự nhiên mà no được.

Ngay cả trong thiên nhiên như mưa, nắng, bão tố cũng không có cái gì là tự nhiên cả. Hằng năm vào mùa hè, những tiểu bang miền trung Tây Hoa Kỳ và dọc theo vịnh Mễ Tây Cơ thường có những cơn bão và gió lốc tàn phá nhà cửa và giết hại chúng sinh. Thật ra khi khí nóng từ miền Nam gặp khí lạnh từ miền Bắc tạo thành những vòng xoáy với vận tốc rất lớn mà con người gọi là gió lốc. Nếu không có những dòng khí nầy thì làm gì tự nhiên mà có gió lốc được? Lý luận của A Nan chứng tỏ ông chưa thật viên ngộ chơn tâm, Như Lai tạng tánh, diệu giác minh tâm, bản thể chơn như của hiện tượng vạn pháp bởi vì nhân duyên chỉ đúng trong thế giới tương đối còn trong thế giới bản thể tuyệt đối, đệ nhất nghĩa đế thì làm gì có nhân duyên hay tự nhiên. Mà chưa viên ngộ thì không thể viên tu được cũng bởi vì ông A Nan học rộng nhớ nhiều mà không chịu tu chứng nên còn thấy biết lầm lẫn. Có rời văn tự, ly ngôn thuyết mới nhận chứng được Bản thể chơn như.


Bây giờ Phật mới bảo rằng :


- A Nan! Theo ý ông thì chàng Diễn Nhã Đạt Đa kia, nếu diệt trừ hết “nhân duyên điên” thì tánh “tự nhiên không điên” hiện ra. Lý nhân duyên tự nhiên theo hiểu biết của ông, luận đến cùng là như vậy?

Này! A Nan! Cái đầu chàng Diễn Nhã Đạt Đa vốn là “tự nhiên”. Nếu nó đã “tự nhiên”, vậy do “nhân duyên” gì mà sợ cái đầu phát điên ôm chạy? Đầu vốn” tự nhiên” vì “nhân duyên” gì mà điên? Tại sao không vì “nhân Duyên” gì mất đi để khỏi điên? Cái đầu không mất, cũng chẳng thay đổi chút nào. Còn cái điên là do mê vọng mà có, không bởi, cũng chẳng tại “nhân duyên” mà có ra. Nếu tánh điên vốn “tự nhiên”, tự nhiên sẵn có tánh hoảng sợ, vậy lúc chưa điên, cái điên ẩn trú chỗ nào? Tánh hoảng sợ nương náu ở đâu? Nếu tánh không điên là tự nhiên thì trong đầu chẳng có việc gì, cớ sao lại phải phát điên ôm đầu chạy? Nếu hiểu kỹ rằng : Cái đầu là đầu của mình sẵn có rồi. Biết chắc rằng : vì điên mà ôm đầu chạy hoảng thì cái thuyết “nhân duyên” “tự nhiên” đều là hý luận. Thế nên Như Lai nói :

Ba duyên đoạn rồi là Bồ-đề tự hiện. Nếu bảo rằng: Đoạn ba duyên rồi thì Bồ-đề tâm sanh, vì tâm sanh diệt đã diệt thì đó cũng chỉ là “sanh”, “diệt” trong vòng đối đãi. Diệt và sanh đều xóa hết, mới đến chỗ “vô công dụng”. Ông A Nan xưa nay luôn chấp vào quan niệm nhân duyên, tự nhiên cũng là việc thường tình vì ông chưa thâm nhập vào bản thể chân như, vào chơn tâm tuyệt đối. Giáo lý của Đức Phật có thể chia làm hai mặt : Nếu đứng về phương diện không gian thì đạo Phật chủ trương rằng vạn pháp là do nhân duyên hòa hợp mà thành. Còn đứng về phương diện thời gian thì vạn pháp là do nhân và quả mà thành tựu.

Thí dụ vì do nhân duyên như gạch, ngói, cây, gỗ nên cái nhà được xây dựng. Trong khi đó, nếu ngày nay chuyên cần học tập thì năm mười năm sau chúng ta sẽ có nghề nghiệp vững chắc. Nhưng đây chỉ là chân lý tục đế tức là chân lý tương đối, có sinh có diệt. Còn đệ nhất nghĩa đếchân lý tuyệt đối, bất sinh bất diệt, vô cùng vô tận thì làm gì có nhân duyên hay tự nhiên. Vì thế Đức Phật mới mượn câu chuyện anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa để khai thị cho A Nan. Nếu nói rằng Diễn Nhã Đạt Đa tự nhiên điên thì không đúng. Bởi vì trước khi chưa điên thì “cái tự nhiên điên” nó ở đâu?

Còn nếu cho rằng Diễn Nhã Đạt Đa tự nhiên điên thì lúc nào anh chàng này cũng điên chớ đâu phải đợi đến lúc soi mặt mình trong gương thì mới phát điên ôm đầu chạy. Vậy thuyết “tự nhiên” dĩ nhiên là không đúng cho nên Phật mới bác bỏ. Nếu tự nhiên không đúng thì nhân duyên như thế nào? Nếu cho rằng vì do nhân duyên mà anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa bị điên, ôm đầu chạy như thế khi cơn điên hết thì nhân điên và duyên điên ở đâu, cái nhân duyên điên đó phát xuất từ chỗ nào? Nếu đã là tự nhiên không điên thì nhân duyên gì phát điên ôm đầu chạy hoảng? Nhân đã không tìm thấy thì duyên làm sao có được. Vì thế thuyết tự nhiên sinh, tự nhiên có không phải là của Phật giáo, không đúng chân lý mà là triết lý của Lão Tử trong Đạo Đức kinh. Còn nói về nhân duyên là nói về tục đế tức là giáo lý tương đối nhưng trong đệ nhất nghĩa đế không hề có nhân duyên và cũng chẳng có tự nhiên.


Phật lại dạy rằng :


A Nan! Bồ-đề Niết bàn còn xa, nếu ông không siêng năng tu tập, dù ông có nhớ diệu nghĩa 12 bộ kinh của thập phương Như Lai cũng chỉ thêm nhiều hý luận. Dù ông có huân tập đa văn, ông cũng không tự hóa giải nạn Ma Đăng Già, dù nhiều kiếp nhớ ghi diệu pháp của Phật, cũng không bằng một ngày chuyên tu vô lậu nghiệp. Xa lìa hai khổ thương ghét thế gian. Ma Đăng Già trước kia là dâm nữ, do được nghe Thủ Lăng Nghiêm mà diệt được lòng ưa muốn. Nay trong Phật pháp nàng có tên Tánh tỳ kheo ni, cùng với mẹ La Hầu LaDa Du Đà La, đồng ngộ nhân trước, biết đã trải qua nhiều đời, nhân vì tham ái mà khổ, một niệm huân tu pháp vô lậu thiện, thì người đã ra khỏi ràng buộc, người thì được Phật thọ ký, làm sao, ông còn tự dối mình, mắc míu mãi trong vòng nghe thấy.


A Nan là một điển hình cho chúng sinh tập khí giỏi văn chương, giàu ngôn từ, nhưng không chịu tham thiền, nhập định nên không bao giờ thấy được Pháp thân thanh tịnh của mình. Tuy Phật pháp cao siêu mầu nhiệm và được dung chứa trong 12 bộ kinh, nhưng Đức Phật giáo hóa chúng sinh dựa theo 8 phương thức (tám khoa) khác nhau :


1) Tạng giáo : là các pháp môn tu học có dạy chung trong tam tạng kinh (Kinh tạng, Luận tạngLuật tạng).


2) Thông giáo : là giáo pháp dạy chung cho tất cả ba hạng căn cơ : Thượng, Hạ, Trung và ba thừa : Tiểu, Trung và Đại.


3) Biệt giáo : là giáo pháp dạy riêng cho mỗi căn cơ hoặc Thượng, hoặc Trung, hoặc Hạ, hoặc riêng cho Tiểu thừa, hoặc riêng cho Trung thừa, Duyên giác, hoặc riêng cho Đại thừa Bồ-tát.


4) Viên giáo : là giáo pháp viên tròn, đầy đủ cũng còn gọi là “liễu nghĩa”. Thí dụ như kinh Hoa Nghiêm chỉ chuyên dạy cho các hàng Bồ-tát Đại sĩ Pháp thân (từ Thập trụ đến Thập Địa Bồ-tát).


5) Đốn giáo : là giáo pháp đốn ngộ tức là giác ngộ nhanh chóng. Đây là pháp môn trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật hay là “Trực chỉ Thiền” của Tổ Bồ-đề Đạt Ma hay Lục Tổ Huệ Năng.


6) Tiệm giáo : là giáo pháp dạy tu chứng dần dần, từ bậc thấp lên đến bậc cao. Thiền thì có Ngài Thần Tú và cũng là Tịnh độ pháp môn.


7) Bí mật giáo : là dạy vế cách bắt ấn, trì chú, tam mật tương ưng tức thân thành Phật. Nói cách khác thân, khẩu, ý của mình tương ứng với thân, khẩu, ý của Phật. Đây là Mật tông.


8) Bất định giáo : là giáo phápĐức Phật tùy theo cơ nghi thuyết dạy chớ không nhất định là phải thuộc riêng về một căn cơ nào cả.

Khi Phật giáo du nhập vào Trung Hoa vào thế kỷ thứ 7, ở phương Bắc có Ngài Thần Tú trong khi đó ở phương Nam có Lục Tổ Huệ Năng. Chính Lục Tổ đã dạy chúng sinh “Trực chỉ thiền” mà về sau được chia ra làm năm nhánh. Đó là Vân Môn, Pháp Nhãn, Tào Động, Quy NgưỡngLâm Tế. Tất cả hiện tượng vạn pháp đều phát nguyên từ bản thể chơn như mầu nhiệm, nhưng con người phải lìa văn tự, ly ngữ ngôn, hồi quang phản chiếu để thấy được bản tâm thanh tịnh thì Bồ-đề, Niết bàn mới hiển lộ.

Tuy nhiên, người đệ tử Phật khi tu hành để muốn được chứng đắc nên dùng tâm muốn lấy, muốn kiến, muốn đắc thì họ lại lọt vào vọng rồi. Thí dụ, tham thiền để muốn được kiến tánh tức là kiến tánh thành Phật hay niệm Phật để muốn được nhất tâm thì tâm này là vọng tâm. Tại sao? Bởi vì Phật của mình đã thành sẵn rồi chớ không phải khi kiến tánh mới đắc được, do vậy mà chư Tổ đã dạy rằng : ”Vô sở cầu, vô sở đắc, vô sở sợ” là vậy. Nếu còn hy vọng chứng đắc là vọng. Vì thế Đức Thế Tôn mới thương xót khuyên A Nan cố gắng tu hành. Bồ-đề, Niết bàn vẫn còn xa lắm nếu A Nan không siêng năng trải qua nhiều kiếp tu hành thì không thể chứng nghiệm chân lý.

Cho dù A Nan có ghi nhớ toàn bộ 12 bộ kinh thì cũng chẳng ích lợi gì. Đa văn là do nhiều kiếp huân tập mà có, nhưng vẫn không tránh khỏi nạn Ma Đăng Già mà phải nhờ thần chú Thủ Lăng Nghiêm mới giải cứu ông ta được. Vì thế tuy A Nan trải qua nhiều kiếp học rộng, biết nhiều nhưng vẫn không bằng một ngày tu vô lậu nghiệp. Đến như dâm nữ Ma Đăng Giàcông chúa Da Du Đà La chỉ cần một niệm huân tu vô lậu thiện mà một người đã thoát ly phiền trược trở thành A la hán, một người được Phật thọ ký về sau sẽ thành Phật (kinh Pháp Hoa).

Còn A Nan là một nam tử đại trượng phu cớ sao không dũng mãnh huân tu mà còn mắc kẹt trong vòng nghe thấy (kiến, văn, giác, tri). Người đệ tử Phật phải tin rằng mình đã sẳn có diệu tâm sáng tỏ, không phải do tu mới thành, do chứng mới đắc. Tất cả kinh điển của Phật chỉ là phương tiện dùng để phá tư tưởng chấp thật của mình. Vì thế, khi thức tỉnh thì mới biết mình có tất cả. Tự tán h Bồ-đề, tự tánh Niết bàn thì lúc nào cũng sẵn có trong tất cả mọi chúng sinh cũng như mây tan thì trời sáng hay đào ao có nước thì ánh trăng sẽ hiện mà không cần phải trông chờ mong đợi gì hết.

PHẬT CHỈ HAI NGHĨA QUYẾT ĐỊNH

ÔNG A NAN TRẦN THUẬT CHỖ THÂM NGỘ VÀ THỈNH VẤN PHÁP TU GIẢI PHÁP


Ông A Nanđại chúng nghe Phật dạy, những mối nghi hoặc được trừ, tâm ngộ thật tướng, thân ý khinh an được cái vui từng có. Người người cảm kích sung sướng đến rơi nước mắt.


Bấy giờ ông A Nan đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật và thưa rằng :


- Bạch Thế Tôn! Đức đại bi vô thượng thanh tịnh bảo vương, khéo dùng phương tiện : Nhơn duyên, thí dụ, lời lẽ mở mang tâm trí, hướng dẫn chúng tôi ra khỏi biển khổ tối tăm.


- Bạch Thế Tôn! Nay tôi dù được nghe pháp âm như vậy, tôi nhận biết Như Lai Tạng bản thể, là chơn tâm vốn giác ngộ sáng suốt nhiệm mầu, nó trùm chứa tất cả cõi nước thanh tịnh bảo nghiêm của mười phương chư Phật. Dù vậy, tâm trạng tôi vẫn còn là tâm trạng của kẻ lữ hành phiêu bạt, bỗng gặp thiên vương cho ngôi nhà tráng lệ nguy nga. Tuy được nhà lớn, song điều cốt yếu là phải biết cửa để vào. Cúi xin Như Lai đem lòng đại bi vô hạn, chỉ dạy cho những kẻ tối tăm trong hội này rời bỏ Tiểu thừa, được vô dư Niết bàn Như Lai vô thượng và cũng khiến cho hàng hữu học Biết cách uốn dẹp tâm vướng víu lâu đời để được pháp tổng trì, chứng nhập tri kiến Phật.


Ông A Nan thưa thỉnh rồi lễ Phật, cùng đại chúng chăn lòng chờ nghe Phật dạy.


Đức Thế Tôn thương xót đại chúng, ôn tồn khuyên bảo :


- Nếu các ông quyết định phát tâm Bồ-đề đối với pháp Tam ma đề (Thủ Lăng Nghiêm đại định) không sanh tâm mỏi mệt thì trước hết hãy nhận thức rõ ràng về hai nghĩa quyết định sau đây :


Ông A Nanđại chúng sau khi nghe lời Phật dạy thì không còn nghi hoặc, ngộ được thật tướng vô tướng chân không diệu tánh. Nhưng đây chỉ là lý tức là phần văn tự, còn đối với “sự” tức là phương thức thực hành thì A Nan vẫn còn mờ mịt vì thế ông mới ví mình như một người được cho một cái nhà lớn nhưng không biết cửa để vào. Ông xin Phật chỉ dạy phương pháp tu hành để diệt trừ những vọng tưởng điên đảochứng nhập được tri kiến của Phật. Tuy Đức Thế Tôn đã nhiều lần chỉ dạy về đường lối viên ngộ, viên tu, viên chứng để cho ông A Nan chẳng những có được cái nhà to, nhà tốt mà còn biết cửa để vào. Nhưng ông A Nan chỉ có thể lãnh hội được một phần, nên bây giờ Phật mới dùng phương tiện chỉ thêm đường lối cho A Nan giúp ông tìm ra được cánh cửa để vào căn nhà giác ngộ.

Đức Phật trong suốt 49 năm ròng thuyết pháp độ sanh, Ngài đã tùy theo đối tượng mà nói vì thế giáo pháp của Phật có lúc Ngài nói khế cơ mà có lúc Ngài thuyết khế lý. Khế cơtùy theo hoàn cảnh căn cơ của chúng sinh mà thuyết. Thí dụ, một người vừa mới quy y theo Phật, chưa am hiểu Phật pháp thượng thừa nên đối với họ tụng kinh niệm Phật là tốt. Đây là khế cơ. Nhưng dựa theo khế lý (chân lý) thì chúng sinh tuy có tụng kinh niệm Phật mà tánh tham không bỏ, tật đố không chừa, lòng còn giận còn hờn thì đây chỉ là tu hành theo hình thức bề ngoài, không có kết quả. Chỉ khi nào chúng sinh thật sự quay về hóa giải hết tham-sân-si thì phiền não tan biến, Bồ-đề, Niết bàn hiển lộ. Đây mới là chân lý tối thượng. Vì vậy khế cơ và khế lý luôn chống đối nhau cho nên nếu nói theo khế cơ thì không đúng với khế lý và ngược lại.

NGHĨA QUYẾT ĐỊNH THỨ NHẤT :

PHẬT DẠY RÕ VỀ SỰ TÁC DỤNG CỦA SẮC TÂM VÔ THỈ


- A Nan! Nếu các ông muốn rời bỏ Tiểu thừa thẳng vào “tri kiến Phật”, nên xét kỹ nguyên nhân phát tâm và quả sở chứng mà các ông mong đạt đến. Nếu đem tâm sinh diệt, tham cầu phước báu…mà mong được quả Vô thượng Bồ-đề thì không thể có.


- Ông hãy tư duy quán xét thân ông! Chất cứng là địa, tánh ướt là thủy, hơi ấm là hỏa, khí động là phong, gọi chung đó là tứ đại. Do tứ đại kết tụ thành thân ông. Rồi cái thể tánh giác minh nhiệm mầu cố hữu nó tác dụng vào. Từ đó, thể tánh giác minh bị phân hóa thành ra cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc và cái biết. Và cũng từ đó, con người và môi trường sống của con người trở thành năm lớp ô trược.


- A Nan! Ví như nước trong vốn là thanh khiết bản nhiên. Còn bụi, đất, than, tro là những thứ chướng ngại cho những gì trong sángthanh khiết ấy. Bỗng dưng có người lấy bụi, đất, than, tro làm rơi vào ly nước sạch thì nước sạch hóa ra vẩn đục. Sự vẩn đục đó gọi là ô trược. Năm lớp ô trược của ông cũng vậy.


Trong phần đầu của nghĩa quyết định thứ nhất, Đức Phật khuyên ông A Nan và tất cả đại chúng phải xét kỹ chỗ phát tâm trong lúc tu nhân và chỗ giác ngộ trong lúc chứng quả. Toàn bộ kinh điển Phật giáo không ngoài tư tưởng nhân quả. Thật vậy, nhân nào thì quả nấy, nếu chúng sinh đem cái tâm sinh diệt, tâm tham cầu thế tục tham đắm dục tình mà mong chứng đạo Bồ-đề thì không thể được. Trên con đường giải thoát giác ngộ, Ngộ tức là không mê đã là khó. Mà “giải ngộ” là một bước tiến khó hơn. Nếu chúng sinh có một quá trình tư duy quán chiếu thật sâu sắc thì đây là “thâm ngộ”.

Cho đến khi nào khai tâm mở tánh hoàn toàn thì mới gọi là “chứng ngộ”. Đối với A Nan là người thâm hiểu giáo nghĩa nên ông chỉ đạt được thâm ngộ mà chưa đạt đến trình độ chứng ngộ để nghiệm chứng chơn tâm minh diệu, bản thể Như Lai Tạng của chính mình. Trong Phật giáo, người phát tâm tu hành như thế nào thì quả sở chứng chỉ tương ứng như thế ấy chớ không thể tăng thêm được. Thí dụ một người phát tâm thọ ngũ giới thì quả sở chứng tối đa chỉ là nhân thừa. Nếu họ giữ đúng năm giới thì chính họ có được hạnh phúc, gia đình hòa thuận và cuộc sống sẽ an vui tự tại. Đây là Niết bàn của nhân thừa. Còn người phát tâm tu thập thiện theo thiên thừa thì họ sẽ hưởng được sự an lạc hạnh phúc phước báu như các vị trời.

Nếu một vị phát tâm tu theo tiểu thừa thì chắc chắn quả sở chứng cao nhất là A la hán, nghĩa là nếu chúng sinh hóa giải hết kiến hoặc, tư hoặcvi tế hoặc thì họ sẽ trở thành bậc thánh và dĩ nhiên sẽ vĩnh viễn thoát ly sinh tử luân hồi. Do đó nếu muốn quả sở chứng là vô thượng chánh đẳng chánh giác thì phải phát tâm đại thừa, tu theo Bồ-tát đạo viên mãn. Vì thế thanh tịnh Bồ-đề, Niết bàntùy thuộc vào nhân địa phát tâm tu hành của mỗi chúng sinh. Do đó, chúng sinh chỉ cần dựa theo nhân tu thì biết chắc chắn sở chứng của mình sẽ được. Nói cách khác dựa vào luật nhân quả của Phật giáo thì không có việc nhân tu chỉ có một mà muốn hưởng quả sở chứng đến mười.

Tuy nhiên, quả vị trong Phật giáo là vô thực mà vô hư. Bởi vì những quả vị như A La Hán hay ngay cả quả vị Phật mà Như Lai thành tựu thì không có hình tướng, không có màu sắc, không có văn tự ngôn ngữ diễn tả cho nên cái chứng đắc này là không thật có, không tìm đâu ra. Thế mà cái chứng đắc kia lại là thật bởi vì người chứng đắc thì lúc nào cũng có tâm thanh tịnh Niết bàn, không còn vô minh phiền não quấy phá. Vì thế nếu chúng sinh biết sống đúng và hợp với chân lý của vạn pháp thì họ trở về với Bảo Sở Chân Như cho nên tâm họ đều là vô ngã, vị thabình đẳng. Ngược lại nếu chúng sinh đem cái tâm nhân ngã, vì danh, vì lợi, vì quyền lợi riêng cho mình, vì địa vị, vì thần thông mà làm nhân địa tu hành thì không bao giờ thành đạt được cũng không khác gì người nấu cát mà muốn thành cơm.


Con người vì bị mê lầm, đi ngược lại với tánh giác diệu minh nên mới nhận tứ đại làm thân của mình rồi nương theo thân đó mà tiếp xúc với ngoại trần và phát sinh ra cảm giác. Cái thể tánh giác minh nhiệm mầu bị phân hóa thành ra cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái biết và cái cảm xúc. Chính những điều nghe, thấy, ngửi…tạo ra sự phân biệt đối đãi làm che lấp tâm tánh và hình thành năm thứ ô trược, gọi là ngũ trược. Trược là vẩn đục. Cũng ví như nước trong kia vốn thanh khiết, nhưng đem tro, cát bụi, đất ném vào nước thì nó trở nên vẩn đục.

KHAI THỊ VỀ NĂM THỨ Ô TRƯỢC


Con người trong thế gian này không phải là nguyên do của tội lỗi xấu xa bởi vì trong tất cả mọi chúng sinh ai ai cũng đều có tri kiến Phật (kinh Pháp Hoa), Phật tánh (kinh Đại Niết bàn), Như Lai viên giác diệu tâm (kinh Viên Giác), chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh (kinh Lăng Nghiêm). Vì thế Phật mới dạy rằng : ”Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” nghĩa là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật. Cũng ví như ly nước vốn tinh khiết trong sạch, nhưng vì bị bụi bặm làm nước vẫn đục. Ngũ trược nơi tự tâm cũng vậy. Tánh giác diệu minh vốn thanh tịnh, thường trụ, không thay đổi. Ngược lại, vọng tưởng bản chấtgiả dối, sinh diệt, thay đổi. Nhưng chúng sinh vì không giác ngộ được bản tâm của chính mình mà chạy theo vọng tưởng để cho vọng tưởng chiếm mất tâm mình nên mới sinh ra ngũ trược mà làm nhơ, vẩn đục tâm tánh của con người.


Vậy năm thứ vẩn đục đó ảnh hưởng con người như thế nào?


1) Kiếp trược :


- A Nan! Như ông thấy đó. Hư không (không đại) khắp cùng mười phương thế giới. Cái không và tánh thấy (kiến đại) không thể tách rời. Cái không, không thực thể, tánh thấy, không có giác tri. Hai thứ tác dụng vào nhau vọng thành lớp thứ nhất gọi là “Kiếp trược”.


Tâm thể của chúng sinh tức là tánh giác diệu minh vốn trong sáng và hòa nhập vào hư không mười phương thế giới. Nhưng trong cái diệu minh đó lại phát sinh ra sự phân biệt để nhận biết tất cả các tướng ở bên ngoài hư không tức là năng minh. Sự thâu nhập các cảnh giới bên ngoài thì gọi là sở minh. Nói cách khác, khi con người lầm lẫn chạy theo những vọng niệm bên ngoài tức là sở minh để chuyển năng minh bên trong của mình mà có sự phân biệt để tạo nghiệp và tự trói mình trong sinh tử khổ đau. Một khi tâm thể khởi sự phân biệt thì nó không còn thanh tịnh, diệu minh như lúc ban đầu vì thế vọng khởi tâm phân biệt chính là kiếp trược.


2) Kiến trược :


- Thân ông kết tụ tứ đại làm tự thể. Chính tự thể của ông làm trở ngại, hạn chế tánh thấy, nghe, hiểu, biết khiến cho tánh thấy, nghe, hiểu, biết tác dụng vào tứ đại của thân ông, vọng thành lớp thứ hai gọi là “Kiến trược”.


Kiến đại thì bao la trùm khắp pháp giới, nơi nào cũng có thể thấy được. Nếu kiến đại tác động vào mắt thì có tánh thấy, vào tai thì có tánh nghe, vào mũi thì có tánh ngửi, vào lưỡi thì có tánh nếm, vào thân thì có tánh cảm xúc. Xét cho cùng kiến đạibao la vô cùng vô tận, nhưng khi nó tác động vào thân tứ đại của con người liền bị hạn chế, không còn thấy vô cùng vô tận được nữa. Vì thế tánh thấy lẽ ra phải thanh tịnh bản nhiên trùm khắp mười phương thế giới, nhưng khi nó tác động vào thân tứ đại liền bị chia sẻ làm giới hạn tánh thấy thì đây gọi là “kiến trược”. Do đó tánh thấy của con người rất bị hạn chế trong kiến, tri tức là thấy, biết mà cảm thấy hiểu biết. Vì thế khi chúng sinh đạt được tâm thanh tịnh để quay trở về sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên thì tánh thấy bây giờ sẽ trở thành vô cùng vô tận, không còn bị tướng ngũ uẩn ngăn ngại.


3) Phiền não trược :


- Tâm ông có công dụng nhớ nghĩ suy tư thuộc về phần tri kiến. Tri kiến được biểu hiện qua lục trần, rời trần không có tướng, rời tri giác không có tánh. Tri giáclục trần tác dụng vào nhau, vọng thành lớp thứ ba gọi là “Phiền não trược”.


Tri kiến của chúng sinhtánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc và tánh biết được biểu hiện qua lục trần tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Thí dụ tự thể của con mắt đâu có tội lỗi xấu xa gì, nhưng khi mắt thấy nhà đẹp, xe sang, tiền nhiều thì tâm phát sinh lòng tham dục muốn chiếm lấy. Năm căn còn lại thì cũng thế. Tai nghe lời ngọt dịu thì mê, nghe ai chửi thì buồn, thì giận. Mũi ngửi hương thơm thì thích, say đắm còn ngửi mùi hôi thúi thì buồn phiền, chửi rủa. Lưỡi nếm mùi vị ngon thì tham đắm muốn ăn thêm còn nếm mùi cay đắng thì đâm ra chán ghét. Nói chung con người khi tiếp xúc với lục trần thì hễ cái gì bằng lòng thì an vui, tham đắm. Còn cái không bằng lòng, bất toại ý thì đâm ra bất mãn.

Do đó tri giác (sáu căn) và lục trần tác dụng vào nhau mà phát sinh ra “phiền não trược”. Đây là nói trên phương diện tục đế sinh diệt của thế gian, nhưng đối với các bậc thánh như các vị A la hánĐức Phật thì mắt, tai, mủi, lưỡi, thân và ý của các Ngài vẫn còn đó như tất cả chúng sinh. Nhưng tri giác của các Ngài không còn tác động vào sáu trần nên phiền não không còn quấy phá được vì thế các Ngài mới có thanh tịnh Niết bàn, thần thông tự tại là vậy. Nói cách khác khi chúng sinh đã trở về sống với chơn tâm thường trú, thể tánh tịnh minh, tri kiến Phật hay Như Lai viên giác diệu tâm của chính mình rồi thì sáu căn, sáu trần không còn là nguyên nhân để gây ra phiền não khổ đau.


4) Chúng sinh trược :


- Thân tâm ông thì ngày đêm sanh diệt không ngừng. Cái tri kiến thì muốn lưu mãi ở thế gian, nhưng sức nghiệp của ông thì vọng động đổi dời từ quốc độ này sang thế giới khác. Hai sự kiện mâu thuẫn nhau nhưng lại tác dụng vào nhau vọng thành lớp thứ tư gọi là “Chúng sanh trược”.


Vì phải chịu theo sự tiến hóa của thế gian nên thân tâm con người lúc nào cũng thay đổi. Thân thì ảnh hưởng bởi luật vô thường: sinh, trụ, dị, diệt tức là sinh, lão, bệnh, tử. Còn tâm thì chuyển biến theo lý vô ngã. Vì thế mà thân tâm con người luôn sinh diệt từng giây từng phút. Nhưng con người lại không đồng ý như vậy mà tri kiến của họ lúc nào cũng muốn sống lâu, sống thọ. Tuy con người gắn bó với cái thân tứ đại sinh diệt, với cái ý thức hay biết của mình và trong mong sống mãi như thế, nhưng con người hễ có sinh tất phải có diệt nên họ phải nương theo quả báo mà thọ sinh vào những đời sau.

Sống thì phải chết, nhưng con người chết mà vẫn luyến tiếc mãi cái sống nên hết thân này lại tái sinh thân khác theo nghiệp báo mà xoay vần mãi mãi trong lục đạo luân hồi. Nói cách khác khi tâm chúng sinh đã khởi sự phân biệt thì nó liền đắm say cảnh sắc bên ngoài nên tâm muốn gồm thâu cả thế giới này về cho nó. Từ đó lòng tham-sân-si phát khởidĩ nhiên những hạnh nghiệp cũng vì thế mà tác tạo. Lòng tham càng to thì tội nghiệp càng lớn và càng bị ràng buột trong sinh tử triền miên.


5) Mạng trược :


- Lại này! A Nan! Tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc và biết vốn không sai khác. Do lục trần cản trở vô cớ lại sanh khác nhau. Vì vậy, trong thể thì đồng mà dụng lại khác. Đồng và khác mất chuẩn đích. Hai sự kiện tác dụng vào nhau vọng thành lớp thứ năm gọi là “Mạng trược”.


Một khi tâm phân biệt đã xuất hiện thì nó sẽ bị những trần cấu bên ngoài chi phối. Thấy đẹp thì yêu, thấy xấu thì ghét nên muốn cái đẹp, ghét cái xấu, cứ như thế mà yêu ghét nổi dậy cả ngày. Trong một thoáng, một chớp mắt đã sinh ra những mê lầm nên cái thấy không còn đúng nữa. Vì thế mà con người thích nghe lời nói hay, âm thanh ngọt dịuchán ghét khi nghe tiếng chỉ trích, chửi mắng. Mắt thích nhà cao, xe tốt, áo lụa, quần là. Mũi thích ngửi hương vị thơm tho và buồn phiền khi ngửi mùi hôi tanh, ô uế. Lưỡi thích nếm đồ ăn ngon, miệng thích ăn cao lương mỹ vị và khổ đau khi ăn cơm hẩm cá thiu. Nói chung sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đã chi phối tâm tánh của con người làm cho họ quên đi bản tánh thanh tịnh diệu minh đã có sẳn trong họ. Một khi mắt, tai, mủi, lưỡi, thân và ý vốn thanh tịnh nhưng bị sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp quyến rũ làm hạn chế sự thấy, nghe, hay, biết của nó mà bỏ đi tâm tánh Bồ-đề vốn thường thanh tịnhtrong sáng. Những vẫn đục làm lu mờ tâm tánh con người này Đức Phật gọi là Mạng trược.


Thế giớicon người đang sống mà kinh điển Phật giáo thường gọi là thời kỳ ngũ trược ác thế nghĩa là đời có năm thứ ác làm cho tâm hồn không còn trong sáng, bị vẫn đục do phiền não vô minh làm cho kiếp sống chúng sinh không được an vui, hạnh phúc. Bây giờ nếu chúng sinh biết hồi đầu thị ngạn, quay về với bản lai diện mục, với chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh của chính mình bằng cách tư duy, thiền định thì những vẫn đục kia sẽ được lắng xuống làm cho cuộc sống trở thành thanh tịnh, an lạctự tại.

Và sau cùng Niết bàn, Bồ-đề sẽ hiển hiện. Cũng ví như tất cả những cặn bả trong ly nước lắng xuống thì nước bây giờ trở thành tinh khiết, thơm ngon. Ly nước mặc dầu đã được lắng trong, nhưng những hạt bụi cực nhỏ vẫn còn mà mắt thường không thấy biết được. Các vị A la hán và Bồ-tát thì cũng thế. Tuy các Ngài đã loại hết kiến hoặc, tư hoặc, nhưng những vi tế vô minh vẫn còn cho đến khi đạt đến Vô thượng Bồ-đề như Phật thì tất cả vô minh, phiền não tan biến hết ngay cả những vi tế cũng không còn. Vì thế Đức Phật Thích Ca cho dù có ở đâu, ngồi đâu thì tâm Ngài vẫn an trụ Niết bàn. Cái Niết bàn này chính là vô trụ xứ Niết bàn vậy.

DỰA VÀO NHƠN TU MÀ SUY BIẾT QUẢ SƠ CHỨNG

- A Nan! Nay ông muốn cho tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết của ông hợp với bốn đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Như Lai thì trước hết phải lựa bỏ những gì là gốc rễ sanh tử để tùy thuận tánh sáng suốt tràn đầy không sanh không diệt và chuyển hóa những tánh hư vọng sanh diệt trở về với bản giác tịnh minh. Dựa trên bản giác tịnh minh làm nhơn địa tu hành thì quả địa chứng đắc mới viên mãn vô thượng. Ví như việc làm của người lắng nước. Nước đục đựng trong lu hồ, để yên và yên mãi không chao động, cát tro bụi đất chìm lắng xuống thì nước trong hiện ra. Đây là giai đoạn uốn dẹp khách trần phiền não cũa hành giả cũng y như vậy. Sau đó, gạn bỏ sạch, hết cặn cáu tro bụi…chỉ còn thuần nước trong. Bấy giờ mới gọi là người dứt hẳn căn bản vô minh. Chỉ còn tướng sáng suốt thuần tịnh thì những biểu hiện của ba nghiệp không còn là bất thiện nữa. Bấy giờ, nhất cử, nhất động hợp với các đức tánh nhiệm mầu: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Niết bàn Phật.


Đoạn kinh trên, Đức Phật đã giải thích rõ ràng những nguyên nhân gây ra năm thứ vẫn đục đã làm lu mờ tâm tánh thanh tịnh, trong sáng vốn có của tất cả chúng sinh. Đó là bản tâm vốn thanh tịnh nhiệm mầu, nhưng bởi do tâm phan duyên với những trần cấu bên ngoài mà phát sinh ra ngũ trượccon người nương theo vọng tâm thấy, nghe, hay, biết nên xa rời bốn đức tính thanh tịnh của Niết bàn là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Trong bản thể chân như thì không hề có đau khổ, không hề có ô nhiễm, không hề có bất tịnh tại vì: Bản thể chân như thì không sinh không diệt nên gọi là Thường. Luôn luôn an nhiên tự tại nên gọi là Lạc. Nhưng chính từ bản thể chân như lại chủ sinh ra muôn pháp nên gọi là Ngã và cái chơn thể của bản tâm thì không hề bị cấu nhiễm nên gọi là Tịnh. Vậy làm thế nào để quay về với bản tâm thanh tịnh của chính mình? Con ngườilầm lẫn chạy theo tâm sinh diệt nên cuộc sống mới lăn lộn trong sinh tử luân hồi.

Bây giờ chúng sinh phải thức tỉnh để biết cái gì là tâm sinh diệt. Tâm sinh diệtvọng tâm bởi vì những ý niệm vừa khởi lên thì biến mất. Tư tưởng vừa mới xuất hiện mà chỉ vài sát na sau thì nó đã trở thành quá khứ. Đây là hiện tượng có sinh có diệt của vọng tâm. Chúng sinh chỉ có thể nương theo cái tâm thường trụ, bất biến, không sinh diệt để làm nhân địa tu hành thì mới thấy được chơn tâm, Phật tánh của chính mình. Cũng như nước đục đựng trong ly. Nếu để ly nước yên lặng một thời gian thì từ từ những cát bụi đất bùn sẽ chìm lắng xuống đáy ly và bây giờ ly nước trở thành tinh khiết, thơm ngon. Việc tu hành thì cũng thế. Chúng sinh phải trì công gạn lọc vô minh phiền não mỗi ngày một tí cho đến khi tất cả phiền não được thanh lọc thì bản lai diện mục mới hiện tiền. Nên nhớ rằng lắng nước, gạn bùn là cốt để thấy nước trong. Đến khi thấy được nước trong thì mới biết rằng nước đó vốn trong chớ không phải khi thanh lọc mới được trong. Chơn tâm, Phật tánh thì cũng thế. Con người lúc nào cũng có sẳn chơn tâm, Phật tánh, nhưng vọng tưởng chấp trước che lấp tâm tánh khiến chơn tâm lu mờ, Phật tánh biến mất.

Do đó tu hành là để khôi phục lại cái mà mình đã có sẳn chớ không phải cái mà mình chưa bao giờ có. Nói tóm lại, người đệ tử Phật phát tâm tu hành thì ai ai cũng hy vọng có ngày công viên quả mãn. Hy vọngniềm tin để gia tăng công lựctiến tới mà không cần phải cầu khẩn van xin ai. Con người có thể dựa vào sự phát tâmnhân tu mà đoán biết cái quả sơ chứng của mình. Nếu tu nhân hữu lậu phát xuất từ những tư tưởng hẹp hòi ích kỷ tiêu cực thì không bao giờ thành tựu quả vị vô lậu được.

Ngược lại, nếu dựa trên Thể Tánh Tịnh Minh mà tu nghĩa là chúng sinh sống đúng, sống hợp với chơn tánh thì khỏi cần cầu xin van vái mà Bồ-đề, Niết bàn vẫn hiển hiện như thường. Cũng như nước trong, trăng hiện hay mây tan thì trời sáng vậy thôi. Tuy cổ nhân có dạy rằng : ”Tri nhân, tri diện bất tri tâm”, nhưng trên thực tế cái tâm của con người có thể được biểu hiện qua thân, khẩu, ý của họ. Đó là nhìn qua cái nhân dụng của nó thì có thể đoán biết được cái tâm của họ như thế nào. Bởi thế mà cổ nhân cũng đối lại:”Dĩ sự nghiệm tri, nhân dụng khả biện” là vậy. Vì thế dựa theo đạo Phật thì con người chỉ cần nhìn lại mức độ tham-sân-si của mình có tăng, giảm; còn, mất bao nhiêu, lời nói thành thật được bao nhiêu hay hành động tốt được bao nhiêu thì khả năng chứng đắc của mình chỉ được ngần ấy mà thôi. Nói cách khác mình đầu tư bao nhiêu thì chỉ gặt hái thành quả được bấy nhiêu. Có muốn nhiều hơn cũng không được nào.
Vua Thuận Tông nhà Đường hỏi Tổ Phật Quang Mãn rằng :


- Phật từ đâu mà đến, tịch diệt hướng về đâu mà lui? Đã nói thường trụ thế thì nay Phật ở chốn nào?


Tổ đáp :


- Phật từ cái Vô Vi đi lại, tịch diệt hướng về cái Vô Vi lui về. Pháp than đồng như hư không, thường trụ nôi Vô Tâm. Có niệm cũng là Vô Niệm, có trụ cũng là Vô Trụ. Đến, vì chúng sinh mà đến. Đi, vì chúng sinh mà đi. Biển Chân Như thanh tịnh, thể thường trụ vắng lặng như nhiên. Kẻ trí khéo tư duy, chớ sanh lòng lo nghĩ!


Vua lại hỏi :


- Phật hướng về cung vua mà sanh, diệt hướng về rừng Song Thọ mà tịch, trụ thế 49 năm, lại nói chẳng có pháp nào để thuyết. Núi, sông cùng biển lớn, trời đất cho đến mặt trăng đến thời kỳ đều diệt tận, ai nói được là không sống chết?


Tổ đáp :


- Thể Phật vốn Vô Vi, nhưng chúng sinhmê tình vọng phân biệt. Pháp thân đồng hư không, chưa từng có sanh diệt. Có duyên, ấy là Phật xuất thế. Không duyên, ấy là Phật nhập diệt. Chốn chốn giáo hóa chúng sinh, cũng như trăng dưới nước. Chẳng phải Thường, chẳng phải Đoạn, chẳng phải Sanh cũng chẳng phải Diệt. Sanh cũng chẳng từng Sanh, diệt cũng chưa từng diệt. Rõ thấy chỗ Vô Tâm, tự nhiên không có pháp nào để nói.


Vua Thuận Tông dựa vào Ứng thân Phật mà hỏi nên mới nói có sanh, có tịch, có trời có đất…Vì ứng thân là thân thị hiện nên phải chịu sanh, lão, bệnh, tử như tất cả vạn hữu trong thế gian vũ trụ này. Ngược lại, Tổ Phật Quang Mãn giải thích dựa theo Pháp thân thanh tịnh, thường trụ, bất sinh bất diệt hòa đồng trong Chân Như bởi vì Như Lai thì chẳng đến từ đâu và cũng chẳng đi về đâu cả. Khi chúng sinh có được Vô Tâm nghĩa là tâm không còn dính mắc chấp thủ thế trần thì tâm này chính là chơn tâm, Phật tánh vĩnh hằng trong họ. Đến đây thì không còn pháp gì để nói là vậy.

NGHĨA QUYẾT ĐỊNH THỨ HAI :

TRẮC NGHIỆM SỰ ĐIÊN ĐẢO Ở CĂN HAY Ở TRẦN ĐỂ TÌM MỐI MANH MỞ GÚT.


- A Nan! Ông quyết phát tâm Bồ-đề thì đối với Bồ Tát thừa hãy sanh tâm đại dũng mãnh. Ông hãy xét rõ cội rễ phiền não biểu hiện qua ba nghiệp của ông. Phiền não đó ở đâu đến? Ai làm? Và ai chịu?


- A Nan! Người tu đạo Bồ-đề, nếu không quán xét cội rễ phiền não thì không biết căn, trần hư vọng điên đảo ở chỗ nào. Chỗ còn không biết thì làm sao chế phục để chứng đắc quả vị Như Lai!


- A Nan! Ông hãy xem, thường thế gian mở gút, nếu không biết chỗ thắt thì làm sao mở được? Mắt, tai, mủi, lưỡi, thân và tâm ý của ông tự làm mai mối cho giặc, cướp hết của báu trong nhà ông. Cũng vì vậythế giới chúng sinh từ vô thỉ, tự ràng buộc lấy mình, cho nên cái tri kiến của ông không ra ngoài sự vật thế gian.


Khi chúng sinh đã thấu biết phiền não là cội nguồn làm tâm bất tịnh. Vậy làm thế nào để hàng phục khách trần vọng tâm? Khách trần là những tư tưởng, vọng niệm có đến rồi lại đi chớ không phải của ta. Thí dụ như khi vừa khởi niệm thì cũng như chúng ta mời một người khách vào nhà. Khởi hai niệm thì mời hai người khách vào nhà. Do đó tu hành là phải hàng phục hết những khách trần phiền não này. Con người sống trong thế gian có những phiền não khác nhau tùy theo hoàn cảnh, sở thích và cuộc sống của chính mình. Vì thế trong đoạn kinh này, Đức Phật dạy con người phải suy tìm cái gốc rễ của phiền não, nguyên nhân khiến sự mê lầm để hàng phục nó.

Cũng như có người bị trói hai chân, nếu muốn cởi trói thì phải biết cái gút ở chỗ nào. Một viên dũng tướng cho dù có nắm trong tay vạn quân mà không biết kẻ địch ở đâu thì làm sao giết giặc được. Phật dạy, khi tư duy quán chiếu thì chúng sinh sẽ thấy rất rõ ràng được sự điên đảo hư vọng của “căn” và “trần”. Ngoại trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp có vào được trong tâm cũng bởi do trung gian sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Vì thế nếu sáu căn không mời thì sáu trần làm sao vào nhà được để tước đoạt hết gia tài công đức của chúng ta.


Con người phải dựa vào ba nghiệp: thân, khẩu, ý để suy tìm cái gì là gốc của phiền não. Nói cách khác phiền não phát xuất từ nghiệp nào và ảnh hưởng tác hại của nó như thế nào? Đối với giáo lý liễu nghĩa đại thừa, Đức Phật một lần nữa muốn xác định rằng trong ta không hề có xấu xa tội lỗi chi cả. Thí dụ mắt, tai, mủi, lưỡi thân và ý đều là bản nhiên thanh tịnh, không phải là nguyên nhân gây ra đau thương tội lỗi đau thương. Còn lục trần bên ngoài là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng có đầy đủ bản nhiên thanh tịnh và không phải là nguyên nhân sinh ra các phiền não khổ đau.


Vậy cái gì là nguyên nhân của vô minh phiền não nếu không phải là lục căn hay lục trần?


Nguyên nhâncon ngườiphiền não khổ đau là vì họ không làm chủ được sáu căn của mình để cho nó tha hồ duyên với sáu trần làm cho tham-sân-si phát khởi khiến cuộc sống trở thành điên đảo, khổ đau. Nói cách khác con người sống trái với chơn tánh của mình mà chạy theo đối đãi khách trần tức là “có năng” “có sở” mà phát sinh ra những phiền não mê lầm. Do đó người không phát tâm nhân địa tu hành, không để tâm tư duy quán chiếu thì mỗi căn chẳng khác gì một cái gút.

Phiền não vô minh ngày ngày cứ cột thắt mãi vào. Mà càng thắt thì cái gút càng to thêm làm cho tâm trí đau khổ ngày thêm chồng chất. Vì thế con người phải tìm cái gút lỏng để mở trước. Nếu một gút đã được mở thì những gút còn lại sẽ được giải thoát hết. Lục căn con người thì cũng thế. Lục căn chính là sáu cái gút. Hằng ngày con người thường cột thắt mãi cho nên cuộc sống có nhiều phiền não khổ đau, bất toại ý. Thế nên nếu tự mình không cột, không thắt thì dĩ nhiên không cần tháo gở, chẳng cầu giải thoátvẫn có an nhiên tự tại.


Ngày xưa Ngài Đạo Tín lúc ấy vừa mới 14 tuổi, một hôm đến đảnh lễ và thưa với Tổ Tăng Xán rằng :


- Bạch Hòa Thượng! Xin Ngài dạy cho con pháp môn giải thoát!


Tổ Tăng Xán nhìn thẳng vào mặt Đạo Tín hỏi :


- Ai trói buộc ngươi?


- Thưa! Không ai trói buộc con cả.


- Đã không trói buộc thì cầu giải thoát để làm gì!


Ngay đó Ngài Đạo Tín liền ngộ đạo.


Nên nhớ sáu căn của con người vốn thanh tịnh, không tội lỗi xấu xa gì. Sáu căn cũng ví như chiếc xe đến ngã tư đường. Thiện, ác, phiền não hay Niết bàn trong đời là do con người quyết định muốn lái chiếc xe đi hướng nào. Muốn trái thì do ta mà muốn quẹo mặt thì cũng do ta chớ chiếc xe chỉ biết chạy mà thôi. Bằng chứng là ngày xưa các vị Đại A la hán và ngay cả Đức Phật cũng có lục căn đầy đủ như tất cả chúng sinh, nhưng các Ngài biết xuất ly tam giới, không chạy theo tham đắm dục tình, không làm nô lệ cho phiền não vô minh nên các Ngài có Bồ-đề và Niết bàn là vậy.


Tri kiến của chúng sinh vốn thanh tịnh, bao la trùm khắp mười phương thế giới cho nên Phật mới dạy:”Tánh giác chơn không, tánh không chơn giác, thanh tịnh bản nhiên châu biến pháp giới”, nhưng chính sáu căn của con người duyên với sáu trần bên ngoài nên tri kiến bây giờ bị hạn chế, không còn rộng lớn bao la mà chỉ nằm giới hạn trong kiến, văn, giác, tri tức là thấy, nghe, hay, biết tầm thường mà thôi. Thí dụ có vật thì mắt mới thấy, có âm thanh thì tai mới nghe…Ngược lai, các bậc giác ngộ tuy thấy sắc mà không đam mê theo sắc. Nghe âm thanh mà không hề bị âm thanh quyến rũ. Vì thế tri kiến của họ trở lại vô cùng vô tận cùng khắp mười phương thế giới là vậy.


CHỈ RÕ SỰ RÀNG BUỘCSIÊU THOÁT CỦA THẾ GIỚI CHÚNG SINH


A Nan! Thế nào gọi là thế giới chúng sinh? Thế có nghĩa là thời gian là quá trình sinh diệt, diệt sinh của hiện tượng vạn hữu. Giới là không gian, biểu hiện qua mặt bằng rộng hẹp, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp và phương hướng tả hữu, trước sau. Phương hướng mà người thế nhân nhận rõ là: Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương. Thời gian có ba là: Quá khứ, hiện tạivị lai. Lấy không gianthời gian nhân cho nhau: Bốn nhân ba hay ba nhân bốn thành con số 12. Nhân lên ba lần thì có con số 1.200 để chỉ cho công đức của sáu căn con người tương quan trong thế giới. Tuy nhiên xét chỗ hơn kém thì công đức của sáu căn không nhất thiết đồng nhau.


Xét về nhãn căn thì mắt chỉ thấy phía trước và một phần của hai bên. Cho nên luận về mắt chỉ được 800 công đức.


Xét về nhĩ căn, lỗ tai có ba đức ưu việt. Viên, Thông và Thường. Luận về nhĩ căn thì có 1200 công đức.


Xét về tỷ căn, lỗ mũi tương tục chỉ có thở rahít vào. Điểm giao tiếp giữa hít và thở gián đoạn. Luận về tỷ căn có được 800 công đức.


Xét về thiệt căn thì lưỡi có thể phô diễn cùng tột trí thế gianxuất thế gian. Ngữ ngôn tuy hữu hạn mà diệu lý diễn đạt vô cùng. Luận về thiệt căn thì có được 1200 công đức.


Xét về thân căn, thân thì biết xúc. Có thể xúc thuận xúc nghịch, nhưng khi hợp thì biết, lúc ly thì không. Luận về thân căn chỉ có 800 công đức.


Xét về ý căn, ý căn thầm lặng mà dung nạp tất cả pháp thế gianxuất thế gian mười phương ba đời, thành phàm không pháp nào không bao dung cùng tột. Luận về ý căn có đủ 1200 công đức.


A Nan! Ông muốn ngược dòng sinh tử hãy xét sáu căn ông hiện thọ dụng. Cái nào hợp, cái nào ly, căn nào sâu, căn nào cạn, căn nào viên thông, căn nào không viên thông. Nếu khai ngộ được một căn viên thông thì đảo ngược tất cả dòng nghiệp vô thỉ. Đối với hiệu quả tu hành, bấy giờ một ngày bằng một kiếp.


Tôi nay đã chỉ rõ cho ông: Sáu căn, căn nào cũng trong sáng và đều có số lượng công năng. Tùy ông chọn lựa. Thích hợp căn nào tôi sẽ hướng dẫn cho ông để ngày thêm tăng tiến.
Mười phương Như Lai, căn, trần, thức, 18 giới đều là công cụ để viên mãn Vô thượng Bồ-Đề. Căn cơ trí tuệ còn non nớt, ông cần đi sâu tu tập một căn. Một căn thanh tịnh thì sáu căn đồng thời được tháo mở hoàn toàn thanh thoát.


Thế giới tức là vũ trụ bao gồm hai mặt không gianthời gian. Thế là nói về thời gian cũng có nghĩa là nói về luật nhân quả báo ứng, sinh sinh diệt của hiện tượng vạn hữu. Còn giới là nói về không gian cũng còn có nghĩa là lý nhân duyên tức là tất cả mọi cấu tạo hình thành của vạn hữu trên thế gian này là do nhân duyên hòa hợp mà có. Khi nói về phương hướng, thông thường con người chỉ đề cập đến Đông, Tây, Nam, Bắc. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này. Đó là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương dưới.

Còn thời gian thì có ba đờiquá khứ, hiện tại và tương lai. Bây giờ lấy không gianthời gian nhân cho nhau tức là 4x3=12. Vì có 10 phương hướng trong khi số lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần là 4x3=12 rồi 12x10=120 và sau cùng 120x10=1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện cho công đức của sáu căn tương quan trong thế giới. Tuy nhiên, nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau, chẳng đồng. Vì thế, người đệ tử Phật trên con đường tu tập diệt trừ phiền não nên chọn căn nào thích hợp nhất cho mình, căn nào có công năng cao nhất thì sự thành công sẽ mau chóng hơn là chọn những căn yếu công năng.
Vậy công năng của sáu căn như thế nào?


1) Nhãn căn thì chỉ có được 800 công đức bởi vì mắt chỉ thấy phía trước và một phần của hai bên, nhưng phía sau và phần sau của hai bên mắt không thể thấy được. Do đó nhãn căn chỉ có được 2/3 công đức so với những căn khác. 800 công đức là cái thấy dựa theo pháp tướng hữu vi sinh diệt. Còn cái thấy mà sáng cũng thấy mà tối cũng thấy là cái tánh thấy tức là dựa theo pháp tánh vô vi thanh tịnh.


2) Nhĩ căn thì có đủ 1200 công đức bởi vì cái nghe thì không ngăn ngại bởi vật chất nên trong cũng nghe, ngoài cũng nghe, bên trên cũng nghe, ở dưới cũng nghe. Nói chung tai có thể nghe được âm thanh bất cứ từ nơi nào. Hễ có âm thanh là tai nghe được. Vì thế mà Đức Quán Thế Âm có thể nghe được mười phương thế giới tiếng kêu cầu cứu đau khổ của chúng sinh. Đó là đức tính “Viên” tức là viên mãn nghĩa là ở đâu mà có âm thanh thì tai có thể nghe được. Đức tính thứ hai của tai là “Thông” tức là không bị ngăn bít.

Thí dụ một người đang nói chuyện ở phòng kế bên mà ở phòng bên này chúng ta có thể nghe câu chuyện rất rõ ràng. Đức tính thứ ba là “Thường” tức là lúc nào cũng nghe. Thí dụ như có âm thanh thì nghe tiếng tức là nghe động. Còn không có âm thanh thì tai nghe tĩnh. Vì thế khi tham thiền nhập định, tuy rất yên lặng, không có tiếng động, nhưng các vị thiền sư có thể nghe rất xa và rất rõ những âm thanh huyền diệu mà được gọi là diệu âm. Đó là lý do tại sao về sau Đức Phật chọn pháp môn nhĩ căn viên thông của Đức Quán Thế Âm Bồ-tát để chỉ dạy cho A Nanđại chúng tu. Đây là một pháp môn thù thắng vi diệu cho tất cả mọi người.


Nhưng tại sao cái nghe lại vi diệu hơn cái thấy?


Thí dụ ban đêm chúng ta ngồi tỉnh tọa trong một căn phòng tối rất yên tịnh. Vì phòng tối nên mắt không thấy gì hết, nhưng tai thì có thể nghe tất cả. Nếu trong tâm chúng ta khởi niệm lành thì cũng như y như nghe trong tai có ai nói lời thiện. Ngược lại nếu tâm khởi niệm ác thì cũng y như nghe trong tai có người nói lời ác vậy. Còn nếu chúng sinh biết chánh niệm tư duy thì cũng như trong tai nghe được những lời dạy của Phật.


3) Tỷ căn thì có được 800 công đức bởi vì lỗ mũi chỉ có hai công năngthở rahít vào.


4) Thiệt căn lại có đủ 1200 công đức. Tại sao? Bởi vì lưỡi tức là lời nóicông năng diễn đạt

trí tuệ tột cùng của các pháp thế gianxuất thế gian. Ngày xưa chính Đức Phật đã thuyết pháp trong 49 năm ròng thì công đức quả thậtbất khả tư nghì.


5) Thân căn chỉ có 800 công đức vì khi đụng chạm tức là “hợp” thì thân mới có cảm xúc. Còn nếu không có đụng chạm tức là “ly” thì thân không có cảm xúc. Con mắt thì ngược lại, nếu để đối tượng tiếp xúc với mắt thì mắt không thấy mà mắt thấy rõ khi nào đối tượng phải cách xa mắt.


6) Ý căn thì có đủ 1200 công đức. Tất cả những tư tưởng phân biệt đều do ý căn mà ra cho nên trong sáu căn thì ý căn là quan trọng nhất. Ý căn tích lủy tất cả các pháp thế gianxuất thế gian mười phương ba đời, thánh phàm đầy đủ. Nếu phát tâm làm việc thiện thì ý căn có được 1200 công đức. Ngược lại nếu làm việc ác thì ý căn cũng có 1200 thứ tội ác. Đối tượng của ý cănpháp trần tức là hình bóng của những tư tưởng phát xuất từ sắc, thanh, hương, vị, xúc xảy ra trong quá khứ mà được tâm diễn lại y như đang xảy ra trước mắt vậy. Thí dụ những sự vui buồn từ mấy tháng trước mà được diễn lại y như mới vừa xảy ra. Vì tầm quan trọng của nó mà rất ít người có thể tu theo ý căn. Ngài Trí Giả Đại Sư, Tổ phái Thiên Thai bên Trung Hoa đã phát huy ra môn Tam Chỉ Tam Quán mà cốt tủy của pháp môn này là dùng “ý thức” để tu tâm và sau cùng đạt đến tam muội.


Nói chung trong thế giới vũ trụ bao la này cũng không ngoài sáu căn, sáu trần và sáu thức mà được gọi chung là thập bát giới. Giới tức là một thế giới riêng biệt cho căn, trần và sắc. Thí dụ nói về cái thấy chúng ta có ba giới là: một thuộc về căn là Nhãn giới, một thuộc về trần là Sắc giới và một thuộc về thức là Nhãn thức giới. Nói cách khác nhãn giới là căn mắt, sắc giới là vật đối tượng như nhà cửa, xe cộ…và nhãn thức giới là cái biết của sự thấy. Vậy 6 giới của căn: Nhãn giới, Nhĩ giới, Tỷ giới, Thiệt giới, Thân giới, Ý giới. 6 giới của trần: Sắc giới, Thanh giới, Hương giới, Vị giới, Xúc giới, Pháp giới. 6 giới của thức: Nhãn thức giới, Nhĩ thức giới, Tỷ thức giới, Thiệt thức giới, Thân thức giới và Ý thức giới. Bây giờ nếu cộng 6 giới của căn, 6 giới của trần và 6 giới của thức thì có 18 giới mà thường được gọi là thập bát giới.


Nếu nhìn bằng con mắt thế gian, con mắt tục đế thì 18 giới có thể là nguyên nhân để sinh ra tội lỗi khổ đau, nhưng dựa theo bản thể thanh tịnh mà nói thì sáu căn, sáu trần, sáu thức chính là công cụ để đưa chúng sinh chứng đạo quả Bồ-đề. Tại sao?

Bởi vì bản tánh của sáu căn, sáu trần và sáu thức là thanh tịnh bản nhiên chớ không phải là nguyên nhân của tội lỗi khổ đau. Mà thật ra nguyên nhân khiến con ngườiphiền não khổ đau là vì họ không làm chủ được sáu căn của mình để cho nó tha hồ chạy theo sức quyến rũ của sáu trần làm cho tham-sân-si đua nhau phát khởi khiến tâm mê muội mà biến cuộc sống thành điên đảo khổ đau, sa hầm sụp hố. Thí dụ cũng chai rượu đó, nếu con người biết làm chủ sự tham muốn nên không uống thành ra không say. Còn người khác thấy rượu là nhào vô, chén tạc chén thù nên say sưa, ói mửa, mất cả nhân tính, làm khổ cho mình và cho người. Nói thế thì căn thấy (con mắt) đâu có tội lỗi gì, ngay cả rượu cũng chẳng có tội lỗi xấu xa gì, nhưng nếu con người không làm chủ được căn thấy để cho sự quyến rũ của rượu mê hoặc tâm nên không còn làm chủ được tâm mình thì kết quả mới tai hại. Vì thế mà Đức Phật mới dạy rằng :


“Dù chiến thắng vạn quân ở chiến trường không bằng chiến thắng chính mình vì đó là chiến thắng cao thượng nhất”.


Ở Hoa Kỳ không ai lạ gì với anh chàng Tiger Wood, một tay vô địch đánh golf trong những thập niên qua. Cuộc sống đang thuận buồm xuôi gió, thì đùng một cái sóng gió ba đào, nổi trận cuồng phong cũng chỉ vì anh hùng lụy về nạn thuyền uyên. Chính cuộc sống tình dục thiếu đạo đức của anh ta đã giết chết cuộc đời đánh golf mà tệ hại hơn nữa là giết chết tình cảm và niềm tin vợ chồng làm cho gia đình thiếu hạnh phúc, dễ tan vở. Tổng thống Bill Clinton lúc còn làm tổng thống đã dan díu với cô Monica Lewinski trong văn phòng tòa bầu dục làm cho tên tuổi bị chôn vùi. Ngay cả tổng thống George W Bush có thói quen nhâm nhi rượu làm thay đổi nhân cách bởi vì rượu vô thì lời ra, không ai chịu đời nổi ngay cả bà vợ Laura hăm di dị mới thức tỉnh bỏ rượu.


Ngày xưa, Đức Lão Tử có dạy rằng :


“Ngô hữu đại loạn, vị ngô hữu thân,
Ngô nhược vô thân, hà hoạn chi hữu?
Dịch là :


Ta có nhiều cái khổ, vì ta có thân
Nếu ta không có thân thì đâu có khổ gì?


Dựa theo lời dạy của Lão Tử thì hễ có thân là có khổ, nhưng nghĩ kỹ lại, cũng trong thế giới này, Đức Phật và các đệ tử của Ngài cũng mang thân tứ đại như tất cả chúng sinh mà tại sao các Ngài lại có Bồ-đề, Niết bàn? Các Ngài cũng có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý như tất cả mọi chúng sinh nhưng tại sao tâm các Ngài lúc nào cũng an lạcthường trụ Niết bàn? Cái khác nhau giữa Phật và chúng sinh là Phật luôn làm chủ sáu căn của mình, không bao giờ để cho nó chạy theo khách trần phiền não tức là tham đắm dục tình nên tâm hoàn toàn thanh tịnh, không dính mắc. Ngược lại chúng sinh thấy sắc thì mê, nghe âm thanh thì thích, ngửi hương thì yêu cho nên cuộc đời mới khổ. Khổ là vì con người mời khách trần vào tâm hay ta không làm chủ được sáu căn của mình chớ cái khổ không bao giờ tự nó tìm đến hay có được. Do đó nếu nói hễ là con người có thân thì có khổ như Lão Tử là không đúng với chân lý.


Nếu đứng về mặt công năng mà nói thì sáu căn có khác nhau, nhưng nếu dựa theo bản tánh thanh tịnh thì sáu căn vẫn không có gì khác biệt. Do đó nếu ở nơi một căn bây giờ xoay nó về tánh không sinh diệt thì liền chứng được bản tánh thông suốt viên mãn của căn ấy và công hiệu của nó cho dù tu một ngày mà kết quả bằng một kiếp. Vì thế chúng sinh chỉ nên chọn lựa cho mình căn nào dễ thâm nhập, công dụng dễ thành mà đi sâu vào để phá trừ mê chấpđạt được tánh viên thông. Nếu một căn không còn vọng thì sáu căn kia đồng thời đều được thanh tịnh.

CHỈ RÕ CHỖ HƯ VỌNG CỦA SÁU CĂN

Bạch Thế Tôn! Ông A Nan thưa. Vì sao đi sâu vào một căn lại có thể khiến cho sáu căn đồng thời thanh tịnh?


Phật dạy rằng:


-A Nan! Ông được quả Tu Đà Hoàn, song tập khí vô thỉ còn thiếu, chưa thể một lúc tháo gở những lớp vô minh: sinh, trụ, dị, diệt.


-Ông hãy xét kỹ, sáu căn hiện tiền là một hay là sáu? Nếu bảo là một thì lỗ tai sao không thấy, con mắt sao không nghe, đầu sao không đi, chân sao không nói? Còn nếu quyết định cho là sáu thì hiện tôi đang dạy cho ông pháp môn tu hành, vậy trong sáu căn của ông, căn nào tiếp thu, căn nào lãnh thọ?


Ông A Nan thưa:


-Tôi dùng lỗ tai nghe lời Phật dạy.


Phật bảo:


-Ông dùng lỗ tai nghe, vậy thì lỗ tai ông tự nghe nào dính dáng gì đến thân và miệng. Mà miệng ông thì hỏi nghĩa, thân ông thì đứng dậy tỏ vẻ kính vâng? Lấy đó mà suy nghĩ thì căn không phải một cũng không phải sáu. Mà cũng một cũng sáu. Tại vì sự chấp mê điên đảo vô thỉ cho nên cái thể viên minh kia lại sanh ra một, sanh ra sáu. Ví như hư không không tham hợp với các vật. Lu, bình, lọ, cốc do hình trạng đồ vật khác nhau mà hư không thành ra sai khác. Trừ bỏ đồ vật ấy đi thì người ta gọi hư không là một. Sự thật, hư không kia không vì ông mà thành đồng hay khác; huống nữa lại gọi là một hay không phải là một.


-Sáu căn hay biết của ông cũng vậy. Do hai thứ sáng và tối hiển bày lẫn nhau, cái tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên, phát ra cái gọi là thấy. Cái thấy phản ánh ra gọi là sắc. Cơ quan tiếp thu sắc được gọi là nhãn căn. Nhãn căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành, hình dáng trông như trái nho.


-Do hai thứ động và tĩnh đối chọi nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên phát ra cái gọi là nghe. Cái nghe phản ánh ra gọi là tiếng (thanh trần). Cơ quan tiếp thu tiếng được gọi là nhĩ căn. Nhĩ căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành, hình dáng trông như cái lá sen non.


-Do hai thứ thông và bít phát hiện lẫn nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên, phát ra cái gọi là ngửi. Cái ngửi phản ánh ra gọi là hương. Cơ quan thu nạp hương được gọi là tỷ căn. Tỷ căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành hình dáng trông như hai ngón tay duỗi xuống.


- Do hai thứ lạt và vị xâm lấn lẫn nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên phát ra cái gọi là nếm. Cái nếm phản ánh ra gọi là vị. Cơ quan nhận thức vị được gọi là thiệt căn. Thiệt căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành hình dáng trông như nửa vành trăng.


- Do hai thứ hợp và ly cọ xát nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên phát ra cái gọi là biết. Cái biết phản ánh ra gọi là xúc. Cơ quan nhận biết xúc được gọi là thân căn. Thân căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành, hình thể trong như cái trống cơm.

Do hai thứ sinh và diệt tiếp nối nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng với bản thể trạm nhiên phát ra cái gọi là biết. Cái biết phản ánh ra gọi là pháp. Cơ quan tiếp thụ pháp được gọi là ý căn. Ý căn vốn là tứ đại thanh tịnh, biểu hiện qua khái niệm và tư duy, tựa hồ như chất đậu hủ non (bộ óc).


Ông A Nan vẫn còn thắc mắc vì sao chỉ tháo gở một căn mà sáu căn đồng thời được thanh tịnh. Ở đây, ông A Nan chỉ chứng được quả Tu Đà Hoàn nghĩa là ông đã đoạn được hết thân kiến, biện kiến, kiến thủ, giới thủtà kiến. Nếu có thể đoạn hết tham, sân, si, mạn, nghi thì chứng quả A la hán. Tuy các vị trong hàng Thanh Văn, Nhị thừa đã phá được phiền não chướng tức là các Ngài đã loại được phần chấp ngã, nhưng về phần sở tri chướng tức là chấp pháp thì các Ngài chưa phá được.


Sở tri chướng là nói về vô minhvô minh là sự mê mờ tâm thức chẳng khác nào màn mây đen hút che đây ánh sáng mặt trời để dẫn đắt con người từ chỗ mê lầm này đến sự đam mê khác. Vô minh có hai loại là “diệt tướng vô minh” tức là cái vô minh thô và “trụ tướng vô minh” tức là vi tế vô minh. Thí dụ hai người vì bất đồng ý kiến nên cải cọ và sau cùng sinh ra ấu đả, đánh đấm nhau. Đây là vô minh thô tức là diệt tướng vô minh nghĩa là cái vô minh dễ phát hiện. Ngược lại một người tuy bị chửi, tuy không ấu đả, la hét ồn áo, nhưng tâm rất bực bội, đau khổ vì còn chấp vào lời chửi mắng kia thì cái chấp pháp đó là trụ tướng vô minh tức là cái vô minh vi tế chỉ có mình biết chớ không bạo động như vô minh thô.

Khi phát tâm tu theo đại thừa viên mãn thì mới phá được sở tri chướng để trở về hoàn toàn với tánh giác diệu minh của mình. Vì thế mà các vị Bồ-tát cũng nghe những lời mắng nhiếc, chửi rủa như phàm nhân, nhưng vì các Ngài không còn chấp pháp nên nghe những lời mắng nhiếc kia cũng như gió thoảng, mây bay, không dính dấp gì tâm họ nên họ mới có ung dung tự tại là vậy. Chẳng những thế, khi cần thì Bồ-tát vẫn giúp những người hung ác đó cải tà quy chánh, quay về sống đúng với chánh đạo. Đó là diệt được sanh tướng vô minh để hướng về đạo quả vô thượng Bồ-đề.


Con ngườithói quen là hễ nói gì là tin chắc như vậy mà không chịu tư duy quán chiếu để truy tìm xem lời nói đó là phương tiện hay cứu cánh. Trong Phật giáo, kinh điển dạy trong ta có sáu căn, nhưng thật ra có sáu căn như thế không? Để giải thích, Đức Phật dạy rằng: sáu căn vốn không phải sáu mà nói sáu. Lẽ ra phải nói là một, nhưng một không phải một theo nghĩa thông thường nên Thế Tôn mới tùy thuận chúng sinh mà nói sáu vậy thôi. Thí dụ nếu sáu là sáu thì tại sao khi mắt nhìn thấy đồ ăn thì tay liền gắp và miệng chảy nước miếng? Còn nói là một thì tại sao tai nghe nhạc, miệng hát và tay chân nhảy múa theo hoặc nói là một thì tại sao con mắt không nghe, lỗ tai không thấy?

Vậy căn không phải một cũng không phải sáu mà cũng chính là một và sáu. Đấy tức là sắc tức là không và sắc chẳng khác không nghĩa là bất tức bất ly vậy. Để giải thích Phật lấy thí dụ rằng tâm tánh con người cũng như hư không, bao la vô cùng vô tận, không có gì là một hay là sáu, nhưng khi hư không chứa trong các bình, lu, cốc, lọ khác nhau mà hư không thành ra sai khác. Nếu bây giờ lấy bỏ hết các đồ dụng kia đi thì hư không vẫn là một. Do đó, hư không là một mà cũng là nhiều vô tận. Tâm tánh nương theo sáu căn cũng như hư không ở trong các đồ dùng vuông, tròn, cao, thấp vốn không có gì là sáu hay là một.


Sáu căn vốn là chơn tâm viên minh thanh tịnh nhiệm mầu, nhưng cũng bởi do không giác ngộ được cái tâm tánh nhiệm mầu này mà nhận cái minh làm giác nên từ đó mới “có minh” “có sở”. Một khi năng sở được thành hình thì sự phân biệt đối đãi làm sở minh ảnh hưởng đến năng minh và năng minh bị giới hạn trong phạm vi sở minh.


Một khi có hai thứ sáng và tối hiển bày lẫn nhau thì cái tánh giác diệu minh tác dụng vào bản thể tâm tánh nhiệm mầu để tạo ra cái thấy (năng minh). Cái thấy phải có đối tượng để thấy tức là sắc (sở minh) và sau cùng cơ quan tiếp thu những hình tướng, màu sắc, cảnh giới bên ngoài thì gọi là nhãn căn. Nhãn căn là do tứ đại thanh tịnh hợp thành vì thế nhãn căn không phải là nguyên nhân gây ra tội lỗi, phiền não, khổ đau. Bằng chứng là Đức Phật, các vị trong hàng Thanh Văn, Duyên Giác mặc dù đã tu chứngnhãn căn của họ vẫn giống y như tất cả chúng sinh, không thay đổi.

Cái khác nhau duy nhất giữa họ và chúng sinh là họ luôn làm chủ nhãn căn của mình, không để cho nó tha hồ chạy theo sắc trần làm tâm bị mê hoặc mà làm nô lệ cho vô minh phiền não. Nhãn căn là dùng văn tự đối đãi của con người để nói vậy thôi, chớ đúng ra chả có cái gì là thật nhãn căn cả bởi vì nhãn căn là do sự cấu thành của những tế bào, là thịt. Mà đã là thịt thì tại sao chỉ có thịt mắt mới thấy còn thịt đùi, thịt cổ tay lại không thấy? Vì thế Phật tạm gọi nó hình dáng tròn tròn giống như trái nho.


Năm căn còn lại thì cũng thế. Đối với hai thứ động tĩnh tứcthanh trần thì có nhĩ căn. Đối với hai thứ thông và bít tức là hương trần thì có tỷ căn. Đối với hai thứ lạt và vị tức là vị trần thì có thiệt căn. Đối với hai thứ hợp và ly tức là xúc trần thì có thân căn và sau cùng đối với hai thứ sinh và diệt tức là pháp trần thì có ý căn.


Nói tóm lại hình dáng nhãn căn thì tròn giống như trái nho, hình dáng nhĩ căn giống như lá sen non, hình dáng của tỷ căn trông giống như hai ngón tay duỗi xuống, hình dáng thiệt căn trông như nữa vành trăng, hình dáng thân căn giống như cái trống cơm và hình dáng ý căn gống như chất đậu hủ non. Vì lục căn là do tứ đại thanh tịnh hợp thành nên chúng không phải là nguyên nhân của ưu bi, tội lỗi, phiền não, đau thương.


Một ngày kia, có một thiền sư đang tọa thiền trên một tảng đá lớn, thình lình có một người nhảy tới, túm lấy vai sư nói lớn :


- Thầy xem tôi có xấu không? Tôi rất khổ vì người đời nói tôi xấu?


Đây là một người đàn ông chân tay khẳng khiu, da nhăn nheo tóc thô, mắt to mắt nhỏ, tai nhọn như tai dơi, răng khặp khểnh chìa ra ngoài, môi thâm và trề ra giống như quỷ Dạ Xoa. Nghe hỏi vậy, thiền sư hiền từ đáp:


- Có những người xấu gấp ngàn vạn lần ông. Ông chẳng có chi gọi là xấu cả.


Nghe nói thế ông xấu kia vặn hỏi:


- Thầy thử nói xem những người kia xấu như thế nào?


Sư chậm rãi đáp :


-Những kẻ có tiền của nhưng không phụng dưỡng cha mẹ. Những kẻ tham tài phụ khó. Những kẻ giàu có tiền rừng bạc biển nhưng không hề bỏ một xu cứu giúp người nghèo khó. Những kẻ khích bác người đạo hạnh, khinh chê Tam Bảo, đố kỵ người xả thân cứu đời, vô tài nhưng có máu ghen tị. Những kẻ hay đâm thọc, ngồi lê đôi mách, thêu dệt, bịa đặt tin để gây chia rẽ. Những kẻ chuyên loan truyền tin xấu chê bai dè bỉu thành quả của người khác. Những kẻ ăn chơi đàng điếm, trụy lạc làm băng hoại xã hội, buôn bán, chuyển vận xì ke ma túy làm tiêu ma thế hệ trẻ. Những kẻ lười biếng an bám xã hội, sống trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác. Tất cả những người này mới xấu, chứ ông có gì gọi là xấu đâu!


Nghe nói như vậy ông xấu đó lạy tạ sư rồi lui ra. Khi bóng ông vừa khuất thì một người hung hăng bước vào. Ông này ai nhìn diện mạo đều khiếp vía. Bởi vì ông ta cao lớn dềnh dàng, mặt sơn trắng sơn đen vằn vện như những tay đâm thuê chém mướn. Tóc ông ta dựng đứng và tua tủa như những chiếc đinh nhọn. Hai tai ông ta đeo lủng lẳng hai chiếc còng sắt số tám. Lỗ mũi ông ta móc một chiếc nanh heo rừng. Mắt ông ta đeo một miếng da màu đen giống như những tên cướp biển chột mắt. Cổ ông ta xâm hình con cú. Hai vai ông ta quàng chéo hai vòng đạn đại liên như những tên cướp hung bạo.

Ông ta cởi trần, ngực xâm những con thủy quái gớm nhiếc. Chưa hết, hai cánh tay ông còn xâm hình hai con rắn hổ mang mà hai bàn tay là hai cái miệng của con rắn cho nên khi ông đưa tay ra giống như hai con rắn muốn mổ người ta. Ông ta không mặc quần mà quấn một chiếc khố bằng da beo. Hai bên đùi xâm hình hai cô gái lõa thể trông giống như yêu tinh, thần nữ. Tay trái ông cầm một chiếc móc sắc, tay phải cầm một quả lựu đạn đã mở chốt sẳn. Giọng ông khàn khàn giống như giọng Ngưu Ma Vương khiến đàn bà, con nít gặp ông ngã ra bất tỉnh. Ông bước tới trước mặt sư, chìa cái móc sắt và quả lựu đạn ra rồi hỏi:


- Thầy có thấy tôi đáng sợ không?


Nghe ông hỏi, sư vẫn điềm nhiên đáp:


- Ông chẳng có chi đáng sợ cả. Có ngàn vạn người khác còn đáng sợ hơn ông.


Quá đổi ngạc nhiên, ông vặn hỏi :


- Những người đó có gì mà đáng sợ hơn tôi? Thầy thử nói xem.


Thiền sư vẫn ung dung đáp lại :


- Những kẻ mặt mũi đẹp đẽ, ăn mặt sang trọng, nói năng ngọt ngào nhưng trong lòng chứa đầy âm mưu thủ đoạn lường gạt hại người, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ hành tà đạo, tôn thờ thần linh, ma quỷ nhưng nói ra toàn chuyện đạo đức giả hình, biến người nghe thành những con cừu non khờ dại, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ quản trị những công ty lớn, miệng nói trung thành, tín nhiệm nhưng gian tham, lường gạt khách hàng khiến cả trăm ngàn người tán gia bại sản, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ âm mưu thống trị nhân loại nhưng nói ra toàn chuyện nhân nghĩa, đạo đức để lừa mị, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ đứng sau lưng những thế lực đen tối, buôn bán nô lệ, đàn bà, trẻ em, đứng đầu những tổ chức trùm ma túy kết thành bè đảng Mafia, không chuyện tàn ác nào mà không dám làm, những kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ dùng ngòi bút, diễn đàn như gươm súng để đàn áp người cô thế, đầu độc dư luận, bóp méo sự thật, phỉ báng, vu oan giá họa người lương thiện như thế mới đáng sợ. Còn như ông thì chẳng có gì đáng sợ cả.


Ông đáng sợ sau khi nghe nhà sư nói như thế chán nản lui ra. Nhưng khi ông vừa bước xuống thềm đá thì một cô gái tiến lên, tới trước mặt sư, kiêu hãnh hỏi:


Tôi là Hoa Hậu Thế Giới, Sư có thấy tôi đẹp không?


Sư chậm rãi đáp :


- Cô chẳng có chi là đẹp cả. Có cả ngàn vạn người còn đẹp hơn cô rất nhiều.
Cô gái nghe nói, bực bội, mở tròn đôi mắt hỏi lại sư:


- Hoa hậu thế giới là người đẹp nhất của thế giới mà thầy nói còn rất nhiều người đẹp hơn tôi, vậy những người đẹp đó hơn tôi ở chỗ nào?
hiền từ đáp :


- Giữ gìn trang nghiêm “giới hạnh” là “thân đẹp”. Ăn ở hiền hòa, thủy chung là “nết đẹp”. Thấy người ta ngã mà nâng lên, đó là “cử chỉ đẹp”. Phụng dưỡng cha mẹ già, chu cấp người cô quả cô độc, tôn quý các bậc hiền thánh, cúng dường chư tăng ni đó là “tâm hồn đẹp”. Thấy người ta lâm nguy, sợ hãi mà nói lời an ủi giúp đở, đó là “ngôn ngữ đẹp”. Không một tà niệm nảy sinh, đó là “ý đẹp”. Thấy người ta u tối, không hiểu biết mà khai mở trí tuệ, cho học hành chữ nghĩa, đó là “trí tuệ đẹp”. Phá vỡ màn vô minh, hướng dẫn chúng sinh vào con đường an vui giải thoát, đó là cái đẹp mà trời Đế Thích phải trải hoa tán thán. Còn cái đẹp của cô là cái đẹp của sự ham muốn, chiếm đoạt, xoay vần trong vòng sinh tử luân hồi, ngầm chứa khổ đau, sớm nở tối tàn không có chi đáng tán dương cả.

CHỈ RA HƯ VỌNG KHÔNG THẬT. PHÁT MINH CHÂN TÁNH THÌ VIÊN THOÁT


A Nan! Sáu căn của ông bị hạn chế là bởi “tánh giác minh” bị trở thành “minh giác”. Do vậy, tánh giác minh mất phẩm chất trong sáng bản nhiên, tác dụng với các vọng mà phát ra hay biết. Hiện nay ông rời tối, rời sáng thì không có cái thấy. Rời động và rời tĩnh thì không có tánh nghe. Rời thông và bít thì không có tánh ngửi. Không vị không nhạt thì không có cái nếm. Không hợp, không ly thì không có tánh xúc. Không diệt không sanh thì cái nhận thức không có điều kiện sanh.


Động, tĩnh, hợp, ly, nhạt, vị, thông, bít, sanh, diệt, tối, sáng đó là 12 tướng hữu vi. Ông đừng chạy theo sự chi phối, lôi cuốn của chúng. Tùy nghị lực của ông, nhận xét tìm ưu thế của một căn, chặt nhổ gốc rễ vô minh phiền não, xoay tánh giác minh trở về vị trí bản nguyên minh diệu của nó. Phát huy thế mạnh trừ khử mê mờ, làm chủ được một căn thì năm căn còn lại sẽ được thanh tịnh giải thoát hết.


Đến lúc không cần có tiền trầntri kiến vẫn phát khởi, bấy giờ tri kiến giác minh không lệ thuộc nơi căn, chỉ gá vào căn mà phát ra nhận thức trong sáng. Do đó sáu căn bấy giờ có thể dùng thay lẫn nhau mà không có gì trở ngại.


A Nan! Ông có biết chăng! Trong hội này ông A Na Luật Đà không có mắt mà vẫn thấy. Thần nữ Căn Già không có mũi mà nhận biết hương. Ông Kiều Phạm Ba Đề lưỡi dị tướng (lưỡi trâu) mà biết vị.
A Nan! Nếu các căn của ông đều được giải thoát thì tánh giác tự phát ra. Chừng đó, phù trần cănhiện tượng vạn hữu thế gian đối với ông cũng như băng giá gặp nước sôi. Sự nhận thức của ông bấy giờ trở thành Vô thượng Chánh Biến Tri Giác.


Thế nào là tánh giác minh trở thành minh giác?


Tánh giác minh là tánh thanh tịnh bản nhiên, châu biến khắp mười phương thế giới, là tánh khách quan, không phải của riêng người nào. Nhưng cái tánh giác minh này trở nên bị hạn chế, giới hạn công năng của nó khi nó tác động vào con ngườitrở thành ra minh giác. Do đó minh giác là cái riêng của mình, của ta. Vì thế khi tánh giác minh tác dụng vào ông A Nan thì nó trở thành cái riêng của ông A Nan tức là minh giác. Một khi trở thành ra cái riêng của ông A Nan thì A Nan bây giờ trở thành năng phân biệt tức là năng minh và vạn pháp trở thành đối tượng sở phân biệt tức là sở minh. Thí dụ nhãn căn là năng phân biệt và nhà cửa, xe cộ là sở phân biệt. Nhĩ căn là năng phân biệt và tiếng nói, giọng cười, âm thanh là sở phân biệt.

Cái lưỡi là năng phân biệt còn mặn, nhạt, chua, cay là sở phân biệt. Nói cách khác bản tâm vốn thanh tịnh, thường hằngkhông sinh không diệt, nhưng lục căn duyên theo trần cảnh bên ngoài mà phát sinh ra vọng tưởng hay, biết. Một khi vọng tưởng phát khởi thì tham-sân-si nương theo vọng tưởng mà phát sinh mạnh. Từ đó tâm con người chạy theo lục dục thất tình nên cố bám giữ những thứ mình yêu mình thích và chán ghét những thứ mình không ưa, không muốn. Cũng vì chạy theo chấp ngã, chấp pháp nên con người tạo nên hạnh nghiệp để cột chặt họ vào sinh tử trầm luân đau khổ. Cái tuyệt vời ở đây là Đức Phật nhìn vạn hữu qua tánh bình đẳng khách quan tức là Ngài chỉ có tánh giác minh nên tất cả vạn pháp trong thế gian này như thế nào thì Đức Phật nhìn thấu suốt như thế đó, không thêm không bớt. Đó chính là pháp nhĩ như thị vậy. Ngược lại chúng sinh thì nhìn vạn pháp xuyên qua thấu kinh chủ quan nên “tánh giác minh” biến mất mà thay bằng “minh giác” nên thấy biết lầm lẫn, không thật.


Vì thế Phật mới dạy rằng :
“Tri kiến lập tri tức vô minh bổn,
Tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn”.


Là người đệ tử Phật chúng sinh nên thấu hiểu rằng: Hiểu biết mà chồng lên hiểu biết là gốc rễ của vô minh. Hiểu biết rồi xóa đi hiểu biết mới tìm thấy Niết bàn. Nói cách khác người đệ tử Phật phải biết cái gì là gút để phải vướng mắt mãi mãi trong sinh tử luân hồi hoặc làm sao mở gút để không còn ràng buộc trói trăn mà bước đi thong dong tự tại.


Khi tánh giác minh trở thành minh giác thì sáu căn của con người bị hạn chế, không còn bao la vô cùng vô tận trong pháp giới bởi vì tánh giác minh bây giờ đã mất hết tánh chất trong sáng bản nhiên nên bị giới hạn trong cái hay, biết tầm thường. Vì thế sáu căn bây giờ tùy thuộc hoàn toàn vào sáu trần cho nên nếu không có sáng tối thì không có cái thấy, không có động và tĩnh thì không có tánh nghe, không mặn, không nhạt thì không có tánh nếm, không ly không hợp thì không có tánh xúc, không sinh không diệt thì không có tánh biết. Ngược lại người tu chứng thì họ không tùy thuộc vào ngoại trần, không cần sáng tối mà vẫn thấy, không cần động tĩnh mà vẫn nghe…Họ không cần sự phân biệt đối đãi của căn và trần (năng, sở) mà vẫn có tri kiến giác minh sáng suốt thanh tịnh. Khi đã làm chủ được sáu căn nghĩa là đóng bít sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì tri kiến bây giờ trở về với tự tánh thanh tịnh bản nhiên tức là sống với cái bản lai diện mục của mình. Hằng ngày con người sống với vọng tâm, sống xa dần với chơn tánh của mình nên mới nếm mùi phiền não khổ đau. Nếu bây giờ biết hồi đầu thị ngạn, biết tránh xa những nhận thức mê lầm thì cái thế giới mình đang sống này sẽ trở thành thiên đường cực lạc. Vì thế mà kinh Duy Ma Cật có dạy rằng:”Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh” là vậy.


Một lần nữa kinh Lăng Nghiêm xác định rằng một khi con người làm chủ được sáu căn của mình thì tuy hiện tượng vạn hữu trong thế gian này vẫn sờ sờ ra đó, nhưng đối với họ tuy có mà vẫn như không. Nói cách khác mặc dù thế gian vẫn có trước mắt, nhưng chúng sinh đừng chấp cái có của nó, đừng để tâm tham mê luyến ái nó thì tuy là có nhưng nó vẫn như không. Đó chính là thấy mà như không thấy, nghe mà như không nghe. Lục căn đối với người giác ngộ thì tuy có mà vẫn như không. Các Ngài cũng có đầy đủ sáu căn như tất cả chúng sinh, nhưng sáu căn không còn tác động, chạy theo sáu trần. Họ nhìn vạn pháp một cách thấu triệt tận gốc của nó rằng : “Vạn pháp giai không, duyên sinh như huyễn” nên tâm không hề lưu luyến, tham ái. Đây chính là cái nhìn hiện tượng vạn pháp qua thấu kính “tri kiến vô kiến” vậy.


Khi nói sáu căn chớ thật sự không phải là sáu mà chỉ nói sáu vậy thôi. Nhưng nếu không nói là sáu thì phải chăng nó là một? Cũng không được gọi là một mà chính là một. Nói cách khác công dụng của sáu căn là một và một cũng là sáu. Vì sao? Bởi vì sáu căn phát xuất từ tánh giác minh thanh tịnh bản nhiêntác dụng vào sáu căn nên có công dụng khác nhau mà có tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết. Nói cách khác sáu tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, nếm, xúc, biết đều phát xuất từ một tánh giác minh nên nói một tức là sáu, nhưng nếu con người bây giờ biết làm chủ sáu căn của mình để quay về với tự tánh thanh tịnh của mình thì sáu trở thành một nghĩa là sáu căn có thể dùng thay lẫn nhau mà không có gì ngăn ngại cả. Phù trần căn là những căn thô, hiển lộ ra hình tướng chẳng hạn như con mắt thì tròn giống như trái nho, lỗ tai thì hình dáng giống như cái là sen non…Còn những căn rất vi tế bên trong gọi là tịnh sắc căn. Tuy rất vi tế, nhưng nó vẫn là vật chất, như luồng điện. Con người thường nghĩ rằng ý căn thuộc về tư tưởng nên nó không phải là vật chất, nhưng ở đây Phật chỉ rõ rằng ý căn thuộc về tâm nên không có hình tướng. Tuy ý căn là vô hình, nhưng vì phát xuất từ tứ đại thanh tịnh nên nó cũng có phù trần căntịnh sắc căn như tất cả các căn khác. Phù trần căn là khối thần kinh dùng để lưu chuyển những tín hiệu (dòng điện) từ các căn khác về hệ thần kinh trung ương.


Trong đoạn kinh trên Đức Phật dạy ông A Nanđại chúng nếu muốn trở về với bản tâm thanh tịnh để có giải thoát giác ngộ, an vui tự tại thì chỉ cần hàng phục “một trong sáu căn” để cho nó không còn dính mắc nơi trần cảnh nghĩa là tận diệt tận gốc rễ tất cả vô minh phiền não và xoay tánh giác minh trở về với trạng thái sáng suốt, minh diệu như thủa ban đầu. Một khi trí sáng suốt hiển hiện thì chấp ngã, chấp pháp dần theo thời gian mà tan biến và sau cùng chơn tâm hiện bày, Phật tánh hiễn lộ và chúng sinh sẽ có an lạc, thanh tịnhtự tại.


Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật có dạy rằng :


“Tất cả chúng sinh đều có đầy đủ trí tuệ của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng, chấp trước che lấp nên không nhận ra. Nếu con người có thể lìa được vọng tưởng thì Nhất thiết trí, Tự nhiên trí, Vô ngại trí hiển bày”.


Nói tóm lại, chúng sinh do căn-trần đối đãi mà có năng-sở phân biệt cho nên khi không có căn-trần thì mờ mịt, lầm lẫn. Đến khi chứng được tánh sáng suốt nghĩa là xoay cái minh giác trở thành tánh giác minh thì sáu căn trở thành tự tạitrở về với tự tánh thanh tịnh bản nhiên nên sáu căn có thể hòa nhập, không còn ngăn ngại. Đó là tại sao các vị A la hán, Duyên giác hay Bồ-tát một khi đã hoàn toàn sống với tánh giác minh của họ thì người nào cũng có thần thông tự tại, biến hóa khôn lường. Sáu căn không còn ngăn ngại nên mặc dầu nhắm mắt mà họ vẫn thấy, bịt tai mà vẫn nghe. Bằng chứng là tôn giả A Na Luật tuy mắt bị mù, nhưng nhờ có được thiên nhãn thông mà có thể thấy được tam thiên đại thiên thế giới như thấy quả quít trong bàn tay. Thần nữ Căn Già tuy không có mũi mà vẫn biết mùi hương. Ông Kiều Phạm Ba Đề đời trước chê bai những vị tăng tiếng tụng kinh như tiếng chó sủa nên sang đến đời này cái lưỡi rất to và cong lại như lưỡi trâu. Tuy thế ông vẫn biết đủ mùi vị.

PHẬT BẢO ĐÁNH CHUÔNG ĐỂ CHỨNG NGHIỆM TÁNH NGHE CỦA NHĨ CĂN LÀ THƯỜNG CÒN

ÔNG A NAN NGHI NGỜ RẰNG KIẾN, VĂN, GIÁC, TRI KHÔNG CÓ TỰ THỂ.


Bạch Thế Tôn! Ông A Nan thưa. Theo lời Thế Tôn dạy chỗ phát tâm cầu được thường trụ trong lúc tu nhân, cốt yếu cần phải cân xứng với những đức tính trong lúc chứng quả. Bạch Thế Tôn! Như trong quả vị, nào là Bồ-đề, Chân như, Phật tánh, Am ma la thức, Không Như Lai Tạng, Đại viên cảnh trí. Bảy thứ danh hiệu tuy có khác nhau, nhưng thế tánh đều thanh tịnh viên mãn, vững chắc như Kim cương vương, thường trụ như hư không bất hoại.


Bạch Thế Tôn! Cái tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết rời các tướng tối, sáng, động, tĩnh, thông, bít, nhạt, mặn, hợp, ly cho đến như tâm niệm tư duy rời tiền trần không có cái nào còn tự thể. Vậy thì lấy cái gì làm nhân tu hành để cầu Vô Thượng Giác rắn chắc như Kim cương vương, thường trú bất hoại như hư không ấy?


Xin Phật rũ lòng đại từ khai thị chỗ mê chấp cho tôi!


Trong đoạn nghĩa quyết định thứ nhất Phật dạy rằng:” Chúng sinh chỉ có thể nương theo cái tâm thường trụ, bất biến, không sinh diệt để làm nhân địa tu hành thì mới thấy được chơn tâm, Phật tánh của chính mình”. Trong đoạn nghĩa quyết định thứ hai Phật lại dạy: “Tánh thanh tịnh nhiệm mầu bị dính nơi sáu căn, cần phải mở cái nút ấy ra mới được giác ngộ”. Nói cách khác không thể đem sáu căn còn bị dính mắc, mê lầmtu chứng thành quả vô lậu được. Và sau cùng đoạn kinh trên Phật dạy ông A Nanđại chúng nên chọn một trong sáu căn làm nhân địa tu hành vì một căn dễ tận diệt tận gốc rễ tất cả vô minh phiền não mà thấy được chơn tâm, Phật tánh của mình. Nói cách khác chúng sinh chỉ cần chọn cho mình một căn dễ thâm nhập, công dụng dễ thành mà tiến tu để phá trừ chấp ngã, chấp phápđạt được tánh viên thông vô ngại thì những căn còn lại đồng thời đều được thanh tịnh.


Đến đây ông A Nan đã thấu hiểu rằng tuy các quả sở chứng có nhiều, nào là Chơn như, nào là Bồ-đề, nào là Am ma la thức, nào là Không Như Lai Tạng…nhưng tất cả đều có chung thể tánh thanh tịnh viên mãn. Thế nhưng ông lại nghi rằng nếu mà tiền trần tự nó diệt mất thì những tâm niệm của ông cũng bị diệt theo. Do vậy mà tâm ngã và tâm sở cũng không còn tức là tướng của bản ngã và tướng của hình trạng vạn hữu bên ngoài cũng tan biến. Như thế thì lấy cái gì làm nhân căn bản để tu hành mà thành giác ngộ?

KHAI THỊ TÁNH NGHE LÀ THƯỜNG CÒN


Phật bảo :

- A Nan! Nay tôi đem việc thông thường trước mắt, phương tiện tháo gở mối nghi của ông. Bấy giờ Phật bảo ông La Hầu La đánh một tiếng chuông, rồi hỏi ông A Nan rằng;


- A Nan ! Ông có nghe không?

- Có nghe. Ông A Nanđại chúng đồng thưa.


Chuông hết kêu, không còn tiếng, Phật lại hỏi rằng:


- Nay ông có nghe chăng?


- Không nghe. Bạch Thế Tôn.


La Hầu La lại đánh một tiếng chuông nữa, Phật lại hỏi rằng:


- Ông có nghe chăng A Nan?


- Có nghe. Bạch Thế Tôn.


Phật hỏi :


- Thế nào thì ông có nghe? Còn thế nào thì ông không nghe?
Ông A Nanđại chúng đồng bạch Phật rằng :


- Có tiếng chuông kêu thì chúng tôi được nghe, hồi lâu tiếng dứt, âm vang không còn thì không còn nghe nữa.
Đức Phật lại bảo ông La Hầu La đánh chuông rồi hỏi tiếp:


- Theo ông hiện nay có tiếng không?


- Có tiếng. Bạch Thế Tôn!


Hồi lâu, tiếng chuông dứt bặt, Phật lại hỏi:


- Hiện giờ có tiếng không?


- Không tiếng, Bạch Thế Tôn!


Phật bảo :


- Thế nào ông gọi là có tiếng. Còn thế nào thì ông gọi là không tiếng?
Ông A Nanđại chúng đồng thưa :


- Có đánh chuông, tiếng chuông ngân vang thì gọi là có tiếng, giây lâu tiếng hết, âm vang không còn thì gọi là không tiếng.
Phật bảo :


- Ông A Nanđại chúng rằng: Sao hôm nay các ông nói lộn xộn điên đảo như thế?
Đại chúngA Nan bạch Phật :


- Vì đâu Phật bảo chúng tôi lộn xộn và điên đảo?
Bây giờ Phật mới dạy rằng:


- Tôi hỏi về cái nghe thì các ông nói là nghe! Tôi hỏi về tiếng thì các ông cũng nói là tiếng! Chỉ có cái nghe và tiếng mà các ông trả lời không nhất định, còn không phải lộn xộn điên đảo là gì?


- A Nan! Biết có, biết không là do có tiếng hay không có tiếng. Có tiếng thì nghe động, không tiếng là nghe tĩnh, chứ không phải không tiếng, tánh nghe không còn. Nếu tánh nghe không còn thì lấy cái gì để biết là không tiếng?


- A Nan! Cái tiếng đối với tánh nghe tự có sinh có diệt, nhưng không phải vì sự sinh hay diệt của tiếng mà tánh nghe của ông tùy có tùy không. Ông còn lộn lạo lầm cái tiếng mà cho là cái nghe, thảo nào chẳng mê mờ cái viên thường mà cho là đoạn diệt. Ông không nên lầm tưởng rời các thứ động, tĩnh, tối, sáng, thông, bít, …là cái nghe…không còn. Ông nên hiểu rằng: Tánh nghe không những “thường hằng” trong khi thức mà nó “thường hằng” cả trong lúc ông ngủ say sưa!


- Chúng sinh từ vô thỉ đến nay, theo sự lôi cuốn của sắc, thanh theo vọng niệmlưu chuyển, không hồi quang phản chiếu cái bản tánh thanh tịnh diệu thường, bỏ sót mất tánh thường chỉ buông xuôi theo dòng sinh diệt. Do vậy đời đời sống trong tạp nhiễm mà phải luân chuyển khổ đau. Nếu biết rời bỏ những cái sinh diệt, giữ lại tánh chân thường sáng suốt nhiệm mầu thì lục căn, lục trần, lục thức tiêu vong tại chỗ. Bởi vì trần là cái tướng của vọng tưởng và cấu là vọng tình phân biệt của con người. Xa lìa hai thứ trần cấu thì pháp nhãn của ông tức thì trong sáng. Cái nhận thức của ông bấy giờ là nhận thức của con người Vô Thượng Chánh Biến Tri Giác đồng với chư Phật mười phương ba đời vậy.


Tuy A Nan đã biết các sự mê lầm dựa theo lời Phật dạy, nhưng chính ông chưa trực nhận được cái mê lầm nầy. Để giải mối nghi ngờ của ông A Nan, bây giờ Phật bảo tôn giả La Hầu La đánh chuông. Khi Phật hỏi có nghe, không nghe thì ông A Nan cũng đáp có nghe, không nghe. Đến khi Phật hỏi có tiếng, không tiếng thì ông A Nan cũng đáp có tiếng, không tiếng. Chính ông A Nanđại chúng đã lầm lẫn cái nghe với cái tiếng tức là không phân biệt rõ ràng cái gì là “căn tánh” và cái gì là “trần cảnh”. Dựa theo A Nan là khi không nghe tiếng thì gọi là không nghe, nhưng nếu suy nghĩ kỷ lại thì nếu thật không nghe thì làm sao biết được tiếng chuông đã dứt. Còn nếu tánh nghe đã diệt, không còn thì khi tiếng chuông đánh lại, làm sao còn nghe được? Nói cách khác tiếng không, không phải tánh nghe không có. Hoặc tiếng có, không phải tánh nghe mới sinh.

Do vậy nghe có tiếng, hay nghe không có tiếng là do thanh trần khi có, khi không chớ không phải tánh nghe vì thanh trần mà hóa có, hóa không. Vì vậy phải biết rằng tánh nghe thì lúc nào cũng có cho dù có tiếng hay không nên mới gọi là thường còn. Nói cách khác có tiếng thì nghe động, không tiếng thì nghe tĩnh, chớ không phải không tiếng thì tánh nghe không còn. Đây là đức tính “thường”, một trong ba tính ”thường, viên, thông” của nhĩ căn. Bằng chứng là trong khi ngủ, con người cũng có thể nghe được tiếng mặc dù ý thức không khởi. Trong chương kế tiếp, Đức Phật giới thiệu Đức Quán Thế Âm nhĩ căn viên thông để khai thị rằng trong nhĩ căn của con người có một tánh nghe, thường hằng, không sinh diệt cho dù có tiếng hay không có tiếng. Nếu chúng sinh có thể đi vào được bản tánh nghe của mình thì tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước dần dần sẽ tan biến. Từ đó chơn tâm hiển bày, Phật tánh biểu lộ.


Tiếng nghe là tướng của âm thanh tức là khi có tiếng là âm thanh sinh và không còn tiếng là âm thanh diệt. Vì thế âm thanh là tướng sinh diệt. Vì thế nếu chúng sinh dựa vào âm thanh sắc tướng mà tu tức là tu theo bản tánh sinh diệt của các tướng thì không bao giờ đạt được chơn như thanh tịnh bởi vì những gì có tướng sinh diệt đều là huyễn ảo, giả dối, không thật. Do đó nếu chúng sinh nương theo những huyễn ảo này mà tu thì họ sẽ sống với cái vọng duyên, huyễn cảnh. Cho nên trong kinh Kim Cang, Phật có dạy rằng:


“Nếu thấy ta bằng sắc tướng
Nghe ta bằng âm thanh
Người này đi đường tà
Không thấy được Như Lai”.


Nghĩa là nếu chúng sinh còn dựa theo âm thanh sắc tướng của Phật mà tu tức là chưa phá được vọng chấp, vô minh phiền não thì không bao giờ thấy được Phật tâm, Phật tánh tức là không thấy được Như Lai.


Mũi, lưỡi, thân và ý thì cũng vậy. Khi có mùi thơm thì mũi ngửi biết mùi thơm, khi có mùi xú uế thì ngửi biết mùi hôi tanh. Còn nếu không có mùi thì mũi trở về với tánh vô ký tức là tánh ngửi vẫn còn, nhưng không có mùi vị để tiếp nhận. Khi có vị mặn, nhạt thì lưỡi nếm được những vị này, nhưng nếu không có mùi vị gì thì lưỡi trở lại với tánh vô ký của nó, chớ không phải là không còn tánh nếm. Nói tóm lại ngoài những cái phân biệt thương ghét, vui mừng, buồn giận, phải quấy, hơn thua, tốt xấu của thế gian hay cái tánh thấy nghe, ngửi, nếm, xúc, biết thì vẫn còn một cái lúc nào cũng thường còn trong tất cả mọi chúng sinh. Đó chính là chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh chớ không phải mất hết như ông A Nan hoài nghi.


Từ vô thỉ, con ngườithói quen chạy theo âm thanh sắc tướng tức là chạy theo cái sinh diệt mà bỏ mất tánh viên thường nên xoay vần mãi trong ô nhiễm chấp trước mà tạo hạnh nghiệp để phải chịu sinh tử khổ đau. Nay nếu biết thoát ly trần cảnh, bỏ cái phân biệt, phát huy tánh chân thường yên lặng sáng suốt thì những vọng tưởng, phân biệt mê chấp biến mất và tâm tánh thường trụ sáng suốt hiện ra để làm nhân địa tu hành đi đến đạo quả thường trụ của Phật.

XEM TIẾP CHƯƠNG 8 QUYỂN HAI...
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
14/06/2010(Xem: 57425)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.