Quan Điểm Của Phật Giáo Trước Các Vấn Đề Hiện Đại

28/02/20194:05 CH(Xem: 20948)
Quan Điểm Của Phật Giáo Trước Các Vấn Đề Hiện Đại
QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO 
TRƯỚC CÁC VẤN ĐỀ HIỆN ĐẠI 
Dr. ĐỖ KIM THÊM LL.M; M. A.
Nha xuất bản Ananda Viet Foundation
cover-book_quan-diem-PG-truoc-cac-van-de-hien-dai low res

 

 

LỜI GIỚI THIỆU

NHÂN KỲ TÁI BẢN TẠI HẢI NGOẠI

 

Quan Điểm của Phật Giáo Trước Các Vấn Đề Hiện Đại đã đuợc Nhà Xuất Bản Hồng Đức ấn hành lần đầu tiên tại Việt Nam vào năm 2012. Nay được dịch giả / tác giả đồng ý để nhà xuất bản Ananda Viet Foundation tái bản, phát hành rộng rãi tại hải ngoại qua mạng Amazon dưới phương thức POD (Print On Demand) nhằm mục đích phổ biến cho Phật tử hải ngoại có cơ hội tìm hiểu về đề tài này.

Đây là một tuyển tập gồm sáu bài nghiên cứu công phu về các vấn đề thời đại qua lăng kính Phật giáo của các học giả nổi danh từ Anh, Pháp và Đức ngữ được Tiến sĩ Đỗ Kim Thêm dịch sang Việt ngữ để giúp cho người Việt, đặc biệt là các Phật tử muốn tìm hiểu quan điểm của đạo Phật trước các vấn đề nóng bỏng hiện đang xảy ra trên thế giới như chiến tranh & hòa bình; đạo đức kinh tế; nhân quyền & tự do tôn giáo; phát triển khoa học; dân số, tiêu thụ & môi trường; và sau cùng mối quan hệ văn hóa giữa hai siêu cường Á Châu Trung Hoa và Ấn Độ.

Vì các giá trị Phật Pháp tiềm ẩn mà các tác giả đã gửi gắm trong tác phẩm này, nhà xuất bản Ananda Viet Foundation rất hân hạnh được xuất bản và trân trọng kính giới thiệu đến toàn thể quý độc giả trí thức. Hy vọng rằng tác phẩm này sẽ góp phần soi sáng những vấn đề thời đại mà tất cả chúng ta đang quan tâmtìm giải pháp.

Westminster ngày 8 tháng 12 năm 2017

Cư sĩ Tâm Diệu | Nhà xuất bản Ananda Việt Foundation

  

 

LỜI GIỚI THIỆU


“Quan điểm của Phật giáo trước các vấn đề hiện đại” là một tuyển tập các bài viết của các giáo sư Phật học và các nhà khoa học nổi tiếng thế giới về các vấn đề thời đại, dưới cái nhìn Phật giáo. Tiến sĩ Đỗ Kim Thêm đã dày công sưu tầm và phiên dịch các bài nghiên cứu đặc sắc và có giá trị nghiên cứu này, góp phần làm phong phú nền Phật học Việt Nam.

Việc Liên Xô và khối Xã hội Chủ nghĩa từ cuối thập niên 1980 của thế kỷ XX là những biến động quan trọng đã làm thay đổi cục diện thế giới triệt để. Những thành tựu ngoạn mục của các ngành khoa học hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, đem các dân tộc trên thế giới gần gũi và thông cảm nhau hơn bao giờ hết.

Cách biệt địa lý không còn nữa nên cũng là động cơ thúc đẩy cho các công ty đa quốc đầu tư ào ạt trên bình diện toàn cầu và làm gia tăng cơ hội mậu dịch và xuất khẩu cho các nước chậm tiến. Đây là một điều kiện tiên quyết cho các nước hội nhập vào sinh hoạt chung của thế giới. Các hình thức viện trợ quốc tế gia tăng cũng tạo thêm phương tiện hữu hiệu làm cho tiến trình thay đổi này được nhanh hơn.

Trước một bối cảnh toàn cầu hóa đầy năng độnglạc quan ai cũng tin là phát triển kinh tế, tôn trọng nhân quyền, phát huy dân chủ, bảo đảm bình đẳng về an sinh phúc lợi, nâng cao văn hóa, trao dồi đạo đức cho mọi người là một khả năng hiện thựcthế giới đang tiến dần về một nền văn minh đại đồng và hòa bình vĩnh cửu.

Nhưng thực tế đã xảy diễn trái ngược. Xung đột địa phương và bạo lực giữa các sắc tộc lan rộng, khủng bố nhân danh tôn giáo đe dọa an ninh toàn cầu đến mức độ đáng ngại, kinh tế tại các quốc gia công nghiệp suy thoái nghiêm trọng, giá trị của mô hình kinh tế thị trường bị nghi ngờ và không ai còn tin các giải pháp kinh tế xã hội hiện nay sẽ mang phép lạ làm biến đổi được tình hình ngày càng nguy kịch.

Triển vọng hội nhập vào kinh tế thế giới của các nước chậm tiến cũng trở nên mơ hồ vì cơ hội giao thương và đầu tư ngoại quốc lại sụt giảm. Tác hại hơn, giá trị dân chủ không được phát huy, nhân quyền bị vi phạmhệ thống, mọi tự do dân chủ cơ bản đều bị bóp nghẹt, bình đẳng và an sinh xã hội cho người nghèo không đạt được, vì các chế độ độc tài chỉ giúp cho tham nhũng bất công và nghèo đói gia tăng.

Dù những thành tựu trong mọi lãnh vực đã và đang đóng góp sự phát triển chung một cách đáng kể nhưng vẫn còn quá xa sự mong đợi. Thế giới hiện nay có chung vấn đề mới là biến đổi khí hậu, môi sinh thay đổi, tài nguyện cạn kiệt, dân số gia tăng, giáo dục xuống cấp. Bi quan nhất có lẽ là quan hệ con người trong một thế giới bất ổn không được coi trọng và hoằng dương đạo đức, một điều kiện chủ yếu để phát triên nhân cách và tâm linh cá nhân để đóng góp cho một thế giới hòa bình trở nên khó khăn hơn.

Trong viễn cảnh đó, những người ưu tưđặc biệt là các Phật tử luôn muốn tìm hiểu quan điểm của Phật giáo trước các vấn đề nóng bỏng hiện nay của thế giới như thế nào. Ngoài việc hướng dẫn cho Phật tử thực hành học Phật tu nhân trong đời sống hằng ngày để tìm về bến giác, thì giáo lý Phật giáo có những luận giải và đóng góp trong các vấn đề như chiến tranh, hòa bình, kinh tế, nhân quyền, dân chủ, tự do, khoa học, môi sinh, tiêu thụ và dân số. Đây là chủ đề chính của tuyển tập này nhằm giới thiệu các công trình nghiên cứu của các học giả nổi danh từ Anh, Đức và Pháp ngữ được TS. Đỗ Kim Thêm dịch sang Việt ngữ để phục vụ cho người Việt nắm bắt được vấn đề và đóng góp vào việc thảo luận chung hiện nay. Bố cục và đại ý của các chuyên đề trong tuyển tập này gồm 6 phần, mỗi phần là một chương.   

Chủ đề của chương 1 là Chiến tranh và hoà bình theo quan điểm của Phật giáo. Nguyên bản Anh ngữ của bản dịch là War and Peace, chương VI trong tác phẩm An Introduction to Buddhist Ethics của GS. Peter Harvey do nhà xuất bản Cambridge University Press ấn hành năm 2000, từ trang 239-285.

Peter Harvey đã luận giải về nguyên nhân của tranh chấp trong một thế giới đầy bạo lực và lập trường bất bạo độnggiải pháp đạo đức cho các xung đột. Giáo lý Phật giáo đề ra những cơ sở đạo lý cho việc suy tưởng này và hướng dẫn thực hành về phương thức bất bạo động. Giảm sân hậntăng nhẫn nhục, thực tập kiên trìhỷ xả sẽ giúp cho xoa dịu tình huống.

Ngoài những luận giải theo kinh điển ông đã trình bày về những đóng góp của Phật giáo cho hòa bình trong thế giới hiện đại, mà những hoạt động hỗ trợ thuộc tông phái Nhật Liên tại Nhật, Sarvòdaya Sramadàna tại Sri Lanka, tác động hòa giải của Hòa thượng Mahà Ghosànanda trong việc khôi phục Campuchia là những kinh nghiệm thực tế.

Tác giả kết luận rằng ở thế kỷ XX vẫn còn nhiều cuộc đấu tranh của Phật tử chống lại bạo lực, nhưng truyền thống Phật giáo là một nguồn gốc quan trọng để có thể tìm một giải pháp cho xung đột. Trong khi tự do tôn giáo vẫn còn bị tiếp tục đe doạ, thì cũng có những nhà lãnh đạo tôn giáo dùng bất bạo động làm phương thức để chống chính quyền độc tài.

Những người đấu tranh cho hòa bình theo quan điểm của Phật giáo hiện nay là Dalai Lama, Aung San Suu Kyi, Ariyaratne, Ghosànanda, Dalai Lama và Aung San Suu Kyi đã nhận giải Nobel về hòa bình trong khi Ariyaratne, Ghosànanda đều được đề cử để nhận giải. Với phương cách trích dẫn các loại kinh điển cực kỳ công phu và thư mục nghiên cứu nghiêm túc, GS. Peter Harvey đã minh chứng rằng quan điểm của Phật giáo có khả năng giải quyết chiến tranh và đem lại hòa bình cho nhân loại.

Trong chương 2, “Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo” Peter Harvey trích dẫn kinh điển Đại thừa để chứng minh rằng Phật giáo đã có đề cập đến các vấn đề kinh tế. Giá trị cổ truyền của Phật giáo là đối nghịch với những giá trị trong một xã hội nặng về chiếm hữutiêu thụphúc lợi vật chất không là cứu cánh tự tại, mà chỉ là một phương tiện mang lại hạnh phúc cho con người và hỗ trợ cho sinh hoạt nhằm phát triển đạo đứctâm linh.

Nguyên bản Anh ngữ của bản dịch là Economic ethics, chương V trong tác phẩm An Introduction to Buddhist Ethics: Foundations, Values and Issues của GS. Peter Harvey do nhà xuất bản Cambridge University Press ấn hành năm 2000, từ trang 187-238.

Đức Phật đã dạy cho cư sĩ rằng mưu sinh liêm chínhgiá trị tâm linh sẽ giúp thành công trên thế gian, đặc biệt là khi cư sĩ biết sử dụng phù hợp thu nhập và bố thí. Thái độ đạo đức của Phật tử đối với tài sản sẽ có những ảnh hưởng tốt đẹp đến việc phát triển kinh tế xã hội.

Đối với giới lãnh đạo, đức Phật nói rằng nghèo đói có mặt thì bất ổn xã hội tăng lên, trách nhiệm của vua quan là quan tâm đến người nghèo và đầu tư vào nhiều lãnh vực khác nhau cho nền kinh tế. Phật giáo kêu gọi lòng hào phóng, buông bỏtừ bi của giới lãnh đạoPhật tử. Khi tất cả mọi người nỗ lực để làm việc cho một xã hội đạt nhiều công bình hơn, thì kêu gọi công bình tự tại hay công bình trong việc phân phối về kinh tế là không cần thiết. Tu viện là một định chế chủ yếu trong mạng lưới chính về thương mạibố thíhoạt động của tu viện đã có những hiệu ứng về kinh tế. Thái độ kinh tế của sư tăng cũng có vai trò quan trọng để phát triển tăng đoànxã hội.

Đạo đức kinh tế của Phật giáo không tương phản với việc phát triển chủ nghĩa tư bản và đã hỗ trợ cho chủ nghĩa tư bản sơ khai tại Ấn thời cổ, tại Trung QuốcNhật Bản thời trung cổ. Có nhiều phê phán rằng Phật giáo giúp cho tín đồ tu tập hướng về một thế giới khác, làm giảm đi những động lực phấn đấu cho giá trị của thế giới này, vì thế Phật giáo không có một vai trò tích cực trong việc thay đổi xã hội. Đây là một luận điểm sai lầm vì không coi trọng mối quan hệ giữa Phật giáoxã hội. Tác dụng của Phật giáo đối với nhà nước được chứng minh qua việc cổ vũ về đạo đức, công tác từ thiện. Phật giáo đã đóng góp rất lớn trong việc canh tân và phát triển Nhật là một thí dụ điển hình.

Kinh tế học theo quan điểm Phật giáo hoàn toàn khác biệt với kinh tế học của chủ nghĩa tư bảnChủ nghĩa Xã hội. Phát triển kinh tế phải được đặt trong một bối cảnh rộng rãi hơn về nhu cầu phát triển nhân cách toàn diệnhạnh phúc an lạclối sống của Phật tử sẽ đem lại ý nghĩa cao đẹp cho một nền kinh tế. Phật giáo thấy cốt tủy của văn minh không chỉ nhằm gia tăng những ham muốn nhưng mà còn làm thanh cao nhân cách của con người. Tìm cách triển khai khái niệm này bằng cách đề xuất một loại chủ nghĩa xã hội mang màu sắc “chính Pháp” (Dhammic Socialism) là một phương cách trung dung để tránh được sai lầm đã có của các chủ nghĩa trong bối cảnh hiện đại.

Mô hình phát triển của phong trào Sarvòdaya Sramadàna tại Sri Lanka là một thí dụ vì đã tái khám phá đạo đức xã hội của Phật giáo. Những giáo huấn Phật giáo nhằm hướng tới một tinh thần dấn thân cho xã hội, tạo một phương cách hội nhập hòa hợp theo một đường lối trung dung và thay đổi nhằm đem lợi ích cho cá nhân, xã hội và môi trường, hòa nhập cải thiện vật chất vào tâm linh, với sự chuyển hóa của cá nhân và với sự tương trợ trong xã hội. Sự đóng góp của Phật giáo trong việc phát triển kinh tế hiện đại của Nhật được minh chứng qua sự thành công của phong trào Sòka Gakkai, phong trào xây dựng giá trị xã hội, một hình thức của Phật giáo theo Nhật Liên Tông.

GS. Peter Harvey minh chứng rằng khi xem Phật giáo không quan tâm đến các vấn đề kinh tế, thì đây là một sai lầm, vì đức Phật có hoằng hóa cho các cư sĩ, tăng đoàn và giới lãnh đạo về các lĩnh vực kinh tế. Hình thức tiêu thụ của chủ nghĩa tư bảngiáo huấn của Phật giáo, khi gặp nhau, có nhiều phù hợp hơn, nếu chủ nghĩa tư bản đóng góp cho việc phúc lợi chung hơn là tìm tư lợi. Trong phương cách làm việc của Phật tử có thể đóng góp nhiều trong sự phát triển chung, mà giá trị của nó được đặt ra trong môi trường xây dựng nhân cách, hơn là chỉ đơn thuần là tạo thêm thu nhập.

Trong chương 3, vấn đề nhân quyềntự do tôn giáo theo quan điểm Phật giáo được đề cập. Nguyên bản Đức ngữ của bản dịch là “Menschenrechte und religiöse Freiheit aus der Sicht des Buddhismus” được đăng trong Hans Küng & Karl-Josef Kuschel (Hrsg.): “Weltfrieden durch Religionsfrieden, Antworten aus den Weltreligionen”, Piper, München, Zürich 1993, trang 109-139. Tham luận này được GS. Masao Abe trình bày tại cuộc hội thảo quốc tế: Các tôn giáo trên thế giớivấn đề nhân quyền, do UNESCO tổ chức vào ngày 8-10 tháng 2 năm 1989 tại Paris.

Masao Abe cho rằng có sự khác biệt của Phật giáo và các tôn giáo phương Tây, vì Phật giáo không đặt vấn đề sự hiện hữu của một Thượng đế cá nhân, mặc khải, tiên tri hay cứu rỗi qua niềm tin. Phật giáo không từ bỏ, lên án hoặc kết tội là tà giáo, mà thực ra phê phán trong tinh thần xây dựng, dưới nhiều nhãn quan khác nhau và cùng nhau hướng về một tín ngưỡng chung. Phật giáo hướng dẫn tìm hiểu về quy luật duyên khởi, tự kiến bản ngã, suy niệm và thoát bỏ mọi hệ lụy. Phật giáo không chủ trương cực đoan phủ nhận những tín ngưỡng khác với tín ngưỡng của mình.

Lập luận bảo vệ nhân quyền của Phật giáo cũng hoàn toàn khác biệt vì trong kinh điển Phật giáo không có ý niệm nhân quyền tương tự theo ý nghĩa của phương Tây. Phật giáo không cho rằng bản thể con người chỉ giới hạn trong quan điểm về nhân chủng, mà đặt con người trong một tuơng quan rộng rãi hơn với tạo vật và vũ trụ. Theo Phật giáo, con người là một thành phần hữu tri giác trong một tổng thể của muôn loài vừa hữu tri giácvô tri giác, vì con người và tạo vật trong vũ trụ đều đặt mình trong quy luật sinh diệt hữu hạn. Do đó nhân quyền trong Phật giáo được hiểu trong chiều hướng vũ trụ, phổ quát và vượt qua ý niệm về nhân chủng này. Phật giáo không loại bỏ những quyền của các sinh vật khác như cây cỏ và thú vật.

Để hiểu quan điểm của Phật giáo về vấn đề nhân quyền đúng đắn hơn, điều cần thiết nhất là phải đặt lại vấn đề bản ngã, bởi vì vấn đề nhân quyềntự do của con người không thể nào lãnh hội được nếu không có sư hiểu biết tường tận về bản ngã. Trong tất cả những điều răn của Phật giáo đều hàm chứa một điều: không nên hủy diệt cuộc sống, lời khuyên này không những áp dụng cho con người mà còn cho cả muôn loài có tri giác. Thiên nhiên không những lệ thuộc vào con người, mà ngược lại con người cũng lệ thuộc vào thiên nhiên. Sự khác biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo tại phương Tây đã gây ra một hậu quả quan trọng trong các vấn đề tự do tôn giáo.

GS. Masao Abe kết luậnPhật giáo có thể đóng góp trong vấn đề nhân quyềnkhoan dung tôn giáo với ba giải pháp: Buông bỏ mọi ràng buộc vào hệ thống tín điềugiáo điều. Không có một tôn giáo nào tồn tại mà không có hệ thống tín điều, nhưng thái độ đối với hệ thống tín điều là quan trọng. Khi mà tín điều chỉ được coi là chủ yếu và chỉ nhằm ràng buộc mọi tín đồ, thì hệ thống tín điều này chỉ là một giáo điều.

Sự nhấn mạnh đến giáo điều thường đưa tới sự phân hóa trong tôn giáođưa tới sự phản kháng của các tôn giáo khác. Điều này tạo ra những xung đột tôn giáo ngay cả đến thánh chiến. Các tôn giáo này thường nhấn mạnh quá mức mọi niềm tin duy nhất vào chân lý mặc khải cũng còn được biết đến về sự cố chấp của mình, điều này bắt nguồn từ hình thức tín ngưỡng cứng nhắc mà ra. Khi nào chúng ta từ bỏ mọi ràng buộc với các gíáo điều và trở về với chân lý tôn giáo như là cội nguồn của đạo lý, chừng đó chúng ta mới tránh được mọi phân hóa và thánh chiến và chúng ta không những khoan dung trong chính tôn giáo mình mà còn khoan dung với các tôn giáo khác. 

Chủ đề của chương 4 là phát triển khoa học theo quan điểm Phật giáo. “Vô Tận trong lòng bàn tay -Từ thuyết Đại bùng nổ đến Giác ngộ” là một tiểu luận Việt ngữ của TS. Đỗ Kim Thêm đã đăng lần đầu tiên trên Tập San Viên Giác Tây Đức Số 126 Xuân Nhâm Ngọ 2002. TS. Thêm viết để giới thiệu tác phẩm Pháp ngữ  “L’infini dans la paume de la main - Du Big Bang à l’Éveil” của Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận, Nhà xuất bản: Fayard/Nil, Paris 2000 nhằm giúp cho bạn đọc người Việt theo dõi một cuốn sách đang bán chạy nhất tại thị trưòng Pháp ngữ mà lúc đó các bản dịch Anh và Việt ngữ chưa ra đời. Về sau bài này được trang mạng Thư viện Hoa Sen, Vietsciences và nhiều trang mạng khác phổ biến.

Tác phẩmL’infini dans la paume de la main - Du Big Bang à l’Éveil” là một công trình đầu tiên quy mô và nghiêm túc nhằm đối chiếu những thành tựu khoa học hiện đại với những luận điểm liên hệ theo Phật giáo.

Nội dung được hai tác giả đề ra để thảo luận về mối quan hệ giữa Phật giáo là sự dị biệt về hai trào hướng của hai lãnh vực, vấn đề sự khai nguyên vũ trụ, nguyên lý tổ chức cho vũ trụ, giải thích sự hiện hữu của các phần từ sơ đẳng, tính cách vô thường trong thế giới hiện tượng, vấn đề định mệnh, thời gian, thuyết nhân quả, quan hệ giữa tinh thầnvật chất, quy luật khoa học và quy luật Phật giáo, tầm quan trọng của lý trí trong khoa học và suy niệm trong Phật giáo, thẩm mỹ trong khoa học và Phật học, khoa học hành động theo Phật giáo.

Với một kiến thức uyên bác về vấn đề chuyên môn và khả năng giải thích trong sáng, hai tác giả luận giải về tương đồng và dị biệt giữa tôn giáo và khoa học. Khởi đầu từ luận đề của Galilée học giới cho là hai thế giới này không thể nào gặp nhau được. Einstein khi đối chiếu Phật giáo với các tôn giáo khác đã cho rằng Phật giáo có thể đáp ứng được những nhu cầu đòi hỏi của khoa học. Einstein muốn nói tới tính cách thuần lýthực tiễn của Phật giáo, khi ông so sánh thấy các tôn giáo khác chỉ dựa trên kinh điểngiáo điều.

Hai tác giả kết luận rằng Phật giáo là một tôn giáo có thể đối thoại với khoa học. Phật giáo và khoa học không những không đối kháng mà còn bổ khuyết cho nhau trong việc tìm hiểu khoa học hiện đạiđời sống tinh thần của từng cá nhân cũng như trong nỗ lực về sự chế ngự thiên nhiênkềm chế bản ngã để tìm đường thoát khổ.

Trong chương 5, những vấn đề dân số, tiêu thụ và mội trường theo quan điểm Phật giáo được đề cập chi tiết. Nguyên bản Anh ngữ của bài này là “Buddhist Resources of Issues of Population, Consumption and the Environment” được đăng trong Mary Evelyn Tucker and Dunncan Ryuken Williams (eds.): Buddhism and ecology: the interconnection of dharma and deeds, Harvard University, Center for the Study of World Religions, Cambridge Mass: Harvard Uni Press, 1997 pp. 291- 311.

Giáo lý Phật giáo không hề trực tiếp đưa ra những giải pháp cho các vấn đề của thời đại như dân số, tiêu thụ hay môi trường. Tuy nhiên khi giải thích những giá trị nội tại của giáo lý Phật giáo qua kinh điển, thì ta sẽ tìm ra những đường lối thích hợp để giải quyết các vấn đề này. Giải thích giá trị của Trung đạo sẽ tìm ra một giải pháp cho các vấn đề, mà thái độ tiết chế là một đề nghị và Phật tử nên noi theo. Chúng ta không thể mở rộng môi trường và gia tăng tài nguyên tùy thích, mà chỉ có thể giảm bớt dân số và tiết chế tiêu thụ

Phật giáo không khuyến khích sinh sản, không bắt buộc Phật tử phải có con như một bổn phận tôn giáo. Sinh con hay không là do quyết định của riêng mình. Quyết định này đến từ ý thức về cuộc sống của con người trong thế giantrách nhiệm trong tình liên đới, chứ không phải do tai nạn hay bổn phận. 

Phật giáo đề cao rất mực điều may mắn khi được sinh ra làm kiếp con người, không phải vì có nhân quyền hay được đứng trên tạo vật khác. Theo ý nghĩa tiết chế thì sống một đời xa xí là vô nghĩa, nhưng sống nghèo khó chẳng đưa đi đến đâu. Phật giáo không lên án giàu sang mà cũng không hề ca ngợi nghèo đói. Một đời sống tiết chếđiều kiện cần thiếttiên quyết cho sự tu tập để đạt tới giác ngộ. Để việc tu tập có kết quả, Phật tử cần có một cơ sở vật chất tối thiểubình an tâm hồn

Thay vì chỉ lo nối dõi tông đường, Phật tử cần nỗ lực khởi động tâm Bồ-đề, một hơi ấm của lòng từ bi cho tất cả chúng sinh và muôn loài, vượt qua ý nghĩa hạn hẹp cá nhân gia đình, tộc họ, điạ phương hay đất nước. Tâm Bồ-đề là một chủng tử giác ngộ cần vun bồi và lưu truyền, nó cũng quý giá như các di sản văn hóa khác của nhân loại.

Quan niệm rằng quan hệ tình dụckhông sinh sản là bại hoại đạo đức, giá trị này cần được xét lại trong điều kiện thặng dư dân số hiện nay. Vấn đề tình dục, sinh sản và đạo đức nên được thảo luận công khai và tách biệt ra, thay vì kết hợp lại để lên án. Nhiệm vụ chủ yếu của quan hệ tình dụccảm thônggắn bó trong xã hội con người. Kim Cang Thừa mang tính Mật giáo, phương pháp tu học huyền bí, bao gồm tôn giáo thiên nhiên của Ấn ĐộPhật giáo, đặc biệt có tôn thờ giới tính và hình tượng nam nữ yêu nhau. Nam và nữ được so sánh như trí thứctừ bi. Quan hệ vợ chồng được xem như một tình bạn đồng môn, cùng tu tậpgiúp nhau trong cuộc đời với sự đối xử trân trọngbình đẳng nhau, mà tình dục là một biểu tượng thiêng liêng, chứng minh cho sự gắn bó này.

Mối quan hệ văn hóa giữa Trung Hoa và Ấn Độ được thảo luận trong chương 6. Nguyên bản Anh ngữ của bài này là “Passage to India”, đăng trong The New York Review of Book, Volume 51, Nummer 19, December 2004.

Dù không luận giải trực tiếp Phật giáo có thể đóng góp cho phát triển dân chủ tại nhiều nước trên thế giới. Tinh thần vô úy trước bạo lực, nhiệt tình thảo luận công khai trước những bất đồng, sẵn sàng chấp nhận phê bình để sửa sai là một trong những truyền thống đặc sắc của Phật giáothế giới có thể học hỏiáp dụng vào những cải cách chánh trị trong tương lai.

Vì các giá trị Phật pháp có khả năng khai sáng mà tác phẩm mang lại cho người đọc và vì những kiến thức Phật giáo mang tính cẩm nang mà các tác giả đã gửi gắm trong tác phẩm này, tôi trân trọng kính giới thiệu đến quý độc giả trí thức gần xa. Hy vọng rằng tác phẩm này góp phần soi sáng những vấn đề thời đại mà tất cả chúng ta đang quan tâmtìm giải pháp.

 

Giác Ngộ, ngày 28-09-2012
TT. Thích Nhật Từ
Tổng Biên tập
Tủ sách và Tạp chí Đạo Phật Ngày Nay

 

  

LỜI CẢM TẠ LẦN TÁI BẢN

 

Quan Điểm của Phật Giáo Trước Các Vấn Đề Hiện Đại đuợc Nhà Xuất Bản Hồng Đức ấn hành lần đàu tiên vào năm 2012 tại Việt Nam trong khuôn khổ phát hành của Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay do Thượng Toạ Thích Nhật Từ chủ trương biên tập.

Tuyển tập này giới thiệu những công trình nghiên cứu của các học giả lừng danh từ Anh, Pháp và Đức ngữ sang Việt ngữ để phục vụ cho người Việt trong nước nằm bắt vấn đề hiện đại và đóng góp vào việc thảo luận chung vấn đề tại sao Phật giáo ngày càng thu hút tại các nước phương Tây.

Nói chung, Phật giáo có những luận giải khi chiến tranh lan rộng, khủng bố đe doạ, bạo lực gia tăng, kinh tế suy thoái, đạo đức băng hoại, văn hoá suy đồi, môi sinh ô nhiểm, tài nguyên cạn kiệt, dân số gia tăng, tiêu thụ vô luợng và định hướng khoa học. Chủ trương của Phật giáo là đề cao tự do cá nhân trong tư duy độc lậpnỗ lực hành động để thay cho giáo điều, từ bi trong một thế giới vị kỷ, bất bạo động trước một trào lưu quốc tế ngày càng cuồng tín với chuộng bạo lực. Với lòng khoan dung những dị biệt, một nội dung hiếu hoà và phương cách khả thi, Phật giáo là một tiềm năng to lớn để giải quyết cho các vấn đề quốc tế hiện nay. Bản in lần đầu tiên là một đóng góp khiêm tốn của tác giả dành cho các độc giả trong nước.

Sau khi sách ra đời, tác giả nhận được nhiều phàn hồi tích cực từ trong nước, đặc biệt nhất nhiều tạp chí Phật học đăng lại các chương trong sách giúp việc phổ biến được rộng rải hơn. Tác giả cũng được các thân hữu ở hải ngoại cho biết là cũng có nhu cầu sách này, dù là đã có dịp tham khảo tài liệu trực tiếp trên các trang mạng như Thư Viện Hoa Sen, Quảng Đức và nhiều trang Phật Giáo khác.

Được sự đồng thuận của Thuơng Toạ Thích Nhật Từ, khuyến khích của Cư Sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải và sự hợp tác của Cư Sĩ Tâm Diệu, người chủ trương Trang Thư Viện Hoa Sen và Nhà Xuất Bản Ananda Việt Book Foundation, tác giả xin tái bản sách này, nội dung không thay đổi, nhưng với mục đich là phổ biến cho Phật tử hải ngoại có cơ hội tìm hiểu về đề tài này.  

Nhân dịp này, tác giả xin chân thành cám ơn sự hợp tác của Thượng Toạ Thích Nhật Từ và Cư Sĩ Tâm Diệu, đã hoan hỷ tạo điều kiện cho tác phẩm này ra đời. Tác giả cám ơn Cư Sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải đã nhiệt tình giúp dịch thuật nhiều thuật ngữ về Thiền Tông và tặng nhiều tư liệu quý về Phật học.  

Dr. Đỗ Kim Thêm LL.M, M. A

Tháng 10 năm 2017

 

 MỤC LỤC 

Lời giới thiệu 
1  Chiến tranh và hòa bình theo quan điểm của Phật giáo         
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo          
Nhân quyềntự do tôn giáo theo quan điểm của Phật giáo            
Vô tận trong lòng bàn tay - Từ thuyết đại bùng nổ đến giác ngộ      
5  Những vấn đề dân số tiêu thụ và môi trường theo quan điểm Phật giáo       
6  Mối quan hệ văn hóa giữa Trung Hoa và Ấn Độ       
Vài nét về các tác giả và dịch giả      
pdf_download_2
Quan điểm của Phật giáo trước các vấn đề hiện đại_Proof121217

cover-book_quan-diem-PG-truoc-cac-van-de-hien-dai low res2Click vào hình bìa để trực tiếp mua từ Amazon hay đánh máy không dấu tên quyển sách hay click vào đây:
Ananda Viet Foundation Books Amazon

Chú thích:

Độc giả trong Việt Nam không mua trực tiếp từ Amazon được, nhưng có thể mua sách trên Amazon thông qua một trong 3 Công ty sau đây. Xin độc giả trực tiếp liên lạc và tìm hiểu quy trình cũng như giá cả trước khi tự mình quyết định có xử dụng dịch vụ nầy hay không. Thông tin nầy chỉ có tính cách tham chiếu mà thôi:

1- VietAir Cargo: https://vietaircargo.com/tin-deal/mua-ho-sach-tren-amazon-gia-re-va-van-chuyen-ve-viet-nam/
2-  Phong Duy: http://phongduy.com/mua-hang-tren-amazon/
3-  Fado: http://fado.vn/nhan-dat-mua-ho-ship-sach-tu-tren-amazon-ve-viet-nam-gia-re.n522/

Các sách khác :
Ananda Viet Foundation Books from Amazon



Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
09/09/2021(Xem: 20873)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.