Đại sư KHÔNG HẢI biên soạn
BÁT NHÃ TÂM KINH BÍ KIỆN
般若心經祕鍵
Hannya Shingyo Hiken
Secret to the MYSterIeS oF the heart Sutra
CHÌA KHÓA BÍ MẬT CỦA BÁT NHÃ TÂM KINH
QUẢNG MINH dịch chúBát Nhã Tâm Kinh Bí Kiện
DẪN NHẬP
Theo Chân ngôn tông, Phật giáo được chia thành Mật giáo (密教 ) và Hiển giáo (顯教 ). Hiển giáo tương tự như đạo lý duyên khởi trong Trung Quán Luận, nó giúp ích cho sự hiểu biết về tánh Không của thế giới hiện tượng, nhưng không mang lại sự giác ngộ hoàn toàn. Mật giáo đưa đến sự thể nhập Phật tánh của chính mình qua Tam mật gia trì và Lý cụ thành Phật.
Bát Nhã Tâm Kinh Bí Kiện (般若心經祕鍵 , Hannya Shingyo Hiken) là một bản chú giải đầu tiên của Phật giáo Nhật Bản về Bát Nhã Tâm Kinh do Hoằng Pháp Đại Sư Không Hải (空海 , Kobo-daishi弘法大師 , 774‑835) biên soạn, được thu lục trong Đại Chánh Tạng, tập 57, No. 2203A. Đây là một chuyên luận độc đáo diễn giải Bát Nhã Tâm Kinh từ góc nhìn Mật giáo, không xem nó như là tinh yếu của Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại sư Không Hải mô tả giáo lý của sáu tông qua năm thừa (Hoa Nghiêm, Tam luận, Pháp tướng, Thanh văn -Duyên giác, Thiên Thai), và mỗi thừa đại diện cho tam-ma-địa môn của chư Phật và chư vị bản tôn Mật tông. Người ta thường mô tả tác phẩm này là ‘một chú giải về Bát Nhã Tâm Kinh’, nhưng sẽ chính xác hơn nếu mô tả nó là ‘một cuốn sách mà Không Hải trình bày những tư tưởng của riêng mình bằng cách sử dụng Bát Nhã Tâm Kinh làm chủ đề.’ Trong Bát Nhã Tâm Kinh Bí Kiện Lược Chú, ngài Giác Tông giải thích hai chữ ‘Bí kiện’ như sau: “Bí là bí áo bí mật, là lời khó nói khó diễn đạt. Kiện nghĩa là mở kho tàng chỉ châu báu, là ngăn ngừa tham hiển lộ đức… Bí kiện là rút chốt Bí mật giáo để mở ra kho tàng Bát nhã kinh.”
Thông thường, Bát Nhã Tâm Kinh được hiểu là kinh điển yếu lược về tánh Không của Kinh Đại Bát Nhã. Tuy nhiên, cách diễn giải của Đại sư Không Hải lại khác. Bởi vì kinh này kết thúc bằng câu thần chú “Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, bala-tăng yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha”, Đại sư giải thuyết nội dung của Bát Nhã Tâm Kinh theo quan điểm xem nó như một kinh điển Mật giáo mà chủ thể là thần chú Bát Nhã.
Sau lời Tựa quy kính, trong phần giáo lý Tam-ma-địa môn có nêu ra những điểm đồng dị giữa hai bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập và ngài Huyền Trang. Thay vì nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh như một phiên bản “lược xuất” những tâm yếu của Kinh Đại Bát Nhã, Đại sư Không Hải `dựa trên Kinh Đà La Ni Tập, quyển 3 và các nguồn khác, tin rằng Bát Nhã Tâm Kinh là một kinh điển Mật giáo, vì nó nói về sự nội chứng tam-ma-địa của Bồ tát Đại Bát Nhã.
Luận lý về tánh Không được dạy bởi Đại thừa (không có một thực thể cố định trong mọi sự tồn tại) và Bốn loại pháp thân gồm năm trí được dạy bởi Mật tông (sự hiện hữu tuyệt đối, sự biểu hiện của mọi thực thể tồn tại, chân thể của thực tại) chỉ là hai cách hiểu khác nhau về các hiện tượng xảy ra ở cùng một cấp độ, tất cả những gì còn lại là các hình thức thay đổi của thế giới thực. Theo lời của Đại sư Không Hải, “Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh chính là pháp môn tam-ma-địa và chân ngôn đại tâm của Bồ tát Đại Bát Nhã.” Khái niệm cơ bản của nó là “Hiển hay mật phụ thuộc nơi hành giả, không phải vấn đề âm thanh và văn tự.” Trong Bát Nhã Tâm Kinh, không có sự khác biệt giữa Hiển giáo và Mật giáo, mà là ở người diễn giải, và đây là lý do “Trong mắt y vương nhìn đâu cũng là thuốc. Người hiểu báu vật thấy khoáng thạch là kho báu.”
Nội dung của Tâm Kinh Bí Kiện được chia thành năm phần, được gọi là Ngũ phần tổng thuyết. Danh xưng của mỗi phần đều đặc dị.
(1) Nhân pháp tổng thông phần: Nó được chia thành năm phần: bốn giai đoạn để giác ngộ (nhân, hành, chứng, nhập) và thời gian cần thiết để đạt được giác ngộ. (Quán Tự Tại Bồ tát … độ nhất thiết khổ ách.)
(2) Phân biệt chư thừa phần: được giải thích qua năm giai đoạn: kiến, tuyệt, tướng, nhị và nhất.
Kiến là kiến lập tam-ma-địa môn của Như Lai, biểu thị pháp môn của Bồ tát Phổ Hiền, là giáo lý Hoa Nghiêm tông: sự lý dung hợp. (Sắc bất dị Không, … diệc phục như thị.)
Tuyệt là tam-ma-địa môn của Vô Hý Luận Như Lai, biểu thị pháp môn của Bồ tát Văn Thù, là giáo lý của Tam luận tông: bát bất trung đạo. (Thị chư pháp Không tướng … bất tăng bất giảm.)
Tướng là tam-ma-địa môn của Ma-ha Mai-đa-la Mạo-địa-tát-đát-phạ (Mahā Maitreya Bodhisattva, Bồ tát Di Lặc), là tướng trạng sai biệt của các pháp, là giáo lý của Pháp tướng tông: vạn pháp duy thức. (Thị cố Không trung vô sắc …vô ý thức giới.)
Nhị là tam-ma-địa môn của ‘Duy uẩn vô ngã trú tâm’ và ‘Bạt nghiệp nhân chủng trú tâm’, biểu thị Thanh văn thừa và Duyên giác thừa. (Vô vô minh … vô khổ tập diệt đạo.)
Nhất là tam-ma-địa môn của Đắc Tự Tánh Thanh Tịnh Như Lai, là pháp môn của A-rị-da Phạ-lộ-chỉ-đế Mạo-địa-tát-đát-phạ (Ārya Avalokiteśvara Bodhisattva, Bồ tát Thánh Quán Thế Âm), là giáo lý của Thiên Thai tông: Kinh Pháp Hoa và Kinh Niết Bàn. (Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố.)
(3) Hành nhân đắc ích phần: gồm có nhân và pháp. Nhân là bảy hạng người được lợi ích khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, trong đó, ngoài sáu hạng người đã nói: Hoa Nghiêm, Tam luận tông, Pháp tướng, Thanh văn, Duyên giác, Thiên Thai, các hành giả Chân ngôn được thêm vào. Pháp là tiến trình tu tập chứng ngộ qua bốn pháp: nhân, hành, chứng và nhập. (Bồ-đề tát-đỏa … tam-miệu tam-bồ-đề.)
(4) Tổng quy trì minh phần: gồm ba phần: danh, thể và dụng. Danh là bốn loại thần chú, theo thứ tự đại diện cho chân ngôn của Thanh văn, Duyên giác, Đại thừa và Bí mật tạng. Dụng là “năng trừ nhất thiết khổ”. “Chân thật bất hư” biểu thị cho thể. (Cố tri Bát-nhã … chân thật bất hư.) (5) Bí tạng chân ngôn phần: Mật chú được chia thành năm phần, lần lượt nói rõ hành quả của Thanh văn, Duyên giác, Đại thừa và Bí mật tạng, và giải thích ý nghĩa của hành giả trong các thừa chánh nhập Bồ đề.
Sau kệ tụng về bí tạng chân ngôn là phần hỏi đáp, nói rằng, “Trong mắt y vương nhìn đâu cũng là thuốc. Người hiểu báu vật thấy khoáng thạch là kho báu.”
Tâm Kinh Bí Kiện kết thúc rằng, nếu một người nhìn bằng con mắt của Mật giáo, người đó có thể hiểu được bí mật sâu xa nhất trong những bí mật của kinh điển Hiển giáo, và tùy theo căn cơ mà có nhiều tầng sâu cạn sai biệt.
Tóm lại, Tâm Kinh là giáo lý để đi vào thiền định sâu xa dựa trên sự nội chứng tam-ma-địa của Bồ tát Đại Bát Nhã. Không thể so sánh vảy của một con rắn với vảy của một con rồng, nghĩa là không nên đánh đồng Bát Nhã Tâm Kinh với Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa, coi Tâm Kinh là bản tóm tắt của Kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển. Đặc biệt là qua câu thần chú ở cuối bản kinh, Đại sư Không Hải khuyên chúng ta không nên đọc Bát Nhã Tâm Kinh mà hãy biến nó thành đối tượng của sự tỉnh thức và thực hành nó.
Thực tế là nội dung của Bát Nhã Tâm Kinh được áp dụng vào các giai đoạn phát triển của Phật giáo, bao gồm tất cả các giáo lý và cuối cùng dẫn đến Mật giáo Chân ngôn, tương đồng với tư tưởng cơ bản và phương pháp phân tích của Đại sư Không Hải, người đã tóm tắt sự phát triển của giáo lý Phật giáo thành mười giai đoạn trong tác phẩm Bí Mật Mạn Đồ La Thập Trụ Tâm Luận (秘密曼荼羅十住心
論) và Bí Tạng Bảo Thược (秘藏寳鑰 ), và đặt Phật giáo Chân ngôn Mật giáo lên cấp độ cao nhất.
San Francisco, Lễ Phật Đản 2025 -Phật lịch 2569 Phật tử Quảng Minh kính ghi