CHƯƠNG BA
Những Hành Động
và những Hậu Quả của chúng
Kính lễ đức
Quán Thế Âm !
Một
giải thích phác họa về những hành động và những
hậu quả của chúng đã được trình bày trong những phần
sơ khởi của những
giáo huấn về những
giáo lý thực hành sâu xa của
Quán Thế Âm, nhưng khó mà có được từ đó nhiều hơn là sự hiểu một phần. Sự hiểu
chính xác về những hành động và những
hậu quả của chúng không thể có
cho đến khi nào người ta đã
đạt được nhất tâm cấp lớn.
Trừ phi có
chứng ngộ “một vị
xuất hiện trong nhiều cách”, sự
tinh vi của những hành động và những
hậu quả là không thể
phân biệt rõ ràng. Như thế, những
đạo sư Kagyu trong
quá khứ vẫn nguyện, “Xin
ban phước cho con để con có thể
phân biệt rõ ràng sự
tinh vi của những hành động và những
hậu quả của chúng.” Với
chúng ta, mọi
hạnh phúc và
nghịch ý và mọi niềm vui và
nỗi buồn của
sanh tử đều do nghiệp
thống trị.
– “Nhất tâm lớn” là
trạng thái định (samadhi)
sanh khởi do nghiên tầm
bản tánh giác, rigpa. “Một vị
xuất hiện trong nhiều cách” là một
chứng ngộ đặc biệt, nó cũng được gọi là “chứng ngộ bindu duy nhất”. Cái gì là một vị
xuất hiện trong nhiều cách này ? Đó là
bản tánh đơn nhất của tất cả
sanh tử và
niết bàn. Đó là thấy tất cả các
hiện tượng đồng thời là một vị và một
bản tánh.
Thành công tâm linh và
thành công thế gian tất cả đều nảy sanh từ
công đức bạn đã tích tập trong
quá khứ do
hoạt động đức hạnh. Không có
công đức, dù bạn có
bỏ ra mười triệu đô la cho một
mục tiêu riêng biệt nào đó, bạn cũng sẽ không có
thành công mà bạn đang nhắm đến. Nó thực sự đến từ những hành
động trước kia của bạn. Thế nên quan trọng là không
đổ lỗi cho ai cả khi bạn
kinh nghiệm thất bại hay
thất vọng. Hơn nữa,
chúng ta phải biết rằng
chúng ta muốn
thành công,
chúng ta cần gieo trồng những
hạt giống của
đức hạnh. Nếu
chúng ta muốn tránh
bất hạnh,
chúng ta cần tránh nguồn gốc của nó, tức là không
đức hạnh.
Đồng thời, thay vì
đổ lỗi cho những người khác về những thất bại của
chúng ta,
chúng ta phải
nhận ra những
giới hạn và khuyết điểm của
chúng ta và xóa tan chúng. –
Chương Về Vòng
Hiện Hữu Của
Sanh Tử nói :
Dù sanh ra ở đâu trong
ba cõi,
Sự sanh ra đó cũng do nghiệp thống lãnh.
Nghiệp là cái gì đã mắc trong
quá khứ.
Cái chết cũng do nghiệp thống lãnh.
Khi
thời gian đến cho sự sanh và sự chết,
Chư thiên dần dần rơi khỏi những
cõi trời.
Mặc dù
thần lực kỳ diệu của họ, họ bất lực
trong việc ở lại.
Để cho điều này
dễ hiểu, tôi sẽ
giải thích sơ lược. Hành động
quyết định được
bàn luận trong
bộ kinh Một Phân Tích của Những Hành Động :
Hành động nào
quyết định đưa đến
tái sanh ? Khi
thực hiện bất kỳ hành động
đức hạnh nào, người ta làm một
hồi hướng quyết định bằng cách nói, “Nhờ việc này, nguyện tôi có được một
tái sanh như vầy.” Và phạm vào năm tội
ngũ nghịch, sẽ dẫn thẳng đến
tái sanh.
– Bất kỳ lúc nào bạn dấn thân vào những
hành vi đức hạnh với động cơ
thanh tịnh và rồi
hồi hướng công đức của những hành động này, sự
cầu nguyện ấy sẽ dẫn bạn đến sự
tái sanh mà bạn
hồi hướng. Thế nên sự
cầu nguyện này có tầm quan trọng lớn nhất. Bất cứ nơi nào bạn muốn cho
tâm thức bạn đến
sau khi chết, hãy
cầu nguyện cho
mục đích đó. Thế nên hãy
cầu nguyện thường xuyên và ghi nhớ trong tâm
ý muốn được sanh vào cõi đó.
Như một kết quả của bất kỳ
đức hạnh lớn lao nào, chẳng hạn có được một
chứng ngộ tánh không, ngay
trong đời tới bạn sẽ
đi lên một cõi cao cả của
hiện hữu. Ngược lại, nếu bạn phạm vào những việc không có
đức hạnh,
ác hạnh, như một trong các
hành vi ngũ nghịch, bạn sẽ rơi thẳng xuống những cõi khốn khổ. Chớ có
nghi ngờ về điều này. –
Nếu bạn
nỗ lực có
đức hạnh và
thường trực cầu nguyện được
tái sanh vào
Cực Lạc, đó là tối ưu, hay một chọn lọc bậc trung là cõi Núi
Vinh Quang Màu Đồng, hay
ít nhất trong một vùng
con người nơi đó có Pháp, bạn sẽ
quyết định được sanh ở đó ; thế nên điều này là quan trọng. Nếu bất kỳ cái nào trong năm tội
ngũ nghịch hay một sự phá samaya (những
thệ nguyện cam kết) xảy ra, và bạn chết mà không
sám hối nó,
quyết định bạn sẽ được sanh vào một
khổ cảnh ; thế nên
sám hối là quan trọng.
Dù những
thiện căn đã được tích tập,
nếu không có những
cầu nguyện về
thời gian chín thành của chúng, không
chắc chắn chúng sẽ chín
thành quả thế nào. Một Phân Tích Của Những Hành Động nói :
Hành động nào không
quyết định đưa đến
tái sanh ? – khi không có
hồi hướng sau khi đã
thực hiện một
hành vi đức hạnh.
Có bốn khả năng về những hành động
đức hạnh và không
đức hạnh. Nếu bạn làm một
đức hạnh mạnh mẽ hay
tội lỗi mạnh mẽ, có thể nó chín ngay
trong đời này. Theo lời của Gongchik Dorje, “Những
hậu quả của những hành động
hiện tại có thể chín ngay bây giờ.” Cũng có hành động
đức hạnh hay không
đức hạnh không chín
trong khoảng đời này, mà chín khi bạn đã đi
nơi khác. Điều này giống như câu
tục ngữ, “Người ta đi tìm những quả của sự
rộng lượng của họ.” Một Phân Tích Của Những Hành Động nói rằng hành động
đức hạnh và không
đức hạnh chín sau khi người ta đã đi đến một
nơi khác, như trong
trường hợp thương gia Maitrakanyaka. Hành động này có thể chín trong xứ sở khác.
Tôi sẽ
giải thích khúc chiết những điểm được dạy trong Một Phân Tích Của Những Hành Động từ các
bộ kinh. Một khi bạn đã phạm vào một hành động
tội lỗi, không
đức hạnh, nếu bạn
phát lồ và
sám hối nó với sự
ân hận lớn lao và không làm nó trong tương lai nữa, nghiệp đó
thể hiện nhưng rồi không được tích tập. Nếu bạn
hoàn toàn dấn thân vào
đức hạnh hay
tội lỗi nào với tâm bạn nhưng không với ngữ hay thân bạn, nó được tích tập nhưng không
thể hiện. Nếu bạn làm trọn một
hành vi tội lỗi mà không
tìm cách tránh nó, và do không
hối hận, không
sám hối nó, và nếu bạn không bỏ hay chừa nó trong tương lai,
hành vi đó được
hoàn thành và tích tập. Nếu bạn không
chủ ý dấn thân vào một
đức hạnh hay một
tội lỗi, nó không
thể hiện cũng không tích tập. Thế nên về việc
thể hiện một
hành vi, có bốn khả năng khi nó có được tích tập hay không.
Do
thể hiện và tích
tập nghiệp dẫn đến
địa ngục, nếu bạn không
sám hối nó, không
hối tiếc nó, và không chừa nó, đó là nghiệp
tái sanh vào
địa ngục không ra khỏi
chừng nào đời sống của bạn ở đó đã hết. Do
hoàn thành một hành động dẫn đến
tái sanh địa ngục, nếu bạn có tránh nó một ít,
sám hối nó và
chừa bỏ nó, bạn sẽ
thoát khỏi địa ngục sau một nửa đời ở đó. Sau khi
hoàn thành và tích
tập nghiệp dẫn đến
tái sanh địa ngục, nếu bạn
hối tiếc mãnh liệt,
sám hối nó
sâu xa, và
chừa bỏ rốt ráo nó trong tương lai, bạn sẽ
thoát khỏi địa ngục ngay khi vừa sanh ở đó. Chẳng hạn, đó là
trường hợp của Vua Ajatasatru (
A Xà Thế), đã
phạm tội giết cha.
Như có nói :
Trong
trường hợp dấn thân vào những
hành vi không nói xiết,
Bằng cách tự tránh móc mình, nhờ
sám hối,
Và
chừa bỏ, những
hành vi này sẽ giảm,
Nhưng không có nói rằng chúng
hoàn toàn bị loại bỏ.
Trong
trường hợp ấy có bốn khả năng
liên quan đến việc người ta có ở
suốt đời trong một cảnh khổ hay không.
Nếu trước hết bạn
vui thích bố thí và trao tặng và
cúng dường, rồi sau đó tiếc lẫn do thói
keo kiệt, bạn sẽ
tái sanh làm con của một người
giàu có ; thời tuổi nhỏ bạn sẽ rất
hạnh phúc và
sung túc, nhưng những năm về sau bạn sẽ
nghèo khổ. Nếu
ban đầu bạn không thích
bố thí,
cúng dường... và không
tôn trọng và còn tức giận, nhưng rồi khi việc ấy được làm, bạn
vui lòng và không tiếc lẫn, bạn sẽ
tái sanh làm con của một người nghèo ; nhưng rồi sau đó khi bạn
trưởng thành, bạn sẽ có
sung túc bằng cách
tìm kiếm một cách rất khó nhọc. Nó sẽ
tăng trưởng và
phồn thịnh, và những năm cuối đời bạn sẽ
sung túc và
hạnh phúc. Nếu
trước tiên bạn
vui thích với sự
bố thí,
cúng dường..., dấn thân vào đó với sự
tin tưởng, và sau đó không
chịu thua sự tiếc lẫn do thói
keo kiệt, bạn sẽ sanh vào nơi
giàu có, càng lúc càng tăng và
phồn thịnh, và bạn sẽ
giàu có và
hạnh phúc suốt
cả đời. Trong
trường hợp những người không có chút nào
quan điểm tâm linh và không bao giờ
thực hiện dù một hành động nhỏ
bố thí hay
cúng dường, nếu họ giữ một nguyện nhỏ như một ngày
bát quan trai, họ sẽ
tái sanh vào nhà nghèo, và
trọn đời sẽ khổ sở vì đói nghèo. Đó là một
giải thích đơn giản về bốn khả năng
liên quan đến những hành động và những
hậu quả của chúng đối với vui và buồn.
Do việc trao tặng và
cúng dường lớn lao cho những đối tượng
thanh tịnh, sau khi trở nên
giàu có, bạn sẽ có một ít
tham tiếc và bạn sẽ có thể
hồi hướng sự
sung túc của bạn cho Pháp. Do trao tặng và
cúng dường số ít cho người tốt, dù nếu bạn trở nên
sung túc, nhưng do
tham tiếc lớn lao bạn sẽ không có thể
hồi hướng sự
sung túc của bạn cho Pháp. Do trao tặng và
cúng dường nhiều cho đối tượng
bất tịnh, bạn sẽ không
giàu có lớn, và bất cứ cái gì bạn có bạn sẽ có thể
hồi hướng nó cho Pháp, nhưng rồi nó sẽ cạn kiệt và bạn sẽ nghèo. Nếu bạn
giữ gìn một ít
giới luật, như một ngày
bát quan trai, không dấn thân vào những
hành vi tội lỗi, và không trao tặng hay
cúng dường, bạn sẽ
tái sanh làm một người rất
nghèo khổ ; và thậm chí kiếm
thực phẩm,
y phục cũng rất khó khăn, do rất
tham tiếc bạn sẽ không thể
hồi hướng chút nhỏ nhất cho Pháp. Đây là bốn khả năng
liên hệ đến
phạm vi khả năng cho, như được dạy trong Một Phân Tích Của Những Hành Động trong các kinh.
–
Phân biệt giữa trao tặng và
cúng dường : trao tặng là đối với người
ngang hàng, trong khi
cúng dường là đối với những đối tượng
quy y.
Hậu quả thông thường của việc trao tặng và
cúng dường là
chúng ta thiết lập những khuynh hướng
bố thí,
rộng lượng trong
dòng tâm chúng ta, nó
tiếp tục trong những đời tới. Khi
hậu quả dội lại của nghiệp này là ở bên trong, nó
biểu lộ ra ngoài
thành sự sung túc, nó cũng
đi theo vào những đời tới.
Ngoài ra,
thực hành bố thí còn
loại bỏ những khuynh hướng
keo kiệt bạn có
trong đời này, nó cũng
bị loại bỏ trong các
đời sau, và bạn sẽ có thể
hồi hướng không chỉ cho sự
sung túc của bạn mà còn mọi thứ cho Pháp một cách
không giới hạn hay giữ lại. Tất cả cần được
thực hiện bằng một
tinh thần vui vẻ và một động cơ
thanh tịnh.
Hơn nữa, tại sao không
hồi hướng đức hạnh bố thí đó cho sự
đạt đến giác ngộ của bạn và những người khác ? Nếu bạn làm như vậy, tức là bạn theo bước chân của chư Phật
quá khứ. Làm thế là bạn
hồi hướng nó cho cái gì
lợi lạc trong đời này và những
đời sau cả cho bạn và những người khác. Thế tại sao không
hồi hướng những trao tặng của bạn cho cái gì thật sự cao cả và mang tính
chuyển hóa thay vì chỉ kéo dài sự
hiện hữu của bạn
trong vòng sanh tử này ?
Có
giàu có,
quyền lực bao nhiêu đi nữa, có sanh làm
chuyển luân thánh vương, bạn vẫn ở trong
sanh tử,
lãnh vực của khổ. Hơn nữa,
chúng ta có khuynh hướng
kiêu căng vì những
tính chất của mình –
giàu có,
quyền lực,
thông minh hay ưa nhìn. Cái gì làm nền cho sự tự phụ
kiêu căng đó khi mọi thứ vẫn ở trong cảnh
vô thường, khổ và
vô ngã. Trong
thế giới này, nhiều người
si mê sự
nổi tiếng.
Chúng ta rung động khi thấy họ bằng xương bằng thịt,
giàu có,
quyền lực hay
nổi danh, nhưng có gì
hấp dẫn về những cái đã được
thành tựu ấy ? Sau khi những người ấy chết đi,
thân thể họ bắt đầu thối, và
chúng ta muốn càng xa họ càng tốt. Da người là da người dù được đắp lên một
xác chết hay một
thân thể sống. Thịt
cũng thế, xương
cũng thế, ruột gan
cũng thế. Có gì để
kiêu căng, ư ? Tại sao
chúng ta quá bị kích động khi thấy lớp da của người khác dù đó là lớp da của một
nghiệp báo nổi tiếng ?
Thật vậy,
chúng ta cảm thấy ghê tởm khi thấy một cái toa lét, nhưng khi thấy một thân người đi ngang với cùng một chất liệu như vậy ở bên trong,
chúng ta nghĩ là đẹp. Mọi
hấp dẫn đối với
thân thể người khác và sự
kiêu căng mà
chúng ta phát sanh trong
chúng ta chỉ là trò
mê vọng. Đâu là căn cứ cho sự
kiêu căng ?
Nhiều người
chói sáng là những nhân vật hàng đầu của những
lãnh vực trong
thế giới này, họ
thông thái trong việc kéo dài sự không
đức hạnh, nhưng họ
mê muội không
nhận ra cái gì là
đức hạnh. Trong khi đó,
chúng ta bám lấy cái không
hiện hữu mà cho là có
hiện hữu, cái
vô thường cho là thường, có thể
tin cậy, ở yên. Để cắt đứt những lối nhìn
thực tại theo kiểu
mê vọng như vậy,
đức Phật đã dạy mười
thí dụ diễn tả tính chất của những
hiện tượng. Đã có
vô biên đức Phật đã đến trong
quá khứ và
chúng ta vẫn còn ở đây – hành động theo lối ngược lại, khoa trương những
đặc điểm riêng của
chúng ta.
Nếu bạn là một
hành giả đích thực, bạn đang trong tiến trình
chuyển hóa năm độc của bạn thành
năm trí huệ bổn nguyên. Khi sự
chuyển hóa đã
trọn vẹn, bạn là một vị Phật. Chưa
đạt đến điều đó, có gì để
hãnh diện ? Đã
chuyển hóa thậm chí
phiền não kiêu căng thành
trí huệ bổn nguyên, thì
tuyệt đối không có nền tảng nào cho sự
hãnh diện hay
kiêu căng. Nếu bạn chưa là một vị Phật, thì không có căn cứ, và nếu bạn ở chặng giữa, cũng chẳng có căn cứ nào cho kiêu hãnh. Thế nên thật sự không có nền tảng nào cho sự
kiêu căng hay tự phụ trong bất cứ giai đoạn nào dù bạn là
chúng sanh hay là Phật.
Chúng ta có cơ hội để
nhận biết những
lỗi lầm và
giới hạn của
chúng ta về thân, ngữ, ý của
chúng ta. Ngay bây giờ
chúng ta có
dịp may để
nhận biết cái gì cần tránh bỏ và cái gì cần
chấp nhận. Trong
chừng mực chúng ta có thể
nhận ra những
hành vi xấu chúng ta đã phạm, bây giờ là lúc
chúng ta phát lồ chúng và
áp dụng những
năng lực chữa trị để chúng
hoàn toàn được tịnh hóa.
Không có lý do để bạn
cảm thấy không
hy vọng và không biết làm gì. Hơn nữa, bạn cần
chấp nhận tình huống
hiện thời của bạn và rút ra
lợi lạc. Bây giờ đã đến lúc ! Bây giờ là
thời gian để
sám hối ; bây giờ là
thời gian để nhận giới, bây giờ là
thời gian để khai triển lòng bi. Bây giờ là
thời gian để xoay khỏi
sanh tử.
Chính phẩm tính của việc biết cái gì cần tránh và cái gì cần theo
cung cấp cho
tinh túy của lòng bi. Chính vì
lý do này mà lòng bi
sanh khởi đối với tất cả
chúng sanh. Cũng
lý do này là căn cứ để trau dồi
Bốn Tâm Vô Lượng. –
Những
cá nhân bình thường tích tập những kho lớn lao (
hiểu biết và
công đức) sẽ
tái sanh làm những vị vua vĩ đại, họ có
thân thể tốt đẹp nhưng về
tinh thần thì
bất hạnh. Những người
trở thành A La Hán mà không tích tập
công đức, như Likunchika Đệ,
quả thật đã
thành tựu chứng ngộ cao cấp, nhưng họ thường bịnh. Họ không
tốt đẹp về thân, nhưng
tinh thần thì
hoan hỷ. Những
A La Hán có tích tập
công đức, như Balanatin Đệ, trước kia đã tích tập lớn lao (
hiểu biết và
công đức) và không
thành tựu chứng ngộ cao cấp, có thân và tâm đều an vui. Những người không tích tập hai kho này trong
quá khứ cũng không
thành tựu chứng ngộ trong
hiện tại thì có thân và
tâm không tốt đẹp. Đây là bốn khả năng của những
vui vẻ và
buồn rầu của những hành động và những
hậu quả của chúng.
Tương tự đối với sáu
trạng thái sanh tử, nếu bạn phải sanh ra trong cùng một chỗ
sau khi chết, mạng sống của bạn cạn kiệt nhưng không phải nghiệp của bạn đã hết. Nếu
ban đầu bạn
hạnh phúc, nhưng những năm sau bạn khốn khổ, hay nếu trong phần đầu của
cuộc đời bạn
nghèo khổ nhưng phần sau của
cuộc đời bạn
hạnh phúc và
thịnh vượng, nghiệp của bạn cạn kiệt nhưng không phải là mạng sống của bạn. Đối với sáu
trạng thái sanh tử cũng vậy, nếu bạn không
tái sanh nơi bạn đã chết mà vào
nơi khác trong sáu cõi, cả mạng sống và nghiệp của bạn cạn kiệt. Những người thành
A La Hán hay
Bích Chi Phật nhờ
năng lực của
thiền định không cạn kiệt mạng sống hay nghiệp của họ, mà là những
phiền não tắt mất. Đây là bốn khả năng
liên hệ đến sự cạn kiệt của mạng sống và nghiệp.
– Trong
trường hợp cái chết của một đứa bé còn trẻ có một
tính khí tuyệt hảo và
cư xử rất tốt, có thể là mạng sống của nó cạn kiệt nhưng không phải nghiệp của nó cạn kiệt. Thế nên với những khuynh hướng
đức hạnh này rất có thể đứa bé sẽ
trở lại ngay với một
tái sanh may mắn. –
Những người sanh trong một
trạng thái khốn khổ như cảnh của
thú vật nhưng lại
đẹp đẽ và
hấp dẫn là đã
giữ gìn kỷ luật
đạo đức nhưng từ một động cơ thù ghét. Những người sanh trong một
trạng thái khốn khổ như
thú vật và
xấu xí, kinh tởm là đang
kinh nghiệm những
hậu quả của nghiệp của kỷ luật
đạo đức không
trong sạch có động cơ là thù ghét. Những người sanh ra trong một
trạng thái khốn khổ như cảnh của
thú vật và hôi hám, với những khả năng
giác quan không
sáng tỏ và chậm lụt, là đang
kinh nghiệm những
hậu quả của nghiệp của kỷ luật
đạo đức không
trong sạch có động cơ là thù ghét. Đó là bốn khả năng
liên hệ đến sự
xuất hiện của người ta trong một
trạng thái khốn khổ của
sanh tử.
Trong
trường hợp thực hiện một
hành vi đức hạnh bề ngoài với
ý định làm hại người khác, thì vì
hành vi đức hạnh đó, có nghiệp dẫn đến
hậu quả khổ. Trong
trường hợp thực hiện một việc không
đức hạnh, như bốn sa đọa hàng đầu, với động cơ là
Bồ đề tâm, thì vì
hành vi không
đức hạnh đó, có nghiệp dẫn đến
hậu quả vui. Chẳng hạn, những
thực hành như “hợp nhất và giải thoát” trong Mantra
Bí Mật là sự
vi phạm với
Bồ đề tâm. Trong
trường hợp dấn thân vào
tội lỗi với một
ý định tội lỗi, vì hạnh xấu đó
hậu quả chỉ là khổ. Trong
trường hợp thực hiện đức hạnh với động cơ
Bồ đề tâm, niềm vui
sanh khởi như là
kết quả của nghiệp đức hạnh. Đây là một
giải thích đơn giản bốn khả năng
liên hệ đến động
cơ như được dạy trong những kinh
Bồ tát.
Nếu bạn
cư xử một cách
tội lỗi với một
ý định đức hạnh, dù bạn được
tái sanh trong một
trạng thái thuận lợi của
sanh tử, bạn cũng
nghèo khổ, với những gian khổ của vui và buồn, và chịu bệnh tật
vân vân. Đó là nghiệp trong đó sự
thúc đẩy là bởi
đức hạnh, và sự
thành tựu là bởi
tội lỗi. Nếu bạn
cư xử một cách
đức hạnh với một
ý định tội lỗi, dù bạn sanh trong một
trạng thái khốn khổ của
hiện hữu, bạn cũng được
thịnh vượng, như
trường hợp những vua rồng và những
ngạ quỷ bay
trên trời. Dù
thân thể họ là
thú vật và
ngạ quỷ, họ
sống thọ và
sung túc. Đó là nghiệp trong đó sự
thúc đẩy là bởi
tội lỗi, và sự
thành tựu là bởi
đức hạnh. Nếu bạn tích tập
tội lỗi với một
ý định tội lỗi và bạn sanh trong một
trạng thái khốn khổ của
hiện hữu, bạn sẽ
kinh nghiệm khổ đau mãnh liệt. Đó là nghiệp trong đó cả sự
thúc đẩy và sự
thành tựu đều bởi
tội lỗi. Nếu bạn
cư xử một cách
đức hạnh với một
ý định đức hạnh và sanh trong một
trạng thái thuận lợi của
hiện hữu, bạn sẽ luôn luôn
kinh nghiệm niềm vui và
thịnh vượng. Đó là nghiệp trong đó cả sự
thúc đẩy và sự
thành tựu đều bởi
đức hạnh. Đây là một
giải thích đơn giản ý nghĩa của các kinh về bốn khả năng
liên hệ đến sự
thúc đẩy và
thành tựu.
Nếu với một
ý định xấu, bạn làm hại hay mắc phạm dầu một
hành vi không
đức hạnh nhỏ đối với một đối tượng
thanh tịnh,
hậu quả là bạn phải
kinh nghiệm khổ đau lớn lao ; và nếu bạn làm một
đức hạnh nhỏ, như
tôn kính một đối tượng
thanh tịnh với
lòng tin,
ý định tôn sùng,
hạnh phúc lớn lao sẽ xảy ra như là một kết quả. Đó là nghiệp trong đó một
hành vi nhỏ chín thành một
hậu quả lớn lao.
Một khi nghiệp
tội lỗi được tích tập,
trừ phi bạn có thể tịnh hóa
rốt ráo nó bằng cách
hối tiếc và
sám hối mãnh liệt,
cuối cùng bạn phải
nhất định, không sai chạy,
kinh nghiệm những
hậu quả của nó. Luận Về
Giới Luật nói :
Dù trên trăm kiếp
Những hành động không
tiêu tan,
Và khi những
điều kiện và
thời gian chín muồi,
Những
hậu quả xảy ra cho
chúng sanh.
Nếu một
tội lỗi không được
sám hối sau khi phạm nó, với ngày qua nó sẽ lớn lên ; thế nên dù với một tội nhỏ cũng
trở thành lớn. Nếu nó được
sám hối, dù
nếu không được tịnh hóa
hoàn toàn, nó cũng không thêm
tác hại. Một kinh nói :
Nếu không có
đối trị để
chống lại một cách toàn triệt
Những
hành vi đức hạnh và
tội lỗi,
Chúng sẽ
tăng trưởng và còn đó,
Và thậm chí sau những kiếp (những
hậu quả của chúng) xảy ra.
Đó là một
giải thích về sự không biến mất của những hành động và những
hậu quả của chúng.
Bây giờ nếu có nhiều
yếu tố trong
cư xử chúng
hỗn hợp cả
đức hạnh và
tội lỗi, cái nào trong chúng chín trước ? Cái mạnh hơn sẽ chín trước. Nếu chúng bằng nhau về
sức mạnh, cái nào
rõ ràng hơn trong tâm vào lúc chết sẽ chín trước. Nếu chúng lại bằng nhau về mặt này, thì cái nào phạm trước sẽ chín trước. Thánh Rahula-bhadra nói :
Về những
hậu quả của những hành động,
Cái nào nặng hơn,
trầm trọng hơn,
quen thuộc hơn,
Và cái nào phạm trước hơn
Có những
hậu quả xảy ra trước nhất.
Đây là một
giải thích khúc chiết từ những kinh về những
hành vi làm
sanh khởi những
hậu quả nào trước.
Người
thường có thể nghĩ rằng : “ Không chắc rằng
hạnh phúc có từ việc
thực hiện những
hành vi đức hạnh và khổ đau có từ mắc
phạm hành vi không
đức hạnh. Những người để
cả đời mình dành cho Pháp và
đức hạnh thì có một
cuộc đời ngắn ngủi, nhiều bệnh tật, nghèo và nhiều loại khổ sở ; trong khi những kẻ giết hại, những người săn bắn, lính tráng, cướp trộm thì
sung sướng tốt đẹp.” Đối với người
tội lỗi mà
hạnh phúc, đó là do những
hậu quả của
đức hạnh đã làm trong những đời trước đang chín
trong đời này ; và mọi
công đức của họ được dùng hết
trong đời này. Trong tương lai họ bị
trói buộc vào những nơi chốn không thể
trốn thoát được, cho nên đó là nghiệp
đức hạnh cuối cùng của họ. Do phạm những tội
trong đời này, những
hậu quả của khổ đau rộng lớn sẽ xảy ra sau đời này. Như một
thí dụ, do ăn
thức ăn trộn với thuốc độc, trong một lúc
cảm thấy ngọt ngào và no nê, nhưng sau đó người ta hấp hối. Bộ Những
Cách Ngôn nói :
Chừng nào tội lỗi chưa chín,
Người ngu nghĩ nó ngọt ngào.
Khi
tội lỗi chín,
Bấy giờ chúng thiêu đốt.
Chừng nào tội lỗi chưa chín,
Nó được thấy là có thể
chấp nhận được.
Khi
tội lỗi chín,
Bấy giờ khổ đau được
kinh nghiệm.
Một Lá Thơ Cho Một Người Bạn nói :
Dù cho người ta dấn thân vào những
hành vi tội lỗi,
Người ta không bị cắt ngay như với một vũ khí.
Nhưng khi
thời gian của cái chết đến,
Những
hậu quả của những
hành vi tội lỗi trở nên
rõ ràng.
Có khổ đau xảy ra
trong đời này khi
thực hành Pháp và
đức hạnh, đây là một
trường hợp kinh nghiệm trong đời này những
hậu quả của
tội lỗi đã phạm trong những đời trước. Những
hậu quả của
thực hành đức hạnh và Pháp
trong đời này sẽ xảy ra trong những đời tới như là niềm vui cao cả,
bao la. Bộ Những
Cách Ngôn nói :
Chừng nào cái tốt chưa chín,
Đức hạnh được thấy là kém.
Khi
đức hạnh chín,
Bấy giờ nó được thấy là niềm vui.
Có người
thực hành Pháp một cách
nhất tâm hoặc trồng các
thiện căn, như một kết quả của việc đó,
trong đời này họ nhận lãnh mọi sự xấu tệ,
tội lỗi và những
chướng ngại từ những đời trước. Bấy giờ kết quả là khổ đau
bao la trong những
trạng thái khốn khổ trong những đời khác được tịnh hóa chỉ bằng
đau đớn bệnh hoạn trong đời này. Có nói rằng trong những đời
tiếp theo họ sẽ
thành tựu sự
vinh quang của việc đi từ một niềm vui này đến một niềm vui khác. Kinh Sự
Hoàn Thiện Của
Trí Huệ (
Bát Nhã Ba La Mật) nói :
Này
Tu Bồ Đề,
thiện nam tử,
thiện nữ nhân nào nhận những lời của một kinh như kinh này, ghi nhớ chúng, ca
tán chúng,
hiểu rõ chúng và
thiền định nhiệt tình về chúng sẽ
kinh nghiệm đau khổ. Vì sao ? Do chịu khổ đau
trong đời này, những
chúng sanh ấy tịnh hóa những
hành vi không
đức hạnh của những đời trước, những
hành vi sẽ làm
tái sanh trong những
trạng thái khốn khổ của
hiện hữu ; và họ sẽ
thành tựu giác ngộ của Phật.
Kinh Đại Niết Bàn nói :
Chỉ bằng một cơn bệnh đau đầu, một bệnh do lây, bị bệnh hay bị những người khác khinh thường, những
thiện nam tử những
thiện nữ nhân thiết tha mong
cầu Pháp sẽ nhanh chóng
thành tựu giác ngộ không gì sánh.
Do
nhất tâm thực hành Pháp trong đời này, mọi
chướng ngại ngăn che của nghiệp trong những đời trước nhanh chóng chín, như khói nhiều sanh ra trước khi lửa cháy. Sự xảy ra của bệnh tật khổ đau được gọi là “sự khởi lên của nghiệp”, bởi vì nó là một dấu hiệu của sự
hoàn thành nhanh chóng
thành tựu tối thượng. Orgyen Rinpoche
nói nhiều về sự xảy ra của nhiều
nghịch cảnh, như bệnh tật và khổ đau,
sanh khởi do dấn thân vào những
thực hành sâu xa của Mật thừa. Như chùi rửa một cái bình chứa làm chất dơ nổi lên,
cũng thế sự khởi lên của nghiệp là do tịnh hóa những che chướng. Đây là
trường hợp của Gyarey, Gotsangwa, Lorey v.v... những người trước khi
đạt được những
thành tựu, đã có những chứng bệnh phù
gần chết, một bệnh do rận chấy, và một bệnh do loài rồng gây ra, bởi vì
đi vào thực hành nhất tâm.
– Nhiều vị thầy đã chết vì những bệnh nặng. Có nhiều cách để hiểu những
trường hợp này.
Kinh nghiệm về bệnh tật của các ngài một phần có thể các ngài nhận lãnh những
vi phạm các giới samaya của những
đệ tử. Hay có thể các ngài
kinh nghiệm những quả của những
chướng ngại nghiệp quả còn sót từ thời
quá khứ. Hay bệnh tật của các ngài có thể chỉ là một
biểu lộ cho
lợi lạc của những người khác – để chỉ cho họ thấy
tính chất của những hành động và những
hậu quả của chúng và
tính chất sanh, già, bệnh, chết của
sanh tử. Đây
chắc chắn là
trường hợp của Phật
Thích Ca. Ngài đã
nhập diệt để minh chứng
sự thật vô thường. –
Có những người khác để
cả đời mình
thực hành Cắt Đứt một cách
nhất tâm, và thậm chí những bậc vĩ đại trong các địa
Bồ tát có sự
chứng ngộ tốt đẹp qua
kinh nghiệm, các vị đó được tịnh hóa trước khi chết bằng sự khổ đau lớn lao do bệnh tật. Sự
đau đớn mãnh liệt, không thể
chịu đựng làm tịnh hóa những
chướng ngại nghiệp quả còn sót vào lúc chết ; và đây là một dấu hiệu rằng họ
đạt đến giác ngộ trong
pháp thân của cái chết hay
tái sanh trong một
tịnh độ. Khi Milarepa cao cả
kinh nghiệm sự
đau đớn nhức buốt từ một đồ
cúng dường, người đàn bà
cúng dường món này nói bà muốn giúp đỡ bằng cách nhận sự
đau đớn của ngài. Bấy giờ ngài chuyển nó cho bà chỉ trong một giây lát, và bà
kêu la, “Hãy lấy nó lại !” Rồi ngài chuyển nó vào một hòn đá, nó liền bể. Ngài nói đây là sự tịnh hóa cho những che
chướng nghiệp quả còn sót lại của ngài, và ngài nhận nó nơi mình. Đức Phakdrup, Dromtošnpa... cũng nói rằng bệnh cùi của các ngài là một tịnh hóa cho những che chướng còn sót, và các ngài chết với tâm trụ trong
hoan hỷ.
– Sự
thực hành Cắt Đứt một cách
nhất tâm không có nghĩa chỉ là
thực hành mọi
nghi thức với sự
chính xác, mà
nhất tâm trau dồi hai giai đoạn phát sanh và
thành tựu hơn là
đi vào những
nghi thức bên ngoài. Bạn cắt đứt cái gì ? Bạn cắt đứt hai loại
vô ngã, tức là
nhân vô ngã và
pháp vô ngã. Đây là
cốt lõi đích thực của
thực hành này. Người không hiểu điều này và
chú tâm vào làm sao rung chuông hay đánh trống thì chỉ như thủ diễn một
vai trò trong ngày
lễ hội.
Cũng như
chúng ta chuẩn bị trước một
bữa ăn bằng cách rửa tay, sự
đau đớn mãnh liệt không thể
chịu đựng này là một chuẩn bị, một tịnh hóa sau cùng, trước “bữa ăn” cái chết. Điều này có thể là một cơ hội cho sự
chứng ngộ tâm linh vĩ đại. –
Với những điểm này trong
tâm đạo sư Dezhin Shekpa nói :
Ba
trạng thái bất tận khốn khổ của
hiện hữu là
vòng sanh tử.
Hơn là
tái sanh trong những
thế giới không được
rảnh rang,
Nguyện nghiệp của tôi chín trong chính đời này,
Và nguyện tôi
không kinh nghiệm nó vào những dịp nào khác.
Do
cầu nguyện lời này, nó có thể được thành, như
trường hợp của Neudzok Nakpa, ngài
chấp nhận một cách
hiểu biết một
lời mời (của những người định
ám sát ngài).
Như vậy, dù những việc xấu xảy ra cho những
hành giả trong sạch khi họ ở trên ngưỡng cửa của cái chết, không chắc hẳn điều đó là xấu. Chẳng hạn
Bồ tát Supus-pacanda bị hành hình cho dù ngài vô tội, và Vua của Kalingka
tuyên bố, “Dù tay chân tôi có bị cắt, tôi
không kinh nghiệm
tư tưởng giận thù.”
– Tôi đã
chứng kiến một
thí dụ mới đây về sự
rộng lượng loại này của bổn sư tôi, Tulku Natsok Rangdrošl. Năm 1958, tôi hỏi
ý kiến ngài về việc tôi và những người khác sẽ trốn ra nước ngoài. Ngài bảo tôi : “Con không có nghiệp để phải
chịu đựng sự cai trị của một chế độ hà khắc ; thế nên
không có lý do gì để con ở lại. Nhưng thầy sẽ không đi với con, bởi vì dù con không có nghiệp đó, nhưng thầy có. Một mặt, thầy có nghiệp cần được tịnh hóa, mặt khác, thầy sẽ ở lại vì
lợi lạc cho
chúng sanh. Thầy biết cái gì sẽ xảy ra cho thầy. Thầy sẽ bị
hành hạ và giết chết. Thầy thấy rõ điều này sẽ xảy ra, nhưng thầy không đi đâu cả.”
Những bạn
đồng hành và tôi đi xa xứ, và về sau tôi được biết ngài bị người ngoại quốc đến cai trị bắt giam và
hành hạ nhiều năm trong một trại tập trung.
Cuối cùng họ kéo lê ngài sau một con ngựa chạy
cho đến khi ngài chết. Đó là cách ngài đã gặp gỡ cái chết của mình. Tôi đã nghe những tường thuật về những năm trong trại tập trung của ngài. Dù ngài bị
chế diễu, khinh miệt hay bị
hành hạ thân xác, ngài chỉ bình thản
mỉm cười nói với những người bắt mình, “Bất cứ điều gì các anh muốn làm, hãy
cảm thấy tự do khi làm ; các anh có sự
cho phép của tôi. Các anh càng làm tôi
đau đớn, tôi càng
cầu nguyện rằng tôi có thể
lợi lạc cho các anh.” –
Về những hành động làm khởi lên những
kinh nghiệm thấy được, do những
đức hạnh hay
tội lỗi mãnh liệt
trong đời trước, chúng có thể chín
trong đời này.
Nếu thế, khi nghiệp trước chín
trong đời này như
sống thọ và
sức khỏe tốt, thì dù một ngàn kẻ
cực đoan và
ngoại đạo có nguyền rủa bạn, họ cũng không thể làm hại bạn. Khi nghiệp chín thành
thịnh vượng và
quyền lực lớn lao, dù nếu những quân địch khởi lên từ
bốn hướng, họ cũng không thể tước đoạt bạn khỏi
quyền lực của bạn. Khi nghiệp chín làm thành
một đời ngắn ngủi và bệnh tật
liên miên, dù một ngàn thầy tu đã
thành tựu “lời chân lý” có
cố gắng bảo vệ cho bạn, và Kumarajivaka (một
hóa thân của Phật
Dược Sư) được gọi làm thầy thuốc cho bạn, họ cũng không thể giúp bạn. Khi nghiệp chín để mất
thịnh vượng và
thần lực, tất cả
thực phẩm,
tài sản và
thịnh vượng sẽ biến mất như nước đổ vào trong cát, và những
quyến thuộc và những tôi tớ của bạn sẽ nối giáo cho những kẻ địch của bạn và ở sau lưng bạn. Trong
trường hợp đó, chỉ có lòng bi của
Tam Bảo mới có thể
bảo vệ cho bạn,
ngoài ra không có ai khác.
Chẳng hạn khi Virudhaka, vua của một vùng
ngoại biên, gây chiến,
Mục Kiền Liên hỏi ngài có thể bao trùm thành phố Kapila với chỉ một cái
bình bát để nó không còn thấy được, nhưng ngài nói rằng ngài để cho nghiệp được tịnh hóa. Sau đó, năm trăm thành viên của
dòng họ Thích Ca bị giết, và năm trăm cô gái
họ Thích Ca bị cắt chân đến đầu gối. Biết đó là do nghiệp
quá khứ của họ, đức
Thích Ca Mâu Ni, dù có mặt, đã không làm gì để
bảo vệ họ. Hơn nữa, mọi
lợi lạc của những
danh hiệu của chư Phật, những
đà la ni và
thần chú đều có
hiệu lực chỉ trừ khi nghiệp trước kia đang
thành quả. Đó là nghiệp làm khởi lên những
kinh nghiệm thấy được.
Những tội nặng như
ngũ nghịch và những
đức hạnh mạnh mẽ
nhất định chín ngay
trong đời tới. Còn những
đức hạnh hay
tội lỗi nhỏ có thể được xúc tác bởi những duyên và chín
trong đời này, và nếu những duyên chưa gặp được, chúng cũng có thể nằm đó chờ một trăm kiếp. Nhưng không
tiêu tan,
cuối cùng nhất định chúng phải chín. Đó là nghiệp làm khởi lên những
kinh nghiệm trong những đời khác.
Khi nghiệp xấu, như đoản mệnh hay nhiều bệnh tật, được xúc tác bởi những
ma quỷ và chín
trong đời này, những
nghi lễ tôn giáo và chữa trị y học có thể
chống lại và trì hỗn nó. Điều này giống như một việc
tố tụng. Nếu bạn
hoàn toàn không có nghiệp xấu trước kia, những
ma quỷ không thể làm hại bạn và bệnh tật không sanh ra. Bằng cách
thờ phụng những vị thần
thế gian, nghiệp sống lâu,
sức khỏe tốt và
thịnh vượng lớn có thể thu được và chín
trong đời này. Điều này cũng giống như lãnh lương cho năm tới và năm sau, và tiêu hết trong năm này. Những
thành tựu (siddhi) của những bổn tôn của
trí huệ bổn nguyên thì không giống như vậy, vì
chúng sanh khởi do những
cầu nguyện trước kia và do
thần lực đại bi của những bổn tôn này.
Có nói rằng một
thí dụ về nghiệp không
nhất thiết phải được
kinh nghiệm, đó là nghiệp trong
dòng tâm của một
A La Hán. Chẳng hạn, trước khi đức
Thích Ca thành Phật, ngài không
nhất thiết phải sanh năm trăm lần làm
chuyển luân thánh vương ; nhưng ngài đã đạt
giác ngộ trước khi điều đó xảy ra. Thế nên ngài
hồi hướng công đức đó để
cung cấp những nhu yếu
vật chất cho những
đệ tử của ngài. Như thế, ngài nói, “Dù có khi người ta không thể có được
một nắm gạo do đổi
một nắm ngọc trai, những
đệ tử của ta sẽ không
túng thiếu về những nhu yếu
vật chất.” Đây là
lý do tại sao,
chúng sanh sẽ không đói khi
thực hành Pháp.
Đức hạnh của cõi dục là nghiệp không
công đức, và
đức hạnh của cõi sắc và cõi
vô sắc là nghiệp
bất động. Hơn nữa,
đức hạnh của những cõi cao duy chỉ là nghiệp
tích cực, không
đức hạnh của cõi dục duy chỉ là nghiệp
tiêu cực, và
đức hạnh của cõi dục là nghiệp trộn lẫn.
Đức hạnh không
nhiễm ô là nghiệp làm tắt mất sự chín của nghiệp ;
hậu quả của nghiệp
tích cực là vui,
hậu quả của nghiệp
tiêu cực là khổ, và
hậu quả của nghiệp trộn lẫn là một
hỗn hợp của vui và khổ. Nghiệp không
nhiễm ô làm tắt mất những nghiệp này. Chẳng hạn, để
cứu mạng năm trăm người, thuyền trưởng bi mẫn đã giết một người xấu
ác quỷ quái với một cây gươm ngắn ; và vì
giáo pháp, Lhalung Palgyi Dorje đã giết vua Langdarma. Đây là những
hành vi trong đó
ý định là
tích cực và
sự thể hiện là
tiêu cực. Một hành động như trao một tặng vật để giết ai đó
bao gồm một
ý định tiêu cực và
một thể hiện
tích cực. Trao một tặng vật với một
ý định trong sạch, chẳng hạn, là nghiệp với một
ý định tích cực và
một thể hiện
tích cực. Một hành động như giết để
ăn thịt bao gồm một
ý định tiêu cực và
một thể hiện
tiêu cực.
– Những
hành vi tốt được
thực hiện trong cõi dục mà
chúng ta đang sống
hiện thời, là
đức hạnh, nhưng chúng bị dơ nhiễm bởi tám mối
quan tâm thế gian. Dù chúng là
đức hạnh, chúng được nói là nghiệp không
công đức.
Đức hạnh của cõi dục là một trộn lẫn của nghiệp
tích cực và
tiêu cực, trong khi
đức hạnh của cõi sắc và cõi
vô sắc thì chỉ
tích cực.
Cái gì là nghiệp không
nhiễm ô ? Đó là nghiệp của một người đã
đạt được một
chứng ngộ trực tiếp, không qua
trung gian, không
ý niệm về
tánh không. Nghiệp không
ô nhiễm này tịnh hóa tất cả mọi
hành vi nhiễm ô. Không có cái gì
tốt hơn để tịnh hóa nghiệp không
đức hạnh bằng sự
chứng ngộ tánh không. Nó cũng là đặc trưng
chính yếu của giai đoạn phát sanh và giai đoạn
thành tựu. Nó là
phương tiện vĩ đại nhất của sự tịnh hóa.
Về những hành động
đức hạnh và không
đức hạnh, khi bạn thấy người khác có vẻ
tiến bộ rất tốt trong
thực hành và
kinh nghiệm sự
may mắn, bạn
phản ứng thế nào ? Tôi gợi ý rằng bạn hãy nhớ họ đang
kinh nghiệm quả của những hành
động trước kia của họ. Hãy
tùy hỷ,
vui sướng với họ ! Hãy
tin tưởng và
vui mừng cho họ ! Thật vậy, nếu bạn có thể
tùy hỷ sự
thịnh vượng và
tiến bộ của họ, sự
tùy hỷ chân thật của bạn là
lợi lạc của bạn. Ngược lại, nếu bạn
ghen tỵ vì sự
may mắn của họ, kết quả sẽ là
bất hạnh cho chính bạn.
Có những người
kinh nghiệm đủ loại
thăng trầm, khi thì hành rất tốt, khi thì rớt
thê thảm. Họ
kinh nghiệm những
chướng ngại tệ nhất vừa cả
tâm linh vừa cả
thế gian, bị những người khác xỉ nhục,
hắt hủi. Khi gặp những người ấy, họ nên là những đối tượng cho lòng bi của bạn, không phải chê bai,
vứt bỏ. Dù họ là bạn hay là thù, không có gì khác nhau. Khi bạn thấy người đang trong một
thời khắc nghiệt, hãy
cầu nguyện cho sự
an ổn của họ, bất kể là bạn hay là thù. Thật
tồi tệ khi nghe một
Phật tử nói rằng người nào đó xứng đáng với sự
bất hạnh của nó. Khi
chúng ta có loại
phản ứng phê phán này,
chúng ta đã phá hỏng chính samaya của mình, dẫn đến sự sa đọa.
Chú tâm vào hay lôi kéo người ta chú ý vào những
lỗi lầm của những người khác thực sự là một
lỗi lầm lớn lao về phần
chúng ta. Điều này
đặc biệt đúng cho
Phật tử chúng ta bởi vì
chúng ta đang
nỗ lực thoát khỏi vòng sanh tử này. Sự
chú tâm vào những
lỗi lầm của người khác là một
chướng ngại khổng lồ cho
sự giải thoát của
chúng ta khỏi
sanh tử. Thế nên hãy
thận trọng trong
thái độ đối với những người khác. Và
đặc biệt với những người
anh chị Pháp hữu của bạn.
Khi
chúng ta bị những người khác chê bai, vu khống, và
hắt hủi, điều đó thực sự tịnh hóa nghiệp
tiêu cực của
chúng ta, trong khi những người đối xử với
chúng ta như vậy đang thực sự bị
tổn hại. Thật ra, người đang nhận sự xỉ nhục là đang nhận sự
lợi lạc trong tiến trình.
Xin
ghi nhận rằng vị thuyền trưởng ở trên là
tiền thân của đức
Thích Ca, và Lhalung Palgyi Dorje đã
đạt đến những địa của
Bồ tát. Để làm những hành động như vậy, bạn phải có những phẩm tính của một người đã
chứng ngộ cao. Không có,
tốt hơn bạn chỉ nhìn ngắm họ. –
Nghiệp
đức hạnh từ cõi dục lên đến
đệ tam thiền làm khởi lên
kinh nghiệm về niềm vui, trong khi không
đức hạnh của cõi dục là nghiệp làm khởi lên
kinh nghiệm về khổ.
Đức hạnh của thiền thứ ba trở lên là nghiệp làm khởi lên
kinh nghiệm về sự
an định của thiền.
Mười
đức hạnh ô nhiễm và không
ô nhiễm là nghiệp
đức hạnh, mười không
đức hạnh là nghiệp không
đức hạnh ;
niết bàn giải thoát kèm theo nghiệp
trung tính về
đạo đức. Nghiệp
phiền não của các cõi cao là nghiệp ngăn chướng,
trung tính về
đạo đức. Chẳng hạn nghề thợ mộc tạo thành nghiệp không ngăn chướng,
trung tính với
đạo đức.
– Ở đây có lẽ bản văn mất một đoạn. Nghiệp
phiền não của các cõi cao là nghiệp ngăn chướng,
trung tính về mặt
đạo đức bởi vì các cõi sắc và
vô sắc thì không có sự không
đức hạnh, nhưng
phiền não thì
vẫn có hiện hành. –
Nghiệp tạo ra
vũ trụ vô cơ là
nghiệp chung cho
chúng sanh một cách tổng quát, còn nghiệp tạo ra
chúng sanh trong
vũ trụ là nghiệp
cá nhân.
–
Nghiệp chung, hay tập thể gồm những hành động mà
chúng sanh cùng làm. Họ chung nhau
kinh nghiệm sự chín của nghiệp đó như là môi trường vô cơ vô tình, trong khi cuộc sống của
chúng ta như những
chúng sanh là kết quả của những hành động riêng của mỗi người, không phải là chung. –
Như vậy, tổng hợp tất cả nghiệp
tích cực và
tiêu cực thì mọi sự không
đức hạnh gồm những
tác hại gây ra cho
lợi ích của chính mình
chống lại Tam Bảo và
chống lại chúng sanh. Mọi
đức hạnh gồm những hành động người ta
thực hiện để
phụng sự Tam Bảo và
chúng sanh. Một Hướng Dẫn Vào
Bồ Tát Hạnh nói :
Mọi niềm vui trong
thế giớiĐến từ mong muốn
hạnh phúc cho những người khác,
Và mọi khổ đau trong
thế giớiĐến từ mong muốn
hạnh phúc cho riêng mình.
Nói nhiều như thế đủ rồi !
Hãy
nhận thấy sự khác biệt giữa người ngu,
Đi tìm
lợi ích cho riêng mình,
Và người trí, làm việc cho
lợi lạc của những người khác.
Bản văn đó cũng nói rằng mọi điều đó được bao hàm trong việc
từ bỏ tội lỗi và
thực hiện đức hạnh, và được bao hàm trong việc
điều phục tâm mình. Kinh
Giải Thoát Cá Nhân nói :
Không phạm vào bất cứ
tội lỗi gì,
Thực hành những
đức hạnh dồi dào,
Hoàn toàn điều phục tâm mình –
Đó là lời dạy của Phật.
Ba
tạng kinh điển của Phật được tổng hợp trong đó. Bản văn Những Câu Hỏi Cho Chen-ngawa nói :
Khi làm những
lễ lạy, vị thầy nói, “Tôi không có
thực hành nào khác ngoài việc không làm mười sự không
đức hạnh.” Potowa nói, “Ngài có thể thấu hiểu
tánh không với sự
tỉnh giác của ngài, nhưng hãy nhiệt tình
xem xét sự
sâu xa của những hành động và những
hậu quả của chúng.”
– Khi được hỏi về
bản chất của
giới luật, Milarepa
trả lời, “Tôi không biết gì về
giới luật, nhưng tôi biết làm sao
điều phục tâm thức của tôi.” Thế thì cái gì là giới ? Nó
đơn giản nghĩa là
điều phục tâm bạn. –
Hãy xem, “Bởi vì mọi khổ đau phát sanh
từ không đức hạnh, tôi phải tránh thậm chí một sự không
đức hạnh nhỏ, nó là những
nguyên nhân của khổ đau ; và bởi vì mọi
hạnh phúc sanh khởi từ
đức hạnh, tôi phải tích tập
đức hạnh từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất.” Ngày và đêm hãy
liên tục sám hối và
từ bỏ tội lỗi của bạn, và nhiệt
tình thực hiện
đức hạnh. Đến đây
kết thúc chương bổ sung về những hành động và những
hậu quả của chúng.