CHƯƠNG SÁU
Sự Nhận Diện Đại Ấn
Kính lễ đức
Quán Thế Âm !
Đây là những
giáo huấn thực hành sâu xa của
Quán Thế Âm. Những
giáo lý của những kinh, tantra và của những siddha (
thành tựu giả) về
nhận diện tự tâm mình và tánh giác này là Đại Ấn giống như
lời khuyên được
ban cho trong
bí mật, thế nên hãy cố hiểu
chắc chắn (về điểm này).
–
Bản tánh của tâm của chính bạn là sugatagarbha. Một sugata là người đã
đạt đến an lạc, và garbha là một phôi mầm,
tử cung hay
tinh túy ; sugatagarbha là
Như Lai tạng.
Bản tánh này
hiện diện ở đâu ? Bạn có thể nói nó
hiện diện trong
bản thân bạn, nhưng
chính xác hơn là nói
đơn giản : nó là bạn. Do
nhận diện bản tánh của chính bạn, bạn cắt đứt mọi tạo
tác ý niệm và
đơn thuần an trụ trong
bản tánh của tánh giác của chính bạn.
Bản tánh này không hình dạng, màu sắc. Nó không
ngẫu nhiên, cũng không xảy ra ở một
thời gian sau này ; hơn thế, nó
tự do một cách bổn nguyên, một cách
viên mãn bởi
tự tánh của nó, trần trụi lộ bày và trinh nguyên, tươi mới.
Bằng cách
dần dần trở nên
quen biết với
bản tánh này, sẽ có được
quán chiếu đích thực, nó
đạt đến tột đỉnh với sự có được tự tin. Một khi đã có tự tin này, bạn chỉ
đơn giản ở trong
trạng thái đó và
giữ gìn sự tự tin đó mà không thêm vào bất kỳ tạo tác nào.
Bản tánh tối
vi tế này không
nhiễm ô bởi những
lỗi lầm của
sanh tử, thế nên chớ trộn lẫn nó với bất kỳ cái gì khác. Chớ
cố gắng tìm kiếm cái gì khác để làm ; chỉ
đơn giản ở trong sự tự tin đã
đạt được. Hãy an trụ
thường hằng trong
trạng thái này và
thỏa mãn với sự
nhận biết đó.
Để có được một
chứng ngộ trần trụi
thoát thể như vậy, cốt yếu là
đệ tử phải được
chín muồi về
tâm linh qua chuẩn bị. Một khi bạn thấy vị hướng dẫn
tâm linh của bạn như một vị Phật,
cảm thấy lòng bi
chân thật đối với những người khác, và có
niềm tin vào Phật và Pháp, bạn có thể được đưa vào
bản tánh của tánh giác, và điều đó làm khởi lên cái thấy chân chánh và
cho phép một số
huệ quán nào đó
sanh khởi.
Như một sản phẩm phụ của việc ở trên
con đường và có được
quán chiếu chân chánh, những
đệ tử có thể có được những khả năng
siêu phàm như thấu thị. Nếu được dùng với một động cơ không
thích đáng, bạn chỉ làm
lầm lạc chính mình và người khác đến độ cả hai đều
bại vong, như tra tay vào còng. Bởi thế, những phô diễn
siêu phàm này được
xem như là những
cám dỗ của ma. Dù có nhiều người đã
đạt được những siddhi (
thành tựu), như bay
trên trời hay đi qua
dưới đất, chúng cần được nghĩ đến như những nguy hiểm tiềm tàng
cho đến khi người ta
đạt đến trạng thái “tắt mất,
tịch diệt vào
bản thân thực tại”, là pha
cuối cùng của giai đoạn Nhảy Qua trong
thực hành Dzogchen.
Cho đến lúc đó, người ta phải có một cái thấy (kiến)
bao la như không gian, nhưng những hành động (hạnh) phải cực kỳ
chính xác và chu đáo. –
Kinh Đống Ngọc nói :
Thực tại bí mật của tất cả chư Phật
Không
dính dáng gì đến tạo
tác ý niệm và
không có
tự tánh.
Nó là
vô tự tánh và
bất biến.
Cái này được những vị
tham thiền hiểu biết.
–
Thực tại bí mật ấy bạn
cần phải nhận biết nó là
bản tánh hiện tiền của chính bạn. Những
giáo lý của những kinh, những tantra,
giai đoạn phát triển và
thành tựu v.v... là để
cho phép chúng ta nhận ra bản tánh thực sự của quả –
tự tánh của chính
chúng ta.
Chớ hỏi
sanh tử hay
niết bàn có
hiện hữu không. Hãy hỏi chính bạn, “Tôi có thực sự
hiện hữu ?” Hãy lấy chính bạn làm đối tượng tra vấn, “Nếu tôi
hiện hữu, thì tôi
hiện hữu ở đâu ?”
Tiếp theo, hãy
nghiên cứu thân bạn, xem cái “tôi” này có được
tìm thấy chăng. Sự
tiến bộ hiệu quả nhất để
theo đuổi việc này là bắt đầu với những
thực hành sơ bộ, đi tiếp vào tĩnh lặng, rồi đến điểm khảo sát
bản chất của sự
hiện hữu của bạn, tự hỏi bạn có thực sự
hiện hữu hay không. Theo tiến trình này, bạn sẽ thấy rằng không thể
biện hộ để
kết luận rằng bạn
hiện hữu ; nhưng cũng có vẻ không
thuyết phục rằng bạn không
hiện hữu ! –
Kinh Đại Tổng Hợp nói :
Mọi sự đều bao hàm trong
trạng thái của
tự thân
thực tại,
Thế nên nó là
Đại Toàn Thiện.
Những Câu Hỏi của Kinh Nairatmya nói :
Những
hiện tượng thoát khỏi mọi tạo tác
ý niệm.
Đó là bindu
duy nhất.
– Bindu
duy nhất là
bản tánh nhất thể của
toàn thể sanh tử và
niết bàn. Bindu được
tượng trưng là hình cầu, vì nó không có
trung tâm hay chu vi. Điều đó cũng đúng với
sanh tử và
niết bàn, chúng không có
trung tâm hay chu vi. Bindu này là
bản tánh của
ba thân của Phật, và bởi thế của tất cả chư Phật.
Có đúng là tất cả
chúng sanh thật ra là những vị Phật bởi vì mọi sự đồng một
bản tánh ? Đúng vậy. Sự khác biệt
duy nhất là những vị Phật thì đã biết
tự tánh của các vị, trong khi
chúng ta thì chưa thấu rõ
tự tánh chúng ta. Bởi thế,
chúng sanh vẫn là những vị Phật chưa
biểu lộ.
Kinh Đống Ngọc cũng nói rằng
bản tánh của tất cả chư Phật là bindu
duy nhất. Đây là điểm của những
giáo lý bí mật của chư Phật và những
đại thành tựu giả trong
quá khứ. Cái gì là
bản tánh của bindu
duy nhất này ? Đó là bạn, chính bạn. Nếu bạn
nhận biết bản tánh của chính bạn, bấy giờ bạn sẽ thấy nó là bindu
duy nhất này. Do
thực tại của bindu
duy nhất này, mọi sự
phân biệt ta-người... phải không
hiện hữu. –
Kinh
Hội Chúng Rạng Rỡ nói :
Nó không được tạo ra từ
ban đầu bởi
các
học giả ;
Bản tánh của nó không bị
biến chất bởi
những sự vật ;
Khi được
chứng ngộ, nó là Đại Ấn.
Tantra Bhairava
Vinh Quang nói :
Nếu
tự tâm con, nguồn gốc của mọi
hiện tượng,
Không được chứng biết,
Thì dù con
tu hành toàn hảo việc nghe,
tư duy và
thiền định,
Kết quả sẽ không
thành tựu.
Con sẽ giống như một người mù không ai dẫn dắt.
Thế nên hãy chứng biết tâm của chính con.
– Sự
nhận biết bản tánh của
tự tâm bạn thì giống như một phương thuốc độc nhất chữa lành một trăm thứ bệnh hay một chìa khóa mở được hàng trăm cánh cửa. Không có sự chứng biết đó, dù bạn có nghe nhiều
giáo lý,
nghiên cứu đủ
kinh điển luận lý, và thậm chí
thiền định kịch liệt, kết quả không thể thành.
Xin nhớ cho điều này : Dù bạn có tập trung
nghiên cứu một ngàn năm, bạn cũng không thể hiểu
toàn thân những
giáo lý trong các kinh, tantra,
vân vân. Thậm chí có thuộc lòng chúng cũng không đưa lại
chứng ngộ hoặc
giải thoát. Dù có một
ban phước, nó cũng không
chuyển hóa tận gốc
tâm thức bạn. Với nghe và
suy nghĩ như một nền tảng thiết yếu, hãy
mạo hiểm vào
thực hành. Điểm tối yếu này,
nhận biết bản tánh của chính bạn, là kết quả của nghe và
suy nghĩ, rồi
thực hành. Đây là chìa khóa độc nhất, phương thuốc độc nhất. –
Tantra của Hai Bindu nói :
Nếu con thiếu
chứng ngộ thực sự
tự tâm,
Con sẽ không
thành Phật dù con có vẻ đủ hết
mạn đà la.
Tantra Sảnh Đường
Kim Cương nói :
Sự
tham thiền này là sự
chứng ngộ tối thượng về tâm.
Không nương
dựa vào cái này, (
chứng ngộ) sẽ không có ;
Thế nên dù những samadhi (định)
tinh vi của những thừa thấp có được
xem xét,
Cũng chẳng thể dò tới Đại Ấn.
Nếu gốc
vô minh không bị cắt,
Mọi thứ nghe,
tư duy và
thiền địnhChỉ vẫn là những
giả danh của
lời nói phù hợp với những khuynh hướng
thói quen ;
Nhưng
tinh túy của chính mình không được chứng biết.
Bởi thế, hãy
thâm nhập vào nó từ bắt đầu
cho đến chấm dứt.
Kinh Những Câu Hỏi của Vua Dewa Lodroš nói :
Người
thiền định về
tánh Không và
quang minhVượt khỏi những người khác.
Đây là cách thế sống của một đại thiền giả,
Thế nên nhờ chứng biết tâm,
Giác ngộ nhất định xảy ra.
Tantra
Đi Vào Đời Sống Từ Bỏ nói :
Tính chất của
tự tâm con
Vẫn là
giác ngộ viên mãn – sự
bí mật vĩ đại.
Nó chẳng hề được biết bởi mọi
nhà trí thức,
Thế nên ta sẽ
giải thích mọi sự cho con.
– Một
nhà trí thức ở đây được định nghĩa như một người chỉ biết tìm ở bên ngoài. Người như thế dù có
hành trì hàng trăm
pháp môn cũng vẫn là người
bình thường, với sự
bí mật vĩ đại của
tự tâm họ vẫn còn
che dấu đối với họ. –
Tantra của Bindu
Duy Nhất nói :
Có một
lý do để con tập trung
toàn bộ con người của con vào tâm : chớ bám vào bất cứ cái gì cả ! Hãy làm điều này vào mọi lúc.
– Đoạn hướng dẫn ngắn này về những
tư tưởng khởi sanh trong tâm thường được các lama dạy : Bất cứ cái gì đến, chỉ để nó đến ; bất cứ cái gì đi, chỉ để nó đi.
Không chấp nhận cũng không khước từ, bất cứ cái gì đến với tâm, hãy để nó thế.
Đây là sự
thực hành của bậc đại căn, ở ngưỡng cửa của
giác ngộ, có thể đi trực tiếp vào những
thực hành này, và khi chết, họ đạt
giải thoát. Nghe những
giáo lý Đại Ấn này, một số người mới học bị
hấp dẫn đến độ muốn
tức thời lấy đó làm
thực hành ban đầu của mình.
Tuy nhiên, nếu
chúng ta đi thẳng vào vào
thực hành này,
chúng ta phải làm tốt những
thực hành khác, dầu
chúng ta có muốn chỉ tập trung vào mỗi
thực hành bao nhiêu đi nữa. Thay vì để mặc cho những
tư tưởng, rất có khả năng
chúng ta sẽ
chạy theo chúng và để chúng
mang đi đến đâu không biết, và đó không phải là
thực hành chút nào.
Để có
tiến bộ thực sự, hãy theo trình tự nghe,
suy nghĩ và
thiền định, trau dồi tĩnh lặng và sau đó
quán chiếu, rồi trên
căn bản này, bạn sẽ có thể
đi vào thực hành Dzog-chen và thấy tất cả mọi
hiện tượng như là những trò phô diễn hay những biểu hiện
sáng tạo của tánh giác. Từ điểm đó của
thực hành, hãy để cho việc khởi niệm cứ mặc nó. Về tánh giác và những phô diễn của nó, tất cả
xuất hiện với tâm như là nước và tánh ướt, như lửa và sức nóng. Cái sau chỉ là những biểu hiện của cái trước. Bạn sẽ không nhìn thấy
sanh tử như là
vấn nạn nữa, cũng không thấy những phẩm tính của Phật là
phi thường. Chúng sẽ chỉ một vị.
Qua
thực hành đúng đắn,
cuối cùng người ta sẽ
đạt được chứng ngộ, nhưng tự nó thì không đủ. Cần
nuôi dưỡng,
hộ trì và làm sâu thêm
quán chiếu đó mà không để cho
tính khí của bạn làm hỏng đi. Chớ nghĩ rằng bạn có thể làm điều bạn
cảm thấy thích. Sự
chứng ngộ của bạn phải cân bằng với hạnh
thích đáng. Mặt khác cũng chớ để những
luật lệ trói buộc, đến độ bạn
quá cố chấp và hạnh kiểm của bạn làm che tối
chứng ngộ. Thực
đơn giản : hãy ghi nhớ cả hai cái đó và giữ cả hai cân bằng. –
Tantra của sự
Giác Ngộ Trọn Vẹn của Vajrasattva nói :
Gốc của những
hiện tượng của
sanh tử và
niết bànChính là
tự tâm con.
Bất cứ nhớ tưởng và
tư tưởng nào
xuất hiện với tâm,
Giống như sương mỏng trong bầu trời,
Chúng không đặt nền trên chất liệu nào.
Chúng không có màu sắc, hình dạng,
Và dù đôi mắt của
trí huệ bổn nguyên của Phật
Cũng không thấy chúng thậm chí là một hạt
vi trần.
–
Hiện tượng độc nhất này,
tự tâm bạn, là gốc rễ của
toàn thể sanh tử và
niết bàn, nhưng bạn
kinh nghiệm về nó khác nhau
tùy theo bạn
chứng ngộ bản tánh của chính bạn hay chưa. –
Tantra của sự
Giác Ngộ Trọn Vẹn của Vairocana nói :
Bởi vì nó bị
bỏ quên bởi mọi
phân biệt có và không,
Và bởi vì nó không thể tự
phát âm,
Thực tế của
bản thân trí huệ bổn nguyên
Được gọi là
Như Lai.
Tantra của sự Trình Bày
Chánh Định nói :
Thực tại cốt lõi của tâm con
Không nền tảng chất thể, và nó siêu vượt những dấu hiệu.
Lìa khỏi sự
tương tục của tánh giác,
Bản thân tâm
kim cương thì không thể
chứng minh.
–
Bản thân tâm
kim cương là không
hiện hữu ? Không, vì nó là
bản tánh của cả
sanh tử và
niết bàn. Thế nghĩa là nó
hiện hữu ? Không, bởi vì nó không được thấy bởi bất kỳ vị Phật nào của ba thời. Bởi thế, nó là không thể
chứng minh. –
Tantra của
Nhận Diện Tánh Giác Tự-Sanh nói :
Về cái thấy, hãy
quan sát tự tâm con.
Nó là
Pháp thân trong sáng, ngoài nó không có vật gì.
Nếu con
thường trực không rời lìa khỏi nó,
Thì
thật tế không có dù một chút
biến dịch nào.
Tantra của Sọ Đen của Yama nói :
Nó vốn
bất nhị, như
bản tánh của
không gian ;
Xa lìa lời nói và những
quy ước, và không chỉnh trị ;
Hiện tiền xưa nay, nó không
cần phải tìm kiếm đâu khác.
Sự Trau Dồi
Bồ Đề Tâm nói :
Tâm và tự thân
thực tại vốn là
bất nhị.
Dù cho con có
tìm kiếm bản tánh của tâm, nó không thể nắm bắt.
Nó không thể chỉ cho người khác bằng cách nói. “Nó giống như thế này...”
Tantra Đồng Đẳng với
Không Gian nói :
Trước khi có một vị Phật,
Không có cả danh từ “chúng sanh”.
Tinh túy của Pháp là Ta, Tự Ta.
Khi cái ấy được
chứng ngộ, nó là
Pháp thân.
Nếu con
đảnh lễ (tức là
nhận biết) ta, liền
hiển hiện sự
thức tỉnh tâm linh.
Tantra của
An Lạc Tự-Sanh nói :
Có cái thấy nhờ đó con xác tín tánh giác của chính con,
Không
xao lãng, hãy
quan sát tâm con.
Nó vốn không một vật.
Quan sát chính mình, tâm là
trong trẻo.
Tantra của Tất Cả Những Cái Thấy nói :
Bồ Đề Tâm là
thực tại của cái biết.
Cái đã qua chỉ là những khuynh hướng
thói quen ;
Cái
sanh khởi về sau chỉ là những
phiền não ;
Những
tư tưởng sanh khởi như là năm cửa (của
tri giác) ;
Không nghiêng ngã theo ba cái này, đó là
bản tánh bổn nguyên.
Không có gì cho mắt bám nắm, nó
tự nhiên trong trẻo ;
Đó là
bản thân trí huệ bổn
nguyên không ngăn ngại.
Bản tánh cốt lõi của chính con là
Pháp thân.
Nó không
bản chất và được xác định là thức.
Tự tâm con là không sửa sang chỉnh trị.
Tự tâm con không phát sanh từ cái gì khác.
–
Bồ đề tâm là
bản tánh cốt lõi của cái biết. Không bám nắm bất cứ cái gì
sanh khởi như là
quá khứ hoặc tương lai, hay những
tư tưởng sanh khởi như là năm cửa của
tri giác, đó là
bản tánh bổn nguyên, cách thế
tối hậu của hiện thể. Khi cái thấu hiểu này ló dạng cho những người đang trên
con đường, nó như
mặt trời soi sáng mọi sự.
Sáng tỏ hiện ra. Mặt khác, với người ở trong
thực tại, không có gì
sanh khởi hay không có gì được chiếu sáng. Đây chỉ
đơn giản là
bản tánh của
thực tại. –
Tantra
Vinh Quang của
Hoan Hỷ Kim Cương nói :
Đại trí huệ bổn nguyên trụ trong thân.
Nó
rốt ráo tự do với mọi khởi niệm,
Và nó thấu qua khắp và
hiểu biết mọi sự.
Tantra của
Giai Cấp Tối Thượng của Kila nói :
Mọi sự
xuất hiện như là những
hiện tượngLà kila(5) của
trí huệ bổn nguyên của chính con.
Bản tánh của tâm là không thể nắm hiểu.
Bản tánh của
không gian là không có
bản chất.
Tinh Túy của những Tantra nói :
Quang minh của
thế giới hiện tượng là
tinh túy.
Quang minh của thức là
Pháp thân.
Không bám trước, nó
hiện tiền tự nhiên.
Tantra của Bindu
Duy Nhất nói :
Hãy biết rằng dù
Tam Bảo có
hình tướngThực ra là không có
hình tướng.
Hãy chứng biết tâm con, không
hình tướng,
là
Pháp thân.
Do đó,
Tam Bảo là
trọn vẹn trong con.
Tantra của
Không Gian Vĩ Đại nói :
An trụ không sửa sang trong
bản thân thực tại,
Không có những
hình tướng xuất hiện, là
thiền định.
Tantra Đồng Đẳng với
Không Gian nói :
Bất cứ dấu vết gì của khởi niệm xảy ra,
Chúng đều là sự
vô ngại, sự tự-sanh khởi và
sự tự an lặng vĩ đại.
Không
biến chất và
vô sanh, chúng vốn
quang minh tự nhiên.
Nếu con an trụ trong
trạng thái không
biến chất, không sửa sang của đại bình thản,
Thì cái gọi là “thiền định” chỉ là một
quy ước giả danh.
Tantra
Thoát Khỏi Tranh Cãi nói :
Chánh niệm không
phóng dật là sự trì tụng.
Làm theo cái đó là sự
thành tựu.
– Trong giai đoạn phát sanh, những sadhana được đọc và những mantra được tụng, nhưng trong giai
đoạn thực hành này,
chánh niệm tỉnh giác đơn giản và không
xao lãng thì
đáp ứng cho
mục tiêu của những trì tụng này, và hành động theo đó là sự
thành tựu của quả.
Chánh niệm tỉnh giác này không chỉ gồm một tâm
an bình, mà
nhận biết thực sự
bản tánh của cái giác của chính bạn. Do làm thế,
mục tiêu của mọi trì tụng đã được
hoàn thành. –
Tantra của sự Tổng Hợp của Tánh Giác nói :
Nền tảng là
tánh Không,
Pháp thân.
Nếu người trí không quên
thực tại này,
Đại định sẽ
trôi chảy không
gián đoạn.
Tâm là nền tảng đích thực.
Như trong bầu trời không có dấu chim,
Không có
bản tánh nội tại nào trong này.
Đó được gọi là
chánh niệm của sự
biến đổi thường xuyênCủa những khoảnh khắc của tâm.
Tinh Túy của cái Thấy Tự-Sanh nói :
Sự
nhận biết trí huệ bổn nguyên tự biết của con
Là
thực tại của
bản tánh tự sanh của mọi sự.
Thanh tịnh như bầu trời, sáng láng như
mặt trời,
Nó chính là
quang minh không hao hụt.
Nó toàn khắp, không
bản chất.
Nó không phải không có, vì nó
nhận thức và
hiểu biết.
Nó chính là tánh giác,
bản tánh trống không.
Tantra của
An Lạc Tự-Sanh nói :
Do
nhận ra tự tâm con là
Pháp thân,
Nó được thấy là
rạng rỡ tự nhiên, không nắm bắt một đối tượng nào.
Hiện tiền xưa nay, không tăng không giảm,
Vĩnh viễn xa lìa những
hoạt động của thân và tâm.
Cũng luận ấy nói :
Người lính gác tự tri ấy không có
bản chất và
tự do.
Chánh niệm tỉnh giác không lầm lỗi không đi không đến.
Bất cứ niệm tưởng và
hiểu biết nào xảy ra,
Đều
vô tự tánh ngay khi
sanh khởi.
Tantra của
Cõi Giới Bao La của
Không Gian nói :
Pháp thân thanh tịnh, sâu thẳm
Thì không
sanh không diệt.
Những dấu vết động niệm đều
thanh tịnh từ
căn bản,
Và nó
tự do khỏi
bản chất của
phiền não.
– Đâu là sự
liên hệ giữa
Pháp thân và
phiền não ? Thay vì thấy
phiền não là
bất tịnh để đoạn trừ và
Pháp thân là
thanh tịnh để
chứng ngộ, bạn cần xác quyết rằng
bản tánh của những
phiền não của bạn không gì khác hơn là
Pháp thân.
Nếu không chứng biết
bản tánh của những
phiền não, bạn sẽ
một lần nữa rơi vào và bị nhốt trong
suy nghĩ nhị nguyên. –
Tantra của Định
Tối Thượng nói :
Thức trong nguyên thể của nó thì trinh nguyên.
Không
xao lãng đến cái gì khác, hãy
quan sát tâm.
Ngay trên sự
quan sát, thức được thấy là
vô tự tánh và
quang minh.
Hãy chỉ làm điều đó
liên tục, không
xao lãng,
Vì
thiền định không được tìm ở đâu khác.
Kinh
Trí Huệ Bổn Nguyên
Giải Thoát nói :
Tự tâm là tịnh quang.
Bất cứ
hình tướng xuất hiện nào khởi lên từ nó,
Chúng được phát hiện là
thực tại của cái
vô sanh.
Chánh niệm về cái
vô sanhĐược gọi là ở
thường trực trong
Pháp thân.
Tantra của sự Gom Tụ những
Bí Mật về
Vô Tâm nói :
Nếu con
chứng ngộ thực tại tuyệt vời của tâm,
Sẽ có sự
thành tựu trong
một đời.
– Chứng biết
bản tánh của dù chỉ một
tư tưởng sẽ rải ánh sáng trên
bản tánh của tất cả những
biến cố của
tâm thức. Nếu bạn
giải thoát khỏi một
biến cố tâm thức, bạn
được giải thoát khỏi tất cả chúng. Chứng biết
bản tánh của một
biến cố tâm thức thì giống như chứng biết
bản tánh của một bọt nước. Nhưng chưa đủ. Bạn phải chứng biết rằng
bản tánh của
đại dương thì không khác với
bản tánh của một bọt nước đó. Bằng cách
nhận biết sự
liên hệ giữa bọt nước và
đại dương, bạn sẽ không nhìn thấy một bọt nước là một
biến cố tách lìa ngoài
đại dương nữa, mà thay vì thế, bạn chứng biết
bản tánh của
toàn thể đại dương.
Áp dụng tiến trình này cho một khởi niệm, bạn sẽ hiểu rằng nó không khác với
bản tánh của tâm, được ví với
đại dương. Do chứng biết
bản tánh của chỉ một
tư tưởng, mọi
tư tưởng sẽ
được giải thoát. Khi
thực hành, bạn cần
tiếp tục giải thoát theo cách đó những
tư tưởng khi nào chúng khởi. Chớ nghĩ chỉ làm một vài lần là đủ. –
Tantra của những
Bí Mật Không Thể Nghĩ Bàn nói :
Chót đỉnh của mọi
hiện tượngLà
không gian tuyệt đối, không có
bản chất.
Một
tâm không có cái thấy nào
Quan sát thấy Đại Ấn.
Tâm con là
bản tánh của mọi sự.
Tantra Đồng Đẳng với
Không Gian nói :
Mê và ngộ cùng một
bản tánh.
Một
chúng sanh không có hai
dòng tâm –
Đây là tánh giác tịnh quang.
Hãy để cho tánh giác không hề
biến chất được là chính nó.
– Cả hai
trạng thái mê và ngộ của
tâm thức đều nguyên là
bản tánh của sugatagarbha,
Phật tánh.
Bản tánh của
dòng tâm thức là tánh giác tịnh quang này. Nếu bạn
thâm nhập bản tánh của một
tư tưởng, bạn
thâm nhập mọi
tư tưởng. Hãy để cho
bản tánh bất biến của bạn được là chính nó.
Có bốn loại “để cho là”. Cái thứ nhất là để cho cái thấy được là, như một trái núi. Khi bạn để cho nó là chính nó, bạn thành như một trái núi chẳng động. Hãy nhớ lại rằng người đã sẵn sàng cho
thực hành này có thể vào
trạng thái này như chim garuda (kim xí điểu)
tức thời bay lên khỏi vỏ trứng, nhưng hầu hết người thường phải theo một
con đường tiệm tiến hơn.
Thứ hai là để cho
thiền định là, giống như để cho
đại dương là. Không có cái thấy,
thiền định không thể
theo sau. Trong sự để cho là này,
thân thể vẫn
hoàn toàn bất động, yên lặng. Ngữ, như những dây đàn đã bị cắt,
hoàn toàn im lặng. Cái nhìn cố định và
vững chắc không có đích điểm. Như
đại dương, tâm
bất động, thân
bất động, ngữ
bất động và cái nhìn cố
định không chớp mắt.
Thứ ba là để cho những
hình tướng xuất hiện là. Hãy để cho tất cả
xuất hiện với sáu cửa của
tri giác –
tích cực hay
tiêu cực, tốt hay xấu –
đơn giản sanh khởi. Bất cứ cái gì
sanh khởi với tâm, hãy để
chúng sanh khởi. Không theo, không nắm, không ngăn chặn, và không đáp trả với
hy vọng hay lo sợ. Những
xuất hiện này giống như những làn sóng trôi dạt trên mặt
đại dương, khi ấy
bản tánh của nó thì không khác với
đại dương. Chúng cũng giống như những
tia sáng của
mặt trời không khác với
mặt trời. Đó là sự
thực hành để cho những
xuất hiện là.
Thứ tư là để cho quả là, tức là để cho tánh giác là. Điều này
thoát khỏi cảm thức có cái gì để
đạt được hay có ai để
đạt được. Bạn
thoát khỏi mọi mong cầu – dù là
hy vọng với sự
thức tỉnh tâm linh. Qua việc để cho tánh giác là, bạn xác quyết
bản chất chân thật của tánh giác, và bạn biết
bản tánh của tánh giác là Phật. Một vị Phật không mong
thành Phật, không sợ không
thành Phật. Khi bạn
chứng ngộ bản tánh của tánh giác của bạn, bạn sẽ biết không có cái gì để
đạt được. Bạn sẽ biết không có
Phật tánh ở đâu khác phải tìm.
Có được
thành công trong
thực hành “để cho là” giống như gì ? Khi bạn
thiện nghệ trong việc để cho là như một trái núi, đấy giống như leo lên đỉnh cao nhất của một rặng núi. Từ đỉnh cao đó bạn có thể nhìn
toàn bộ các
dãy núi. Một khi bạn đã
chứng ngộ cái thấy đích thực này, mọi sự khác có thể thấy được. Trong
trạng thái này không có sự khác biệt giữa định và sau định. Có tính đồng nhất
trọn vẹn giữa định đích thực và
trạng thái sau định.
Một khi bạn đã có
kinh nghiệm để cho là như một
đại dương, bạn
hoàn toàn siêu vượt khỏi sự
phân biệt ba cái : người
thiền định, đối tượng
thiền định và
sự thiền định. Mọi
hiện tượng trong
sanh tử và
niết bàn xuất hiện với tâm trong sự
trong suốt cao tột, như thể bạn nhìn một
đại dương bao la trong đó nước
hoàn toàn trong suốt và
sáng ngời. Ấy giống như nhìn những
hình ảnh trong một tấm gương rất
trong sáng. Trong
trạng thái này, ngược với
hiện trạng của
chúng ta, có một phẩm tính biết khắp của tánh giác của bạn. Bạn có hai loại
hiểu biết :
bản thể và
hiện tượng. Hơn nữa, bạn có tự tin. Mọi
hiện tượng ở trong tánh giác của bạn trở nên
trong sáng, và bạn có sự tự tin của một con kim xí điểu đang bay, không
lo lắng bị rơi xuống đất.
Tương tự, bạn
đạt được sự tự tin về
tự do viên mãn. Hơn nữa, mọi
biến cố xấu tốt
xuất hiện như những tự-phô diễn, hay những biểu hiện
sáng tạo, của tánh giác, như sóng khởi từ
đại dương.
Liên kết chặt chẽ với
chứng ngộ này là việc thấy bindu độc nhất, nó là nhất tánh nền tảng của
toàn thể sanh tử và
niết bàn,
tự chứng nghiệm thấy một vị của
sanh tử và
niết bàn.
Chi tiết hơn : Ba
hiện thân,
Pháp thân,
Báo thân và
Hóa thân, tương đương với
tinh túy,
bản tánh và lòng bi toàn khắp của tánh giác.
Báo thân khởi lên như một phô diễn
sáng tạo của
Pháp thân, và
Hóa thân là một phô diễn
sáng tạo của
Báo thân. Điều này
liên hệ với sự khẳng định rằng nếu người ta
nhận biết bản tánh của một
tư tưởng, việc đó
soi sáng về
bản tánh của mọi khởi niệm. Bằng cách
hiểu biết bản tánh của một
tư tưởng, bạn biết
bản tánh của tất cả mọi
tư tưởng.
Trạng thái để cho những
xuất hiện là, cũng được gọi là “để cho các hạnh của bạn là”, và để cho tánh giác là, cả hai đều là những
trạng thái siêu việt không thể
diễn tả bằng
lời nói. Trong
thực hành bạn
đạt đến bốn cấp độ
chứng ngộ này một cách thứ lớp, bằng cách
trước tiên trau dồi sự
phát tâm và rất tỉ mỉ về
thái độ cư xử và những
hậu quả đạo đức của nó. –
Tantra của
Vô niệm nói :
Tâm vốn sẵn,
vô trụ một cách bổn nguyên,
Là Đại Ấn, nó không sanh tưởng điều gì,
Tất cả những
hiện tượng không thể chạm đến,
Hãy an trụ trong
trạng thái bất biến đó.
Tantra của
Vô Trụ nói :
Trong gỗ
thuần khiết của mọi khởi niệm
Ngọn lửa vĩ đại của tịnh quang
Cháy sáng không cùng như là Đại Ấn.
Đó là
công đức tối thượng của
bình đẳng.
Vốn
giác ngộ từ sơ thủy,
Trí huệ bổn nguyên trụ trong
dòng tâm thức của con.
Về ba pháp
tu tâmKhông
chắc chắn điều con mong muốn sẽ xảy ra.
Chỉ với dòng
tương tục của
chánh niệm không
phóng dậtTinh túy sẽ xảy ra ngay lúc đó.
Với sự lớn mạnh và
hoàn thiện của lòng bi
vô niệm,
Đó là
Đại thừa.
Không có
trạng thái thiền định và sau
thiền định,
Thì không có đứt đoạn trong
dòng tâm thức này.
Những nhà
tham thiền vĩ đại trau dồi cái này
Họ không trở nên manh mún.
– Những
tư tưởng,
hình ảnh...
sanh khởi trong tâm như một khu rừng
vô tận. Chẳng lẽ
chúng ta đốn từng cây một ? Hãy để cho tất cả bị cháy thiêu trong ngọn lửa lớn của tịnh quang của Đại Ấn.
Ba pháp
ám chỉ sự sai khác của những
phương pháp tu hành tâm thức. Bạn có thể dấn thân vào những
phương pháp này, nhưng không
bảo đảm bạn sẽ
thành tựu đúng kết quả mà bạn nghĩ. Như một kết quả của
thiền định, có người
bước đầu kinh nghiệm về lạc, hoặc
trong sáng, hoặc
vô niệm. Bám chấp vào ba
kinh nghiệm đó sẽ dẫn đến cõi dục, cõi sắc và cõi
vô sắc theo thứ tự. Còn không bám chấp vào chúng, bạn sẽ đến chỗ
chứng ngộ bản tánh cốt lõi của chúng là
ba thân Phật.
Bản chất thật sự của lạc là
Hóa thân, của
trong sáng là
Báo thân và của
vô niệm là
Pháp thân. Trong
thực hành này
ba thân không được
hoàn thành từng cái một, mà
đồng thời. Vì thế tâm của những nhà
tham thiền vĩ đại
tu hành pháp này không bị trở nên manh mún. –
Tantra của
Bất Khả Tư Nghì nói :
Tâm là
Pháp thân, nên nó không là gì hết thảy.
Thân là
Báo thân, với những tướng tốt.
Bởi vì nó có thể
soi sáng những
hiện tượng, nó là
Hóa thân.
Hãy luôn luôn
thờ phụng mạn đà la của ba
hiện thân này.
Bởi vì nó
biểu lộ những kết
quả tướng tốt,
Cái này được gọi là cái thấy cao cấp, không thể nghĩ bàn.
Với một tiếng nói
duy nhất của ngữ của tất cả chư Phật,
Cái này được
tuyên bố là tantra vĩ đại,
vô thượng.
Tantra của Sambhuta nói :
Khi quay lưng lại với chính mình,
Và
tìm kiếm mọi nơi trong mọi cõi
vũ trụ,
Phật không được
tìm thấy ở nơi nào khác.
Tantra của những
Bí Mật Không Thể Nghĩ Bàn nói :
Chót đỉnh của mọi
hiện tượngLà
không gian tuyệt đối không có
bản chất.
Một
tâm không có cái thấy nào
Quán thấy Đại Ấn.
Tantra Sảnh Đường
Kim Cương nói :
Ngoài viên ngọc tâm
Không có chư Phật không có
chúng sanh.
Tantra
Vinh Quang của
Hoạt Động Bí Mật nói :
Mọi
hiện tượng có
bản tánh là tâm,
Và tâm có
bản tánh của
tánh Không.
Mọi sự là trống không, một vị.
Đây là
không gian tuyệt đối, trong đó
không có lấy hay bỏ.
Tantra Vajra Daka
Bí Mật nói :
Do
chứng ngộ tự tâm cho chính mình,
Chúng sanh vốn là Phật.
Năm Giai Đoạn nói :
Như thế,
ba trí huệ bổn nguyên
Sanh khởi từ tịnh quang
thuần khiết,
Mang ba mươi hai tướng chánh,
Và tám mươi tướng phụ.
Bậc
Toàn Giác, với mọi
phương tiện tối thượng,
Sanh khởi từ cái đó.
Tantra
Vinh Quang của
Hoạt Động Bí Mật nói :
Người nắm hiểu và cái được nắm hiểu
Làm
hiện hình mọi vật.
Bởi vì
tự tâm là không thể
quan niệm,
Chớ
quan niệm ra cái gì.
– Những
thực hành khác, như giai đoạn phát sanh và một số
thực hành trong giai đoạn
thành tựu bao gồm sự
sử dụng tư tưởng và sự bám nắm
ý niệm. Nhưng trọng điểm của đoạn trích dẫn này nói bởi vì từ sơ thủy
bản tánh của tâm vừa
vô niệm vừa không thể
quan niệm, thế nên hãy làm
thực hành đơn giản nhất : chớ
quan niệm ra cái gì. Hãy vượt lên khỏi
mọi việc đối
tượng hóa và bám nắm gồm trong những
thực hành khác nhau của những
giai đoạn phát triển và
thành tựu. –
Tantra Guhyasamaja nói :
Về
thực tại tối hậu,
Hãy
thiền định về những sự vật của
ba cõi là
vô tự tánh.
Sự thiền định thực sự về
vô tự tánhLà
sự thiền định không có gì để
thiền định.
Bởi thế,
sự thiền định về những cái có
bản chất và không
bản chấtLà không có đối vật nào.
Tantra
Nguyên Thủy nói :
Sự trau dồi
tham thiền nhất tâmBao gồm suy nghĩ về “không một vật”.
Tantra
Vinh Quang của
Cam Lồ Vương Giả nói :
Thiền định về tịnh quang,
bản tánh của nó là trống không,
Nó không thể tìm được,
Cũng không thể tìm được bằng cách không
thiền định.
Bản thân thiền định là sự
ý niệm hóa,
Và không
thiền định cũng là sự
ý niệm hóa,
Không có một điểm nào để
thiền định,
Chớ bị
xao lãng dù chỉ một giây.
– Một mặt, bạn
cố gắng rất nhiều để
thiền định, nhưng
trạng thái thiền định không
sanh khởi. Sau đó, bạn bỏ
thiền định, và
trạng thái thiền định vẫn không
sanh khởi. Ngược lại, nếu bạn thực sự
nhận biết bản tánh tịnh quang của
tự tâm bạn, thì không cần
thiền định... và không cần không
thiền định. –
Kinh Những Câu Hỏi của Madrošpa nói :
Người ta thấy bằng cách nhìn với đôi mắt của
trí huệ.
Thấy mà không thấy là thấy tánh (thấy
thực tại).
Thấy cái
bất động với đôi mắt của
trí huệLà thấy Phật.
– Thấy
vượt qua thực tại quy ước là thấy với cái nhìn thấy của Phật.
Thực hành này giống như chỉ vào khắp nơi mà hỏi, “Tôi ở đâu ? Tôi ở đâu ?”
Cuối cùng ngón tay của bạn
đi vòng vòng, rồi chỉ vào chính cái mũi của bạn, và bạn
nhận ra bản tánh của chính bạn. –
Trang Hoàng cho
Chứng Ngộ Cao Hơn nói :
Đối tượng của cái này là không có
tự tánh.
Và
tác nhân được nói là
chánh niệm tỉnh giác.
Doha Vua nói :
Không
chánh niệm tỉnh giác về
chân lý quy ước,
Tâm
trở thành vô tâm.
Sự
chuyển hóa là cái tốt nhất của cái tốt nhất.
Hãy biết rằng cái này là
tối hậu,
tối thượng.
Tâm được thống nhất trong
định không cần
chánh niệm,
Và đó là sự tịnh hóa
triệt để những
phiền não.
Như một
hoa sen từ bùn sanh ra không dơ nhiễm bởi bùn,
Người ta chẳng hề dính nhiễm bởi
đại dương lỗi lầm của
sanh tử.
– Một doha là một bài ca tự phát của
chứng ngộ. Trong
trạng thái chứng ngộ nói ở đây, tánh giác vượt khỏi mọi
chánh niệm, và như thế
tâm thành vô tâm, nghĩa là tâm
vô tự tánh. Đây là cái tốt nhất của cái tốt nhất. Hãy ghi nhớ và
tin chắc rằng
Phật tánh vốn
thanh tịnh. Như
hoa sen không nhiễm bùn,
Phật tánh không nhiễm ô bởi những
lỗi lầm của
sanh tử. –
Kho Tàng Doha trong Một Trăm Mười
Bài Kệ nói :
Cái
tâm không nhìn bên ngoài cũng không nhìn bên trong
Thì không nghĩ đến cái gì cũng không toan tính cái gì.
Cái tâm có khi
phóng dật trong những tạo
tác ý niệm
liên hệ đến những hình thể hợp tạo
Tỏ rõ bản tánh không có
chuyển di hay
tham dự.
Hãy
thiền định về
tinh túy bình thường của tâm.
Tâm này giống như
tâm trí một người điên không
dính dáng gì đến hành động.
Hãy
thiền định về
trí huệ bổn nguyên, nó không bị
nhiễm ô bởi những
biên kiến.
Hỡi những nhà
tham thiền không nhắm mắt và không
thiền định,
Họ ngồi trên một cái đệm tịch lặng, không quê hương,
Hãy
thiền định về
bản tánh cốt lõi của tâm,
Thực tại không hề có dấu vết
nhiễm ô của
luyến ái và ghét hờn.
Sự không thể
phân chia này của nhân và quả là tâm
cốt lõi.
Không cần
nỗ lực cho lắm để
kinh nghiệm được nó.
Một Trăm Sáu Mươi
Bài Kệ của Doha
Công Khai nói :
Hỡi những người ngu, ngay trên
chứng ngộ tâm của tâm,
Mọi quan kiến có hại sẽ
tự nhiên được
giải phóng.
Nhờ do thần lưÏc của
đại lạc tối thượng,
Nếu bạn trụ trong đó, siddhi
tối hậu sẽ được
kinh nghiệm.
– Ngay trên sự
chứng ngộ bản tánh của chính bạn, mọi
quan điểm, cái thấy,
ý kiến,
niềm tin và
viễn cảnh sẽ
tự nhiên được
giải phóng.
Chính xác hơn, không phải những cái thấy kia là
sai lầm mà chính sự bám chấp vào chúng làm chúng trở nên có hại. Trên sự
chứng ngộ bản tánh, sự bám chấp vào những cái thấy, cùng những khuynh hướng
thói quen thúc đẩy làm như vậy, sẽ
tự nhiên giải thoát. –
Luận Văn Kho Tàng của
Hiện Thân Bí Mật nói :
Đại Ấn không nương
dựa trên cái gì khác,
Thế nên đối tượng của
thiền định là chính con, và thiền giả là
tự tâm con.
Trong
trạng thái vượt khỏi
trí năng, có
tự do khỏi tính đối tượng.
Bởi vì đó là quả, không có nương
dựa vào cái gì khác.
Thiền định,
thành tựu và
trì chú là
tự tâm con.
Bổn tôn đã chọn của con cũng là
tự tâm con,
Thế nên những
tiên tri của những dakini và
vân vân là
tự tâm con.
Trong
trạng thái vượt khỏi
trí năng, có
tự do khỏi tính đối tượng.
– Thiền giả, đối tượng của
thiền định và
sự thiền định là
bản tánh của chính bạn. Trong
trạng thái vượt khỏi
trí năng, bạn
xa lìa khỏi mọi quy chiếu đối tượng. Bạn không bám nắm cái gì với tánh giác của bạn. Thậm chí bổn tôn đã chọn lựa là tâm của chính bạn, dù nam hay nữ,
bình an hay hung nộ. Điều này cũng đúng cho những
cõi tịnh độ. –
Kho Tàng của Ngữ
Bí Mật nói :
Ồ, như thế nào vòng
hiện hữu bị bỏ lại đằng sau ?
Không có những
nguyên nhân hay
trợ duyên, tánh Như của tâm,
Nó không phải là một đối tượng của
tư tưởng, vốn nguyên là Đại Ấn.
Do
thần lực của tánh Như, người ta
thoát khỏi những
hình tướng,
Và Đại Ấn được
chứng ngộ trong chỉ
một đời.
– Nếu bạn thực sự
nhận biết bản tánh của
sanh tử, bạn sẽ thấy rằng
thế giới hiện tượng này, không có nền tảng, không có
tự tánh, không cần
từ bỏ hay khước từ. Bạn chỉ cần thấu hiểu
bản tánh thực sự của nó.
Một lần nữa, hãy ghi nhớ trong tâm rằng
bản tánh của
sanh tử và
niết bàn là tâm của chính bạn. Sự huy hoàng của
niết bàn là
tự tâm bạn, những khủng khiếp của
ba cõi thấp của
sanh tử là
tự tâm bạn. Nếu bạn
nhận biết bản tánh của
sanh tử và
niết bàn là tâm của bạn, bấy giờ trong chỉ
một đời, Đại Ấn sẽ được
chứng ngộ. –
Kho Tàng của Tâm
Bí Mật nói :
Với sự phát hiện những
tính chất của Đại Ấn,
Thoát khỏi người nắm hiểu và cái được nắm hiểu, những
lỗi lầm v.v... bị thiêu ra tro.
Nếu nó được
quan sát một cách
nhất tâm, đây là sự
tuyệt hảo nhất.
Làm thế một cách
nhất tâm, không có sự trau dồi những phẩm tính
tuyệt hảo.
Những
tư tưởng là tự-soi sáng, và chúng được bình lặng trong
trạng thái không vết dơ.
Không có
chánh niệm và không có
hình tướng, chúng giống như những
phản chiếu trong gương.
– Những khuyết điểm chỉ
hiện hữu như những khuyết điểm nếu bạn không
nhận biết thực tánh của chúng. Nếu bạn
nhận biết bản tánh của chúng, bạn thấy chúng là
bản tánh của Đại Ấn. Chỉ
đơn giản quan sát nó một cách
nhất tâm là sự trau dồi (
tu hành)
tuyệt hảo nhất, và không có cái nào khác
cần thiết. Những
tư tưởng này và những
hiện tượng khác là tự-soi sáng – chúng
xuất hiện, nhưng chúng không có nền tảng và không
bản chất như bóng trong gương. –
Sự Không
Dính Dáng đến Thức của Ba
Hiện Thân nói :
Nơi nào có sự không rời lìa khỏi cái này,
Trong một khoảnh khắc có
tự do khỏi những đối tượng của
chánh niệm và bám níu.
Khó mà truy tìm tâm
kim cương.
Cái nhìn thấy tâm như là tâm thì có một vị
bình đẳng,
Và nó được phát hiện bởi chót đỉnh của
an định bên ngoài và bên trong.
Sự
tham thiền an trụ trong
thực tại bổn nhiên
Được
hoàn thiện trong
không gian bí mật,
tuyệt đối của
trí huệ bổn nguyên.
– Vị
bình đẳng có thể
giải thích : Người ta thấy ba
hiện thân Pháp thân,
Báo thân,
Hóa thân như một vị, một
bản tánh.
Giải thích khác nói đến
Bồ đề tâm, trong đó người ta nhìn những người khác một cách
bình đẳng, không thân không sơ.
Cuối cùng, có một vị của
sanh tử và
niết bàn. Sự
tham thiền trụ trong
thực tại bổn nhiên, tánh
thanh tịnh tự nhiên, được
hoàn thiện trong
không gian tuyệt đối của
trí huệ bổn nguyên. Đây là Dzogchen,
Đại Toàn Thiện ; đây là Mahamudra, Đại Ấn. –
Doha của
ẩn sĩ Saraha
vinh quang nói :
Ồ, hãy
để tâm quan sát chính nó không
phóng dật !
Nếu bạn
chứng ngộ tánh như của chính bạn,
Thậm
chí tâm phóng dật sẽ khởi lên như Đại Ấn.
Đây là
trạng thái của
đại an lạc, trong đó những dấu vết
hình tướng tự-giải phóng.
– Chớ làm gì khác, chớ
tham dự vào cái gì bên ngoài, chỉ thức giác về
tự tâm bạn.
Chứng ngộ bản tánh của tâm, thì ngay cả tâm
phóng dật khởi sanh như là Đại Ấn. Điều này
liên hệ chặt chẽ với khẳng định rằng
giải thoát một
tư tưởng thì tất cả
tư tưởng được giải thoát ; bằng cách có
quán chiếu vào một
tư tưởng thì có
quán chiếu vào tất cả
tư tưởng.
Chừng nào người ta ở trong
trạng thái tánh giác này, bèn không có
tư tưởng,
phân biệt. Qua sự
chứng ngộ bản tánh của tâm bạn, bạn
chứng ngộ một vị của
sanh tử và
niết bàn. –
Doha của Virupa nói :
Cõi giới của tự thân
thực tại của
tâm không hiện hữu như “nó là cái này”.
Như thế, trong đó không có
nhị nguyên thiền định và đối tượng của
thiền định.
Hãy an trụ không
phóng dật trong
trạng thái trong đó không có những
tư tưởng về có hay không.
Doha của Tilopa nói :
Tôi, Tilopa, không có cái gì để
bộc lộ.
Chỗ ở của tôi thì không
cô đơn cũng không phải không
cô đơn.
Mắt tôi không mở cũng không nhắm.
Tâm tôi không được tạo dựng cũng không phải không tạo dựng.
Hãy biết rằng cái bẩm sinh vốn sẵn không thể đem đến cho tâm.
Doha của Nagpopa nói :
Khi trên
con đường, bạn
thoát khỏi cố gắng, đó là
trạng thái vốn sẵn.
Không cách gì toan tính tánh như bằng những
ý niệm.
Khi bạn thấy nghĩa
rốt ráo là không thể toan tính và không thể
sai lầm,
Không có bám níu
nhị nguyên vào “trống không” hay “chẳng trống không”.
Hãy tiến đến
cực điểm của sự
tịch diệt của những
hiện tượng và sự
tịch diệt của
trí năng.
Doha của Maitripa nói :
Nếu bạn biết tâm bạn vốn thống nhất với
tâm giác ngộ, đó là bổn tôn được chọn.
Chớ rút lui thức của bạn, mà chỉ
dần dần loại bỏ tư tưởng.
Nếu khởi niệm xảy ra trong tâm, thiền giả
Để cho nó
buông xả và không tạo dựng, như một mảnh bông gòn
lơ lửng.
Hãy
loại bỏ tạo tác và để cho tâm bạn
quan sát chính nó.
Mahamudra Gangama nói :
Tâm,
như tinh túy của
không gian, siêu vượt khỏi những đối tượng của khởi niệm.
Hãy thư giãn trong
trạng thái này, không điều khiển hay đặt định nó.
Khi
tâm không có đối tượng
hữu ý, đó là Đại Ấn.
Nếu bạn tự mình làm quen với nó,
giác ngộ vô thượng sẽ thành.
Tổng Hợp Cái Thấy của Naropa nói :
Có nói rằng tâm
thường trụ như không gian,
Và
bản thân cái giác,
thoát khỏi tạo
tác ý niệm,
Xuất hiện và trống không, trống không và
xuất hiện.
Như thế, nó là
xuất hiện và trống
không không thể
phân chia.
Tổng Hợp Những Lời của Maitripa về Đại Ấn nói :
Hãy ở yên trong
bản tánh vô sanh.
Cái không thể
suy nghĩ là
Pháp thân.
Ở yên không chỉnh sửa trong
thiền định ;
Tìm kiếm và
thiền định chỉ
bao gồm trí năng lừa dối.
Chín
Hạt Giống của
Lời Khuyên Thực Hành Quý Báu của Panchen Sakyasùri nói :
Bất cứ cái gì
xuất hiện, nếu bạn để cho nó nơi chỗ của nó, là sự
hiện diện tự nhiên,
thoát khỏi hành.
Nếu bạn thấu rõ bất cứ cái gì
sanh khởi,
tỉnh giác được giải thoát ngay chỗ của nó.
Nếu bạn cắt đứt sự tìm cầu phân tán, mọi
tư tưởng tan biến vào
không gian tuyệt đối.
Ba cái này là
bản tánh hiện trạng của tâm bạn, thế nên hãy trau dồi chúng như
thực hành chính yếu.
Truyền Thống Zhijepa của Phadampa nói :
Tâm của chính bạn
thoát khỏi bám nắm,
Không có thức rải rắc
Phân tán theo những
xuất hiện của năm
giác quan,
Là
phương pháp vĩ đại của sự
an tâm.
Sự
Tiết Lộ Những
Bí Mật của Songtsen Gampo nói :
Khi nhìn, không có đối tượng được thấy,
Nhưng bằng ở yên không nhìn,
bản thân thực tại được thấy.
Bằng ở yên không
hoàn thành,
bản thân tâm được hiện thể.
Không bám nắm và không buông thả, (tâm)
được giải thoát ngay chỗ của nó.
Hãy ở yên không bám nắm bất cứ chút gì.
Khi có
nhận biết, (tâm)
được giải thoát trong thái của chính nó.
Trong
Đại Toàn Thiện nhiều
phân biệt giữa tâm và tánh giác được
bàn luận, nhưng chúng đều quy về một điểm. Tantra của
Cõi Giới Trong Sáng Chói Ngời của những Dakini nói :
Cái được gọi là “tánh giác, tánh giác”
Là tánh giác tỏ biết và
trong sáng.
Khởi
niệm trước được giải thoát ngay chỗ của nó ;
Bám nắm sắp tới không
sanh khởi ;
Trong khoảng giữa ấy có
tự do khỏi tạo dựng và
nhiễm ô của các
cực đoan.
Khoảng hở này và chỗ chia cách này,
thoát khỏi dấu vết
nhiễm ô,
Được
nhận biết như là tánh giác.
Tinh túy của nó là trống không,
bản tánh của nó là
trong sáng,
Và lòng bi của nó có thể
xuất hiện với tất cả.
Đó là
bản tánh hiện trạng của tánh giác.
Thơ của Dechen Lingpa nói :
Tánh giác
hiện hữu bổn nguyên,
Pháp thân này,
Là tự-sanh, tự-hiện. Không biết
bản tánh cốt lõi của nó,
Người ta xoay tròn trong chuỗi
sanh tử.
Ngay bây giờ hãy biết
bản tánh cốt lõi của bạn !
Bạn là tất cả hình thái của những sự vật ;
Cũng thế, nếu bạn
bác bỏ hay khẳng định cái này cái nọ, bạn bị
trói buộc.
Trong
thực tế những
hiện tượng là không nền tảng, không trụ ;
Không thực có, những
xuất hiện hư vọng không thể có được bằng nắm bắt.
Cái này, nó
tự nhiên an trụ, không tạo dựng, trinh nguyên và
thảnh thơi,
Vốn là Phật
xưa nay.
Không dấn mình vào
sửa đổi,
nhiễm ô, truy tìm hay phân tích tốt xấu,
Thường trực canh giữ gác canh của
chánh niệm thoát khỏi phóng dật.
Tánh đồng nhất vĩ đại, toàn khắp của vị
bình đẳng giữa
sanh tử và
giải thoát,
Tại sao bạn gọi cái này là “sự không
sanh khởi của
vô minh ?”
Mặc kệ tư tưởng nỗ lực chuyên cần với Pháp,
Hãy an trụ trong
trạng thái không
hành vi,
thoát khỏi cố gắng.
Cái thức tươi mới trinh nguyên này của khoảnh khắc
hiện tạiLà Đại Ấn, sự
tham thiền của những bậc
Điều Ngự.
Hãy yên nghỉ không tham cầu
thành tựu định và sau định,
Kinh nghiệm chứng ngộ,
trí huệ bổn nguyên v.v...
Nếu bạn đã
hoàn thành sự
thức tỉnh tâm linh, bạn chỉ là tánh giác.
Trong vòng sanh tử những
trạng thái khổ đau, chỉ là bạn đã mê mờ tánh giác này.
Bởi thế, ngoài chỉ tánh giác của bạn,
Chớ chăm sóc
hy vọng hay lo sợ, lấy hay bỏ, xác định hay phủ định.
Rendawa Zhošnnu Lodroš nói :
Theo cách này hãy
quan sát không gian tuyệt đối của tâm bổn nhiên :
Đây là sự không thể chia tách của
phương tiện thiện xảo và
trí huệ và Đại Ấn của một vị.
Nó là
tâm nguyên sơ,
xa lìa mê ngộ,
hôn trầm và
trạo cử.
Hãy ở yên trong
hiện trạng của chính bạn, không làm
nhiễm ô nó bằng
tư tưởng muốn
thiền định.
Hãy ở yên
thong dong, và canh gác tháp canh của
tỉnh giác.
Như một con chim bay khỏi một chiếc tàu trong
đại dương,
Bay vòng và
trở lại yên nghỉ trên con tàu,
Dù có nhiều khối
tư tưởng tuôn ra,
Cuối cùng chúng cũng
trở về yên nghỉ nơi chỗ ở của chính chúng,
không gian tuyệt đối của những
hiện tượng.
Như thế, nào cần có một điểm dừng cho sự khởi niệm.
Hãy
giải phóng trong rỗng rang, và canh gác tháp canh của
tỉnh giác.
Như
áp dụng một
thần chú cho thuốc độc,
Những
tư tưởng và
phiền não sanh khởi như
đại trí huệ bổn nguyên.
Chớ nghĩ điều này được
thành tựu bằng
sự cố gắng.
Bóng tối của những che chướng được xua tan bởi tịnh quang tự-sanh.
Như thế, hỡi những nhà
tham thiền, nếu các bạn muốn
kinh nghiệm tịnh quang tự-sanh,
Chớ
thành tựu nó bằng vào
vô niệm.
Nếu các bạn muốn làm bình lặng những làn sóng,
Khi bạn
cố gắng khiến điều này xảy ra, chúng lại
sanh khởi nhiều thêm.
Cũng thế, dù bạn
áp dụng những
đối trị để dừng khởi niệm,
Những sóng
tư tưởng sẽ lại tuôn trào.
Khi bạn chỉ bỏ mặc chúng
một mình,
Sau một lúc những làn sóng sẽ lặng.
Cũng thế, nếu bạn biết
thực hành thong dong thế nào, không ra công,
Những sóng khởi niệm sẽ
tự nhiên bình lặng.
Sự
giải phóng khởi niệm vào
không gian tuyệt đối là định ;
Ngay nơi sự cắt đứt những
thêm thắt ý niệm, đó là quán ;
Và khi những
xuất hiện hình tướng và tâm hòa lẫn không thể
phân chia, đó là hợp nhất.
Giống như một bình
pha lê có nước,
Trong
không gian tuyệt đối tinh khôi, vốn
hiện tiền tự nhiên,
Không có những khuynh hướng
thói quen nhiễm ô của
phiền não để đoạn trừ,
Cũng không phải chỉnh sửa tâm với những
đối trị để thành
vô niệm ;
Thế thì
căn cứ vào đâu để
bạn thiền định với
đối trị nào ?
Khi tâm
vô sanh của bạn trụ trong
không gian tuyệt đối,
Không thấy có những dấu vết của những
vấn đề và những
đối trị hay lấy và bỏ,
Và khi không có gì để
thiền định và ai là người
thiền định,
Những
rắc rối tự-giải thoát, và những phương thuốc tự-xuất hiện.
Ban đầu,
con đường để đi thì giống như một dòng suối đổ xuống một hẻm núi ;
Ở lúc giữa,
con đường thánh thì giống như dòng
sông Hằng ;
Cuối cùng, giống như sự
bao la của
đại dương,
Nó không động bởi bất cứ cái gì, và đó là
con đường của
toàn giác.
Kyemé Zhang Rinpoche nói :
Thiền định về Đại Ấn,
Không buộc mình vào một
pháp môn đã chế định,
Bạn
chắc chắn không cần tính toán theo những giai đoạn
Của những sơ bộ,
thực hành chính và
kết thúc.
Không cần tính toán những chu kỳ của
thời gian hay ngày theo trăng.
Bất cứ khi nào bạn nhớ đến chuyện làm như vậy, hãy an nghỉ trong trống rộng.
Không có bắt đầu, chặng giữa hay
cuối cùng.
Dòng
tương tục của tâm
vô sanh của bạn không bao giờ ngừng dứt.
Về sự đông đầy những làn sóng
tư tưởng,
Nó sẽ
trở thành thanh tịnh nếu nó được để
một mình không
tác động gì đến nó.
Nếu tấm màn những che ám của những
tư tưởng bạn
Được để
một mình không chỉnh trị, sửa sang, nó sẽ
thanh tịnh như là
Pháp thân.
Không
biến đổi cái gì cả, hãy an nghỉ trong trống rộng.
Không
rút lại thức của bạn, mà để nó đi
tự do.
Không ham hố cái gì, mà nghỉ ngơi trong rỗng rang.
Không dấn thân vào nhiều việc, mà nghỉ ngơi trong cái
hiện tiền.
Không
cố gắng hướng dẫn tâm,
Hãy để nó
vô trụ, như khoảng
không gian.
Không nghĩ đến
quá khứ, tương lai hay
hiện tại,
Hãy
để tâm thức bạn trinh nguyên, tươi trẻ.
Dù có
tư tưởng tuôn ra hay không,
Chớ làm ra một điểm
thiền định, mà
an ổn thong dong.
Tóm lại, không
thiền định về bất cứ cái gì,
Hãy
để tâm thức bạn
rong chơi tự do.
Không cần
lo lắng về bất cứ điều gì.
Hãy
hiện diện sống động trong
kinh nghiệm về
Pháp thân.
Bốn Pháp để
Hàng Phục những
Ranh Giới do Serlingpa dạy nói rằng :
Vứt nó xa và để nó
tự do ;
Để nó lỏng lẻo và để nó là.
Sakya Dragpa Gyalsen
vinh quang nói :
Hãy
quan sát tâm của tâm, nó là
vô tâm.
Nếu có cái gì để thấy, đó không phải là tâm tự thân.
Thấy cái không thấy là cái nhìn thấy của tâm.
Hãy an nghỉ không
phóng dật trong
tâm không thể thấy.
Tám
Bài Kệ của Sakya Pandita nói :
Nếu gởi nó đi xa, nó không đi ;
Nếu
buộc chặt nó, nó không dừng ;
Nếu nó được
xem xét kỹ, nó là
vô trụ ;
Thế thì đâu là
bản tánh của nó ?
Chừng nào bạn còn một chút tham cầu nó,
Bạn sẽ bị
trói buộc.
Nếu bạn biết
bản tánh của nó,
Bạn sẽ được
giải phóng khỏi mọi buộc ràng.
Những
Giáo Lý Được Tuyển Tập của
Phu Nhân Lab-dron nói :
Bởi thế, hãy an trụ trong
trạng thái không
suy nghĩ.
Chớ
đi theo những
dấu chân cảm thọ và
tư tưởng.
Như sự
sáng tỏ tự nhiên của một tia sấm chớp trong bầu trời,
Bất cứ
tư tưởng gì khởi lên, hãy để chúng là như vậy.
Và :
Cũng thế, nếu bạn
nhận biết tâm bạn,
Thì không cần
hoàn thành thức tỉnh tâm linh ở nơi nào khác.
Theo những lời dạy của Gyalsey Thogmé,
xuất hiện về sau đó :
Những
hình tướng xuất hiện này thật ra là
chính tâm bạn.
Tự tâm vốn
tự do khỏi những cực biên của tạo
tác ý niệm.
Nếu nó được biết, những dấu vết của cái được nắm hiểu và người nắm hiểu
Không xảy ra với tâm – đó là sự
thực hành của những người con của chư Phật.
Và :
Hãy
giải phóng một cách
tự do hoạt động của thân,
Như một bó rơm bị cắt đứt.
Hãy
giải phóng một cách
tự do hoạt động của ngữ,
Như một đàn luýt bị cắt hết dây.
Hãy
giải phóng một cách
tự do hoạt động của ý,
Như một sợi dây thừng đã đứt.
Đức Marpa Lotsawa nói :
Những phân tán
nhị nguyên của tâm
Tan vào
không gian tuyệt đối của những
hiện tượng,
tự do với mọi tạo
tác ý niệm.
Cơ cấu
huyễn hóa này của những
xuất hiện ở bên ngoài
Được
chứng ngộ là cái toàn khắp
vô sanh.
Bản tánh cốt lõi của tâm, người nắm hiểu ở bên trong,
Thì giống như gặp một người mà bạn đã từng
quen biết.
Và :
Đối tượng
xuất hiện này của tâm, nó được nắm hiểu ở bên ngoài,
Thì không ngừng là cái toàn khắp vĩ đại,
Và nó được thấu hiểu là
Pháp thân vô sanh.
Đức Milarepa nói :
Cả hai, những
chúng sanh của
ba cõi sanh tửVà chư Phật trong
niết bànĐược bao hàm trong thân của
thực tại.
Và :
Những
hiện tượng khách quan
xuất hiện với sáu căn
Và tâm
vô sanh của bạn
Cả hai cùng khởi một cách
bất nhị.
Đức Rechungpa nói :
Kỳ diệu thay ! Những
hiện tượng lạ lùng và
đẹp đẽCủa những
sắc tướng là sự
bất nhị của những
hình tướng và
tánh Không ;
Những
âm thanh không thể
diễn tả,
tiếng động trống không.
Sự
chứng ngộ này là sự hợp nhất của Lạc và Không.
Và :
Trong
bản tánh của
Pháp thân hiển lộLà sự
chứng ngộ đối tượng
quan sát và người
quan sát không thể phân hai.
Đức Gampopa nói :
Giờ đây hãy biết
bản tánh cốt lõi trống không,
trong sáng này của những
xuất hiện và tánh giác.
Chính là
Pháp thân.
Và :
Do biết những
hình tướng và
âm thanh là tâm,
Có một dòng
tương tục của
hỷ lạc.
Điểm cốt yếu của
đại lạc được
khám phá.
Dusum Khyenpa nói :
Phật được
tìm thấy trong tâm của chính bạn.
Không
dính dáng gì đến việc ước muốn
thành tựu những siddhi.
Bằng cách biết một cái, người ta biết rằng tất cả vốn
giải thoát.
Không
dính dáng gì đến việc nghe và
suy nghĩ.
Hãy thấu biết tánh
bất nhị của
sanh tử và
tịch diệt.
Không
dính dáng gì đến việc chờ
đợi thời gian
thức tỉnh tâm linh.
Bậc
Bảo Hộ của
Thế Giới Rechenpa nói :
Lơ lửng trong tánh giác trần trụi,
Chớ mặc áo quần của những dấu vết khởi tưởng.
Trong chỗ
an trú tự nhiên của
tinh túy vốn sẵn
Không có điểm nào để cân phân
trói buộc và
giải thoát.
Tromdragpa nói :
Với sự
nhận biết trong sáng tánh giác tự-sanh
Sự
tham thiền của bạn không bị
xao lãng dù trong khoảnh khắc.
Như
ngọn đèn chiếu sáng trong đêm tối,
Không có chút
lỗi lầm hay che chướng –
kỳ diệu thay !
Karma Paksi (Karmapa thứ Hai) nói :
Không qua
thành tựu ba
hiện thân,
Đại Ấn này,
tự tâm của bạn, được
tự nhiên khám phá như là nền tảng ;
Thế nên không cần
tìm kiếm nó.
Và :
Tánh giác này,
tự tâm vốn sẵn, không sửa sang của bạn,
Được
nhận biết cho chính bạn, và nó được để cho là trong bất cứ cái gì
xuất hiện.
Và :
Thoát khỏi trí năng và không có trí óc
tham dự,
Là sự
thực hành trong
thời gian định.
Và làm điều này với
quang minh và
tỉnh giácLà
lời khuyên thực tiễn để tránh
cạm bẫy.
Tu hành thấy tất cả cái gì
xuất hiện đều
huyễn hóa,
Và
tu hành thấy mọi sự là những phô diễn không ngừng của tánh giác.
Đó là sự
thực hành hậu-định.
Orgyenpa nói :
Tánh giác
bình thường nhận biết chính nó.
Thiền định về
bản tánh của
vòng sanh tử,
Thì không cần
hoàn thành giải thoát.
Thiền định về sự đa thù của những
xuất hiệnThì không cần
nhập định.
Trong Đại Ấn của
chánh niệm về những
xuất hiệnKhông cần ngưng dứt những
xuất hiện.
Trong sự gặp gỡ của tịnh quang mẹ và con
Không cần nắm giữ cái gì với
chánh niệm.
Rangjung Dorje (Karmapa thứ Ba) nói :
Tổng quát, khi bạn nói “cái thấy, cái thấy”,
Đối với cái thấy, hãy
quan sát tâm bạn.
Nếu không có cái gì để thấy khi nhìn
Chính đó là cái nhìn thấy
tối cao.
Hãy nhìn lại ! Hãy nhìn lại ! Hãy
quan sát tâm !
Trong lâu đài của tâm
vô sanhPháp thân của
an lạc bất biến trú ngụ.
Khi tâm thấy
bản tánh cốt lõi của tánh giác của chính nó,
Làm sao nó có thể tìm được ở đâu khác ?
Rolpey Dorje (Karmapa thứ Tư) nói :
Hãy biết thức
bình thường, nguyên sơ này
Là
Pháp thân.
Hãy biết những
tư tưởng đủ mọi loài này
Là
trí huệ bổn nguyên.
Khachoš Wangpo nói :
Nếu bạn
nhận biết tự tâm, bạn là Phật.
Sự giải thoát tự nhiên của bất cứ cái gì được thấy chính là
con đường của
giác ngộ.
Những lời dạy của Drungkyi Kunga Namgyal nói :
Thành tựu hơi ấm của
kinh nghiệm là một điềm báo của
chứng ngộ,
Tâm thành tựu sự dùng được của lạc,
trong sáng và
vô niệm.
Sự
tự do này
thoát khỏi những
lỗi lầm của những
cạm bẫy gọi là
nhất tâm.
Đã tịnh hóa sự bám chấp vào những
kinh nghiệm ; bèn không có đối tượng ;
Và bạn
chứng ngộ không gian tuyệt đối và tánh giác là trống không.
Trong định bạn
thoát khỏi năm ấm và trong
trạng thái thiền định bạn
kinh nghiệm (những
hiện tượng là)
huyễn hóa.
Hãy thấy
bản tánh cốt lõi thoát khỏi những
vết nhơ làm cho
suy nhược.
Con đường thấy,
thoát khỏi những tạo
tác ý niệm, được gọi là
trí huệ bổn nguyên
vô niệm.
Mọi
hiện tượng bao gồm trong vòng sanh tử và
giải thoátĐược
chứng ngộ là những
tính chất của tâm của sự hợp nhất.
Thoát khỏi nỗ lực và trong lãnh địa của những tự-xuất hiện,
Sự
chứng ngộ trí huệ sâu thẳm và
bao la được gọi là một vị.
Do cái này có
giải thoát, và sự bám chấp của ngày và đêm được tịnh hóa.
Vương quốc vốn sẵn, tinh khôi, tự-xuất hiện được phát hiện.
Không gian tuyệt đối và tánh giác được thống nhất, và tịnh quang mẹ và con được nối kết.
Sự
thành tựu tự nhiên của
ba thân được gọi là không-thiền định.
Những lời dạy như vậy
dần dần trở nên
rõ ràng. Đến đây
kết thúc sự
nhận diện.
– Với lạc,
trong sáng và
vô niệm tâm trở nên có thể dùng được. Trong đoạn này từ “nhất tâm”
ám chỉ sự
nhận biết thực tại. Bám chấp dừng lại, kết quả là không còn đối tượng. Rất khó
thành tựu trạng thái chứng ngộ này trong đó
chúng ta không
xác nhận cũng không phủ nhận, thế nên
chúng ta có thể thấy những
hiện tượng và
tư tưởng là trò chơi của tâm, và có được
quán chiếu quyết định thoát khỏi mọi bám nắm. Đầy
hy vọng chúng ta sẽ
thực hành và sống
cuộc đời sao
cho không có
hối hận vào lúc chết, không phá vỡ
giới luật hay để cho samaya hư hỏng. Vì người mới học dễ bị
quấy rầy,
chúng ta thường được khuyến khích sống
đơn giản và
tương đối cô tịch không có những
phóng dật. Trong môi trường giản dị đó
chúng ta có thể
thực hành từng cấp một.
Chìa khóa
thực hành nào có thể mở cánh cửa
đi vào con đường ? Đó là
thiền định về
vô thường – sự
chắc chắn của cái chết và
sự thật của
vô thường. Hãy
cố gắng chuyên cần thấu hiểu những
chân lý này, bởi vì chúng cho
chúng ta sự quán chiếu vào sự
thực hành đích thực. Nếu bạn không biết làm sao
thiền định, hãy tìm một người hướng dẫn
tâm linh chân chính, người
thông thạo kinh và tantra và có
động lực là
Bồ đề tâm. Dưới sự hướng dẫn của một người như vậy, bạn có thể chuẩn bị bước đi trên
con đường Đại Toàn Thiện, làm thế vì
lợi lạc cho chính mình và
mọi người khác.