CHƯƠNG MƯỜI
Bốn Cấp Bậc của Yoga
Kính lễ đức
Quán Thế Âm !
Phù hợp với những kinh, những tantra và những lời dạy của những
thành tựu giả, tôi sẽ
giải thích tiến bộ như thế nào dọc theo những địa và những
con đường bằng cách
thiền định về những
giáo huấn thực hành sâu xa này của
Quán Thế Âm. Mười địa và năm
con đường của
truyền thống kinh cũng như bốn cấp bậc của yoga của
truyền thống mantra tạo thành những địa và
con đường của
Kinh thừa và Mật thừa ; thế nên khó
kết hợp chúng
với nhau.
Cũng thế, khó
liên hệ chúng với bốn cái nhìn thấy của
Đại Toàn Thiện, vì mỗi
con đường này thì riêng biệt.
– Đây là một cái nhìn
sơ lược tổng quát về Bốn Yoga.
Tính chất định nghĩa của yoga thứ nhất,
nhất tâm, là
nhận biết bản tánh của tâm bạn. Hơn nữa, bạn
chứng ngộ rằng những
xuất hiện không là gì khác hơn
bản tánh của tâm bạn, và
bản tánh ấy giống như sự trống không của
không gian. Yoga thứ hai
thoát khỏi tạo
tác ý niệm, gồm
nhận biết rằng mọi
xuất hiện là
giả hợp ; bạn
chứng ngộ rằng
bản tánh thật sự của tâm là trống không và
thoát khỏi mọi tạo
tác ý niệm. Thứ ba, trong yoga của một vị, bạn
nhận biết rằng
sanh tử và
niết bàn đồng một
bản tánh, nó là chìa khóa để
đạt đến giác ngộ. Trong yoga thứ tư, yoga của không-thiền định, bạn
nhận biết rằng
toàn bộ sanh tử và
niết bàn vốn là không sanh, không trụ và không diệt.
Nhị nguyên căn bản nhất của chủ thể và đối tượng vốn là không có nền tảng và là một
bản tánh,
Pháp thân. Nhiều điểm được
bàn luận trong bốn yoga cũng
liên quan đến các giai đoạn Phá Thấu và Nhảy Qua của
thực hành Dzogchen.
Về Bốn Yoga của Đại Ấn, hai yoga đầu –
nhất tâm và
thoát khỏi tạo
tác ý niệm – được
bàn luận nhiều trong chương này, và trong những thiền giả
Phật giáo Tây Tạng, một số khá nhiều đã
đạt được kinh nghiệm đích thực trong hai cấp bậc này. Những yoga một vị và không-thiền định là những cấp bậc cực kỳ cao cấp của
thiền định, và vì sự
đơn giản,
tác giả nói ngắn hơn nhiều về chúng trong bản văn này. –
Zhang Rinpoche nói :
Đại Ấn vốn là một,
Nhưng những người ngu trở nên mê mờ khi
cố gắng hình dung ra những địa và những
con đường.
Ngài
ám chỉ đến những người
đốn ngộ và những người ở giai đoạn Nhảy Qua. Những
cá nhân tiệm tiến thực hành theo mười địa và năm
con đường, thế nên Naropa nói, “Trước
tiên kinh nghiệm
nhất tâm.” Những Lời Hàng Đầu Của Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói, “An trụ trong
thực tại của
nhất tâm, định tĩnh và
quán chiếu không thể
phân chia.”
Ý nghĩa là cái
nhất tâm này gồm sự an trụ trong
thực tại như không gian của
tánh không và
quang minh. Khi đó bạn
chứng ngộ bản tánh của
thiền định là
tánh không và
quang minh hợp
nhất như không gian đó. Như thế, với
nhất tâm bạn còn dò dẫm trong bóng tối. Khi đó cái thức sau
thiền định của bạn còn sự vật hóa những
hiện tượng bằng cách bám chấp vào chúng là
bình thường và thật. Do đó dù bạn có xác quyết
quang minh trống không trong khi
nhập định,
tâm thức sau đó của bạn cũng mê mờ về những sự vật
bình thường, thế nên có vết dơ do bám chấp vào chúng như là thật, và những vết dơ của nghiệp không được tịnh hóa.
Nếu bạn không
tỉnh giác, bạn lìa khỏi
thiền định, điều này đưa đến tách lìa ; và dù bạn
tỉnh giác,
bản tánh không được thấy (trong
trạng thái sau
thiền định), thế nên không có
chứng đắc. Bạn vẫn cần đến những gán ghép đặt lên
kinh nghiệm, và bạn còn có cảm thức về một đối tượng và người
thiền định ; thế nên đó vẫn là thời
thiền định mà trong đó tâm bị sự vật hóa.
Sắc uẩn và năm lối đi của thức được tịnh hóa. Chúng được tri nhận là trống không
tự nhiên,
vô trụ trong một
bản tánh cốt lõi. Bởi vì bạn vẫn bị
lệ thuộc vào sự nắm bắt, những
chứng ngộ thực nghiệm bị dơ nhiễm. Về những
xuất hiện với tánh giác
trong trẻo của bạn, bạn
phân biệt chính xác nhân quả thô và tế, nhưng bởi vì còn bị bám chấp cho là thật, tính
nhân quả bị sự vật hóa. Khi bạn không
phóng dật, bạn ở trong
trạng thái hậu
thiền định.
Vào lúc này bạn thoát ra khỏi những
tính chất, và bạn chủ yếu trau dồi định tĩnh trong một
trạng thái thoát khỏi trí năng. Bạn biết
bản tánh cốt lõi của
quang minh trống không.
– Hơn là tập chú vào Đại Ấn như là một
trạng thái, một số người trở nên
bối rối vì
quan tâm một cách
ám ảnh đến những địa và những
con đường. Những
cá nhân đốn ngộ không cần bận tâm theo
con đường tiệm tiến mười địa và năm đường, bởi vì nhờ
sự tích tập
công đức lớn trong
quá khứ và sự tịnh hóa, sự
thực hành của họ rất
đơn giản và
tức thời. Những người đã
tiến bộ qua
thực hành Nhảy Qua của
Đại Toàn Thiện cũng không cần
quan tâm đến mười địa và năm đường. Những
cá nhân tiệm tu,
trái lại, phải
thực hành theo mười địa và năm đường, tiến hành qua mỗi cái của những thừa.
Trong Bốn Yoga, người ta phải
trước tiên hoàn thành trạng thái nhất tâm, nó là một hợp nhất của định tĩnh và
quán chiếu, và bởi thế là một mức độ cao của sự
vững chắc chú tâm. Do đó, cấp độ
nhất tâm thứ nhất là
hoàn thành định tĩnh, trong đó
nhất tâm chú ý vào tánh giác của chính mình, nó vốn không dứt và
quang minh. Điều này được
thực hiện khi tâm
thoát khỏi những che ám.
Tiến bộ đến một cấp độ cao hơn của
nhất tâm đòi hỏi trau dồi
quán chiếu.
Thực hành mà không có định và quán đích thực, khi chỉ rỗng rang, thì
vu vơ. Có nhiều
phương pháp tập định, nhưng cái nào cũng phải dẫn đến sự không thể
phân chia của định và quán, tức là
tính cách trống trải của
tánh không và
quang minh. Điều này tạo thành
bản chất của cái đầu tiên trong bốn yoga –
nhất tâm. Nó có thể
so sánh với sự
chứng ngộ Tiểu thừa về
vô ngã với những
dấu tích bám chấp vẫn còn. Sự
chứng ngộ như vậy chưa được xem là
viên mãn, vì còn có
tư tưởng “Đây là vô ngã”.
Trạng thái này giống như
mặt trời chưa
hoàn toàn mọc lên khỏi chân trời. Bạn
chứng ngộ bản tánh của
trạng thái thiền định, nhưng bạn chưa có
hiểu biết chắc chắn sanh khởi từ
tánh không và
quang minh. Đó bởi vì bám chấp vẫn còn. Sau những thời
thiền định,
thói quen cũ bám chấp vào sự
hiện hữu có
bản chất của những
hiện tượng sanh khởi trở lại. Khi
ngồi thiền, bạn có một cảm thức về
tánh không của những
hiện tượng, nhưng nếu có ai gõ cửa, sự chú ý của bạn
lập tức bị thu hút về đó, và bám chấp xảy ra. Điều này được diễn ta bằng từ sự vật hóa – bám chấp vào
hiện tượng là có
bản chất hay
tự tánh.
Do bám chấp, sự tịnh hóa không
trọn vẹn. Bạn đã có những
chứng ngộ về những trường
tâm thức khác nhau... như là trống rỗng, không có nền tảng,
vô tự tánh nhưng bạn còn bám vào nó cho là thật, chứ không như mộng hay
huyễn hóa. Vì bạn bám chấp vào những
hiện tượng trong tương quan
nhân quả như là thật, những tương quan
nhân quả cũng bị sự vật hóa. –
Dagpo Rinpoche nói, “Yoga
nhất tâm là
quang minh và không dứt, và đó là cái thức khoảnh khắc.” Saraha nói :
Do nắm chắc mà không có
chánh niệm, có
tánh không không dứt.
Nếu thức được để trong cách thế của chính nó, sẽ có
vững chắc.
Và :
Nếu bạn ở lại đó, một cảm thức về lạc sẽ xảy ra.
Kinh nghiệm những
xuất hiện của sự vật là trống không
Thì giống như
nhận biết nước dù nó
xuất hiện như băng.
– Thức khoảnh khắc là khoảng giữa sau khi những
tư tưởng quá khứ đã tan biến và trước khi những
tư tưởng tương lai chưa sanh. Trong phần
thực hành này, những
tư tưởng của ba thời không
hiện diện. Khi trong định, bạn
hoàn toàn thoát khỏi những tạo lập của trí óc. Trong
trạng thái này, một cảm thức lạc có thể xảy ra, và nếu bạn nghĩ, “Ta thích nó. Điều này thấy tốt”, bạn chỉ
tiếp diễn vòng sanh tử của chính bạn. Trong ba cái lạc,
trong sáng và
vô niệm, không bám vào lạc dẫn đến
chứng ngộ hóa thân ; không bám vào
trong sáng dẫn đến
chứng ngộ báo thân ; và không bám vào
vô niệm dẫn đến
chứng ngộ pháp thân. –
Sự biệt
lập tâm thức được Nagarjuna bàn trong Năm Cấp Bậc, yoga của
hiện diện tự nhiên được dạy bởi Lawapa, yoga của
kinh nghiệm samadhi (định) được dạy bởi Nawaripa, cắt đứt những gán ghép như được Maitripa
giải thích, yoga của
vô ngã trong Kinh
Đi Vào Lanka, sự
vững chắc thiền định được
thực hành bởi người non nớt, những giọt sương của Sáu Pháp, và
ý nghĩa của
quán đảnh cái bình, tất cả đều được nói là đồng nghĩa. Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói :
Trong giai đoạn trung bình của
nhất tâm,
thỉnh thoảng bạn vào định dù bạn đang không
thiền định, và sự
vững chắc đến khi bạn đang
thiền định. Trong sự
trong suốt của tu định ‘lạc,
trong sáng và vô niệm’ bạn có thể làm
hiển lộ một số loại
tri giác siêu
giác quan có
nhiễm ô và những khả năng siêu
thường có nhiễm ô. Trong
trạng thái đó khởi tưởng sanh ra ít hơn trước, và bất cứ cái gì
sanh khởi đều tiến vào sự
trong suốt của chính nó. Sau đó, bất cứ nơi nào bạn
tỉnh giác về những
xuất hiện rỗng không chúng cũng
thấm nhuần quang minh trống không, có lúc điều này khởi sanh như
thiền định, và có lúc nó khởi sanh có
bản chất hơn, nghĩa là không
như huyễn. Những
giấc mộng xảy ra kém
thường xuyên hơn trước. Có lúc bạn có một
kinh nghiệm như vậy, có lúc bạn không có, và bạn bị
hấp dẫn bởi
thiền định này.
– Trong giai đoạn giữa của yoga
nhất tâm, sự
vững chắc của samadhi khởi sanh
tự nhiên dù khi bạn không đang
chính thức thiền định. Nhưng bạn không nên tự mãn, ngừng ở đây. Nếu như vậy bạn sẽ bị đem
trở lại vào
sanh tử vì nhiều khuynh hướng
thói quen chưa được
loại bỏ. Những phẩm tính lạc,
trong sáng và
vô niệm thật sự là một
bản tánh ; chúng vốn là
bản tánh sâu xa nhất của tánh giác của bạn. Qua những cấp bậc của
thực hành này những phẩm tính nội tại này sẽ càng lúc càng
biểu lộ.
Một kết quả của
thực hành này là
thành tựu tri giác siêu
giác quan và những khả năng siêu thường, nhưng vì
hoàn toàn chưa
thoát khỏi phiền não và che chướng nên chúng được gọi là có
nhiễm ô. Không
thích hợp và thậm chí
tai hại khi
đáp ứng theo những khả năng đó với bám luyến hay
thích thú, vì điều đó sẽ ném bạn ra khỏi
con đường.
Tuy nhiên,
tri giác siêu
giác quan và những khả năng siêu thường không bị
nhiễm ô của một người
thức tỉnh hoàn toàn hẳn là đáng mong muốn. Vừa không
nhiễm ô vừa
tối hậu, chúng thuộc về
bản tánh giác ngộ viên mãn.
Trong giai đoạn này của
nhất tâm, mọi cái
sanh khởi với tâm
xuất hiện trong
quang minh của chính nó, phô diễn mà không có
tự tánh. Những nội dung của tâm
sanh khởi như những
đám mây nhỏ trên bầu trời hay như những làn sóng gợn trên mặt
đại dương. Những khởi niệm tuôn tràn vẫn còn xảy ra, và do
nghiệp lực có trước, có lúc những
hiện tượng xuất hiện thành
cụ thể, có thực. Khi
ít khi nhiều bạn có những
giấc mộng minh bạch và sự
thích thú thiền định trở nên mạnh mẽ hơn. Những giai đoạn trước bạn có chiều hướng dễ mệt, chán, bây giờ bạn khao khát
thực hành. –
Gyalwa Yang nói :
Dựa vào đó, sự tĩnh lặng bất cứ khi nào bạn an trụ trong thức
quang minh,
vô nhiễm,
vô niệm tạo
thành sự làm chủ samadhi của
nhất tâm cấp vừa.
Phagmo Drušpa nói : “Bạn
đạt được sự làm chủ samadhi của giai đoạn vừa của
nhất tâm.” Điều này
phù hợp với sự
xác nhận trong Trao Truyền Miệng của Dòng những Siddha rằng lạc
trong sáng và
vô niệm của
vững chắc thiền định được hòa nhập như thế và sự làm chủ việc ở lại trong đó với bất kỳ sự kéo dài nào là
nhất tâm thực nghiệm. Giai đoạn vừa của
nhất tâm, trong đó ‘bản sao’ của
quang minh trống không được
duy trì với
chánh niệm – dù có thể có những
phóng dật thỉnh thoảng khi nó không được
duy trì liên tục – được gọi là hơi ấm và đỉnh của
con đường chuẩn bị (nỗn địa và đỉnh địa). Khi
kinh nghiệm đã trở nên
vững chắc, nếu
quang minh trống không đó được
duy trì với
chánh niệm, nó sẽ trở nên
thường trực, dù có lúc không được
cố ý duy trì. Đây cũng gọi là hơi ấm và đỉnh. Đó là lời dạy của Gotsangwa.
Phagmo Drušpa nói, “Giai đoạn lớn của
nhất tâm là sự
liên tục của
kinh nghiệm.” Yang Gošnpa nói :
Một khi cái đó đã khởi
sanh không dứt đoạn, mọi khởi tưởng được bình lặng trong
trạng thái đó. Thậm chí giấc ngủ xảy ra trong
trạng thái đó, và bốn loại
hoạt động không lìa khỏi nó. Khi điều này xảy ra, đó gọi là sự
liên tục của
kinh nghiệm của giai đoạn lớn của
nhất tâm. Bấy giờ bạn
cảm thấy một
niềm tin mạnh mẽ rằng đây là không-thiền định, và có nói rằng sự
chứng ngộ thực nghiệm đã
sanh khởi.
– Tới điểm này, dù mức độ thật sự của bạn là giai đoạn lớn của
nhất tâm, bạn
cảm thấy như bạn đã
đạt đến giai
đoạn kết thúc của bốn yoga, tức là không-thiền định. Nói cách khác, bạn cường điệu
tính chất thực của sự
chứng ngộ của bạn.
Suốt chương này và chương
kế tiếp, có một
phân biệt về
kinh nghiệm thiền định và
chứng ngộ thật sự. Cái trước kéo theo một cảm thức bám chấp lay lứt, trong khi cái sau là
quán chiếu đích thực. Danh từ
chứng ngộ thực nghiệm (hay qua
kinh nghiệm)
ám chỉ một
chứng ngộ và một sự bám chấp vào nó
đi theo sau, trong đó người ta nghĩ, “Đây là
thiền định của tôi. Tôi đã đi đến mức độ này, nọ.” –
Khi nói về
chứng ngộ từng phần, Zhang Rinpoche
bình luận :
Có nói rằng bạn
chứng ngộ bản tánh vào lúc
nhất tâm lớn, và
bản tánh được nói là
trong sáng và không dứt. Bạn có
niềm tin vào thức
trong sáng và không dứt, giống như
trung tâm của
không gian trong trẻo ; và bạn xác định
bản tánh của
nhất tâm không thông qua
ý niệm. Trong
trạng thái của lạc,
trong sáng,
vô niệm, bạn
hiện diện giản đơn trong sự
sáng ngời và tĩnh lặng ; nhưng nếu sự xác quyết không
sanh khởi, đó là vì không
liên hệ với
kinh nghiệm quán chiếu. Do chưa giáp mặt với
bản tánh của mình, bạn lang thang giữa bóng tối của
nhất tâm.
Như thế,
bản tánh còn chưa được thấy. Như một kết quả của
tâm không biết
bản tánh của nó, sự
phân biệt giữa
kinh nghiệm thiền định và
chứng ngộ không có. Sự
vững chắc thiền định trong đó có những
xuất hiện nhưng không có xác quyết thì giống như một trẻ nhỏ thấy
mặt trăng, hay một người khờ dại nhìn cái chùa. Sự xác định như vậy là
chứng ngộ qua
kinh nghiệm bị dơ nhiễm do bám chấp những đối tượng. Cho tới khi
nhất tâm,
trí huệ bổn nguyên thấu hiểu
con đường còn chưa
sanh khởi ; bởi vì nó không phải là định
chân thực. Như vậy, vì những
xuất hiện hình tướng sau đó không được thấy như là những
huyễn hóa, nên không có
trạng thái hậu
thiền định chân thực.
Trạng thái nhập định và sau
thiền định có theo mức độ
thực hành riêng của bạn. Tâm ở trong
quang minh trống không một cách
vô niệm, nhưng bởi vì sự theo níu của tâm vào những đối tượng chưa được tịnh hóa, đây là định trên
danh nghĩa. Sau đó, bởi vì bạn còn bám chấp vào sự có thực, đây là
trạng thái hậu
thiền định trên
danh nghĩa, vì đó giống như
đi theo một con chó mà tưởng là người.
Khi bạn an nghỉ trong định của lạc,
trong sáng và
vô niệm, đó là chót đỉnh của
năng lực nhất tâm. Nếu có lúc điều này không xảy ra thậm chí cả trong khi
thiền định, và có khi nó xảy ra cả khi không
thiền định, thì
năng lực của
nhất tâm vẫn còn chưa
hoàn thiện.
Một khi mọi khởi tưởng được an lặng trong
trạng thái thiền định chỉ
đơn giản bằng cách
chánh niệm về nó, và một khi
trạng thái ngủ vẫn xảy ra trong tịnh quang qua
kinh nghiệm, bấy giờ khởi tưởng
sanh khởi như
thiền định. Nếu khởi tưởng không thể an lặng với
chánh niệm tỉnh giác và bạn phải kéo nó lại với cái móc của
thiền định, đó là khởi tưởng chưa
sanh khởi được như
thiền định. Nếu tánh giác không được
duy trì với
chánh niệm, nó lìa khỏi
trạng thái thiền định. Dù tánh giác được
duy trì, nếu
bản tánh của khởi tưởng không được thấy khi an nghỉ trong dòng
tương tục đã có trước kia, thì không có
chứng đắc.
– Khởi tưởng thuộc về
bản tánh của
thiền định, nhưng nếu bạn còn cần rút tâm lại bởi vì một
cảm giác là mình bị
phóng dật bởi những
tư tưởng, bạn còn chưa thực sự
chứng ngộ bản tánh của khởi tưởng. Nếu bạn còn cần
duy trì tánh giác của bạn với
chánh niệm, thì
yêu cầu phải có một
nỗ lực nào đó, nhưng trong
trạng thái tự nhiên, bạn không cần rút tâm
lui lại hay đối xử với sự khởi tưởng như là một cái gì tách lìa khỏi
thiền định. Trong
trạng thái tự nhiên, khởi tưởng chỉ
đơn giản lưu xuất từ
trạng thái thiền định như những
tia sáng từ
mặt trời. –
Do trau dồi
thiền định đó một
thời gian lâu, tâm bạn sẽ
xa lìa tám mối
quan tâm thế gian, bạn sẽ
thoát khỏi những loài ăn bám bên ngoài và bên trong, và bạn sẽ có thể phô diễn những khả năng siêu thường như
ảnh hưởng và
thống trị bằng
thiền định những
nguyên tố... Khi điều này xảy ra, những phẩm tính của
nhất tâm đã
sanh khởi. Nếu
tâm không sử dụng được, nếu
tinh túy và
cặn bã của
thiền định không tách biệt được do thiếu sự
bình an của
tâm thức, và nếu bạn không thể đem lại những dấu hiệu chung của hơi ấm (nỗn địa), những phẩm
tính không sanh khởi.
Trong
tri giác của samadhi
trong trẻo, trên sự
phân biệt chính xác quan hệ
nhân quả tế và thô, nếu bạn hiểu
nhân quả khi vẫn ‘sự vật hóa’ người tạo và cái được tạo, bạn đã (chỉ)
thông hiểu thực tại quy ước. Trên
con đường thế tục và
nhiễm ô ấy bạn không thể gỡ
dòng tâm thức bạn ra khỏi những khuynh hướng
thói quen. Dù với samadhi về
tánh không, nếu bạn không hiểu những
xuất hiện là những
biến cố tương thuộc,
duyên sanh, bạn không
thông hiểu thực tại quy ước.
Nhờ sự lộng lẫy
trong sáng của
thiền định của bạn, nếu
thiện cảm sanh khởi cho những
chúng sanh đang
kiệt quệ vì đủ loại khởi tưởng, bạn đã
đạt được hạt giống của
sắc thân (rupakaya), và bạn có thể
phụng sự chúng sanh theo khả năng của bạn. Nếu
năng lực của
kinh nghiệm của bạn ngăn chặn sự
biểu lộ của lòng bi, bạn chưa
hoàn thành hạt giống của
lòng vị tha, và điều này có thể
so sánh với
trạng thái dừng diệt của
Thanh Văn. Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói :
Trong giai đoạn lớn của
nhất tâm, định, sau
thiền định và bốn loại
hoạt động thường trực tiến hành ngày đêm không dứt đoạn trong
trạng thái quang minh trống không. Mọi khởi tưởng cũng như những
xuất hiện có từ khởi tưởng và những
giấc mộng cũng tiến hành trong
trạng thái ấy.
Tự tâm thấm nhuần một cảm thức về
tánh không,
bao gồm lạc trống không, tánh giác trống không, những
xuất hiện trống không và
quang minh trống không ; và mọi sự vật chủ yếu khởi sanh như
vô số kinh nghiệm như huyễn như mộng. Bởi vì có
nói nhiều phẩm tính (của samadhi), và bạn nghĩ không có
thiền định nào
tinh tế hơn cái này, bạn có thể
kết luận đây là không-thiền định lớn.
Tuy nhiên, không bám vào những
chứng ngộ qua
kinh nghiệm này, hãy
nhận biết khởi tưởng là
quang minh trống không và là những
xuất hiện trống không. Bạn sẽ
hoàn thành chánh niệm nhất định xác quyết mọi sự là tâm và xác
quyết tâm là
vô sanh và
tự do tự nhiên.
Rõ ràng những
tư tưởng đi rong sẽ dứt, và bạn sẽ
kinh nghiệm vị hướng dẫn
tâm linh của bạn như là Phật. Bạn sẽ tiến hành
thường trực ngày đêm trong
trạng thái của
quang minh trống không đó, và sự khao khát
hiện hữu sanh tử sẽ dứt.
Nếu bạn
đi vào không-thiền định ngay trên việc thấy
bản tánh một cách
vô niệm,
năng lực của
nhất tâm được
hoàn thiện, những phẩm tính của nó được
giữ gìn, và bạn thấy
bản tánh của nó.
Cho đến khi điều này xảy ra, hãy phát sanh nồng nhiệt và hãy
thực hành !
Năm trường của
kinh nghiệm giác quan bị loại bỏ ở đây, thế nên hãy
từ bỏ khát khao với đời này, với
tài sản, với samadhi và v.v... Hãy
duy trì vệ sinh tốt, bạn cần ở trong
đơn độc.
Ở đây sự khác biệt giữa
trạng thái định và sau
thiền định được tạo nên theo việc an trụ hay không an trụ. An trụ trong lạc,
trong sáng và
vô niệm là
trạng thái định. Không an trụ trong đó là
trạng thái sau
thiền định. Trong
nhất tâm lớn, mọi
chứng ngộ và
kinh nghiệm liên hệ đều tan biến vào vào
trạng thái ấy, và ngày đêm chúng đều
sanh khởi như
quang minh trống rỗng
như không gian. Cấp độ của việc
hoàn thành không-thiền định cốt ở
kiên nhẫn và những giai đoạn
tối cao của
con đường chuẩn bị.
Sự Trao Truyền Miệng của Dòng những Siddha nói :
Ở điểm này bạn
đạt được trí huệ phân biệt hòa nhập với samadhi để xác quyết
bản tánh. Việc này
liên hệ với những dấu hiệu sau : khi ở trong
chánh niệm với sự
tham thiền nồng nhiệt
liên tục cho đến khi
giác ngộ, sự mềm mại của thân và tâm, một niềm vui
phi thường đáp ứng những nhu cầu
bao la của chính mình và những người khác, và sự bình thản vĩ đại
thoát khỏi uể oải tinh thần, tất cả những cái đó
đồng thời sanh khởi. Nếu
trạng thái thiền định của bạn không có những dấu hiệu này, nó có thể là
kinh nghiệm thiền định, nhưng không phải là
chứng ngộ Đại Ấn.
Và :
Dù nó được
kinh nghiệm như là không-thiền định, nó là yoga
nhất tâm trong Bốn Yoga của
chứng ngộ.
Thầy của tôi,
đại trí giả Gyal Rongwa, nói :
Ở giai đoạn Pháp
tối cao của
con đường chuẩn bị, bạn có
cảm giác rằng bạn đã
chứng ngộ tánh không một cách
tri giác, nhưng bạn chưa
chứng ngộ tánh không.
Những
nhận xét này có vẻ có cùng
ý nghĩa.
Sự khác biệt giữa
nhất tâm và
thoát khỏi tạo
tác ý niệm là : trong cái trước khởi tưởng không khởi tưởng như là
Pháp thân, còn trong cái sau thì như vậy. Tantra của Dòng Sông Ali Kali Vĩ Đại nói :
Thứ hai, nhờ định
như huyễnTrong sự
quân bình thiền định vĩ đại
thoát khỏi tạo
tác ý niệm.
Năng lực của
định không thể nghĩ
bàn sanh khởi.
Trên chỗ
đạt được hơi ấm, bạn làm
chủ sự tái sanh.
– Ở điểm này, bạn không còn bị nghiệp trước kia quăng ném nữa, mà có thể chọn lựa chỗ
tái sanh.
Trong đời kế tiếp bạn không cần
cố gắng có được một số phẩm tính nào đó nữa, mà chúng như một
gia tài thừa kế về
tâm linh,
sanh khởi như kết quả của đời trước. –
Trong sự
chứng ngộ bình đẳng, sự cắt đứt lớn những gán ghép
thoát khỏi tạo
tác ý niệm, và
bản tánh của tâm được
chứng ngộ không có
sự tạo tác của
ý niệm. Nếu bạn nghĩ, “Đây là
tánh không. Không có gì hết thảy”, và bạn hiểu sai
thực tại quy ước, đó gọi là
tánh không loại giả, nó không thể
thoát khỏi tạo
tác ý niệm. Những đối tượng hay sự vật
xuất hiện như đối tượng không có
tự tánh, thế nên thức có do đối tượng là
như huyễn. Dù bạn không bám vào sự thực có của sự vật, nhưng nếu những
xuất hiện sanh khởi mà không có xác quyết, thế là có vết dơ của không
nhận biết, và những vết dơ của
phiền não chưa được tịnh hóa. Nếu tánh giác không được
duy trì với
chánh niệm không lay động, thì có sự lìa khỏi
thiền định. Bằng cách
duy trì và thấy
bản tánh của bất cứ cái gì
sanh khởi, bèn có cả
xa lìa và
chứng đắc. Định và sau
thiền định thì khác biệt như là (1)
trí huệ bổn nguyên,
vô niệm chứng biết
bản tánh của mình,
sanh khởi không có đối tượng và (2) thức sau đó thì
như huyễn. Trong định, bạn
nuôi dưỡng trí huệ bổn nguyên,
vô niệm, nó chứng biết
bản tánh không có một đối tượng ; và trong thức sau đó
bạn thiền định về sự không có
tự tánh,
như huyễn. Đây là
thời gian để
thiền định về
tự tâm vừa cả khi
nhập định và sau đó.
Do tịnh hóa sự bám chấp của
tỉnh giác tham
cầu kinh nghiệm,
thọ ấm được tịnh hóa. Vì không có một cái gì được
chỉ định một cách
quy ước,
tưởng ấm được tịnh hóa. Với sự
chứng ngộ rằng tâm và những đối tượng thì
thoát khỏi tạo
tác ý niệm,
thức ấm được tịnh hóa. Đã tịnh hóa
kinh nghiệm thiền định của bạn,
chứng ngộ sanh khởi không có đối tượng nào. Do biết rằng
kinh nghiệm thiền định và
chứng ngộ là không trộn lẫn, bạn
phân biệt giữa
kinh nghiệm thiền định và
chứng ngộ. Do thấu hiểu
năng lực của
tánh không là
duyên khởi và
nhân quả như huyễn, (bạn
chứng ngộ) nhân và quả là
như huyễn. Ở điểm này, bạn
từ bỏ cuộc đời này, và
bạn thiền định chủ yếu về
tánh không trong một
trạng thái trong đó những
tư tưởng về những dấu hiệu được
tự nhiên giải phóng.
Nhận biết bản tánh của khởi niệm, quan trọng là thức của bạn vẫn
sống động,
uy lực và không rơi vào bình thản
vô ký.
– Khi
chúng ta nói đến lạc,
trong sáng và
vô niệm, có một cảm thức về
kinh nghiệm thiền định mà
chúng ta biết như vậy. Trong cách này
kinh nghiệm thiền định ít nhất cũng có một dấu vết bám chấp thậm chí trong
trạng thái rất
vi tế. Một trong những
đặc tính nổi bật của
kinh nghiệm thiền định trong bối cảnh này là nó
sanh khởi theo những
xu hướng thói quen trước kia của
chúng ta. Nói khác, nó đến từ những
hạt giống của
tâm thức chúng ta, những
ưa chuộng và
thói quen, trong khi
chứng ngộ nảy sanh từ thấu rõ
thực tại, ngược với việc có một
kinh nghiệm về cái gì.
Khi
nhận biết bản tánh của khởi tưởng động ý, quan trọng trong giai đoạn này là không lạc vào một
trạng thái thụ động hay trống rỗng. Thức cần có được
sinh lực. –
Đức Dagpo Rinpoche nói :
Trong yoga
thoát khỏi tạo
tác ý niệm, do thấy
bản tánh vô sanh của tánh giác, bạn không có những
hy vọng về
thức tỉnh tâm linh ở trên ; bạn không
lo âu về
sanh tử ở dưới ; bạn không bám níu vào những
hình tướng xuất hiện ở giữa ; và bạn không thể bị
tác động bởi bất cứ cái gì khác.
Bà La Môn Vĩ Đại (Saraha) nói :
Giống như
nhận biết nước thậm chí khi nó
xuất hiện là băng,
Trong (yoga) thứ hai, không ngăn chặn những
xuất hiện của tâm
chánh niệm,
Tánh không và lạc
sanh khởi không có phân cách.
Đấy giống như băng tan vào nước.
Tịnh quang như được dạy trong Năm Cấp Độ, cái không thể nghĩ bàn được Lawapa dạy, yoga như được Sawa-ripa dạy, cơ hội để
đạt được quán đảnh như Maitripa dạy, yoga không có đối tượng
thông hiểu như được dạy trong Kinh
Đi Vào Lanka, sự
quân bình thiền định thấy rõ
thực tại, và
thực tại của
quán đảnh bí mật, tất cả là đồng nghĩa.
Gyalwa Yang Gošnpa nói :
Bằng cách
duy trì thiền định nhất tâm theo cách đó, không tham cầu, sau một
thời gian trong
trạng thái của
kinh nghiệm thanh tịnh đó bạn sẽ thấy
chân lý của tự thân
thực tại,
thoát khỏi tạo
tác ý niệm. Cái gì được thấy ? Bạn thấy chính bạn. Cái gì thấy ? Chính bạn thấy. Đây là cái thấy không có một đối tượng và một chủ thể. Giữa sự dừng dứt của thức đã qua và trước sự
sanh khởi của thức tương lai, có hoặc là sự khởi niệm chốc lát của thức
hiện tại hoặc là
bản tánh cốt lõi của
vô niệm, nó
nhận biết bản tánh của chính nó mà không có một đối tượng. Vào lúc này bạn
phân biệt lằn ranh giữa
sanh tử và
niết bàn. Mọi cái hiểu và các
kinh nghiệm về Pháp được thuyết trước kia mà bạn xem là quá đỗi
thân thiết được thấy như là những vỏ trấu bên ngoài. Khi tâm nhìn ra ngoài, nó
thoát khỏi tạo
tác ý niệm, và khi nó nhìn vào trong, nó
thoát khỏi tạo
tác ý niệm. Sự nhạân biết của cái thấy
bản tánh thoát khỏi tạo
tác ý niệm thì không có nền tảng,
vô trụ. Không có thể
tìm ra sự
định danh quy ước nào dành cho nó, và nó không thể là một đối tượng của
tâm thức. Không có một đối tượng nào, bạn
nhận biết chính bạn. Sự cắt đứt không có
ý niệm những gán ghép
giả định là thấy tánh,
bản tánh cốt lõi này là
tự do đối với tạo
tác ý niệm.
Trí Huệ Ba La Mật Cô Đọng nói về
ý nghĩa của điều đó :
Sắc không được thấy, thọ cũng không được thấy. Tưởng không được thấy, hành cũng không được thấy. Thức về bất cứ cái gì, tâm và trí không được thấy. Bậc
Đạo Sư nói rằng đây là thấy
thực tại. Không có
thí dụ nào khác tương tợ với cái thấy này có thể được
tìm ra. Nếu điều này có thể đặt thành lời của
chúng sanh bằng cách nói, “Hư không được thấy”, hãy
chiêm nghiệm nghĩa cách nào
hư không hay
không gian được thấy.
Như Lai đã dạy thấy
thực tại theo cách đó.
Như thế, điều này vượt khỏi
phạm vi kinh nghiệm thiền định. Sự
chứng ngộ này thì đồng dạng với thức
bình thường và
thoát khỏi năm uẩn. Nó không có nền tảng như là
thực thể có
bản chất, do đó nó
thoát khỏi sắc ấm. Do tịnh hóa sự bám nắm vào cái biết qua
kinh nghiệm, nó
thoát khỏi thọ ấm. Do
vắng mặt những
định danh quy ước, nó
thoát khỏi tưởng ấm. Do
vắng mặt một
chúng sanh bị
ràng buộc, nó
thoát khỏi ấm của những
yếu tố cấu tạo. Do
vắng mặt sự
thông hiểu một đối tượng được xác định, nó
thoát khỏi thức ấm. Sự
chứng ngộ thoát khỏi năm ấm thành tựu như
tri giác tham thiền, đây là điều Phật chỉ dạy. Kinh
Tinh Túy của Amoghapasa ghi lại nghĩa đó : “Sự
tham thiền này
thoát khỏi năm ấm được
đức Phật nhắc nhở.” Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói :
Bất cứ điều gì
bạn thiền định, không nương
dựa vào nỗ lực nắm hiểu của
ý thức, thì có
chứng ngộ bản tánh.
Bản tánh này
thoát khỏi những cực biên động tĩnh, và thuộc
trí huệ bổn nguyên, nó là
bản tánh cốt lõi của tâm và của sự sanh, trụ, diệt của khởi niệm. Có sự thấu hiểu
không tính toán rằng mọi
hiện tượng thì
thoát khỏi tạo
tác ý niệm. Mọi
kinh nghiệm được hiểu là trống không và không có đối tượng. Như bóc vỏ trấu của tánh giác, hay như
tìm thấy một kho tàng, có một
chứng ngộ trần trụi, lộ
toàn thân,
sống động,
thoát khỏi tạo
tác ý niệm. Bạn nghĩ rằng bạn đã
đạt được sự làm chủ tâm, đây là điều
duy nhất. Từ
ban sơ, có một cái thấy biết đồng nhất. Những
biến đổi bất thường trong
kinh nghiệm không xảy ra, hoặc có xảy ra, không có vui hay buồn. Hướng tâm ra những
hiện tượng bên ngoài, mọi sự
xuất hiện như huyễn và tiến vào
tánh không. Và dầu
nếu không thế, cũng không có sự
cản trở chống trái. Như thế, những
xuất hiện là
bất định và
vô trụ, và thấy biết
sanh khởi,
tuyệt không có gán ghép
định danh. Bạn
chứng ngộ rằng
thực tại là như thế, và trong sự hòa nhập của định và quán những dấu hiệu của khởi niệm được
giải phóng ngay tại chỗ của chúng. Những
tư tưởng sanh khởi như là
Pháp thân. Những
xuất hiện hình tướng được
chứng ngộ là tâm của chính bạn. Do biết
tự tâm là
Pháp thân, cái thấy của bạn thấm tràn
tánh không. Như thế, những
xuất hiện này cũng duy chỉ được xác quyết là trống không, không
hiện hữu và không nền tảng. Có lạc trong
tánh không. Sự
chứng ngộ trổi vượt về
nhân quả và
tánh không được gọi là “yoga
thoát khỏi tạo
tác ý niệm”.
Yang Gošnpa nói :
Dù cho
bản tánh của
quang minh và
tánh không có được thấy, nếu bạn không
thoát khỏi mọi dấu vết của bám níu vào sự
nhận thức tánh không, bạn chưa
phân biệt được giữa
kinh nghiệm thiền định và
chứng ngộ ; thế nên đó là cấp độ nhỏ của
thoát khỏi tạo
tác ý niệm.
Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói :
Có những cấp độ nhỏ, vừa và lớn. Ở cái thứ nhất, bạn
chứng ngộ rằng những
xuất hiện và tâm chỉ là
bản tánh của tánh giác,
thoát khỏi sanh khởi và diệt dứt.
Tuy nhiên, một dấu vết của bám níu vào
nhận thức khía cạnh của
tánh không vẫn còn
lặng lẽ trong đó ; và bởi vì bạn chưa
thoát khỏi nó, bạn chưa thực sự
phân biệt được giữa
kinh nghiệm thiền định và
chứng ngộ. Trong thức
theo sau đó, khi nó không được
chánh niệm giữ gìn, sự bám chấp vào bạn và thù sẽ không dứt, và sự bám chấp vào những đối tượng không cắt đứt. Như thế, sự bám chấp xấu và tốt xảy ra, tách lìa khỏi
thực hành Đại Ấn là xấu, không tách lìa là tốt. Những bản văn không
nói nhiều về thấy tánh trong giai đoạn này.
Cũng có một mức độ
mê lầm đáng kể khi ngủ và mộng, và có ít trồi sụt trong sự
thực hành tâm linh của bạn. Đức Phagmo Drušpa nói, “Với cấp độ giữa,
tính không gốc rễ được
chứng ngộ.” Gyalwa Yang Gošnpa nói :
Vào lúc này, sự
chứng ngộ rằng tâm
thoát khỏi sanh và diệt chính là thức trần trụi,
bình thường ; và những
xuất hiện do khởi tưởng và những khuynh hướng
thói quen thì sáng sủa và
sống động.
Tỉnh giác thì trống không, và chuyển động thì trống không. Chúng không
sanh khởi như những
hiện tượng thực, chúng không diệt dứt như những
hiện tượng không thực ; và chúng không trụ ở như những
hiện tượng quy ước. Thế nên chúng
thoát khỏi sanh, diệt và trụ. Nghĩa của
ba cửa giải thoát (không,
vô tướng,
vô tác) được thấy. Nhờ sự
vắng mặt của cái xấu, nghĩa là sự dấn thân,
can thiệp của thức, có
thực hành tâm linh đích thực. Bởi vì cái này đưa bạn vào
con đường không
ô nhiễm, nó là
con đường thực sự của
giải thoát. Sự
chứng ngộ này
trở thành vững chắc, và vết dơ
thoái hóa của
yếu tố nhận thức của sự bám níu vào
tánh không rốt ráo được tịnh hóa. Thức
bình thường trở thành không đối vật và
sáng tỏ. Bạn
thoát khỏi gốc rễ
căn bản của bám chấp vào những
xuất hiện và bám chấp vào
tánh không ; thế nên giai đoạn vừa của sự
thoát khỏi tạo
tác ý niệm được nói là một
chứng ngộ không gốc rễ.
– Những
xuất hiện không thật có
sanh khởi – ngược với
cực đoan chấp thường – chúng cũng không diệt dứt như những
hiện tượng không thật – ngược với
cực đoan chấp nhận. Bởi vì
tâm không dự vào với những đối tượng của nó bằng cách bám nắm nữa, không có cái xấu của sự việc này, thế nên
thực hành tâm linh đích thực xảy ra. Vào giai
đoạn thực hành này, có những
xuất hiện, nhưng nhờ bám nắm
vắng mặt, không còn nữa một cảm thức về
nhị nguyên một chủ thể/đối tượng. –
Một Doha nói :
Ai biết sự không gốc rễ tận cùng này ?
Chính là sự
chứng đắc cao tột nhờ
lòng tốt của thầy.
Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói :
Giai đoạn vừa của
tự do khỏi tạo
tác ý niệm kèm theo một cảm thức thô, qua
kinh nghiệm về sự
tự do của tâm
thoát khỏi sanh, diệt và trụ. Những vết dơ thô của bám nắm vào
tánh không được tịnh hóa, và bạn
thoát khỏi cảm thức về
thanh tịnh hay khao khát. Thức
bình thường trở thành không đối vật và
rực rỡ. Mọi khởi niệm và mọi
phiền não của bám nắm những
xuất hiện và
tánh không là không có nền tảng, không gốc rễ, và
đơn giản là
nhận biết bản tánh của chúng trong
trạng thái thật của chính chúng là đủ. Những đối tượng bên ngoài còn chưa
hoàn toàn được dò thấu, thế nên
vẫn có một chút không
thoải mái với những
xuất hiện. Bạn tự hỏi, “Từ đâu
chúng sanh khởi ? Chúng là trống không, nhưng những
xuất hiện này diệt dứt, và chúng không
tác động nữa như những
biến cố tương thuộc
duyên sanh.” Khi những
tư tưởng như vậy, kèm theo chút
hy vọng và lo sợ,
sanh khởi trong suốt thức sau đó và khi mộng, nhiều
trạng thái mê lầm và không
mê lầm xảy ra. Thức tiếp sau cái đó gọi là
nhận biết. Bấy giờ bạn ở trong
trạng thái của
nhận biết trong định một cách không
cố gắng.
– Về năm
con đường,
cực điểm của cái đầu tiên trong bốn yoga – yoga
nhất tâm – tương đương với bốn giai đoạn của
con đường chuẩn bị. Vào giai đoạn này, chưa có một
chứng ngộ trực tiếp về
chân lý tối hậu (
Pháp thân).
Thoát khỏi tạo
tác ý niệm, yoga thứ hai, tương đương
con đường thấy, nó là
con đường thứ ba cũng như
con đường thiền định,
con đường thứ tư. –
Gotsangwa nói :
Trong giai đoạn thứ nhất của
tự do khỏi tạo
tác ý niệm bạn
chứng ngộ rằng mọi
hiện tượng thoát khỏi sanh, diệt và trụ. Điều đó làm
căn bản cho mọi phẩm tính
tuyệt hảo. Niềm
vui vẻ phi thường sanh khởi, cho nên địa thứ nhất được gọi là
Hoan Hỷ địa (hay
Cực Hỷ địa).
Do
chứng ngộ mọi
hiện tượng là
thoát khỏi mọi tạo
tác ý niệm, bạn
tự do khỏi những vết dơ của
phiền não, chúng được
loại bỏ trên
con đường thiền định ; thế nên địa thứ nhì được gọi là
Ly Cấu địa. (Dịch theo bản Anh : Không Vết Dơ.)
Do sự
ban phước của vị hướng dẫn
tâm linh của bạn, bạn
chứng ngộ rằng tâm vốn
tự do khỏi sanh và diệt ; thế nên địa thứ ba gọi là
Phát Quang địa (địa
Sáng Tỏ).
Trong sự
chứng ngộ không gốc rễ này, những phẩm tính vĩ đại của Phật khởi hiện, và những nhu cầu của
chúng sanh được
đáp ứng ; thế nên địa thứ tư là
Diệm Huệ địa (địa
Rạng Rỡ).
Do tịnh hóa những vết dơ của những khuynh hướng
thói quen, chúng khó tẩy sạch, địa thứ năm được gọi là
Nan Thắng địa (địa Khó Tịnh Hóa).
Đức Phagmo Drušpa nói, “Cấp độ lớn của
thoát khỏi tạo
tác ý niệm cắt đứt những gán ghép
vọng tưởng trên những
hiện tượng bên trong và bên ngoài.” Gyalwa Yang Gošnpa nói :
Vào lúc đó
bản tánh của khởi tưởng là lạc trong sự diệt dứt của dòng thức (
bất tịnh). Sự bám níu vào vui và buồn
sanh khởi liên hệ đến những
xuất hiện. Từ điểm này, bạn
phân biệt giữa
kinh nghiệm thiền định và
chứng ngộ.
Chứng ngộ và
kinh nghiệm thiền định trộn lẫn, và không có sự tách lìa của hai cái này,
chứng ngộ tịnh hóa
kinh nghiệm thiền định. Những
lợi lạc của
chứng ngộ hiện ra và được
duy trì nhờ
kinh nghiệm thiền định. Như thế,
chứng ngộ này là
tối hậu. Bạn
chứng ngộ rằng mọi
hiện tượng có thể có ở trong và ngoài được gồm trong
sanh tử và
niết bàn thì
thoát khỏi tạo
tác ý niệm, và bạn hiểu rằng không có một mảy lông nào mà không trống không. Như thế, những
hiện tượng xuất hiện là
vô ngã,
vô tự tánh. Những
xuất hiện và tâm bạn được chứng biết là cùng chỉ những
ý tưởng chung, và bạn chứng biết rằng những
xuất hiện không phải ở ngoài, mà là tâm của chính bạn. Đó cũng là
ý nghĩa được các nhà
Duy Thức xác nhận. Do
chứng ngộ bản tánh của
Bồ đề tâm, nó
thoát khỏi tạo
tác ý niệm, bạn cắt đứt những gán ghép trên
tánh không. Đây là
trí huệ tối hậu. Mọi
hiện tượng không có
tự tánh,
vô sanh và
vô trụ. Có lúc bạn
hạnh phúc, nhưng khi có một
suy giảm nơi sự tươi mới của bất cứ
ý niệm nào
sanh khởi, bạn có chút
bất hạnh. Bạn không
chứng ngộ hơn chỉ một khía cạnh của Đại Ấn. Một vị
sanh khởi, và không có
phân biệt giữa
tự do và không
tự do với tạo
tác ý niệm hay giữa
tánh không và không phải
tánh không. Những
xuất hiện thì tươi mới,
chứng ngộ thì tươi mới, và bạn
hài lòng với bất cứ cái gì xảy ra, bất cứ cái gì
xuất hiện, bất cứ cái gì
sanh khởi. Đó là sự
chứng ngộ đầu tiên về Đại Ấn
chân thật. Tịnh quang và
tự do khỏi tạo
tác ý niệm đã được
hiện thực.
Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói :
Trong cấp độ lớn của
thoát khỏi tạo
tác ý niệm, bạn cắt đứt những gán ghép
vọng tưởng lên mọi
hiện tượng trong và ngoài. Bạn biết rằng những
xuất hiện là
chính tâm bạn. Tâm và
hình tướng không có
tự tánh, và bạn
thoát khỏi bất kỳ đối tượng tập chú nào. Sự
chứng ngộ hoan hỷ thuần nhất này giống như
trung tâm của
không gian. Trước kia bạn
bất hạnh với những
xuất hiện, nhưng
hạnh phúc với tánh giác, và bạn
đi vào thực hành về tánh giác. Bây giờ bạn biết rằng những
xuất hiện là tâm. Bạn biết rằng tâm là trống không. Đó là cái dụng của
tánh không.
Tánh không là cái cao nhất của những
thiền định. Những gán ghép
hư vọng lên
tánh không được cắt đứt và được thấy là không có
tự tánh hay là không nền tảng. Sự
bất hạnh mỏng manh bởi vì sự
suy giảm của ‘cái đang là’ tươi tắn mới mẻ ở những
hình tướng xuất hiện hiện tại được xác định là một
xuất hiện không nền tảng,
như huyễn.
Vào điểm này,
thiền định là không ngừng vào ban ngày ; và ban đêm, có lúc
chứng ngộ sanh khởi và có lúc
mê lầm sanh khởi trong thức sau đó, gồm sự bám nắm vào những
giấc mộng. Điều này xảy ra do để cho
chánh niệm và nguyện vọng của bạn
suy vi trong giấc ngủ. Khi có sự xáo động do những
điều kiện kéo dài, mạnh mẽ, thức sau đó có thể
tiếp tục một ít lâu. Từ điểm này trở đi, nếu
thiền định tiến hành mà không có cảm thức về một người làm, bạn sẽ không bao giờ có lúc nào lìa khỏi nó.
Chánh niệm không dứt nương dựa một ít vào sự
thông hiểu không
phóng dật,
tỉnh táo, thế nên
chánh niệm là quan trọng.
Chánh niệm là
tiêu chuẩn phân biệt giữa định
thoát khỏi tạo
tác ý niệm ở một mặt và thức
tiếp theo sau ở mặt kia. Cái
duy nhất đứng giữa
thoát khỏi tạo
tác ý niệm và cả hai
sanh tử và
niết bàn là sự
hiện diện hay sự
vắng mặt của
chánh niệm. Tôi nói
chánh niệm là cái quan trọng nhất. Nếu bám
chấp không xâm phạm vào bất cứ cái gì, thì dù giận ghét
thường trực tự nó vẫn là trống không. Nếu bám chấp luồn vào mà không có
nhận biết hiện diện, những
phiền não và khởi tưởng
xuất hiện như chúng là có thật, và đó là
vô minh.
Khi bạn không lìa khỏi
nhận biết, dòng những
xuất hiện hình tướng như những
phiền não đi đến chỗ ngừng, và
tuy nhiên không có gì để chối bỏ hay
chấp nhận. Như một
chỉ dẫn cho điều đó, bạn không có cảm thức
tìm kiếm tánh không ngoài bất cứ
xuất hiện nào. Những
xuất hiện với thức sau
chứng ngộ thuần khiết thì
trong trẻo và
vô nhiễm. Bạn sẽ không luôn luôn ở trong
trạng thái này, thế nên hãy nương
dựa vào thông hiểu có
chánh niệm. Khó mà
thông hiểu mỗi
tư tưởng với
chánh niệm, thế nên hãy nương
dựa vào chánh niệm không ngừng dứt.
Nếu bạn không bị làm hại bởi những
hoàn cảnh hàng ngày, đó gọi là sự
chứng ngộ của cấp độ lớn của
thoát khỏi tạo
tác ý niệm. Bấy giờ bạn
chứng ngộ rằng
bản tánh cốt lõi của tâm là
thoát khỏi hay
tự do với sanh, diệt và trụ. Bạn thấy vượt khỏi
trí thức. Bạn
từ bỏ thật sự
thế gian. Bạn không
cảm thấy ghen ghét,
đố kỵ với ai. Nhiều phẩm tính như
tri giác siêu
giác quan sanh khởi. Trong
trạng thái sau
thiền định, những
xuất hiện hình tướng sanh khởi như những
huyễn hóa.
Bản tánh của
Bồ Đề tâm được
chứng ngộ. Bạn thoát ngoài những
hy vọng và lo sợ. Gốc rễ của bám nắm bị cắt đứt. Tám mươi hai che ám trên
con đường thấy bị đoạn trừ. Bạn không
trở lại vòng sanh tử nữa. Ngoài
năng lực của những
ý nguyện, bạn không nhận chịu sự sanh ra
trong vòng sanh tử do
ảnh hưởng của nghiệp. Khi điều này xảy ra,
bản tánh cốt lõi của
tự do khỏi tạo
tác ý niệm đã được thấy, và đó gọi là sự
toàn thiện của khả năng và sự
hoàn thành những phẩm tính
tuyệt hảo. Cũng ở đây, những khao khát về
ba cõi hữu bị rơi rụng. Bạn ở nơi
đơn độc bao la, một thất
thiền định phong kín, ở nơi
hoang dã và
ngữ ngôn chấm dứt.
– Trước
trạng thái này, trong
thiền định bạn thấy có người đang hành thiền. Một khi không còn có cảm thức về mình như là người làm, chỉ
đơn giản tiếp tục và không bao giờ lìa khỏi cái đó. Bao giờ bạn còn trên
con đường, bạn phải có một số
nỗ lực để
duy trì tỉnh giác để cho
thực hành có thể
tiến bộ. Vào điểm này, nếu bám chấp len vào, những
phiền não sẽ
sanh khởi :
chúng sanh khởi như thể chúng không có thật, nhưng chúng thuộc về
bản chất vô minh.
Chúng ta có thể
ẩn cư, nhưng ngược lại, nếu
chúng ta theo sự
thực hành của Dudjom Rinpoche, mọi
xuất hiện sẽ là những
xuất hiện thanh tịnh của
Hóa thân. Mọi
âm thanh sẽ giống như những
tiếng vang của lời Phật, và mọi
tư tưởng sẽ là những
diễn tả của
Pháp thân. Nếu bạn có thể
thực hành theo cách đó suốt ngày đêm, bạn sẽ
kinh nghiệm mọi sự là một vị. Không có gì để phải
từ bỏ, và không có gì để phải kiếm tìm.
Khi nói đến
thực hành này của Dudjom Rinpoche, bạn có thể nghĩ ngài chỉ là một
hành giả trên giai đoạn phát sanh, nhưng điều này sai. Thật ra, ngài là một
hành giả Dzogchen
phi thường. Nhưng những điều ấy
liên hệ với
chúng ta thế nào ? Trước hết
chúng ta trau dồi một cái nhìn thấy
thanh tịnh về những
xuất hiện, những
âm thanh và
biến cố tâm thức. Về mỗi cái trong ba cái ấy,
chúng ta có thể nói đến
tinh túy,
bản tánh và lòng bi thấm khắp tất cả những
xuất hiện,
âm thanh và
hoạt động tâm thức. Sự
thực hành chín phần này lưu xuất từ một
bản tánh, tức là tánh giác. Tánh giác của
chúng ta là
tinh túy của mọi
giáo lý Đại Ấn và
Đại Toàn Thiện. –
Gotsangwa nói :
Với sự
chứng ngộ trưởng thành của cấp độ nhỏ của
thoát khỏi tạo
tác ý niệm, cả
sanh tử và
niết bàn biểu lộ rõ ràng là
vô sanh, thế nên địa thứ sáu được gọi là
Hiện Tiền địa (địa
Biểu Lộ).
Lằn phân cách giữa
con đường còn
nhiễm ô và
con đường không
nhiễm ô của
thiền định là cấp độ vừa của
thoát khỏi tạo
tác ý niệm, thế nên địa thứ bảy là
Viễn Hành địa.
Giống như đất, địa thứ tám là
Bất Động địa.
– Đích nhắm của những
thành tựu giả vĩ đại phái Kagyu, những người đã có được những
quán chiếu sâu xa vào Đại Ấn, không phải là một cái
hiểu ý niệm về sự
liên hệ giữa mười địa và Bốn Cấp Bậc Yoga.
Tuy nhiên, nhiều vị đã có được một cái hiểu thấu suốt, qua
thực hành, về Bốn Yoga, nhất là hai Yoga đầu. Yoga thứ tư, yoga không
thiền định, không được
bàn luận nhiều vì nó khó
đạt đến. Thay vì
quan tâm đến một
chứng ngộ mà
chúng ta chưa
thành tựu và có thể còn xa,
tốt hơn là xoay sự chú ý của
chúng ta vào cái
chúng ta có một cơ may
thực hiện được. Điều này cũng đúng với cái nhìn thấy thứ tư của Nhảy Qua,
tịch diệt vào trong tự thân
thực tại. Những người
thực hành Dzogchen thường không
bàn luận cấp bậc này bởi vì chỉ từ nghe những
giáo lý người ta có thể trở nên vênh vang, nghĩ rằng họ
hoàn toàn hiểu nó hay thậm chí
đạt được nó rồi ! Bởi vì mức độ
chứng đắc này rất cao cấp, không quan trọng để có một cái
hiểu ý niệm
chính xác về nó, khi mà thật ra,
kinh nghiệm riêng của
chúng ta quanh quẩn, lạch bạch ở sau xa. –
Gyalway Chošjey nói :
Nhất tâm của
thoát khỏi tạo
tác ý niệm là
chánh niệm không
phóng dật về
bản tánh của bất cứ cái gì
xuất hiện ; và đó là cái thấy của
nhất tâm.
Thoát khỏi tạo
tác ý niệm của
thoát khỏi tạo
tác ý niệm là
tính không nền tảng của bất kỳ
cực đoan nào của những tạo
tác ý niệm khi bạn
quan sát cái gì. Một vị của
thoát khỏi tạo
tác ý niệm là một vị trong
trạng thái tánh không của mọi sự. Không-thiền định của
thoát khỏi tạo
tác ý niệm là
hoàn thành sự
tin chắc vào đó và
hộ trì nó
thường trực suốt ngày đêm.
– Về mặt
nhất tâm của yoga thứ hai,
thoát khỏi tạo
tác ý niệm, bất cứ
kinh nghiệm nào bạn có thể có, dù nó
liên hệ đến
sanh khởi những
xuất hiện hay
thực hành của bạn về định tĩnh và
quán chiếu, chính mặt
chánh niệm không
phóng dật này là
nhất tâm của
thoát khỏi tạo
tác ý niệm. Mặt
thoát khỏi tạo
tác ý niệm của
thoát khỏi tạo
tác ý niệm ngụ ý rằng bạn
chứng ngộ tánh không trong mọi sự
kinh nghiệm được hay
quan sát được. Trong cách
thức kinh nghiệm một vị của
thoát khỏi tạo
tác ý niệm, bạn
nhận biết bản tánh “một” của tất cả những
nhị nguyên. Trong dòng
kinh nghiệm thế gian,
chúng ta đi qua nhiều
nhị nguyên :
sanh tử và
niết bàn, vui và buồn,
bình an và xáo động v.v... Một vị không ngụ ý rằng những
kinh nghiệm này là không có, nhưng chúng có cùng một
bản tánh. Trong
tinh túy, những cái
chúng ta dán nhãn như là
sanh tử và
niết bàn, vui và buồn... về
cốt lõi là đồng
bản tánh. Không
thiền định của
thoát khỏi tạo
tác ý niệm là
hoàn thành sự tự tin vào
chứng ngộ trước kia và
hộ trì nó một cách
thường trực ngày đêm. –
Có nhiều
người đã thành tựu những cấp độ lớn và vừa của
thoát khỏi tạo
tác ý niệm qua
kinh nghiệm. Bởi thế hãy
nhận biết chứng ngộ qua
kinh nghiệm của riêng bạn như thể bạn
nhận biết một cái chén
của riêng bạn. Tôi khuyến khích bạn để hết
tâm trí vào những
thực hành cho mức độ của bạn.