CHƯƠNG BẢY
Làm thế nào để tu theo Con Đường
Nhảy Qua
Kính lễ đức
Quán Thế Âm !
– Chỉ bằng cách
tích lũy một cái hiểu thấu suốt về cả Đại Ấn và
Đại Toàn Thiện mà bạn có thể đặt một nền tảng chắc thật cho giai đoạn những
giáo lý này. Không có một
căn bản thích hợp, phần
thực hành Nhảy Qua sẽ không có
ý nghĩa và kết quả. Đối với sự
thực hành của cả Đại Ấn và giai đoạn Phá Thấu của
Đại Toàn Thiện, sự trau dồi định và quán là những nền tảng không thể thiếu. Đối với sự trau dồi định và quán, những
thực hành sơ bộ, gồm những giai đoạn phát sanh và
thành tựu, là thiết yếu. Đây là chuỗi
thực hành truyền thống cho sự
tu hành này.
Không có một nền tảng
thích hợp, bạn có nguy cơ bị lật ngửa như một lama ở
Tây Tạng khi có một
đệ tử hỏi, “Lama, ngài đang
thiền định về cái gì ?” Vị lama
trả lời, “Ta đang
thiền định về
nhẫn nhục.” Lâu sau cậu bé
trở lại và hỏi, “Lama, bây giờ ngài đang
thiền định về cái gì ?” Rất ngay thẳng, lama
trả lời, “Nhẫn nhục.”
Trở lại lần thứ ba, cậu bé hỏi, “Lama, ngài đang
thiền định về cái gì ?” Vị hướng dẫn
tâm linh lại nói, “Ta đang
thiền định về
nhẫn nhục.” Cậu bé nói, “Ô Lama, đi ăn cứt đi !” Tức khắc vị lama hét lên, “Ta ăn cứt ? Chính mày ăn cứt !”
Sự
thực hành định có trong
Tiểu thừa,
Đại thừa và
Kim Cương thừa. Thật vậy, nó có mặt suốt trọn
con đường đến sự
thức tỉnh tâm linh và
bao gồm sự
thức tỉnh này. Mọi thừa và mọi loại
thực hành đều
thấm nhuần quán và định. Để
nhấn mạnh điểm này : định và quán có
ý nghĩa với
mọi người, không chỉ cho người
Phật tử,
cho đến khi mỗi
chúng sanh giải thoát khỏi
sanh tử, vì không có định và quán này,
chúng ta vẫn
lệ thuộc vào
phiền não. –
Đây là những
giáo huấn thực hành sâu xa của
Quán Thế Âm. Đã trình bày những
giới thiệu cả hai giai đoạn Phá Thấu(6) và Nhảy Qua(7) của
Đại Toàn Thiện,
lý do tại sao cần hợp nhất hai cái này được nói đến trong Tantra
Bí Mật của
Mặt Trời của
Cõi Giới Trong Sáng Rực Rỡ của những Dakini :
Không có Phá Thấu, sẽ không có Nhảy Qua.
Không có Nhảy Qua, sẽ không có Phá Thấu.
Tantra
Trích yếu những
Tham Thiền của Samanta-bhadra nói :
Nếu nghĩa của Phá Thấu này không được
chứng ngộ,
Thì dù Nhảy Qua được
kinh nghiệm, nó vẫn sẽ là
nhị nguyên.
Lầm lộn nghĩa với thứ tào lao không thể nghiệm
Thì giống như ném vụn vàng vào suối nước.
Như thế, sự hợp nhất cái nhìn thấy về nền tảng – tức là
để tâm vào
bản tánh thiết yếu của Phá Thấu, Đại Ấn – và
con đường – tức là tịnh quang của sự Nhảy Qua – là chót đỉnh của chín thừa.
Tịnh quang của Nhảy Qua cần được
thực hành. Về việc này có bốn
đề mục : (A) trước hết đánh vào những điểm
trọng yếu về thân, ngữ và tâm ; (B) trên
căn bản của ba
trọng yếu, để cho
tri giác trực tiếp đến với bạn ; (C) những
giáo lý về cách bốn cái nhìn thấy
xuất hiện nếu bạn
thực hành ; và (D)
lời khuyên kết thúc.
A. ĐÁNH VÀO NHỮNG ĐIỂM TRỌNG YẾU
Đây có ba
đề mục : (1) những điểm
trọng yếu của thân, (2) những điểm
trọng yếu của ngữ, và (3) những điểm
trọng yếu của tâm.
1. Đánh vào những Điểm
Trọng Yếu của Thân
Có ba
đề mục : (a) tư thế
hóa thân giống như một rïsïi ngồi xổm, (b) tư thế
báo thân giống như một con voi nằm tựa và (c) tư
thế pháp thân giống như một
sư tử ngồi trong tư thế một con chó. Tantra
Nguyên Thủy về sự
Thâm Nhập của
Âm Thanh nói :
Trong tư
thế pháp thân của một con
sư tử, người ta
thoát khỏi mọi
sợ hãi mê lầm và thấy với đôi mắt
kim cương. Trong tư thế
báo thân nằm dựa như một con voi, người ta
kinh nghiệm bản thân thực tại và thấy với đôi mắt
hoa sen. Trong tư thế
hóa thân của một rïsïi ngồi xổm, người ta
biểu lộ trong
hình dáng của
bản thân thực tại và thấy với đôi mắt Pháp.
Nếu có nhiều người
thực hành, tư thế
hóa thân là đủ. Nếu có số ít
đệ tử và không phải là một
giáo lý công khai, hãy không quá bảy người. Khi trời trong và không gió, hãy dẫn các
đệ tử của bạn đến một chỗ im vắng.
a. Tư
thế Pháp thân của một con
Sư tử ngồi trong Tư thế một con Chó
Xếp đặt thân bạn trong tư thế của một con chó :
hai lòng bàn chân trên đất ; siết chặt hai tay thành nắm
kim cương ; cắm hai ngón chân cái trên mặt đất. Như
sư tử, vươn phần trên hướng lên, duỗi mình oai nghiêm trên đất ; và hướng cái nhìn đến
mục tiêu.
–
Hai lòng bàn chân
sát đất. Cắm hai ngón chân cái trên đất và giống như một con
sư tử vươn ngực lên. Để làm thành nắm tay
kim cương, thu các ngón tay cái vào lòng bàn tay, chạm vào phần chót ngón tay đeo nhẫn, và những ngón còn lại nắm vào quanh ngón đeo nhẫn. Không cong cổ tay, đặt cánh tay thẳng giữa hai đùi, chúng hướng ra hai bên. Mạnh mẽ duỗi mình trên đất trong tư thế oai hùng. Trong một số
truyền thống, người ta đặt nắm tay trên đất trước chân họ ; những
truyền thống khác lui sau một tí. Hơi ngẩng cằm và hai mắt, và hướng cái nhìn đến đối tượng, tức là
không gian trống không. –
b. Tư thế
Báo thân giống như một con Voi Dựa
Nằm úp xuống như một con voi ; ép hai đùi vào ngực ; để những ngón chân cái chỉa ra ngoài ; cắm hai khuỷu tay trên đất và hơi ngẩng cằm lên.
– Trong tư thế này hai mắt bạn không hướng lên cũng không hướng xuống, mà nhìn thẳng phía trước (song song với mặt đất) hay qua phải hay trái. Trong ba tư thế, cái này được xem là dễ nhất. Đùi và ngực
đối diện với mặt đất,
cho phép những ngón chân chỉa ra
tự nhiên đến độ bạn
cảm thấy mình là cái gì ở trên bụng, duỗi phần trên của ngực, và để cằm trong lòng bàn tay. –
c. Tư thế
Hóa thân như một Rïsïi ngồi xổm
Ngồi thẳng lên với hai cổ chân gần nhau, bàn chân trên mặt đất ; để thân bạn dựng thẳng ; đùi ép vào ngực, khoanh cánh tay (từ khuỷu tay trở ra) ôm chặt lấy đùi ; và để cho xương sống thẳng đứng.
– Để
hai lòng bàn tay
sát đất, ngồi với đùi cong và cổ chân
sát nhau. Ép đùi vào ngực, để khuỷu tay trên đùi, vòng cánh tay phải qua cánh tay trái, và để hai tay trên vai. Giữ phần trên thẳng lên và xương sống thẳng –
Bằng cách đánh vào ba điểm
trọng yếu của thân theo cách này,
trí huệ bổn nguyên của tánh giác
hiện diện trong
thân thể bạn sẽ khởi lên
lộ diện. Như một
thí dụ, dù một con rắn có các phần thân, nếu nó không trườn dài thì những phần thân đó khó có thể thấy.
2. Những Điểm
Trọng Yếu của Ngữ
Ở đây có ba
đề mục : (a) để lộ ngữ, (b) làm yên lặng ngữ, và (c) ổn định ngữ. Về để lộ ngữ, trong ba hay bốn ngày hãy để cho ngữ lắng xuống đến sự
im lặng. Về làm yên lặng ngữ,
hoàn toàn im lặng ngữ của bạn, không để cho nó trộn lẫn với lời của ai khác. Về ổn định ngữ, ổn định bằng cách không nói điều gì như bạn đã câm.
–
Hoàn toàn làm yên lặng ngữ của bạn như sự
im lặng của những sợi dây đàn đã đứt. Qua phần
thực hành này, bạn
đi vào một
trạng thái không thể nghĩ bàn. Khởi lên từ
kinh nghiệm sâu thẳm này và hòa vào một
kinh nghiệm tánh Không, bạn
hoàn toàn làm
im lặng ngữ của bạn. Ngừng nói là một phần của
kinh nghiệm không thể nghĩ bàn này, nhưng
kinh nghiệm đó
hoàn toàn khác với một
quyết định cố ý không nói trong một
thời gian, chuyện này
thực ra không có gì
đặc biệt. –
3. Những Điểm
Trọng Yếu của Tâm
Không để cho
tỉnh giác của bạn
xao lãng đi đâu khác. Không để cho nó rời khỏi điểm ngắm.
– Dù bản văn dùng từ “điểm ngắm”, nó
liên quan đến ba tư thế. Về
pháp thân, cái nhìn hướng lên
không gian, đó là điểm nhắm của bạn. Không cho cái nhìn hay sự chú ý của bạn đi khỏi chỗ đó, điều này rất quan trọng. Hãy giữ nó đúng vào điểm ngắm. Trong tư thế
báo thân, cái nhìn nằm ngang, thế nên bất cứ cái gì
xuất hiện trong khoảng ấy là điểm ngắm của bạn. Trong tư thế
hóa thân hãy hướng cái nhìn xuống dưới, khoảng vài chiều dài ngón tay dưới chót mũi, không để cho cái nhìn hay sự chú ý đi lang thang khỏi chỗ đó.
Trọng yếu là
tìm ra một
con đường trung dung trong tư thế của bạn, không chặt quá hay lỏng quá. Nếu nó
lôi thôi,
toàn bộ ý nghĩa sẽ mất. Ngược lại, không nên cứng cỏi
quá mức.
Cố gắng trung dung. –
B. TRÊN CĂN BẢN BA ĐIỂM TRỌNG YẾU, ĐỂ TRI GIÁC TRỰC TIẾP ĐẾN VỚI BẠN
Đây có ba
đề mục : (1) những điểm
trọng yếu về chỗ mở, (2) những điểm
trọng yếu về đối tượng, và (3) những điểm
trọng yếu về
sinh khí.
– Những chỗ mở
ám chỉ hai mắt ; đối tượng là
không gian, và những điểm
trọng yếu về
hơi thở thuộc về
sinh lực. –
1. Những Điểm
Trọng Yếu về những Chỗ Mở
Những điểm
trọng yếu về những chỗ mở là hai mắt, như Tantra
Nguyên Thủy về sự
Thâm Nhập của
Âm Thanh nói :
Về những chỗ mở, hãy ngắm bằng hai mắt
phù hợp với
ba thân.
Không Chữ nói :
Hãy ngắm bằng hai mắt
vào khoảng không gian.
Tràng
Ngọc Trai nói :
Về những chỗ mở, chớ lìa khỏi cái vốn như vậy.
Ở đây có ba
đề mục : (a) với sự ngắm
pháp thân bạn nhìn lên để ngừng
lập tức những
hình tướng xuất hiện hư vọng ; (b) với sự ngắm
báo thân bạn nhìn ngang để thấy
bản tánh cốt lõi một cách trần trụi ; và (c) với sự ngắm
hóa thân bạn nhìn xuống để
kiểm soát được những
sinh khí và
tâm thức. Chớ bỏ ba loại
ngắm nhìn này.
2. Những Điểm
Trọng Yếu về Đối Tượng
Điều này gồm
không gian tuyệt đối ở bên ngoài và
không gian tuyệt đối ở bên trong. Tantra
Nguyên Thủy về sự
Thâm Nhập của
Âm Thanh nói :
Không gian tuyệt đối thì ở bên ngoài và bên trong : cái bên ngoài là một bầu trời không mây, và cái bên trong như một
con đường có thắp đèn.
– Bầu trời không mây này không có dù chỉ một
màn sương mỏng.
Con đường bên trong có thắp đèn là kinh mạch của
tỉnh giác chạy từ tim đến hai mắt và rồi đi ra ngoài trong trường nhìn của bạn. Ngầm chứa trong cái này là
phương diện của
tánh Không, thế nên khi bạn có được
kinh nghiệm, sự
phân biệt bên trong và bên ngoài tan biến, và tánh
bất nhị của trong và ngoài được
chứng nghiệm. Bằng cách nhìn ra ngoài
không gian, bạn thực sự trau dồi, tịnh hóa và làm
biểu lộ hơn cái bên trong,
cụ thể là tánh giác. Qua cái bên ngoài, cái bên trong
trở thành biểu lộ. –
Ngọn Đèn Chói Sáng nói :
Bằng cách
an định tỉnh giác của bạn vào
không gian tuyệt đối ở bên ngoài,
bản thân tánh giác được tịnh hóa và soi chiếu trong
trạng thái của chính nó.
Tantra của Tánh Giác
Sanh Khởi Tự Nhiên nói :
Bản tánh của
không gian tuyệt đối là một
vòng hào quang.
– Sự
liên hệ giữa ngoài và trong có thể hiểu bằng
ẩn dụ rót một tách nước vào
đại dương, vào lúc đó nó không còn
phân biệt với
đại dương.
Tương tự, nếu bạn chụm hai tay lại,
không gian được gói kín trong lòng hai bàn tay, nhưng khi mở tay ra, nó không
phân biệt với
không gian chung quanh. –
Những Dấu Vết
Niết Bàn nói :
Điểm
trọng yếu của đối tượng là bầu trời,
thoát khỏi mọi
điều kiện.
Không gian tuyệt đối bên trong là
ngọn đèn tinh khôi. Hơn nữa, không có đối tượng để bám nắm trong
không gian trống rỗng, thế nên do tập chú vào điểm
trọng yếu của đối tượng, tức là
không gian tuyệt đối,
trí huệ bổn
nguyên an nghỉ
thong dong.
3. Những Điểm
Trọng Yếu của những
Sinh KhíCó ba điểm
trọng yếu của những khí lực : (a) giữ lại, (b)
tống ra, và (c) sự
chầm chậm và
vững chắc. Tantra
Nguyên Thủy về sự
Thâm Nhập của
Âm Thanh nói :
Điểm
trọng yếu của những
sinh khí đến từ sự giữ chúng lại một cách
vững chắc và trục xuất chúng
hoàn toàn.
Những Dấu Vết
Niết Bàn nói :
Điểm
trọng yếu của những
sinh khí được
phát lộ trong sự rất chậm của chúng.
Trước hết giữ
hơi thở lại một cách nhẹ nhàng, rồi tống nó ra ngoài xa như bạn tống một mũi tên. Sau đó, hãy để
hơi thở rất chậm như nó
tự nhiên ổn định. Về điểm
trọng yếu của
tỉnh giác, hãy giam giữ những sợi dây bện.(8) Không Chữ nói :
Bản tánh cốt lõi khởi hiện như những chuỗi dây,
tinh tế, lấp lánh.
– Hãy để cho
hơi thở, nó cùng một
bản chất với những
sinh khí, được
tự nhiên, không làm
biến đổi nó dù cách nào. Những điểm cốt yếu của
thực hành là chỗ ngắm của mắt, tư thế, và để
hơi thở được
tự nhiên. Cầm giữ những chuỗi dây
kim cương sáng lung linh của tánh giác bằng cách chú ý vào chúng.
Về phần
thực hành, khi bạn hướng tầm ngắm
trước mặt, những chuỗi dây
kim cương của tánh giác này sẽ
xuất hiện trong
không gian trước mặt bạn. Nếu những sợi dây bindu này bắt đầu chuyển động, chớ liếc mắt qua chung quanh hay
cố gắng giữ chúng bằng cách xoay qua trái hay phải. Hơn nữa, “giam giữ” những chuỗi dây này bằng cách giữ sự ngắm rất
vững chãi, và
dần dần những chuỗi dây
kim cương này sẽ
trở nên an định, và những phẩm tính và
chứng nghiệm tuyệt hảo sẽ khởi lên từ việc đó. Ngược lại, nếu bạn
áp dụng một
kinh nghiệm như vậy cho
tâm thức bình thường và loạn thần của bạn, thì chẳng có một ổn định hay phẩm tính
tuyệt hảo nào phát sanh cả. –
Tantra của Tánh Giác
Sanh Khởi Tự Nhiên nói :
Những
hiện thân của ánh sáng,
thấm nhuần năm trí huệ bổn nguyên,
Biểu lộ sống động như những chuỗi dây.
Chúng đến và đi,
Dao động và trải ra.
Sự
Hoàn Thành của
Năng Lực của
Trí Huệ Bổn Nguyên nói :
Bậc tự-xuất hiện của tánh giác
Trụ như những chuỗi dây của
trí huệ bổn nguyên.
Những Dấu Vết
Niết Bàn nói :
Hãy giữ những chuỗi dây trong nhà tù của
tỉnh giác.
Theo cách này, hãy để cho
tỉnh giác của bạn, không hề lìa khỏi ba địa điểm,
quan sát những chuỗi.
Ban đầu hãy có nhiều thời khóa ngắn rồi
dần dần tăng thêm độ dài của những thời khóa. Bấy giờ
thực hành vào những thời điểm
đặc biệt suốt ngày và đêm, một kết quả của việc đó là bạn sẽ
tu hành một tháng rưỡi.
C. BỐN CÁI NHÌN THẤY XUẤT HIỆN NHƯ THẾ NÀO
Cách những cái nhìn thấy
sanh khởi như một kết quả của
thực hành như thế được dạy trong Những
Giáo Huấn Màu Trắng của
Quán Thế Âm về Nghĩa của
Tham Thiền Ban Ngày. Cái nhìn thấy thuộc
tri giác về tự thân
thực tại, được gọi là “chuỗi dây
kim cương của tánh giác”, thì giống như một
chuỗi hạt pha lê. Không chao động, mạnh mẽ tập chú vào cái nhìn thấy này, nó
thoát khỏi hai cực biên là những
hình tướng xuất hiện và
tánh Không, ở điểm ngang giữa hai lông mày.(9) Do làm như vậy, sẽ
sanh khởi những cái nhìn thấy do những
sinh khí năng động tiêu tan ở bên ngoài, và
sinh khí của
trí huệ bổn nguyên được
đi vào kinh mạch trung ương. Chúng được gọi là “sáu dấu hiệu ban ngày”. Sự
Diễn Tả Toàn Hảo những
Danh Hiệu của
Văn Thù nói :
Đống lửa lớn của
trí huệ và tánh giác bổn nguyên
Khởi sanh
từ không gian và khởi sanh từ chính nó.
Do
sinh khí của những kinh mạch phía sau
đi vào kinh mạch trung ương, có sự được gọi là một màu đỏ chiếu sáng như một ngọn lửa hừng, gọi là “sự sáng chiếu của ánh sáng lớn”. Do sự hội tụ của
sinh khí của những kinh mạch phía trước vào kinh mạch trung ương, có sự được gọi là một tia chớp như sấm chớp, gọi là “hình tướng
xuất hiện sáng chiếu của
trí huệ bổn nguyên”. Do sự hội tụ của
sinh khí phía bên trái, có một màu trắng lung linh như
mặt trăng, gọi là “ngọn lửa của thế giới”. Do sự hội tụ của những
năng lực nghiệp phía phải, có một màu đỏ lung linh như
mặt trời, gọi là “ngọn đèn của
trí huệ bổn nguyên”. Do sự hội tụ của
sinh khí phía trên, có một màu đen như Rahu, gọi là “tịnh
quang vinh quang vĩ đại”. Do sự hội tụ của
sinh khí trong kinh mạch trung ương, có nói rằng có
xuất hiện một bindu
tinh tế, màu sẫm của ánh sáng cầu vồng.
– Ở trên là những
ám chỉ đến những loại cái nhìn thấy mà người ta có thể
kinh nghiệm trong
thực hành này. Những cái ấy thực sự là những
tri giác thị giác, không phải là những
hình ảnh ý niệm, không phải của chư Phật hay của các sinh thể
thiêng liêng khác, mà của cái tánh giác của chính bạn.
Chừng nào bạn có một cái nhìn thấy trực tiếp tánh giác của chính bạn, bạn là một vị Phật. Đôi khi người ta có một cái nhìn thấy, họ nghĩ là họ đã nhận được một trao truyền lạ lùng hay một mặc khải huyền bí, và
lập tức họ nói cho người khác nghe. Khi làm thế, người ta nên lấy làm ngượng. Do có được một
chứng ngộ đích thực
bản tánh của tánh giác của chính mình,
chúng ta chuyển hóa những
phiền não của năm độc thành
năm trí huệ bổn nguyên. Đó là
lý do chúng ta thực hành. Một
chứng ngộ đích thực khởi lên, không
cần thiết nói với ai
chúng ta đã có một số cái nhìn thấy nào đó. Những ai thực sự có những
kinh nghiệm đích thực thì không
cảm thấy cần nói về chúng ! –
Viên
Ngọc Như Ý : Những
Giáo Huấn về
Tinh Túy của
Cõi Giới Trong Sáng của Ratna Lingpa nói :
Thiền định theo cách đó,
trước tiên, ở điểm giữa hai lông mày
xuất hiện cái gì giống như ánh sáng cầu vồng, gọi là “ngọn đèn nguyên sơ của
không gian tuyệt đối”. Trong đó là “bindu của
ngọn đèn trống không”, nó giống như những vòng tròn đồng tâm do ném một viên đá (xuống một cái ao). Trong đó, giống như một dĩa tròn của áo giáp,
xuất hiện một bindu cỡ bằng một hạt mù tạt hay hạt đậu. Trong đó là “những chuỗi dây
kim cương của tánh giác”, chúng
tinh tế như những nút trên lông đuôi ngựa, như những viên
ngọc trai treo trên một sợi dây, như những
xích sắt, như những
tràng hoa xào xạt trong gió v.v... Chúng đều
xuất hiện thành bộ hai, ba... Chúng là tánh giác của chính bạn, gọi là “chuỗi kim cương”, và “bindu độc nhất”.
Không gian tuyệt đối và tánh giác
hiện diện không hợp nhất cũng không chia lìa, như
mặt trời và những
tia sáng của nó. Dấu hiệu của
không gian tuyệt đối là một
vòng hào quang, dấu hiệu của
trí huệ bổn nguyên là một bindu, và những dấu hiệu của những
hiện thân là những chuỗi. Về chỗ của chúng, khi ở trong
tâm thức (citta), bindu là dấu hiệu của
trí huệ bổn nguyên và chuỗi là dấu hiệu của những
hiện thân xuất hiện một cách
tri giác trong đường lối của những
giác quan. Điều này xua tan những cái thấy do sự bám nắm của tính toán, những cái thấy phân tích của
trí thông minh được tạo dựng bởi
lời nói,
trí năng v.v...
– Trong giai
đoạn thực hành này, tư thế thông thường nhất là tư thế của một rïsïi ngồi xổm, nhưng cũng có thể
thực hành ngồi chéo chân
bình thường. Về nơi chốn, những bindu thực sự nằm ở trong citta (
tâm thức), tức là trái tim, nhưng chúng
xuất hiện trong đường lối những
giác quan – đôi mắt. Trong dĩa tròn của áo giáp
xuất hiện một bindu, cỡ hạt đậu.
Tuy nhiên, một số người thấy một bindu cỡ khác, và một số không thấy một bindu nào cả. Chuỗi
kim cương được tạo bằng những bindu
tinh tế, xâu thành chuỗi. Hai, ba hay hơn nữa những chuỗi
kim cương này của tánh giác
xuất hiện trong mỗi bindu, và những chuỗi
kim cương bản thân chúng
gồm có những bindu như
hạt trai trên một xâu chuỗi. Có thể có hai, ba hay nhiều hơn các
hạt trai này trên một xâu chuỗi
kim cương. Bởi thế số chuỗi
kim cương trong mỗi bindu và số lượng bindu trong một chuỗi có thể khác nhau nhiều.
Như khi
mặt trời lặn xuống chân trời, những cái nhìn thấy và những
chứng nghiệm từ giai
đoạn thực hành này xua tan mọi cái thấy
trí thức,
ý niệm đã trau dồi trong
quá khứ. Những cái thấy này không
sanh khởi do
thông minh, học vấn. Chúng
xuất hiện do bạn tin vào một
vị thầy tâm linh đích thực và
thực hành những tư thế và
ngắm nhìn đúng. Rồi
dần dần, từng giai đoạn, những phẩm tính bên trong của chính bạn
biểu lộ ra bên ngoài thành những cái nhìn thấy này. Ngược lại, nếu bạn nhảy vào
thực hành này mà không có sự hướng dẫn của thầy, không theo đúng trình tự
thực hành, những
chướng ngại sẽ khởi lên.
Thật ra, sự
thực hành chính thống của Đại Ấn và
Đại Toàn Thiện gồm một sự hợp nhất của
quang minh và
tánh Không. Sự
thực hành Dzogchen siêu vượt
tư tưởng và
tâm thức quy ước, và trong Đại Ấn không có sự
tham dự của trí óc. Sự
thực hành đó là một
xa lìa khỏi
tâm thức quy ước vẫn xem
thực tại quy ước là đối tượng. Bởi thế
ý nghĩa thực của
thực hành này là bạn siêu vượt
tâm thức quy ước và
thâm nhập thực tại.
Khi
chúng ta nghiên cứu những
thực hành của giai đoạn Nhảy Qua này,
chúng ta như đi từ đỉnh xuống. Bốn cái nhìn thấy của Nhảy Qua được gọi là những cái nhìn thấy (thị kiến) bởi vì chúng
xuất hiện với bạn một cách trực tiếp. Cái thứ nhất là cái nhìn thấy trực tiếp về tự thân
thực tại. Cái này kéo theo một cái nhìn thấy trực tiếp về cách thế
tối hậu của
hiện hữu của tất cả
hiện tượng. Nó là trực tiếp, vì nó là một
quán chiếu không qua
trung gian mà thuộc
tri giác hơn là một
kinh nghiệm do
ý niệm,
ngôn ngữ... tạo dựng. Điều này chỉ xảy ra sau khi người ta đã
nhận ra cái thấy từ chính
kinh nghiệm riêng. Tất cả những
giáo lý trong
Tiểu thừa,
Đại thừa và
Kim Cương thừa cuối cùng đều đưa
đệ tử đến
kinh nghiệm trực tiếp này về
bản tánh tối hậu của
thực tại.
Một khi bạn đã có một cái nhìn thấy như vậy, bạn phải
quen biết triệt để với sự
nhận thức này qua
thực hành, để cho nó không mờ nhạt đi khỏi thức của bạn. Chuỗi
kinh nghiệm này đưa đến cái nhìn thấy của
tiến bộ trong
kinh nghiệm thiền định, nó sẽ khai triển hơn nữa
quán chiếu ban đầu bạn đã có. Kết quả là bạn
đi vào cái thứ ba của bốn cái nhìn thấy – cái nhìn thấy tánh giác đến chỗ
viên mãn. Sự
thực hành của bạn bây giờ đến chỗ
trọn vẹn, như một trái đào chín
hoàn toàn, như một đứa bé khéo tập luyện thành ra những phẩm tính
tuyệt hảo của nó phát triển
viên mãn, hay như Phật
Thích Ca. Nhưng đó cũng chưa phải là cái nhìn thấy
cuối cùng.
Trạng thái cuối cùng là cái nhìn thấy của sự
tiêu tan mọi
hiện tượng vào tự thân
thực tại. Đó là điểm bạn không còn nương
dựa vào giáo lý hay
thực hành ; bạn đã
thành tựu sự
thức tỉnh tâm linh của một vị Phật.
Trong bốn cái nhìn thấy, cái nhìn thấy thứ nhất
tương ứng với
thâm nhập vào
bản tánh của những
hiện tượng như chúng là –
hiểu biết bản thể học của một vị Phật. Cái thứ ba
tương tự với
hiểu biết hiện tượng học của một vị Phật – thấy sự xếp hàng đầy đủ của những
hiện tượng. Sự không thể
phân chia của hai loại
hiểu biết này tương đương với cái thứ tư, là chót đỉnh của ba cái trước. –
Một Đống Ngọc : những
Giáo Huấn về Tinh Yếu của những Dakini nói :
Cái nhìn thấy trực tiếp về tự thân
thực tại xuất hiện vi tế và
thuần khiết,
trong trẻo và
sáng ngời,
rực rỡ tự nhiên và
kỳ diệu.
Ngọn đèn của
không gian tuyệt đối và tinh khôi
xuất hiện trực tiếp, thấm đẫm năm màu của một cầu vồng, theo chiều đứng và chiều ngang, như mũi tên và mũi giáo, như những mắt con cá, như những đầu nhọn của ánh sáng, như những lỗ mắt lưới, như những viên ngọc lấp lánh, và như một cái tháp phủ đày bindu lớn nhỏ. Trong tất cả những cái này
xuất hiện rõ ràng những chuỗi
kim cương có
bản chất là tánh giác. Hãy
nhận biết chúng và
thực hành không
dao động hay không
chắc chắn.
– Không
chắc chắn rằng mỗi
hình ảnh này sẽ
xuất hiện với bạn. Với một số người, một hay hai loại
sanh khởi, trong khi với những người khác thì có thể nhiều hơn.
Tuy nhiên, cách
duy nhất chúng xảy ra là do
thực hành nhiệt tình và
kiên trì trong tư thế đúng và cách ngắm
thích hợp, đem thân, ngữ, tâm bạn vào
thực hành. –
Giải Thoát Tự Nhiên của sự Thấy : những
Giáo Huấn Thực Nghiệm về Tiến Trình
Quá Độ của
Bản Thân Thực Tại của Karma Lingpa nói :
Thứ nhất, về cái nhìn thấy trực tiếp về tự thân
thực tại, vị hướng dẫn
tâm linh dạy, “Hãy
thực hiện điểm
trọng yếu của thân như thế này,
thực hiện điểm
trọng yếu của ngữ như thế này, và về điểm
trọng yếu của tâm, hãy tập trung vào đây.” Học trò
thực hành như vậy, không nương
dựa vào những thi thiết của trí tưởng tượng và
lời nói, họ thấy trực tiếp như đối tượng của họ cái nhìn thấy tánh giác của
bản thân thực tại trong
không gian trống không, không bị
ô nhiễm bởi bất kỳ sự
ý niệm hóa
hấp dẫn nào. Thế nên nó được gọi là “cái nhìn thấy trực tiếp về tự thân thực tại”.
Như vậy, bằng cách
thực hành phù hợp với những điểm
trọng yếu, giữa hai lông mày bạn có “ngọn đèn của
không gian tuyệt đối nguyên sơ”. Nó
xuất hiện như những màu sắc của một cầu vồng hay con mắt của bộ lông con công. Trong đó là cái gọi là “ngọn đèn của những bindu trống không”, và nó giống như những vòng tròn đồng tâm của những gợn sóng khi bạn ném một hòn đá vào ao. Ở trong một hình thể như những dĩa tròn của một tấm khiên
xuất hiện một bindu cỡ một hạt mù tạt hay hạt đậu. Trong đó có những cái gọi là “những chuỗi dây
kim cương của tánh giác”, chúng tinh
xảo như những nút trên đuôi một con ngựa, như một
chuỗi hạt trai, như dây
xích sắt, như một
tràng hoa đong đưa trong gió nhẹ... Mọi cái này
xuất hiện thành hai, ba v.v... và chúng được gọi là “bindu độc nhất của chuỗi của tánh giác của chính bạn”.
Không gian tuyệt đối và tánh giác không
kết hợp cũng không tách lìa, mà
hiện diện theo cách
mặt trời và những
tia sáng của nó. Dấu hiệu của
không gian tuyệt đối là một
vòng hào quang, chỉ điểm của
trí huệ bổn nguyên là những bindu, và dấu hiệu của tánh giác và những
hiện thân là những chuỗi. Về chỗ của chúng,
chúng hiện diện trong
trung tâm của citta, và về đường lối của chúng, chúng trực tiếp
xuất hiện với mắt.
– Khi
ngọn đèn này
sanh khởi, nó
trong sáng và
vững vàng và
xuất hiện trong nhiều màu. Nó không khởi sanh tự động hay rất nhanh, mà đến từ từ như một kết quả của
thực hành. Trong một hình thể như những dĩa tròn của một tấm khiên,
xuất hiện một bindu giống như một bọt nước – nó
xuất hiện như không có hình thể hay
bản tánh nội tại. Những bindu này, như
ngọc trai, nút thắt và hoa nối nhau thành chuỗi hai, ba cái hay nhiều hơn. Dù chúng được gọi là bindu độc nhất, không có nghĩa là bạn chỉ thấy một bindu trong giai
đoạn thực hành này, mà đúng ra điều này
ám chỉ đến
bản tánh độc nhất của tất cả mọi
hiện tượng.
Sáu “ngọn đèn” là :
ngọn đèn citta của thịt, ở trong trái tim ;
ngọn đèn của kinh mạch kati trống rỗng như
pha lê, nó là một kinh mạch màu nhợt,
tinh tế nối trái tim với hai mắt ;
ngọn đèn thòng lọng chất lỏng,
ám chỉ hai mắt, như một cái
thòng lọng ;
ngọn đèn của
không gian tuyệt đối nguyên sơ ;
ngọn đèn của những bindu trống rỗng ; và
ngọn đèn của
trí huệ tự-sanh khởi. –
Tantra
Nguyên Thủy về sự
Thâm Nhập của
Âm Thanh nói :
Cái nhìn thấy trực tiếp về tự thân
thực tạiChắc chắn khởi hiện ở cửa của các
giác quanTrong bầu trời
trong sáng,
thanh tịnh, không mây.
Có nói :
Những cái thấy do bám chấp vào so đo,
thông minh tạo bằng
lời nói và
trí năng, và những cái thấy phân tích đều tan biến.
Cõi Giới Trong Sáng ghi nhận :
Do nhìn ngắm mạnh mẽ vào bầu trời xanh, khoáng đạt, một
ngọn đèn xuất hiện nơi cửa của các
giác quan,
đẹp đẽ như mắt của lông công, với những bindu nối nhau thành chuỗi, chuyển động không yên như thể
tới lui.
Tantra Tánh Giác
Sanh Khởi Tự Nhiên nói :
Những
hiện thân của ánh sáng
thấm nhuần năm trí huệ bổn nguyên
sáng tỏ như những chuỗi. Chúng đến và đi,
di động và tản ra.
Sự
Hoàn Thiện của Mãnh Lực
Sư Tử nói :
Bản tánh thiết yếu của tánh giác tự-xuất hiện
Biểu lộ như những chuỗi của
trí huệ bổn nguyên.
Hoa Văn Ngọc nói :
Từ
ngọn đèn thòng lọng chất lỏng, Phật
hoàn hảo biểu lộ trong
hình dáng những
hiện thân của những chuỗi của tánh giác.
– Mắt
bản chất là thể lỏng ; như một
thòng lọng, nó phóng đến những vật ở xa ; và như
ngọn đèn, nó chiếu sáng. Từ đây Phật
biểu lộ trong
hình dáng những chuỗi
kim cương của tánh giác. –
Cõi Giới Trong Sáng nói :
Trong
bản tánh vốn
thanh tịnhBản tánh của tính
tự nhiên hiện diện,
Tràn ngập khắp tất cả các bậc Bi Mẫn,
Xuất hiện từ những kinh mạch mọc từ citta
thanh tịnh.
Bản tánh của nó
xuất hiện nơi cửa của các
giác quan,
Và nó được gọi là
tri giác trực tiếp về (hay của) tánh giác,
Nó
thoát khỏi những phân
tích trí năng.
– Khác với cái thấy hiểu rằng tâm
ban đầu thì bị
ô nhiễm và rồi
dần dần nhờ
thực hành, tâm
trở nên thanh tịnh, trong ngữ cảnh này
bản tánh của tâm vốn là bổn
nguyên thanh tịnh, và nó chính là
Pháp thân.
Bản tánh của tính
tự nhiên, vốn đã
hiện diện, là
Báo thân, và những bậc Bi Mẫn
biểu lộ từ đó gọi là những
Hóa thân. –
Những Dấu Vết
Niết Bàn nói :
Hễ ai thấy điểm
trọng yếu này của
tri giác trực tiếp
Thì không
trở lại trong
ba cõi.
Bây giờ nhờ
ngắm nhìn vào những bindu của ánh sáng cầu vồng, khi ba
tia sáng cầu vồng
xuất hiện trong
trạng thái trung ấm, bạn sẽ
được giải thoát ngay trên sự
nhận ra năm trí huệ bổn nguyên là chính bạn.
– Do tự mình
quen thuộc với
thực hành này
trong đời bạn,
sau khi chết, bạn
đi vào trạng thái trung ấm, bạn sẽ được chuẩn bị khi những
tia sáng cầu vồng khác nhau
xuất hiện. Những
tia sáng này
chói sáng đến độ bạn khó có thể nhìn thẳng vào chúng ; nhưng qua sự
thực hành trước kia của bạn, khi chúng
xuất hiện, bạn sẽ
nhận biết chúng như là
bản tánh của chính bạn, và bạn sẽ
được giải thoát. Điều này giống như một đứa bé
nhận ra mẹ nó. –
Tantra của
Quán Thế Âm Nhận Thức Con Đường Bí Mật của Ánh Sáng
Tối Thượng của
Trí Huệ Bổn Nguyên nói :
Thiện nam tử, sự
chấm dứt hơi thở của con và
cảnh giới tinh khôi của Phật, như
mặt trời xuất hiện trên một tấm gương, thì
xuất hiện đồng thời. Vào lúc đó, khi thấy một ánh sáng xanh sẫm, hãy xem nó là
bản tánh trống không của tánh giác của chính con như là
trí huệ bổn nguyên của
không gian tuyệt đối của những
hiện tượng ; và con sẽ
chứng nghiệm Vajrasattva tự-sanh khởi với phối ngẫu và
hội chúng bao quanh.
Khi thấy một ánh sáng vàng, hãy xem nó là
bản tánh trống không của tánh giác của chính con như là
trí huệ bổn nguyên của
bình đẳng ; và con sẽ
chứng nghiệm Ratnasambhava tự-sanh khởi với phối ngẫu và
hội chúng bao quanh.
Khi thấy một ánh sáng đỏ, hãy xem nó là
bản tánh trống không của tánh giác của chính con như là
trí huệ bổn nguyên của
phân biệt ; và con sẽ
chứng nghiệm Amitabha tự-sanh khởi với phối ngẫu và
hội chúng bao quanh.
Khi thấy một ánh sáng lục, hãy xem nó là
bản tánh trống không của tánh giác của chính con như là
trí huệ bổn nguyên của
thành tựu ; và con sẽ
chứng nghiệm Amogasiddhi với phối ngẫu và
hội chúng bao quanh.
Khi thấy một ánh sáng trắng, hãy xem nó là
bản tánh trống không của tánh giác của chính con như là
trí huệ bổn nguyên như tấm gương ; và con sẽ
chứng nghiệm Vairocana tự-sanh khởi với phối ngẫu và
hội chúng bao quanh.
Khi một cái nhìn thấy
thanh tịnh về Đấng của những
Bí Mật sanh khởi, sự
thức tỉnh tâm linh sẽ được
hoàn thành bằng cách
nhận biết và
chú tâm tới điều này như
năm trí huệ bổn nguyên.
– Những ánh sáng khác nhau này
xuất hiện trong
trạng thái trung ấm theo sau cái chết, và nếu bạn
nhận biết chúng, bạn sẽ
chứng ngộ chúng là năm
loại trí huệ bổn nguyên. Không
nhận biết chúng, do thiếu chuẩn bị,
sợ hãi và khủng khiếp sẽ khởi lên, và không có
thì giờ để nghĩ về chúng, bạn sẽ rơi vào rối bời. –
Như thế, có nói rằng do
liên tục ngắm nhìn những bindu và những bindu
tinh tế của ánh sáng cầu vồng này, bạn sẽ không
trở lại vào
vòng sanh tử. Một tantra nói :
Bản tánh của những chuỗi là Phật tinh khôi, bổn
nguyên thanh tịnh, không
lầm lẫn.
Thực hành theo cách này, trên căn cứ của cái nhìn thấy trực tiếp về chính
thực tại, có khởi sanh những cái nhìn thấy của
tiến bộ trong
kinh nghiệm thiền định. Trong những bindu khởi lên những
hiện thân đơn, những
hiện thân một nửa, những
sắc tướng của những bổn tôn và những phối ngẫu, và những chuỗi dây
hiện diện bất cứ nơi nào bạn nhìn. Điều này tạo nên sự
tiến bộ trong
kinh nghiệm thiền định. Về
thực hành hơn nữa, Vidya-dhara Kumaraja nói rằng sự
sáng tỏ đặc biệt do từ nhìn ngắm khi mắt bạn bị bao phủ bởi một vải len hay một
phất trần và v.v...
– Trong mỗi bindu có thể
xuất hiện một
sắc tướng đơn của một bổn tôn đã được chọn mà không có phối ngẫu, hay có thể chỉ một phần như đầu hay đồ cầm trên tay. Khi bạn
tiến bộ trong giai đoạn hai của
thực hành, những bổn tôn phối kết với phối ngẫu có
thể hiện khởi, và những chuỗi
kim cương của tánh giác sẽ
xuất hiện bất cứ chỗ nào bạn nhìn. Lúc này những chuỗi
kim cương của tánh giác được thấy ở khắp nơi và rất
vững chắc. Xin nhớ cho rằng đây là một
trạng thái cao hơn trong
thực hành Nhảy Qua. Chớ mong điều này xảy ra vào
lúc đầu, mà chỉ sau khi bạn đã vào giai đoạn
tiến bộ thứ hai.
Trong
thực hành này có người ngắm thẳng vào
mặt trời khi phủ mặt bằng một tấm khăn choàng, nhưng làm vậy có thể
tổn hại cho mắt, thế nên
tốt hơn ngắm
mặt trời chiếu qua tấm vải theo góc nghiêng với bạn. –
Sự Giải Thoát Tự Nhiên của sự Thấy : Những
Giáo Huấn Thực Nghiệm về Tiến Trình
Quá Độ của
Bản Thân Thực Tại do Orgyen Rinpoche dạy rằng :
Thứ hai, về những cái nhìn thấy của
kinh nghiệm thiền định tiến bộ, trong những
kinh nghiệm nhãn quan và những
kinh nghiệm nhận thức, những
kinh nghiệm nhận thức khởi lên trong nhiều cách như một cảm thức về lạc, một cảm thức về
sáng tỏ và về
tánh Không. Không cố định và phù du, chúng thì chung cho những thừa khác nhau, và chúng không
đặc biệt quan trọng. Hơn nữa, những
truyền thống như Đại Ấn cũng nói rằng những
kinh nghiệm nhận thức như sương mù và người ta không nên đặt
niềm tin vào
giá trị của những
kinh nghiệm như vậy. Hơn nữa, người ta cần
nhấn mạnh nhất đến
giá trị và những thứ khác thuộc về những
chứng ngộ. Ở đây,
tiêu chuẩn cho
giá trị của những
chứng ngộ được xác định bởi những
kinh nghiệm về cái nhìn thấy ; và bởi vì những
kinh nghiệm cái nhìn thấy thì không thoáng qua, chúng cần được
nhấn mạnh nhất. Như vậy, như một kết quả của sự trau dồi những
kinh nghiệm về cái nhìn thấy, có khi
không gian tuyệt đối và tánh giác trở nên
rõ ràng và có khi không.
Do
tiếp tục thực hành,
không gian tuyệt đối và tánh giác được tách lìa khỏi điểm giữa hai lông mày [chúng trở nên tách lìa khỏi những
hiện tượng giác quan], và
ngọn đèn của những bindu trống rỗng
sanh khởi và hiện đến không
cố gắng. Những bindu chuyển thành cỡ hạt đậu, và tánh giác thì như một con chim sẵn sàng có thể bay.
Tiếp tục thực hành, những cái nhìn thấy về năm ánh sáng sẽ
chuyển hóa để
xuất hiện theo một kiểu từng mảnh, theo chiều ngang, chiều đứng, như những điểm mũi nhọn, tương tợ những lỗ trong một tấm lều làm bằng lông trâu yak, và giống như những ô vuông trên một bàn cờ ; và những ánh sáng này tràn ngập khắp mọi sự
trước mắt bạn. Hơn nữa, những bindu cũng
chuyển hóa để thành như một tấm gương, và tánh giác
xuất hiện theo kiểu một con nai đang chạy.
Tiếp tục thực hành, những cái nhìn thấy về
không gian tuyệt đối xuất hiện thành một mắt lưới bằng ngọc, những mắt lưới và nửa mắt lưới bằng ánh sáng, chỗ đậm chỗ nhạt,
chói sáng, như những điểm nhọn, và một tháp nhiều tầng, một
hoa sen ngàn cánh, một
hào quang,
mặt trời và
mặt trăng, một lâu đài, một thanh kiếm, một (chày)
kim cương, một bánh xe và hình con mắt cá. Hơn nữa, ánh sáng ấy lấp đầy chung quanh nơi bạn sống. Những bindu
trở thành như những quả bóng đồng và tánh giác của bạn
trở thành như một con ong bay lượn trên
cam lồ.
Tiếp tục thực hành, ánh sáng tràn ngập chung quanh những bindu
trở thành như cái khiên da tê giác, ánh sáng tràn ngập khắp nơi nào bạn nhìn, và
không gian tuyệt đối và tánh giác
thường trực xuất hiện cả ngày lẫn đêm. Một thân đơn của một bổn tôn
xuất hiện trong mỗi bindu, và những
hiện thân thiêng liêng hiện khởi trong giữa tánh giác. Tánh giác vẫn
bất động.
Khi những
xuất hiện như vậy
sanh khởi, những
xuất hiện của
trạng thái trung ấm được xác định theo cách ấy, thế nên không có
trạng thái trung ấm sau này. Như thế, sự
thực hành của tiến trình
quá độ về
bản thân thực tại chính là
thực hành chính yếu này.
– Nếu bạn trở nên bám chấp vào một cảm thức lạc, điều này sẽ dẫn đến sự
tái sanh trong cõi dục ; bám chấp vào cảm thức
sáng tỏ dẫn đến sự
tái sanh trong cõi sắc ; và vào
vô niệm sẽ
tái sanh trong cõi
vô sắc. Đôi khi những
kinh nghiệm này
sanh khởi, người ta phấn chấn nghĩ rằng, “Điều này là vĩ đại !”
Trái lại, nếu họ không có chúng, họ trở nên
thất vọng. Bởi thế,
tốt hơn là
nhấn mạnh vào
chứng ngộ hiện thực, nghịch lại với những
kinh nghiệm nhận thức về tốt xấu, hay không
hiện hữu. Với những người dấn thân vào
thực hành Cắt Đứt, một số
kinh nghiệm về cái nhìn thấy có thể
sanh khởi như những dấu hiệu của
thành công trong
thực hành.
Tuy nhiên, nếu bạn bám chấp vào chúng, điều này làm cho bạn dễ bị
tổn hại bởi những
ma quỷ hay làm hại. Thế nên
bản thân sự
tiến bộ, nếu hiểu sai, sẽ trở nên thực sự
tai hại. Ngược lại, nếu bạn không bám chấp vào những cái nhìn thấy, không có
tai hại gì và bạn có thể
tiếp tục thực hành. Điểm cốt yếu là không phải bạn có những cái nhìn thấy hay không, mà bạn có
đồng hóa với chúng và bám chấp vào chúng hay không.
Nếu không, chúng được
xem như thành phần của
con đường.
Tương tự, khi tu định, những
tư tưởng thô và
hấp dẫn tự nhiên khởi lên trong tâm bạn, khiến bạn
bối rối. Thật ra, bạn đang nhìn thấy những
phương diện của
tự tâm bạn, và chúng
biểu lộ là tốt. Chỉ
đơn giản nhận biết bản tánh của chúng và buông thả chúng là một dấu hiệu
tiến bộ của tu định. Như
thí dụ trước, chỉ có
tai hại khi bám nắm.
Với những
giấc mộng, chẳng hề gì nếu bạn có một
giấc mộng báo trước hay một
ác mộng, chỉ sự bám chấp vào nó là tốt hay xấu mới
tai hại chứ không phải
bản thân sự
xuất hiện của nó. Suốt qua
tâm thức khi tỉnh và trong
trạng thái mộng, những
vấn đề khởi lên từ sự bám chấp vào những cái nhìn thấy, những tưởng tượng và những
tư tưởng và chúng khởi lên với con
mắt tâm. Nếu bạn muốn thấy chúng có
ý nghĩa gì, hãy kiểm nghiệm chúng. Bạn sẽ tự mình thấy chúng là không
vững chắc, không có
tự tánh, không có
ý nghĩa nội tại
sâu xa nào. Hơn nữa, đối xử với những
giấc mộng với sự tự-bám chấp sẽ chỉ làm bật cháy thương ghét, chỉ thêm điều
ác hạnh. Xin hãy tự kiểm nghiệm.
Có nhiều lama nói rằng những bindu
xuất hiện một cách không
cố gắng không chỉ khi mắt bạn mở
mà cả khi nhắm. Do
tiếp tục thực hành, chúng có thể
xuất hiện như những đầu nhọn tròn của đinh ghim bằng ánh sáng chiếu qua một lều lông trâu yak tối đen. Nhờ
thực hành, khi bạn đến điểm mà ánh sáng tràn ngập khắp nơi và
không gian tuyệt đối và tánh giác
thường trực xuất hiện cả ngày đêm, bạn sẽ không
lệ thuộc nữa vào
trạng thái trung ấm. –
Những
Giáo Huấn Trắng của
Quán Thế Âm về Nghĩa của
Tham Thiền Ban Ngày nói :
Tiến bộ trong tư thế
hóa thân, khi
thực hành tư thế này cantali pranayama kéo theo sự bùng cháy và
đi xuống. Do không lìa cái nhìn thấy trực tiếp của tánh giác về
bản thân thực tại, bạn sẽ thấy một cách sáng rỡ những bindu màu đen
trong sáng như những cái nhìn thấy ánh sáng có kích cỡ bằng hạt mù tạt tự
trình diện như những đối tượng của
tâm thức bạn vào những lúc không thể
đoán trước trong ngày và đêm. Chúng không phải tưởng tượng mà
xuất hiện trên bình diện
tri giác. Chúng không
hiện hữu, và không có
hiện hữu bên ngoài. Dưới
ảnh hưởng của những khí lực,
chúng tăng và giảm ; nhưng thật ra chúng không tăng giảm, vì
chúng sanh khởi như năm ánh sáng, những ánh sáng này là sự
vinh quang lộng lẫy của
trí huệ bổn nguyên. Những ánh sáng năm màu này xảy ra theo chiều thẳng đứng, chiều ngang, như (những lỗ) trong một tấm lều làm bằng lông trâu yak, và như những ô vuông trên bàn cờ, và chung quanh bạn hiện khởi những hình thể khác nhau : những tháp, những
hoa sen ngàn cánh, phướn, những ô vuông đậm nhạt, những chùa, điểm ánh sáng như đầu đinh ghim, hàng rào mắt cáo v.v...
Tantra
Nguyên Thủy về sự
Thâm Nhập của
Âm Thanh nói :
Trong những cái nhìn thấy của giai đoạn
tiến bộ trong
kinh nghiệm thiền định,
Những màu sắc và
hình dáng của
trí huệ bổn nguyên
sanh khởiTheo chiều thẳng đứng và theo chiều ngang.
Những bindu khác nhau và hai
hiện thânBiểu lộ như những đối tượng
xuất hiện với tánh giác.
Những Dấu Vết
Niết Bàn nói :
Nhờ những cái nhìn thấy của
tiến bộ trong
kinh nghiệm thiền định,
Trong
trạng thái trung ấm,
trí huệ bổn nguyên trở nên
biểu lộ.
Cái gì là sự
tương tự với cây đèn vào
thời gian của
trạng thái trung ấm ? Có nói rằng việc ấy giống như gặp một người bạn đã từng quen trước kia. Như
thí dụ này, bởi tự mình
quen thuộc triệt để với
tri giác về tịnh quang của
bản thân thực tại, những cái nhìn thấy
tiến bộ dần ; và bạn đến tánh
giác viên mãn. Về sau trong
trung ấm, có sự xác tín, vì
trí huệ bổn nguyên đã
biểu lộ. Trong những
cõi Phật tự-xuất hiện bạn
trở thành một vị Phật từ
trạng thái tịnh quang ; và bạn
phụng sự những nhu cầu của
chúng sanh trong những cách họ cần để
tu hành.
Một Đống Ngọc : Những
Giáo Huấn về
Tinh Túy của những Dakini nói :
Bấy giờ như một kết quả của
thực hành, những cái nhìn thấy về tánh
giác viên mãn
sanh khởi. Trong mỗi bindu là một hội đầy đủ chư Phật của năm bộ với những phối ngẫu, tất cả những thiên hà đầy những chuỗi sáng chói
rực rỡ, và con
đạt được sự làm chủ đối với sự
sanh khởi của tánh giác tự-xuất hiện.
Giải Thoát Tự Nhiên của Nhìn Thấy : Những
Giáo Huấn Thực Nghiệm về Tiến Trình
Quá Độ của
Bản Thân Thực Tại nói :
Thứ ba, về cái nhìn thấy tánh
giác viên mãn, do
tiếp tục thực hành, năm
hiện thân thiêng liêng với những phối ngẫu
xuất hiện trong mỗi bindu ở trước. Chúng là
vô số và không thay đổi, và chúng
đạt đến số lượng
trọn vẹn, như nắm tay và đồng xu. Bấy giờ con có thể thậm chí ngừng
thiền định. Vào lúc đó,
thân thể con
được giải thoát vào tịnh quang, những
nguyên tố của nó
biến thành tánh
thanh tịnh tự nhiên của chúng ; những uẩn của thân
vật chất của con
giải thoát vào
trạng thái bổn nhiên của chúng.
Xuất hiện nhưng không có
tự tánh, con
tự nhiên giải thoát như một
Hóa thân ; và vì
Báo thân đã được
nhận biết một cách không
che dấu, bám chấp vào sự
hiện thân được
giải phóng trong
trạng thái của tự nó.
– Vào điểm này những bindu và những chuỗi
kim cương của tánh giác
xuất hiện với con mắt của tâm là
vô số và
bất biến. Như chất đống đĩa cân với bàn tay và đồng xu, chúng đầy dần
cho đến trọn vẹn,
đạt đến số lượng
viên mãn. Trong sự trau dồi
tinh thần giác ngộ (
Bồ đề tâm), khi nó
sanh khởi tự nhiên vào mọi lúc, thậm chí khi bạn đang ngủ hay đang chơi, nó khai triển không cần
cố gắng.
Cũng thế, trong giai
đoạn thực hành này,
thiền định khai triển
tự nhiên không
cố gắng.
Vào lúc này những
nguyên tố của thân tiến vào tánh
thanh tịnh tự nhiên của chúng, và
thân thể vật chất giải thoát vào
trạng thái tự nhiên của nó. Đến mức độ còn những
hình tướng xuất hiện của những cái
bất tịnh – của các uẩn bị
nhiễm ô, của thịt, xương... – những cái này được
chuyển hóa thành tịnh quang. Bây giờ bạn
thoát khỏi tất cả bám nắm
ý niệm ; thậm chí bám nắm vào
hình tướng của bạn như là
báo thân được
tự nhiên giải thoát vào
trạng thái của tự nó. Không có
ý niệm nào nữa. Bạn không nghĩ “Đây là
báo thân, đây là
hóa thân, đây là một
vị thầy tâm linh, đây là một
nhà sư mặc y” nữa.
Trạng thái này được
chứng ngộ trần trụi không có
thiền định nào,
hoàn toàn thoát khỏi bất kỳ loại
kiến lập ý niệm nào. –
Những
Giáo Huấn Trắng của
Quán Thế Âm về Nghĩa của
Tham Thiền Ban Ngày nói :
Đến sự
viên mãn của tư thế
báo thân, trong tư thế ấy,
thực hành với một karmamudra, một mudra (ấn) của ánh sáng, hay một mudra
trí huệ bổn nguyên. Nếu bạn
thực hành mà không rời lìa khỏi hiện trường
tiến bộ, những
sinh lực nghiệp được
chuyển hóa thành những
sinh lực của
trí huệ bổn nguyên, chúng được đưa vào kinh mạch trung ương, và mọi cánh cửa của những kinh mạch của
mê lầm, chúng là những lối đi cho những chuyển động của
ý niệm hóa, được lấp đầy bằng những bindu của bodhicitta (
bồ đề tâm). Như một kết quả, bạn làm chủ những phẩm tính và những
ban phước của
thần chú, bạn có được cái nhìn thấy
thiêng liêng,
tri giác siêu
giác quan, và những
thành tựu tối thượng và thông thường ; những thiên hà trở nên
trong sáng, và bạn hưởng thọ sáu
lãnh vực giác quan của
kinh nghiệm. Năm
hiện thân của
trí huệ bổn nguyên của tánh giác
xuất hiện trong mỗi bindu, và những bindu này lấp đầy
thế giới hiện tượng.
– Một mudra của ánh sáng là một phối ngẫu được
quán tưởng khi phát sanh chính mình là một hóa
thần bổn tôn đã chọn. Mudra
trí huệ bổn nguyên là
bản tánh của tánh giác của chính bạn. Những
năng lực nghiệp được gọi như vậy bởi vì chúng đẩy
chúng ta vào
sanh tử do những
phiền não chúng đã tích tập. Ở điểm này những
sinh lực vẫn còn
bất tịnh, nhưng chúng được
chuyển hóa thành những
sinh lực của
trí huệ bổn nguyên bằng cách đưa chúng vào kinh mạch trung ương. Những kinh mạch qua đó sự
ý niệm hóa xảy ra thì được lấp đầy bởi những bindu của bodhicitta đỏ và trắng. Bodhicitta
bất tịnh tự nhiên được
giải phóng và bây giờ chỉ còn những bindu
thanh tịnh của bodhicitta đầy trong những kinh mạch này. –
Tantra
Nguyên Thủy về sự
Thâm Nhập của
Âm Thanh nói :
Cái nhìn thấy tánh
giác viên mãn
Là cái nhìn thấy những dấu hiệu và
biểu tượng của
báo thân :
Từ những màu
sắc không xác định của cầu vồng
Xuất hiện chư Phật và những phối ngẫu của năm bộ.
Bấy giờ những đôi này được nối kết với những bindu
chói sángKhoác
hình tướng của những
hiện thân thiêng liêng nam và nữ.
Ngay trên sự tắt mất của những
xuất hiện mê mờ, có sự
thức tỉnh tâm linh.
Những Dấu Vết
Niết Bàn nói :
Với cái nhìn thấy tánh
giác viên mãn
Báo thân được
nhận ra.
Có nói rằng nếu điều này được
chứng ngộ, sẽ không có
trạng thái trung ấm. Tantra của
Quán Thế Âm về
Nhận Thức Con Đường Bí Mật của Ánh Sáng
Tối Thượng của
Trí Huệ Bổn Nguyên nói :
Khi
hơi thở đi ra ngoài vào lúc
cuối cùng của cái chết, sau khi lần chót con
thở ra và không có
hơi thở vào nữa, có một sự khai mở của
trí huệ bổn nguyên trong
không gian trước mặt con ; và những ánh sáng chói ngời của năm màu
xuất hiện với con. Do
nhận biết chúng – như
áp dụng một chất thuốc luyện kim cho trí óc, hay như cầm một
ngọn đèn trong phòng tối –
tức thời con thoát về phía trên, không ngăn ngại.
Thiện nam tử, đến khi con lìa khỏi
hơi thở của con, đó gọi là dây của Vajrasattva hay dây của lòng bi
phổ biến. Những dây của ánh sáng năm màu trải dài trong
không gian trước mặt con, hay chúng có thể
xuất hiện như một cầu thang. Vào lúc đó, hãy hướng tánh giác đến đôi mắt con, và tập chú mắt con vào sợi dây không thể đứt của lòng bi. Do làm vậy, con sẽ
được giải thoát lên trên không ngăn ngại. Hay khi sợi dây của lòng bi trải ra như năm màu, do
nhận biết chúng như những
trí huệ bổn nguyên, và không có
hơi thở con sẽ
trở thành một vị Phật. Đấng của những
Bí Mật, những
quán đảnh truyền pháp trọn vẹn bên ngoài, bên trong và
bí mật đã được
phát lộ.
Đống Ngọc của
Đại Toàn Thiện nói :
Bấy giờ cái nhìn thấy của sự tắt mất (hay
tịch diệt) vào
bản thân thực tại xuất hiện. Ngay trên sự tắt mất của những
tiến bộ của
kinh nghiệm, bám nắm vào ba
hiện thân biến mất ngay chỗ của nó ; tánh giác đến nền tảng của nó một cách
rõ ràng ; bám nắm vào một đối tượng của
thiền định và một người
thiền định được
giải phóng vào
trạng thái của tự nó ; sự
mê vọng của
vô minh được tịnh hóa
hoàn toàn ; và con
đạt đến sự
tham thiền thanh tịnh bổn nguyên của Samanta-bhadra (
Phổ Hiền).
– Rất giống khi ba
hiện thân –
pháp thân,
báo thân và
hóa thân –
ban đầu xuất hiện, sự bám nắm
vi tế nào đó sẽ còn
tồn tại. Trong giai
đoạn thực hành này, thậm chí
hình thức bám nắm
vi tế trước kia
tiêu tan, và bạn không
nhận dạng hay gán tên những
hiện thân này nữa, bởi vì bạn là một
bản tánh với chúng. Trước điểm này, tánh giác
xuất hiện trong nhiều cái nhìn thấy khác nhau về những bindu và những chuỗi, nhưng bây giờ tánh giác sáng chói,
sống động, trần trụi đến nền tảng của chính nó và
nhận biết bản tánh của chính nó. Đối tượng của
thiền định và người
thiền định là một
bản tánh,
vô minh vĩnh viễn bị xua tan đến tận gốc rễ, và bạn
đạt đến chót điểm của
con đường này. –
Những
Giáo Huấn Trắng của
Quán Thế Âm về Nghĩa của
Tham Thiền Ban Ngày nói :
Về cái nhìn thấy sự tắt mất của những
hiện tượng, hãy
thực hành bất cứ cái nào con thích trong ba tư thế, và hãy
thực hành trong
trạng thái không thi thiết siêu vượt
trí năng, không có sự
trà trộn của bám nắm vào những
hiện thân thiêng liêng và những bindu như là chính con hay khác với con. Bấy giờ, do
chứng ngộ kinh nghiệm chưa bao giờ từng bị
mê lầm, không có
sợ hãi nào về
vòng sanh tử.
Thức tỉnh tâm linh là
hiện tiền trong con, thế nên không có
hy vọng hay
dự kiến về
giác ngộ. Ba
hiện thân là
trọn vẹn ở trong con, và trong
trạng thái tự do với những
cực đoan, không có
nhị nguyên ta-người, tất cả những phẩm tính của Phật vốn
viên mãn,
toàn thiện. Những
xu hướng thói quen của những
nguyên tố của thân cạn kiệt. Những
tinh túy sức sống tan
biến thành năm ánh sáng. Sự lắp ghép
ngôn ngữ và
lời nói tận diệt và tan biến vào một
trạng thái không thể
quan niệm và
diễn tả.
Trí năng kiệt tận, và những
hiện tượng kiệt tận, tan biến vào
trạng thái thanh tịnh bổn nguyên siêu vượt khỏi
trí thức. Trong đó con
thức tỉnh như là
Pháp thân.
– Nếu
thực ra bản tánh hiện tiền của
chúng ta chưa từng bị mê, làm sao
chúng ta có thể
giải thích sự kiện rằng
chúng ta hành động theo cách
chúng ta đang làm ?
Đơn giản bởi vì
chúng ta chưa
nhận biết bản tánh của chính
chúng ta. Tôi sẽ minh họa điều này bằng một
giấc mộng tôi có hồi hôm. Tôi mơ thấy một con
rắn độc màu lục rất lớn, hung dữ, mạnh mẽ. Cạnh tôi có một người bạn đang đứng,
cảnh cáo nó có thể tấn công bất kỳ kúc nào. Rồi người bạn phóng tới nắm đầu con rắn. Vào lúc đó tôi
nhận biết rằng đó là một
giấc mộng. Tôi đã không
nhận biết con
rắn độc là mộng mà người bạn đứng bên cạnh tôi cũng thấy thật nốt. Mọi sự có vẻ
hoàn toàn thật, và ngay khi
nhận biết mộng là mộng, tôi thấu hiểu rằng mọi sự trong
giấc mộng không có căn cứ nào cả. Tiếp đó, tôi tự hỏi : làm sao
chúng ta đến trong
sanh tử và làm sao
chúng ta lang thang
trong vòng luân hồi ?
Khi
chúng ta nhìn quanh trong
trạng thái thức giống như trong mộng, mọi sự có vẻ thật, nhưng nó không có
thể chất gì hơn những
biến cố của một
giấc mộng. Làm sao
chúng ta có thể bị
mê muội khi trong
thực tế chưa từng có ngay cả một
chúng sanh bị
mê muội ?
Thực ra,
chúng ta chưa từng bị
mê muội.
Chắc chắn, tôi không đang nói đến
hư vô chủ nghĩa bởi vì những
hiện tượng này
xuất hiện, nhưng chúng không có căn cứ nào trong
thực tại.
Ở điểm này trong
thực hành sự bám nắm vào một chủ thể và đối tượng – một cái tôi và anh – không xảy ra nữa. Khi những cái nhìn thấy những bindu của những chuỗi
kim cương của tánh giác khởi lên, không có cảm thức
suy nghĩ, “Ồ, tôi thấy chúng.” Không có cảm thức về
nhị nguyên ; không có
dự kiến về trình tự tương lai của sự phát triển
tâm linh của bạn. Tất cả những thứ đó đã qua đi. Bạn
từ bỏ mọi sự trong
trạng thái bổn nhiên của tất cả. Không có
thực hành nữa. –
Sự Giải Thoát Tự Nhiên của sự Thấy : Những
Giáo Huấn Thực Nghiệm về Tiến Trình
Quá Độ của
Bản Thân Thực Tại nói :
Thứ tư, trong cái nhìn thấy của sự tắt mất vào
bản thân thực tại, sự
tiến bộ của những cái thấy ở trước đến một chỗ
chấm dứt, nơi đó không có
tính chất bám nắm vào
xuất hiện hay không
xuất hiện. Vào lúc đó xảy ra cái được gọi là cái nhìn thấy của sự
tiêu tan vào
bản thân thực tại. Những
kinh nghiệm cạn kiệt,
thân thể vật chất cạn kiệt, bám nắm vào những khả năng
giác quan cạn kiệt, đám
tư tưởng mê vọng cạn kiệt, mọi
giáo điều triết lý và những
hình tướng xuất hiện hư vọng cạn kiệt, và rồi thân
ô nhiễm của con biến mất và con
trở thành một vị Phật. Đó gọi là sự tắt mất vào
bản thân thực tại, bởi vì nó kèm theo sự tắt mất
hoạt động, những
hình tướng xuất hiện hư vọng và những cái nhìn thấy của
tiến bộ trong
kinh nghiệm thiền định. Nó gọi là sự tắt mất vào
bản thân thực tại, nhưng nó không phải không có như kiểu
đoạn diệt, trong đó có sự tắt mất vào cái không có gì cả. Hơn thế,
trí huệ bổn
nguyên không thể
diễn tả của
hiểu biết và những phẩm tính
tuyệt hảo trở thành biểu lộ.
Tóm lại,
thần lực của những phẩm tính của ba
hiện thân được đến chỗ
viên mãn.
Tantra
Nguyên Thủy về sự
Thâm Nhập của
Âm Thanh nói :
Cái nhìn thấy của sự
tịch diệt (tắt mất) vào
bản thân thực tạiLà trống không mọi cái nhìn thấy thực nghiệm,
Thế nên
thân thể cạn kiệt, những đối tượng của những
giác quan cạn kiệt.
Một khi đám đông của những
vọng tưởng được
tự nhiên giải phóng,
Người ta
xa lìa lời nói, nó là căn cứ của sự
diễn tả.
Và :
Như thế trên sự dừng dứt của dòng
tương tục của thân, những uẩn
nhiễm ô biến mất, và với tâm người ta
biểu lộ thành một vị Phật.
Những Dấu Vết
Niết Bàn nói :
Do cái nhìn thấy của sự
tịch diệt thành
bản thân thực tại,
Quả của
Đại Toàn Thiện,
thoát khỏi hành,
đạt được.
Nơi sự
đạt đến tận cùng nền tảng và
con đường theo lối này,
Niết bàn được
tìm thấy không ở đâu khác.
– Câu “Quả của
Đại Toàn Thiện,
thoát khỏi hoạt động”
ám chỉ sự
tự do khỏi
hoạt động quy ước hay
thế gian. Người ta
thoát khỏi thậm chí cả những
hoạt động của
tiến bộ trong
kinh nghiệm thiền định. Đến đây bạn có thể hỏi, Chẳng phải chư Phật còn
hoạt động rất nhiều hơn các
chúng sanh như
chúng ta sao ?
Dĩ nhiên, một vị Phật thì
năng động vô cùng so với
chúng ta.
Tuy nhiên, những hành động của một vị Phật không phải là
thế tục. Như những
tia sáng từ
mặt trời thì cùng một
bản chất với
mặt trời,
cũng thế, những hành động của một vị Phật thì cùng một
bản tánh Phật. Những
hoạt động của một vị Phật là những phô diễn
tự nhiên, tự phát, toàn khắp của tánh giác của một vị Phật. –
D. LỜI KHUYÊN KẾT LUẬN
Tốt nhất là
đạt được thân đại
chuyển di,
tự do khỏi sanh và tử, hay
bất tử, như Orgyen và Vimalamitra ; hoặc các uẩn
nhiễm ô của người ta tan
biến thành một khối ánh sáng, như Garab Dorje và Sri Simha. Những
Giáo Huấn Trắng của
Quán Thế Âm về Nghĩa của
Tham Thiền Ban Ngày nói :
Phật
viên mãn là bậc
Thức Tỉnh không có các uẩn tàn dư (
vô dư).
Bậc trung là
đạt đến mười địa
trong đời này. Tantra của Tánh Giác
Sanh Khởi Tự Nhiên nói :
Những địa không
hiện hữu tách biệt. Trong một
cá nhân thấy
chân lý, những địa
hiện diện trọn vẹn.
Những đường lối
đạt đến mười sáu địa được
bàn luận khá dài. Trong đó, tên của mười địa đầu
phù hợp với những
giải thích chung, trong khi những cái kia được dạy theo một thứ tự có thay đổi,
tùy theo từng phái. Như thế, dù có thể có những dị biệt, địa thứ mười một là ánh sáng
toàn diện ; địa thứ mười hai là những con mắt
hoa sen bình thản ; địa thứ mười ba là vajradhara ; địa thứ mười bốn là
đại hội những
pháp luân ; địa thứ mười lăm là huy
hoàng viên mãn ; địa thứ mười sáu là
trí huệ bổn nguyên
vô thượng, Devakusa, Sukhavati và Thành Phố của Đại
Giải Thoát có cùng nghĩa ; địa thứ mười bảy là mang
danh hiệu vajradhara ; địa thứ mười tám là Atakavati ; địa thứ mười chín là
toàn thiện vô thượng ; địa thứ hai mươi là sự
toàn thiện của
bản tánh của
ba thế giới ; và địa thứ hai mươi mốt là nền tảng của bindu không
cố gắng, là chót điểm.
–
Truyền thống của
Đại thừa thường dạy rằng người ta
đi vào mười địa của
Bồ tát kết thúc nơi
Phật quả. Về mười sáu địa trong bản văn này, mười cái là chung với những bản văn khác, trong khi địa thứ mười một đến địa thứ hai mươi mốt của Dzogchen
tiếp theo sau thì khác nhau trong thứ tự và tên
tùy theo những bản văn riêng biệt. –
Orgyen Rinpoche nói :
Đại Toàn Thiện là
con đường chót đỉnh,
tối hậu. Dù nếu những
con đường cuối cùng của
ba thừa thấp được
đạt đến, nếu sự khai mở những phẩm tính của (thừa) Mantra không được thấy, bấy giờ người ta cần
đi vào (thừa) Mantra, và người ta phải
tu hành nghe và
tư duy. Dù nếu người ta đến chỗ
chấm dứt của thừa Kinh, người ta vẫn chưa đến chỗ
chấm dứt của thừa Mantra, vì đây là chỗ
chấm dứt của mọi
con đường. Không có cái gì cao hơn cái này, thế nên trong nó những địa là
toàn thiện,
viên mãn và những
con đường là
toàn thiện,
viên mãn. Không có gì vĩ đại hơn cái này, cho nên nó được đặt tên là “Đại
Toàn Thiện, Đại Viên Mãn”.
– Khi bạn đã đến cái nhìn thấy thứ tư, cái nhìn thấy của sự tắt mất vào
bản thân thực tại, bạn không cần
tìm kiếm Pháp nào khác. Một khi bạn đã đến chỗ
chấm dứt của
ba thừa thấp, bạn cần
đi vào Kim Cương thừa, nó là chỗ
chấm dứt của mọi
con đường và
tu hành từ chỗ bắt đầu là nghe,
suy nghĩ và
thiền định.
Lý do của sự
tiến bộ này là trong chỗ
chấm dứt của thừa Mantra đã bao hàm sự
chấm dứt của thừa Kinh. Sự
chấm dứt của thừa Kinh không bao hàm sự
chấm dứt của
Kim Cương thừa, nên bạn không phải dừng tu sau khi
đạt đến sự
chấm dứt của thừa Kinh. –
Viên
Ngọc Như Ý : Những
Giáo Huấn về
Tinh Túy của
Cõi Giới Trong Sáng của Ratna nói :
Tốt nhất là những uẩn
nhiễm ô được giải thoát vào tịnh quang. Bậc trung là
đạt được thức tỉnh tâm linh trong tiến trình
quá độ của
bản thân thực tại. Bậc kém là sinh ra
tức thời trong năm
tịnh độ hóa thân và rồi
đạt được thức tỉnh tâm linh mà không
trải qua trung ấm nào.
Những
Giáo Huấn Trắng của
Quán Thế Âm về Nghĩa của
Tham Thiền Ban Ngày nói :
Trong
thức tỉnh tâm linh hoàn hảo biểu lộ, người ta
trở thành một vị Phật với sự
biểu lộ rõ ràng một bầu trời tinh khôi, những cầu vồng, những cơn mưa hoa, những
chấn động của đất, những
âm thanh, những mùi hương thơm ngát, những di vật
thiêng liêng, sự hiện khởi
tự nhiên (những
tượng trưng) của thân ngữ tâm, những hạt
xá lợi v.v...
– Sự
diễn tả ở trên là những dấu hiệu bên ngoài như cầu vồng, mưa hoa và đất
rung động có thể
xuất hiện khi người ta
đạt đến Phật quả. Ở
Tây Tạng tháng 12 năm 1958, cả hai
hóa thân lưu xuất về ngữ và thân của Dušdjom Lingpa
nhập diệt trong vùng Golok. Hai
hóa thân sống
cách nhau khoảng một giờ đi bộ, và cùng ra đi
một lần. Dầu đang giữa
mùa đông và rất lạnh, nhưng hoa rơi xuống giữa bầu trời. Có
tiếng sấm trái mùa và một loại kết tinh băng giá rất mịn. Điều này tự tôi
chứng kiến, thế nên tôi kể lại cho các bạn để các bạn biết rằng khi những bậc
đại nhân ra đi, các vị biểu hiện những dấu hiệu của sự
thức tỉnh tâm linh như vậy. –
Nghĩa của những đoạn này được nói đến trong Những Dấu Vết
Niết Bàn :
Do cái nhìn thấy trực tiếp về
bản thân thực tại,
Người ta siêu vượt
lời nói do bám nắm vào động niệm.
Do
tiến bộ trong
kinh nghiệm thiền định,
Trí huệ bổn nguyên của
trạng thái trung ấm biểu lộ.
Do cái nhìn thấy tánh
giác viên mãn,
Người ta
nhận biết báo thân.
Do cái nhìn thấy của sự
tịch diệt vào
bản thân thực tại,
Người ta
đạt đến quả của
Đại Toàn Thiện,
thoát khỏi hoạt độngTrên sự đi đến chỗ
chấm dứt của địa và
con đường theo cách này,
Không
nghi ngờ gì người ta
đạt đến Niết Bàn.
Tantra
Nguyên Thủy về Sự
Thâm Nhập của
Âm Thanh nói :
Từ ở đó bốn cái nhìn thấy xảy đến.
Do cái nhìn thấy trực tiếp về
bản thân thực tại,
Người ta siêu vượt
lời nói do
vướng mắc vào động niệm.
Do cái nhìn thấy của
tiến bộ trong
kinh nghiệm thiền định,
Những
hình tướng xuất hiện mê vọng tiêu tan.
Do cái nhìn thấy tánh
giác viên mãn,
Ba
hiện thân siêu vượt những cái nhìn thấy của
con đường ý niệm.
Do cái nhìn thấy của sự
tịch diệt vào
bản thân thực tại,
Con đường hiện hành của
ba cõi sanh tử được đoạn dứt.
Sự
thành tựu tốt nhất là
đạt đến thức tỉnh tâm linh không có các uẩn tàn dư hay
đạt đến thức tỉnh tâm linh với các uẩn tàn dư.
Thành tựu bậc trung là
đạt đến thức tỉnh tâm linh trong
trạng thái trung ấm và đến mười sáu địa. Sự
thành tựu kém là sanh vào những
tịnh độ hóa thân, và sau khi ở lại trong năm
tịnh độ một trăm hai mươi năm, người ta nhận những
quán đảnh,
ban phước, lời dạy từ năm bộ Phật. Rồi sau năm trăm năm, người ta
đi lên tịnh độ của những núi lửa cháy sáng, và ngay khi thấy mặt của Heruka
tối thượng, người ta
trở thành một vị Phật trong
hình thức “cái bình trẻ trung”, không tách lìa Samantabhadra. Đó là địa bindu tổng hợp hay bindu không
cố gắng, và có nói rằng thật ra nó là
Pháp thân duy nhất.
Đây là tổng hợp
trọn vẹn con đường Nhảy Qua của
Đại Toàn Thiện. Nếu bạn muốn
hiểu biết rộng hơn, hãy xem mười bảy tantra, Bảy Kho Tàng...