CHƯƠNG MỘT
Một Khẩu Truyền về những Lời Nguyện Quy Y và
Bồ Đề Tâm Đại Thừa
Kính lễ đức
Quán Thế Âm !
–* Khi bản văn này bắt đầu bằng những lời dạy về những
lời nguyện quy y và
Bồ đề tâm, xin ghi nhớ trong tâm rằng
quy y, Bốn
Tư Tưởng Xoay
Chuyển Tâm Thức,(1) và
Bồ đề tâm là tiêu điểm chính, trục chính của những
giáo lý và
thực hành. Không có chúng, thậm chí không có người
Phật tử, nói gì đến
giải thoát và
giác ngộ. Nhờ ba cái trên mà
chúng ta hoàn thành được
mục đích của riêng chúng ta cũng như
phụng sự cho những nhu cầu của những người khác.
Trước khi
nghiên cứu bản văn này,
chúng ta phải thấy sự quan trọng của sự
nuôi dưỡng một động cơ
lành mạnh và có
ý nghĩa cho cả hai phần
giáo lý và
thực hành. Động cơ của
chúng ta phải là
đạt đến giác ngộ để làm
lợi lạc cho tất cả
chúng sanh. Không trau dồi một động cơ
lành mạnh, việc đọc
tác phẩm này sẽ
vô ích. Để
đạt đến giác ngộ trước tiên phải tập trung vào Bốn
Tư Tưởng Làm Xoay
Chuyển Tâm Thức.
Thứ nhất là
đời người quý giá, như
thí dụ con
rùa mù trong
đại dương, một trăm năm mới trồi
lên mặt nước
một lần. Chui đầu vào một vòng gỗ nổi là một điều rất khó. Có được thân người với
thì giờ rảnh rang, những
điều kiện thuận lợi để
giải thoát thì rất khó.
Bây giờ
chúng ta đang có
đời người khó gặp ấy,
tuy nhiên cần nhớ rằng
chúng ta chỉ có nó một
thời gian ngắn. Hãy dùng
thời gian đó sao cho có
hiệu quả và đầy
ý nghĩa nhất để biết cái gì là thiện lành và xấu ác, có được cái trước và tránh đi cái sau. Quan trọng nhất là một khi bạn đã có những
thệ nguyện, hãy giữ chúng. Nếu bạn làm vỡ chúng, hãy
nhận biết và
sám hối và ngăn chặn không cho sự việc xảy ra nữa. Trong
thời gian sống, quan trọng là không rơi vào những
quan điểm sai lầm, những
tà kiến, chúng dẫn bạn đi ra khỏi
con đường tâm linh. Nhờ theo những hướng dẫn
căn bản và rất
đơn giản này,
đời người chúng ta có thể rất
ý nghĩa.
Dù bạn bị thu hút đến những
giáo lý và
thực hành Đại Toàn Thiện, Dzogchen, quan trọng là tiến hành từng bước để có
chứng ngộ trong
thực hành đó. Thứ nhất, hãy
thiết lập một nền tảng trong
Tiểu thừa, Thừa
Cá Nhân. Giữ những
giới luật cho
giải thoát cá nhân, chẳng hạn
năm giới. Trên
căn bản này, bấy giờ bạn có thể tiến hành
Đại thừa và trau dồi hai loại
Bồ đề tâm hay
tinh thần của sự
thức tỉnh,
Bồ đề tâm nguyện vọng và
Bồ đề tâm hạnh, mỗi cái có những
giới luật của nó. Quan trọng nhất, trong bối cảnh
thực hành Đại thừa, chớ bao giờ tách lìa hai loại
Bồ đề tâm này. Khi khai triển
Bồ đề tâm và giữ những giới nguyện,
chúng ta cần
chống lại khuynh hướng thâm căn cố đế là làm việc do sự quy ngã.
Chúng ta phải dấn thân vào
thực hành Pháp vì
lợi lạc của những người khác.
Đại Toàn Thiện gồm trong bối cảnh tantra
Phật giáo, để có nó người ta phải nhận một
quán đảnh truyền pháp trước khi vào
thực hành. Trong các
quán đảnh truyền pháp khác nhau, cái thứ tư là quan trọng
đặc biệt. Với những
thực hành của giai đoạn phát sanh và giai đoạn
thành tựu như là
căn bản, hãy nhận
quán đảnh truyền pháp này, chú ý
đặc biệt đến
quán đảnh thứ tư và những samaya, hay những cam kết của nó. Khi đã thấu hiểu, mỗi
thực hành sơ bộ, như
quy y,
thiền định Vajrasattva và guru yoga, đều chứa cả hai
giai đoạn phát triển và giai đoạn
thành tựu. Chẳng hạn, nếu bạn có một thấu hiểu đầy đủ về
thực hành quy y, thì mọi
sắc tướng được thấy như những hiển xuất của trường
quy y ; và mọi
âm thanh được nghe
như ngữ của những đối tượng của sự
quy y.
Quy y theo cách này
trở thành một
thực hành mật thừa
trọn vẹn.
Tương tự, khi bạn
đi vào thiền định Vajrasattva, bạn sẽ thấy mọi
sắc tướng là
sắc tướng của Vajrasattva và nghe mọi
âm thanh là ngữ của Vajrasattva. Điều này cũng đúng cho
thực hành chuyển di tâm thức,(2) nó gồm cả hai giai đoạn phát sanh và
thành tựu.
Tuy nhiên,
chuyển di có
mục tiêu đặc biệt chuẩn bị cho
chúng ta với cái chết, và trong đó có sự
lợi lạc đặc biệt.
Ban và nhận một
quán đảnh là rất quan trọng, thế nên rất quan trọng cần
giữ gìn thái độ thích hợp. Một số người có vẻ như đi đến
truyền pháp như chỉ làm một việc sưu tầm, kiêu hãnh nói với bạn bè về những sở đắc gần nhất.
Thái độ này giống như ném mọi
giới luật và
quán đảnh truyền pháp vào đống rác. Quả là một
phung phí.
Sự
thực hành Đại Toàn Thiện
rõ ràng liên hệ đến hai giai đoạn phát sanh và
thành tựu.
Chúng ta hãy xem cái thấy hiểu (kiến) của Dzogchen. Đôi khi tôi nghe người ta nói họ đã nhận được những
giáo lý về
Đại Toàn Thiện và có được thấu hiểu. Có vẻ hầu hết những người
tuyên bố như vậy rơi vào một trong hai
phạm trù : (1) khi họ nghĩ họ thấu hiểu nghĩa, họ còn bám chấp vào một đối tượng của
tâm trí, thế nên chủ thể-khách thể vẫn còn
tồn tại ; và họ còn bám chấp vào
ý niệm họ đã thấu hiểu cái gì đó. (2) Những người khác
tuyên bố như vậy thực sự chỉ ở trong một
tâm thức trống trơn khi họ
thiền định theo lối
bề ngoài. Nếu đó là
thực hành Dzogchen
chân thật, thì bấy giờ những giai đoạn phát sanh và
thành tựu và mọi
giáo lý về mười địa
Bồ tát và năm
con đường Bồ tát rõ ràng là không
thích hợp. Nếu
thực hành Đại Toàn Thiện chỉ cốt dừng
tư tưởng và ở trong một
trạng thái tâm trí trống trơn, thì bấy giờ hai giai đoạn của
thực hành này – Cắt Đứt và Nhảy Qua – cũng không
thích hợp.
Đôi khi
chúng ta cố gắng bào chữa bằng hạnh của người khác, nói rằng họ là những siddha, những
thành tựu giả, họ vượt khỏi sự
phán đoán. Nhưng chính Guru Rinpoche nói rằng khi cái thấy của ngài
bao la như không gian, thì ngài rất tỉ mỉ về hạnh của ngài. Nếu Guru Rinpoche
cảm thấy hạnh tinh ròng là
cần thiết, tại sao
chúng ta xem là ngoại lệ với những
thành tựu giả có những mức độ
chứng ngộ thấp hơn ?
Dù bạn có bám chấp vào một đối tượng hay trở nên trống trơn, bạn cũng không
thoát khỏi tạo
tác ý niệm, thế nên bạn không thực sự
đi vào thực hành Dzogchen. Bám chấp vào một đối tượng dẫn đến
chấp hữu, còn trống trơn là
đoạn diệt chấp vô.
Cùng lúc đó, còn một
lỗi lầm nữa là tiêu phí
thì giờ để
chú tâm vào những
lỗi lầm của những người khác thay vì
chú tâm vào
hiện trạng của mình, đây là một loại
đạo đức giả tâm linh.
Cả những
thực hành sơ bộ và
thực hành chính thức Dzogchen đều
trọng yếu.
Nếu không tu hành Bốn
Tư Tưởng Xoay
Chuyển Tâm Thức, bạn vẫn sẽ bám chấp vào mọi sự, không có
tâm từ bỏ, thế thì làm sao gọi là người
Phật tử ? Cũng có thể khi bạn đã
quy y và nghe một số
giáo lý, bạn có thể trở nên tự phụ và nghĩ bạn đã đi tới đáy của những
giáo lý. Thậm chí bạn có thể nghĩ về mình như một vị thầy. Hãy nhớ cho, không dễ có thể là một vị thầy. Trước hết, bạn phải tịnh hóa và
điều phục tâm thức bạn. Chỉ
lúc ấy bạn mới có thể ở một
vị trí để giúp người khác
điều phục tâm thức họ. Chẳng hạn, nếu một người mù dắt một người khác, cả hai sẽ
rủi ro. Do đó để
hoàn thành những
mục tiêu của bạn và của những người khác, quan trọng là
trở lại chỗ
ban đầu, trau dồi cái mà
truyền thống Thiền (Zen) gọi là “sơ tâm” –
hoàn toàn tươi mới, không biết,
mở rộng với mọi sự. Hãy
trở lại với Bốn
Tư Tưởng Xoay
Chuyển Tâm Thức vì chúng là chìa khóa mở ra kho tàng vĩ đại của những
giáo lý Phật giáo. Để làm quen với chúng, hãy đọc chúng. Và khi bạn đọc chúng, hãy
nghiên cứu chúng và đem chúng vào
thực hành. –
Đây là những
giáo huấn thực hành và
sâu xa của
Quán Thế Âm. Bên phía phải của bạn để một
hình ảnh Phật, các kinh sách về Pháp. Nếu bạn có một cái tháp, hãy để nó ở đó, và
trước mặt mọi cái này để bảy loại
cúng dường, một
mạn đà la v.v...
–
Tác giả bắt đầu chỉ dạy
thiết lập một
bàn thờ như một chuẩn bị trực tiếp để nhận những giới điều
quy y và tịnh
hóa tâm thức.
Tâm thức bình thường chúng ta đem vào
thực hành thì
bất tịnh, nên cần tạo ra một môi trường
thanh tịnh và dẫn khởi một
cảm giác vui tươi và
thành tín. –
Một khi bạn đã hiểu nghĩa của
quy y và
Bồ đề tâm, nếu bạn lại
thỉnh cầu những
lời nguyện này, chúng sẽ thực sự khởi dậy trong bạn. Sẽ khó khăn để chúng khởi dậy chỉ bằng
đọc tụng mà không hiểu nghĩa. Trong Pháp phụ này, những
lời nguyện sẽ được ban cấp.
– Một số người thắc mắc tại sao chỉ nguyện
quy y một lần thì không đủ. Phát những nguyện này thì giống như ăn :
chúng ta cần ăn mỗi ngày để có
sức khỏe.
Cũng thế, đến khi nào
chúng ta đạt được giác ngộ hoàn toàn, còn chưa thì rất quan trọng
tiếp tục phát nguyện quy y và
giữ gìn chúng. –
Về những
lời nguyện quy y, có những cái chung cho các thừa khác nhau và có
lời nguyện quy y của
Đại thừa ; và bây giờ
chúng ta quan tâm đến cái sau. Ở đây đối tượng mà
lời nguyện thỉnh cầu, theo
truyền thống của những
giáo lý hiện đây : Trong
không gian trước mặt bạn là một tòa ngồi bằng ngọc rộng và oai nghiêm do những con
sư tử nâng đỡ. Trên đó là một
hoa sen nhiều màu trăm ngàn cánh, trên đó có một dĩa
mặt trăng. Ở
trung tâm dĩa là
đạo sư hàng đầu của chính bạn, Amitabha (
A Di Đà), trong
y phục của một
báo thân, có các lama các dòng bao quanh.
Ở trước ngài là bổn tôn
Quán Thế Âm bao quanh bởi
vô số bổn tôn. Ở bên phải ngài là Phật
Thích Ca Mâu Ni bao quanh bởi một
vô số Phật gồm ngàn vị Phật của
hiện kiếp. Đàng sau ngài là Kinh
Trí Huệ Ba La Mật Một Trăm Ngàn
Bài Kệ, bao quanh bởi một
vô số luận thư của
thánh pháp. Bên trái ngài là Vajrapani, bao quanh bởi một
vô số Tăng già Đại thừa và
Tiểu thừa, gồm tám đứa con
tâm linh Bồ tát và tám
Thanh văn tối cao. Mọi hướng chánh và hướng
trung gian đông đầy những vira(3) và dakini.(4) Ở dưới ngài là một
vô số hộ pháp, gồm Maha-kala Bốn Tay, Mahakala Sáy Tay và Draklha Gonpo. Trên đỉnh đầu họ là Omï, ở yết hầu chữ Ahï và ở tim chữ Humï. Từ chữ Humï ở tim họ, những
tia sáng phát ra
mười phương,
thỉnh mời tất cả những bậc thầy
tâm linh, những bổn tôn, những vira, dakini, và những
hộ pháp như mây
vân tập. Hãy tưởng tượng các vị tan vào những bổn tôn được
quán đảnh trước mặt bạn.
Với hai tay chắp một cây hương,
đạo sư và những
đệ tử thỉnh mời các vị bằng cách tụng :
Ngài là đấng
bảo vệ cho tất cả
chúng sanh không sót một ai, bậc
chinh phục thiêng liêng bất khả bại đánh tan đám quân ma, bậc biết mọi sự đúng như chúng là. Xin ngài đến chỗ này cùng với
hội chúng tùy tùng.
Bậc
Chí Tôn, từ vô kiếp ngài đã
nuôi dưỡng lòng bi với
chúng sanh, và ngài đã phát những nguyện
bao la để
đáp ứng những nhu cầu cho tất cả chúng con. Bây giờ, khi thời đã đến, xin ngài ban phát một
vô số những
ban phước nhiệm mầu từ cung điện tự phát của
không gian tuyệt đối của những
hiện tượng. Để
giải thoát chúng sanh
vô biên, xin hãy cùng đến với
hội chúng tùy tùng.
Ngài là Vua của tất cả các Pháp, hình thái của ngài như vàng
thanh tịnh, với một sự
rực rỡ sáng hơn
mặt trời. Với
lòng tin của con, mong ngài nhìn đến con.
An bình và bi mẫn,
điều phục và an trụ trong
kiên cố thiền định, với Pháp và
trí huệ bổn nguyên của ngài
thoát khỏi vướng mắc, ngài
sở hữu thần lực không thể cạn kiệt. Xin
trở về, bậc của sự
bình an và
thanh tịnh. Bậc thánh
toàn giác, cao tột của
chúng sanh, xin hãy đến nơi chỗ
cúng dường này, được trình bày như những
phản chiếu đẹp đẽ.
Thưa ngài, ngài đến đây là điều
tốt đẹp. Chúng con có
công đức và
dịp may. Xin nhận những
cúng dường của chúng con, nhìn đến chúng con và
ban cho những ân điển của ngài.
Khi chúng con dâng cúng
hoa sen tám cánh này rộng lớn như thiên hà, với
hoan hỷ và
rộng lượng, xin ở lại lâu như ngài muốn.
Nếu bạn muốn, bạn có thể làm thêm
cúng dường lễ tắm và
mạn đà la. Đây là
nghi thức ngắn :
Như
chư thiên tắm ngài khi ngài vừa sanh ra, con tắm ngài với nước
thanh tịnh,
thiêng liêng. Đây là một sự tắm rửa
vinh quang,
tối thượng, với nước không gì bằng của lòng bi. Với nước của những
ban phước và
trí huệ bổn nguyên xin
ban cho con những siddhi (
thành tựu) con
ao ước. Thân, ngữ, tâm của chư Phật thì
thoát khỏi những che chướng của
phiền não, nhưng để tịnh hóa những che chướng của thân, ngữ, tâm của
chúng sanh, con tắm ngài với nước
thanh tịnh.
Và :
Nền đất được rưới
nước thơm và rắc hoa,
trang hoàng với
núi Tu Di, bốn châu,
mặt trời và
mặt trăng, tôi
quán tưởng là một cõi
thanh tịnh của chư Phật. Nhờ sự
cúng dường này, nguyện tất cả
chúng sanh kinh nghiệm được cõi
hoàn toàn thanh tịnh này ! Idamï ratna manïdïalakamï niryatayami.
Như thế, hãy tưởng tượng rằng những đối tượng của sự
quy y hiện diện cụ thể trong
không gian trước mặt bạn. Thật ra các ngài thực sự
hiện hữu, vì có nói, “Đối với những ai tin Phật,
Thế Tôn hiện diện trước họ”, và “Như những
phản chiếu của
mặt trăng trong nước, các ngài
xuất hiện bất cứ nơi nào con nhìn.” Thế nên các ngài
hiện diện một cách
hiện thực. Hơn nữa, chư Phật và chư
Bồ tát an trú trong những cõi
thanh tịnh của
mười phương thấy bạn với đôi mắt
trí huệ bổn nguyên của các ngài, và các ngài
chắc chắn nghe lời tán tụng của bạn. Thế nên điều này là như nhau khi
thỉnh cầu với tất cả chư Phật.
Với những biểu trưng của thân, ngữ,
tâm giác ngộ mà bạn đặt ra
trước mắt bạn như là căn cứ của
sự quán tưởng của bạn, hãy
thỉnh cầu ta làm thầy của bạn. Hãy tưởng tượng
thỉnh cầu những
thệ nguyện của sự
quy y Đại thừa. Những đối tượng của sự
quy y thuộc
bản tánh của ba
hiện thân. Chư Phật là
Phật Bảo, hãy
thỉnh cầu chư vị là sự
quy y nền tảng của bạn.
Pháp Bảo là những
kinh điển và
huệ quán Đại thừa. Hãy
thỉnh cầu cái này là chỗ
quy y của bạn về mặt
con đường. Những
Bồ tát ở địa thứ nhất và trở lên là
Tăng Bảo của
Đại thừa. Hãy tưởng tượng
thỉnh cầu các vị là chỗ
quy y của bạn và là những người
đồng hành của các bạn.
– Ở đây Karma Chagmé Rinpoche nói với những
đệ tử của ngài
thỉnh cầu ngài là vị hướng dẫn
tâm linh của họ từ đó làm những lời
cầu nguyện này. Đó là một cách để tiến hành, nhưng bạn không
nhất thiết cần có một vị thầy
hiện diện để bạn nguyện
quy y. Nếu ngài không có,
vẫn có thể
đơn giản thiết
bàn thờ với những biểu trưng của thân, ngữ,
tâm giác ngộ của Phật, và nguyện về phần bạn. Khi bạn
quán tưởng, người mà bạn
quán tưởng có thể là thầy của bạn hay Guru Rinpoche. Người mà bạn có
niềm tin lớn nhất là vị thầy
ban đầu của bạn và bạn
quán tưởng người đó có
bản tánh của
A Di Đà.
Hơn nữa,
quy y Đại thừa là
giao phó chính mình từ lúc này
cho đến Phật Quả. Đây là cấp độ của sự cam kết. –
Điều này không phải là
quy y cho riêng
chúng ta. Hãy
tìm kiếm sự
quy y để đem tất cả
chúng sanh đến
trạng thái thức tỉnh tâm linh (
giác ngộ). Đây không phải là
quy y chỉ cho
một đời này, như
trường hợp của
Tiểu thừa, mà phải nghĩ rằng, “Con
quy y từ hôm nay
cho đến khi con
thành tựu giác ngộ.” Quỳ gối xuống, hai tay chắp lại, và với mong muốn
nhất tâm thỉnh cầu những
lời nguyện quy y Đại thừa, hãy đọc theo tôi ba lần :
Tất cả chư Phật và chư
Bồ tát mười phương, xin hãy thương tưởng đến con. Bổn sư, xin hãy thương thưởng đến con. Từ lúc này
cho đến khi con có mặt trong
tinh túy của
giác ngộ, con
quy y Phật, bậc tối tôn trong
loài người. Con
quy y Pháp linh thánh,
tự do tối tôn khỏi sự
vướng mắc. Con
quy y các thánh và Tăng
bất thối chuyển,
cộng đồng tối tôn. (3 lần)
Nào, bây giờ hãy biết rằng những lời
thệ nguyện Đại thừa về
quy y đã
sanh khởi trong
dòng tâm của các bạn, và hãy nói, “Hoan hỷ phụng hành”, với điều này vị thầy
trả lời, “Đây là
phương pháp.”
Đây là những
lợi lạc của việc nhận những
thệ nguyện quy y. Bạn được
bảo vệ khỏi mọi làm hại và
tổn thương trong đời này (trừ cái gì xảy đến như là quả của những hành động đời trước), khỏi những điềm triệu xấu và khỏi rơi vào
Tiểu thừa. Trong tương lai bạn sẽ được
bảo vệ khỏi những
sợ hãi của những chỗ đến khốn khổ và những
sợ hãi của
vòng sanh tử.
Trang Hoàng Cho Những Kinh nói :
Bởi vì nó
bảo vệ khỏi mọi
thương tổn, khỏi những nơi đến khốn khổ, những
ác hạnh,
sợ hãi và
Tiểu thừa, nó là sự
quy y cao cả.
Ngay khi nhận những
thệ nguyện quy y, bạn phải
đi vào những
pháp môn tương ứng. Những
pháp môn này có (1) ba
thực hành tổng quát, (2) ba
thực hành đặc biệt, và (3) ba
thực hành phụ thêm.
1. Luôn luôn
cố gắng cúng dường Tam Bảo,
ít nhất cũng dâng cúng mẩu thứ nhất của
bữa ăn. Chớ
từ bỏ Tam Bảo dù với cái giá của đời bạn hay vì bất kỳ phần thưởng nào ; và
thường xuyên thực hành quy y bằng cách nhớ những phẩm tính
tuyệt hảo của
Tam Bảo.
2. Ba
thực hành đặc biệt gồm : một khi bạn đã
quy y Phật, chớ có
quy y nơi những vị thần khác. Kinh Đại
Giải Thoát nói :
Người đã
quy y chư Phật là một
ưu bà tắc đích thật, và chớ bao giờ tìm sự
quy y ở những vị thần khác.
Từ khi bạn đã
quy y Pháp, chớ có làm
thương tổn chúng sanh. Một kinh nói :
Một khi con đã
quy y Pháp linh thánh, hãy
thoát khỏi những
tư tưởng làm hại và
tổn thương.
Từ khi bạn đã
quy y Tăng, chớ có theo những người
quá khích. Một kinh nói :
Một khi con đã
quy y Tăng, chớ có
đổi hướng theo những người
quá khích.
–
Quy y những người
quá khích là tin vào những người
từ bỏ,
phỉ báng Pháp hay người
nói xấu thầy của họ. Điều này gồm bị
ảnh hưởng bởi những
thái độ phân phái,
thành kiến v.v..., gồm cả những người tự cho là
Phật tử. –
3. Ba
thực hành phụ thêm là :
tôn kính đối với tranh tượng của
Như Lai,
tiêu biểu cho
Phật Bảo, thậm chí một mảnh của tranh tượng đó ;
tôn kính đối với những kinh sách của Pháp,
tiêu biểu cho
Pháp Bảo, thậm chí một chữ của những bản văn đó ; và
tôn kính những y áo,
vật dụng của bậc
Giác Ngộ,
tiêu biểu cho
Tăng Bảo, thậm chí một mảnh y vàng.
Có tám
lợi lạc của sự
quy y : (1) bạn được vào trong
cộng đồng những
Phật tử ; (2) điều này
trở thành một căn cứ cho tất cả những
thệ nguyện ; (3) mọi
tội lỗi trước kia của bạn được tắt dần ; (4) bạn không bị những lực lượng ngăn ngại thuộc
con người hay chẳng phải
con người gây
tác hại ; (5) bạn
hoàn thành mọi sự bạn
dự định ; (6)
dòng tâm của bạn được phú bẩm
công đức lớn lao ; (7) bạn không
sa xuống những
trạng thái khốn khổ của
sanh tử ; (8) bạn nhanh chóng và
rõ ràng thành tựu giác ngộ viên mãn.
Đó là nhận những
lời nguyện Đại thừa về
quy y.
Bây giờ tôi
bàn luận sự phát sanh nguyện vọng
Đại thừa. Nói chung, về những nguyện vọng, có những nguyện vọng
Tiểu thừa và
Đại thừa. Cái thứ nhất là sự phát sanh nguyện vọng
giác ngộ vì an vui và
hạnh phúc của riêng bạn, đó là
con đường phạm vi nhỏ. Có nói, “Nguyện vọng của
Thanh Văn và
Duyên Giác là những
chướng ngại căn bản cho sự
đạt đến giác ngộ viên mãn”, và “Không có
phương tiện thiện xảo và thiếu
trí huệ, con sẽ rơi xuống cấp độ
Thanh Văn.” Các vị
đạt đến những
trạng thái giác ngộ tương đương với
con đường của các vị, nhưng các vị không thể
thành tựu giác ngộ tối hậu. Thế nên
cần phải nỗ lực phát sanh nguyện vọng
Đại thừa.
Về sự phát sanh nguyện vọng
Đại thừa, có những
phân chia theo
tinh túy của nó, những
đặc tính của nó, những nhân và duyên của nó và những cấp độ của nó. Thứ nhất có sự
phân chia giữa
Bồ đề tâm tương đối và
Bồ đề tâm tối hậu. Kinh Nói Về Làm
Sáng Tỏ Ý Định nói :
Có hai loại
Bồ đề tâm :
Bồ đề tâm tối hậu và
Bồ đề tâm tương đối.
Đặc tính của
Bồ đề tâm tương đối là một sự
tỉnh giác tập trung vào việc
hoàn thành giác ngộ vì
lợi lạc của những người khác.
Trang Hoàng Cho
Chứng Ngộ Cao Hơn nói :
Nguyện vọng được phát sanh nhắm đến
giác ngộ đích thực và
viên mãn vì
lợi lạc của những người khác.
Nhiều nhân và duyên được dạy, nhưng
tóm tắt chúng là :
niềm tin vào chư Phật và các con Phật (
Bồ tát), một
tâm bi mẫn, và được chăm sóc bởi một
thiện tri thức (người bạn
tâm linh). Có nói :
Rễ của nó được khẳng định là lòng bi, nó kéo theo
tư tưởng thường trực làm
lợi lạc.
Kinh Sự Thu Hút Của Viên Ngọc
Sao Băng nói :
Do có
niềm tin vào Bậc
Điều Ngự và Pháp của Bậc
Điều Ngự,
niềm tin vào
cách sống của các
Bồ tát, và
niềm tin vào
giác ngộ tối thượng, tâm của những người cao cả
sanh khởi.
Có hai mươi hai
phân chia, từ
Bồ đề tâm như
đại địa đến
Bồ đề tâm như mây. Như
Trang Hoàng Cho
Chứng Ngộ Cao Hơn nói :
Đất, vàng,
mặt trăng... Có hai mươi hai loại.
Có ba loại
Bồ đề tâm liên tiếp, tự mình cảm kích,
mến phục,
Bồ đề tâm quyết định phi thường và
thanh tịnh, và
Bồ đề tâm của sự
trưởng thành, chúng loại trừ những che ám.
Trang Hoàng Cho Những Kinh nói :
Ba cấp độ của
phát Bồ đề tâm được xác định : cảm kích
mến phục,
quyết định phi thường và
thanh tịnh, và
trưởng thành. Chúng loại trừ những che ám.
Trong hai mươi hai
phân chia được
bàn luận trong
Trang Hoàng Cho
Chứng Ngộ Cao Hơn, cái giống như
đại địa, giống như vàng, và giống như
mặt trăng là những
trạng thái của người
sơ cơ chúng ta.
Trang Hoàng Cho
Chứng Ngộ Cao Hơn nói rằng ba loại
Bồ đề tâm được đề cập ở trên sanh ra từ sự cảm kích
mến phục, và chúng xảy ra ở giai đoạn của những người
sơ học.
Cái tốt nhất là
Bồ đề tâm giống như người chăn cừu, với nó người ta
quyết định không tự mình
đạt đến giác ngộ cho đến khi tất cả
chúng sanh được đưa vào
trạng thái ấy. Cái này giống như
Bồ đề tâm của
Quán Thế Âm, và nó khó làm.
Bồ đề tâm như người lái tàu thủy là bậc trung, với nó người ta
quyết định đạt đến giác ngộ cùng với tất cả những
chúng sanh khác. Cái kém là
Bồ đề tâm như đức vua. Hãy xem, “Bởi vì tất cả
chúng sanh không ngoại trừ ai đã từng là cha là mẹ của tôi, tôi phải
đáp ứng những nhu cầu của họ, nhưng bây giờ tôi không thể. Bởi thế, tôi
quyết định trước tiên tự mình
đạt đến giác ngộ, rồi không cần
nỗ lực, tôi sẽ
phụng sự những nhu cầu của tất cả
chúng sanh nhờ những
hoạt động giác ngộ, tự phát và không
nỗ lực cho đến khi
sanh tử trống rỗng.” Điều này quan trọng.
Bằng cách trau dồi
Bồ đề tâm tương đối theo cách này, khi cấp độ thứ nhất của
Bồ tát (
sơ địa) được
đạt đến,
Bồ đề tâm tối hậu sanh khởi. Và có nói rằng trong những
truyền thống Đại Ấn và
Đại Toàn Thiện sự chứng ngộ thoát khỏi tạo
tác ý niệm là
Bồ đề tâm tối hậu. Có
Bồ đề tâm nguyện vọng và
Bồ đề tâm dám đi đến
giác ngộ. Một cách để trau dồi mỗi
Bồ đề tâm này được trình bày nói rộng trong dòng phát sanh từ Maitreya qua đến Acarya (
A xà lê : một vị thầy đã
thành tựu) Asanga. Để làm được điều đó, người ta phải có những loại
thệ nguyện giải thoát thuộc về
cá nhân, và những nguyện
Bồ tát không
sanh khởi nếu không có một
thiện tri thức biết
tạng kinh Bồ tát.
Nghi thức để nhận những
giới luật của
Bồ đề tâm nguyện vọng và
Bồ đề tâm dám đi đến
giác ngộ cả hai
đồng thời được trình bày trong dòng từ Manjushri (
Văn Thù) qua Nagarjuna (
Long Thọ) đến Santideva (
Thánh Thiên). Trong
truyền thống này những
thệ nguyện có thể
sanh khởi trong bất kỳ ai, thế nên đó cũng là
truyền thống hiện thời của
chúng ta.
– Theo dòng từ Maitreya qua Asanga, người ta phải có
ít nhất một trong những lời
thệ nguyện giải thoát cá nhân, đó là,
ít nhất một
thệ nguyện của
ưu bà tắc hay của giới
xuất gia trước khi có những
thệ nguyện Bồ tát. Nhưng theo dòng từ Manjushri qua Nagarjuna đến Santideva, bạn có thể
đồng thời nhận cả hai
thệ nguyện Bồ đề tâm nguyện vọng và
Bồ đề tâm dám đi đến
giác ngộ, mà không có mặt một vị thầy và không cần có những
giới luật cho
giải thoát cá nhân trước đó. –
Cần thiết tích tập
công đức để làm nền tảng cho
Bồ đề tâm. Trong
quá khứ nhiều
Bồ tát giàu có đã
cúng dường mười triệu ngôi chùa và
ngọc như ý, rồi
phát tâm Bồ đề ; những người không
giàu có thì
cúng dường y phục và đèn rơm, rồi
phát tâm Bồ đề. Những người không có chút
tài sản nào
phát tâm Bồ đề chỉ bằng
chắp tay.
– Dù bạn không nhà và không có gì để
cúng dường, bạn luôn luôn có thân, ngữ, tâm để
cúng dường cho những đối tượng của sự
quy y khi bạn nhận
thệ nguyện Bồ tát. –
Những cách chính để tích tập
công đức là sùng mộ bảy phần. (1) Hãy tưởng tượng biến
thân thể bạn ra nhiều như số nguyên tử của trái đất và
lễ lạy với mỗi thân đó. (2) Dùng những đồ
cúng dường bạn bày ra ở đây như căn cứ cho
sự quán tưởng của bạn, hãy tưởng tượng chúng có
bản tánh là những
thân thể, những
tài sản, những
thiện căn của bạn trong hình dạng những đồ
cúng dường như mây của
Phổ Hiền, đầy khắp
vũ trụ. Hãy
cúng dường chúng cho tất cả
chư Phật mười phương. (3) Trong sự
hiện diện của các ngài, hãy phát lời
sám hối tất cả
tội lỗi và sa rớt của bạn đã mắc từ
vô thủy sanh tử cho đến nay. (4)
Thiền định về
tùy hỷ tất cả
thiện căn công đức mà các thánh và người
bình thường đã
thực hiện. (5) Với những vị đã
đạt đến giác ngộ trong những cõi khác và những vị không dạy Pháp,
thỉnh cầu chư vị
chuyển Pháp Luân. (6) Với tất cả những vị sắp
đi vào niết bàn, thỉnh chư vị không
nhập niết bàn. (7)
Hồi hướng công đức như vậy để
thành tựu giác ngộ vì
lợi lạc của tất cả
chúng sanh.
Nếu bạn muốn, ở điểm này thầy và những học trò có thể tụng một
cầu nguyện ngắn, nhưng
nếu không thì cũng không
cần thiết.
Bây giờ tụng theo tôi ba lần : “Bất cứ
đức hạnh nhỏ nào tôi đã tích tập do
lễ lạy,
cúng dường,
sám hối,
tùy hỷ,
cầu khẩn và
thỉnh cầu, tôi
hồi hướng cho sự
giác ngộ viên mãn của tất cả
mọi người.”
Rồi theo
nghi thức chuẩn bị của
Bồ đề tâm, đây là
thực hành chính. “Đã nhận
Tam Bảo Đại thừa làm chỗ
quy y, các
Bồ tát quá khứ khai triển
Bồ đề tâm nguyện vọng và
Bồ đề tâm dám đi đến
giác ngộ.
Cũng thế, bởi vì mọi
chúng sanh đã từng là
cha mẹ từ ái của tôi, tôi cũng
phát nguyện đạt đến giác ngộ vì
lợi lạc cho họ.” Với
tư tưởng đó, hãy đọc ba
lần theo tôi : “Tất cả chư Phật và chư
Bồ tát ở trong
mười phương, xin nhìn đến con. Bổn sư, xin nhìn đến con. Từ giây phút này
cho đến khi con
đạt đến tinh túy của
giác ngộ, con
quy y chư Phật, và con
quy y Pháp và
thánh chúng Bồ tát. Như chư
Như Lai thời
quá khứ đã khai triển
Bồ đề tâm và
dần dần đi vào những
thực hành của chư
Bồ tát,
cũng thế, để
phụng sự chúng sanh con khai triển
Bồ đề tâm, và con
dần dần đi vào những
thực hành.” Hãy biết rằng bằng cách
đọc tụng ba lần như thế, những
thệ nguyện của
Bồ đề tâm sanh khởi trong bạn, rồi nói, “Hoan hỷ
phụng hành.”
Công việc
kết thúc là
hoan hỷ nơi chính mình. “Đã
đạt được thân người, có
ý nghĩa là tôi đã không chết trước lúc này. Do có được những
thệ nguyện Bồ đề tâm hôm nay – như một chất thuốc hóa sắt thành vàng – tôi đã sanh ra trong
gia đình của chư Phật, và tôi
trở thành một đứa con của chư Phật.” Với
tư tưởng này, hãy đọc theo tôi ba lần : “Bây giờ đời con đang sai quả. Đời làm người
đạt được tốt đẹp. Hôm nay con được sanh ra trong
gia đình của chư Phật, và con
trở thành một đứa con của chư Phật.”
Nếu người ta nói thêm những
thực hành phối hợp với việc nhận những
thệ nguyện này, thì có nhiều để nói, nhưng ngắn gọn là : hãy
tôn kính những vị hướng dẫn
tâm linh Đại thừa, tránh bốn
hành vi xấu, ráng sức với bốn
hành vi tốt, và trong tâm chớ
bỏ rơi chúng sanh. Nói ngắn, sự
thực hành Bồ đề tâm nguyện vọng là
quyết định đạt đến giác ngộ vì
chúng sanh. Với
tư tưởng này, hãy đọc theo tôi : “Bây giờ bằng mọi
phương tiện con sẽ
đi vào những
hành vi phù hợp với
gia đình này, và con sẽ không làm dơ nhiễm
gia đình cao cả, không tỳ vết này.”
– Bốn
hành vi xấu là :
nói dối hay dối gạt thầy ; làm nản lòng những người khác trong
thực hành đức hạnh của họ ; do giận mà nói lời thô nặng với một người tu hạnh
Bồ tát ; và làm cho
chúng sanh lầm đường do từ một động cơ khác với
quyết định vị tha phi thường là dẫn dắt những người khác khỏi khổ. Bốn
hành vi tốt cần theo là : không
nói dối thậm chí trong khi nói giỡn ; làm những người khác
thấm nhuần sự
vui thích trong
thực hành của họ và hướng dẫn họ tiến lên trên
con đường Đại thừa ; nhìn tất cả
chúng sanh như chư Phật ;
thành thực đối xử với tất cả
chúng sanh từ
lòng vị tha. –
Điều này là
hoan hỷ nơi những người khác : “Hôm nay, trong sự
hiện diện của tất cả chư Phật, tôi đã hứa
phụng sự và đem đến
hạnh phúc cho tất cả
chúng sanh cho đến khi tất cả các người được đưa đến
trạng thái giác ngộ. Thế nên các bổn tôn trong bầu trời và tất cả
chúng sanh các người có
tri giác siêu
giác quan, hãy
vui thích !” Với
tư tưởng này, hãy lập lại : “Hôm nay, trong sự
hiện diện của tất cả những Bậc
Bảo Vệ, con
thỉnh mời chúng sanh kinh nghiệm niềm vui
cho đến khi họ
đạt đến trạng thái của chư
Như Lai. Thế nên,
chư thiên và chư
a tu la, hãy
vui thích.”
Bây giờ hãy lập lại lời
cầu nguyện này : “Nguyện
Bồ đề tâm quý báu sanh khởi trong những ai chưa
sanh khởi. Nguyện chúng con không lìa rời
Bồ đề tâm, nguyện chúng con
đi vào cách sống Bồ tát, nguyện chúng con được chư Phật chăm sóc, và chúng con cũng được
thoát khỏi những hành động của Ma. Nguyện những
ý định của chư
Bồ tát phụng sự chúng sanh được
thành tựu. Nguyện
chúng sanh nhận được những gì các Bậc
Bảo Vệ muốn giúp đỡ. Nguyện
chúng sanh có được
hạnh phúc. Nguyện những cõi khốn khổ luôn luôn trống rỗng. Bất cứ nơi nào chư
Bồ tát ở, nguyện những
cầu nguyện của chư vị được thành.”
Nhờ những
phương tiện này mà nhận được những
thệ nguyện Bồ đề tâm. Đây là sự
tu hành : “Không
bỏ rơi chúng sanh, ghi nhớ trong tâm những
lợi lạc của
Bồ đề tâm, tích tập hai kho
trí huệ và
công đức, trau dồi mãi
Bồ đề tâm, theo bốn hành động tốt và tránh bốn hành động xấu – năm cái này là sự
tu hành Bồ đề tâm nguyện vọng.”
Tu hành Bồ đề tâm dám đi đến
giác ngộ chủ yếu gồm ba sự
tu hành, và chúng được
bao gồm trong
Sáu Ba La Mật. Thế nên nếu người ta xem những cái đó là những
thệ nguyện của mình, thì chúng là : “Bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định và trí huệ – sáu cái này
bao gồm sự
tu hành Bồ đề tâm dám đi đến
giác ngộ.”
Theo
truyền thống Duy Thức có bốn hành động
xem như thất bại và bốn mươi bốn lỗi phụ. Theo
truyền thống Trung Quán, đối với những người khả năng bén nhạy có mười tám
thệ nguyện cho vua, các đại thần v.v... Đối với những người bậc trung có bốn
thệ nguyện, và đối với những người khả năng chậm lụt, có một
thệ nguyện. Kinh
Lời Khuyên Cho Một Vị Vua nói :
Đại Vương, ngài có nhiều
hoạt động và công việc, ngài không thể ở mọi lúc và trong mọi cách
thực hành các
ba la mật bố thí cho đến trí huệ. Bởi thế,
Đại Vương, dù ngài đang đi, đứng, nằm, ngồi,
thức dậy hay ăn, hãy
thường trực mang trong tâm và trau dồi nguyện vọng,
lòng tin,
mong mỏi và khao khát đối với
giác ngộ viên mãn. Hãy
tùy hỷ những
công đức của những người khác. Làm như vậy, hãy
cúng dường tất cả chư Phật, chư
Bồ tát, chư
Thanh Văn và chư
Bích Chi Phật. Làm như vậy, hãy đối xử với tất cả
chúng sanh cùng một cách. Rồi, để cho tất cả
chúng sanh được đầy đủ trong tất cả những phẩm tính của Phật, mỗi ngày hãy
hồi hướng những điều trên cho
giác ngộ tối thượng.
Đại Vương, nếu ngài làm điều đó, ngài cũng trị vì vương quốc của ngài, và những bổn phận làm vua sẽ không hư kém. Những tích tập hướng đến
giác ngộ cũng sẽ được
hoàn hảo.
Bởi thế, quan trọng cho các bạn là được
giáo dục để
thực hành những
tu hành của
Bồ tát này. Người không được
giáo dục sẽ thấy chúng khó hiểu, và đó là
lý do căn bản tại sao các geshe đi đến các
đại học tu viện ở trung và tây
Tây Tạng dành
cuộc đời họ để
nghiên cứu Trung Quán và
Trí Huệ Ba La Mật. Những đề tài đó khó hiểu, và sự
giải thích về chúng thì rất tỉ mỉ.
Tuy nhiên, thế không có nghĩa là bạn
lìa bỏ chúng, vì đây là gốc của Pháp
Đại thừa. Không có cái đó, bất kể
thực hành của bạn có tốt bao nhiêu, bạn cũng rơi vào
con đường Thanh Văn và Bích Chi của
Tiểu thừa. Không có cái đó, thì như thể bạn cày đất mà không gieo giống, bạn sẽ không có kết quả
giác ngộ.
– “Geshe”
nghĩa đen là “thiện tri thức”, nhưng nó cũng là một học vị tốt nghiệp của
giáo dục Phật giáo Tây Tạng. Có nhiều người được
giáo dục rất cao trong cả bốn phái Nyingma, Kagyu, Geluk và Sakya. Chiến lược của mỗi phái là trước hết
tìm ra một người hướng dẫn
tâm linh. Những người
đi vào sự
tu hành chính thức ở
tu viện thường để vài năm để
tranh luận. Nhiều người trong các bạn đã xem những phim về những buổi
tranh luận này : vỗ tay, nhảy quanh và la lớn để
phê bình hay
bảo vệ. Việc ấy dùng để có được một cái hiểu về
Sáu Ba La Mật. Trước hết
nghiên cứu và rồi
tranh luận từng điểm, một cái hiểu
thông suốt và phê phán sẽ có được.
Sự
tu học lý thuyết,
ý niệm này được sự
thực hành nhất tâm đi theo. Trước có một cái
hiểu ý niệm và rồi
áp dụng nó vào
thực hành.
Đã nhiều thế kỷ, trong
truyền thống Tây Tạng, có hai loại cơ sở về Pháp. Một là những trường
tu viện, nơi có sự
nghiên cứu lý thuyết và những buổi
tranh luận – hai cái đầu tiên của ba giai đoạn nghe,
suy nghĩ và
thiền định. Cái kia là những
trung tâm thiền định, xưa được dựng lên cho những người đã xong phần
tu học lý thuyết và sẵn sàng
đi vào thực hành nhất tâm.
Hiện giờ Phật giáo Tây Tạng ở
Ấn Độ hay
Tây Phương cũng làm như vậy, và do đó Pháp vẫn nở hoa hưng thịnh. –
Nếu những
lợi lạc của việc này mà có
hình tướng, thì cả bầu trời không thể chứa nổi chúng. Thậm chí bạn
ngồi không làm gì cả,
công đức của bạn
tiếp tục tăng trưởng. Bởi vì bạn đã
trở thành con của chư Phật, bạn
trở thành đối tượng để
tôn kính cho trời và người. Kinh Những Câu Hỏi Của Suradatta nói :
Nếu
công đức của
Bồ đề tâm có
hình tướng, nó sẽ lấp đầy tất cả
không gian, và vượt ra khỏi đó.
Một Hướng dẫn Vào
Bồ Tát Hạnh nói :
Khi
Bồ đề tâm sanh khởi, chỉ trong một khoảnh khắc một kẻ hư hỏng bị trói chặt vào trong tù ngục của
vòng sanh tử được gọi là con trai của Bậc
Thiện Thệ và trở nên xứng đáng
tôn kính trong những
thế giới của trời và người.
Từ lúc đó, một dòng suối
công đức bất tuyệt, rộng lớn như bầu trời,
thường trực sanh khởi dù người ta đang ngủ hay đang
xao lãng.
Sự
tu hành điều này cô đọng thành một điểm : Hãy xem, “Bất cứ
đức hạnh nào tôi làm, dù lớn hay nhỏ, tôi không làm cho riêng
một mình tôi mà vì
lợi lạc của tất cả
chúng sanh. Và trong tương lai, để
phụng sự tất cả
chúng sanh, tôi sẽ
trở thành một vị Phật. Để
giác ngộ nhanh chóng và không có những
rắc rối và
chướng ngại, nhờ những
thiện căn hoàn thành hôm nay, khi tôi đi khỏi
cuộc đời này nguyện tôi được sanh ra trong
cõi tịnh độ
Cực Lạc (Sukhavati).” Nếu bạn biết, hãy tụng
Cầu Nguyện Cực Lạc và
hồi hướng v.v... Dù bạn không biết, mỗi đêm hãy nói, “Nguyện con được sanh trong
Cực Lạc.” Mọi
thực hành đều
bao gồm trong đó.
Ngược lại, nếu bạn làm
đức hạnh chỉ cho
lợi lạc của riêng bạn thì điều này không
phù hợp với những
thệ nguyện Bồ đề tâm, nên là một lỗi lớn. Như có nói :
Trên một
lời hứa như vậy, nếu tôi không đưa nó vào hành động, thì hóa ra tôi lừa gạt
chúng sanh, tôi sẽ có số phận thế nào ?
Hơn nữa, sự khai triển
Bồ đề tâm là quan trọng để sanh trong
Cực Lạc. Kinh Sự
Vinh Quang Của
A Di Đà, Kinh Sự
Vinh Quang Của
Cực Lạc... nói rằng nhờ khai triển
Bồ đề tâm và
cầu nguyện khẩn cầu, người ta sẽ được sanh trong
cõi tịnh độ ấy ; nhưng những kinh ấy không nói rằng người ta sẽ được sanh vào đó mà không có
cầu nguyện.
Trọng tâm của
sự thiền định này duy chỉ là
thiền định của
từ bi, “gởi cho và nhận lấy”.
– Sự
thực hành “gởi cho và nhận lấy”, được gọi là “tonglen”,
bao gồm sự trau dồi
Bốn Tâm Vô lượng : từ, bi, hỷ, xả. –
Do nhận những
thệ nguyện quy y và
Bồ đề tâm theo cách này, sự
thực hành quy y và
Bồ đề tâm sẽ luôn luôn được đầy đủ, và mọi
thực hành những giai đoạn phát sanh và
thành tựu và mọi
tụng chú sẽ giống như những cái tháp dựng đứng trên một nền tảng
vững chắc ; chúng sẽ dẫn bạn tiến xa thêm trên
con đường. Không có cái này, chúng
chỉ bảo vệ cho bạn khỏi những nguy hiểm, nhưng chúng không dẫn bạn trên
con đường đến
giác ngộ ; thế nên cái này là quan trọng.
– Không có
quy y và
Bồ đề tâm, bạn có thể
thực hiện những
nghi thức hay đề nghị những người khác
thực hiện những
nghi thức, những
trì chú... để
đối trị những
chướng ngại khác nhau. Thật ra, điều đó có thể giúp bạn, nhưng những
thực hành mật thừa ấy không dẫn đến
giác ngộ. Chúng chỉ
đối trị vài
vấn nạn tạm thời. Vì
lý do đó,
quy y và
Bồ đề tâm là cốt yếu. –
Đến đây
kết thúc những
giáo lý về những
thệ nguyện quy y và
Bồ đề tâm.