CHƯƠNG MƯỜI MỘT
Làm Sao Tiến Bộ theo những Địa
và những Con Đường
Kính lễ đức
Quán Thế Âm !
Đây là những
giáo huấn thực hành sâu xa của
Quán Thế Âm về
tiến bộ như thế nào theo những địa và những
con đường do
thực hành Phá Thấu vào địa và Đại Ấn. Từ điểm này trở đi, khó mà dạy từ
kinh nghiệm, và những người
chứng ngộ qua
kinh nghiệm về những cấp độ sau thì hiếm hoi. Bởi thế, dù nếu tôi
không giải thích điều này thật dài, thì như vậy là đủ. Biết đâu, một số người với nhiệt thành và
nghiệp báo tốt đẹp thiền định thời gian dài có thể
kinh nghiệm được một vị của
kinh nghiệm. Để cho họ, và để cho sự
trọn vẹn của Pháp với
quần chúng, và cho sự
lợi lạc khi
nghe được những
giáo lý này, tôi sẽ
giải thích điều này ngắn thôi.
– Những địa là mười địa của
Bồ tát và những
con đường là năm
con đường kế tiếp nhau đến
giác ngộ. –
Tantra của Dòng Sông Ali Kali Vĩ Đại nói :
Thứ ba, nhờ samadhi tiến hành với sự
dũng cảm, khởi sanh những
chứng ngộ của mười địa, trong đó
thế giới đa thù được biết là một vị. Những Đứa Con của các bậc Chiến Thắng của ba thời
phụng sự cho những nhu cầu của
chúng sanh.
Thành tựu nhất tâm, sự
tiến bộ của bạn thì không ngừng.
Naro Panchen nói, “Thứ ba, yoga của một vị
sanh khởi.” Mỗi sự vật
xuất hiện thì
sanh khởi như
thiền định, thế nên tất cả đều một vị, không có cái gì để từ chối hay
chấp nhận. Bạn
chứng ngộ tính cách của
tự tâm xuất hiện là sự
hiển bày của
sanh tử và
niết bàn.
Một khi bạn
chứng ngộ vô tự tánh, nếu bạn
lơ là bỏ qua những điều như
tôn kính, lòng bi, bạn bị kích động bởi những làn sóng trộn lẫn với một vị. Bởi vì bạn đã không
nhận biết bản tánh cốt lõi của bạn một cách
bất nhị, chỉ có một
phương diện của
tánh không sanh khởi, nên thức sau đó của bạn là trống không. Sự
thông hiểu trong trẻo về
tánh không không được
nhận biết với những đối tượng, thế nên có vết dơ của
kinh nghiệm thiền định. Những vết dơ của khuynh hướng
thói quen chưa được tịnh hóa. Khi tánh giác của bạn không được
hộ trì với
chánh niệm, không có
chứng ngộ và không có
thông hiểu, thế nên bạn không
tự do.
Bằng cách
duy trì chánh niệm với sự
xuất hiện của
quang minh tự nhiên của
bản tánh cốt lõi, có
chứng đắc. Một khi những
tư tưởng và những ký ức
sanh khởi như
thiền định, không có cái gì được
thông hiểu là tách lìa với
thiền định, thế nên (mọi sự) thành đồng nhất.
Hai chân lý tương đối quy ước và
tuyệt đối tối hậu hòa nhập, cũng như thế là định và
trạng thái sau
thiền định. Thế nên đây là
thời gian của
thiền định về sự hợp nhất của
tự tâm. Nhờ sự
vắng mặt của
ý muốn (hành) mà
bản chất là bị
trói buộc,
tưởng ấm được tịnh hóa. Bạn
chứng ngộ rằng sự bám nắm vào “tôi” và “của tôi” là không có căn cứ, thế nên tâm
phiền não được tịnh hóa. Khi
bản thân kinh nghiệm sanh khởi như là sự
chứng ngộ, bèn không có sự chia biệt giữa
kinh nghiệm thiền định và
chứng ngộ, thế nên hai cái được thành một.
Từ không gian
tuyệt đối và trống không của những
hiện tượng, những
biến cố tương thuộc
duyên sanh khởi sanh như là những
hiện tượng trống không, thế nên chúng không có
vật chất như
hư không. Sự khác biệt giữa
nhập định và
trạng thái sau
thiền định là trong cái sau sự bám nắm xảy ra còn trong cái trước thì không.
Vào lúc này những
ý tưởng chung,* như là những đối tượng của sự hiểu, bị lầm cho là những
kinh nghiệm của
chứng ngộ, thế nên quan trọng chớ lầm lộn chúng
với nhau. Trong một
trạng thái nhất thể rộng rãi trong đó sáu tập hợp của thức đều rỗng rang trống trải, hãy chủ yếu
thiền định về
nhất thể, và bạn sẽ
nhận biết tự tánh của những
xuất hiện. Dagpo Rinpoche nói : “Yoga một vị gồm chứng biết sự bất khả phân của những
xuất hiện hình tướng và
tánh không.”
Bà La Môn Vĩ Đại (Saraha) nói :
Thứ ba, bạn hòa tan vào cái
vô niệm và
vô sanh.
Không có cái gì là khác biệt, và mọi sự là một như
đại lạc.
Tánh như thì không thể
phân chia giống như băng và nước.
Năm Cấp Độ nói :
‘Sự hợp nhất của một người tu hành’, ‘sự hợp nhất’ Lawapa dạy, ‘cơ hội
đạt đến tin chắc’ Maitripa dạy, ‘yoga không bám nắm’ dạy trong Kinh
Đi Vào Lanka, ‘sự
vững chắc thiền định tập trung vào tánh như’, và ‘nghĩa của
sự quán đảnh thứ ba’, những cái ấy đều đồng nghĩa.
–
Quán đảnh truyền pháp thứ ba,
quán đảnh trí huệ,
ám chỉ đến hai thứ
trí huệ sở đắc được và
trí huệ vốn sẵn, bổn nguyên. Người ta trau dồi
trí huệ ba la mật cũng như năm
ba la mật khác, trong khi
trí huệ bổn nguyên thì
bẩm sanh. Điểm
then chốt của
quán đảnh thứ ba là
kinh nghiệm về tánh chất
bất nhị của cái lạc vốn sẵn và
tánh không.
Ý nghĩa của mỗi
quán đảnh là tịnh hóa
phiền não.
Mục tiêu của những
quán đảnh là làm cho
chúng ta thấm nhuần năng lực để
đạt được bốn thân Phật, việc ấy
cho phép chúng ta phá tan ách của những khuynh hướng
thói quen. Những
quán đảnh xóa tan những vết dơ của thân, ngữ, tâm và làm
trưởng thành tâm thức, những
nguyên tố v.v...
Cuối cùng, do được
ban phước bởi những samayasattva, bạn
sanh khởi như là một jnanasattva.
Quán đảnh thứ nhất,
quán đảnh cái bình là để
chuyển hóa thân bạn
thành thân của một người
giác ngộ, thân
bình thường của bạn được tịnh hóa và có thể
sanh khởi như thân của một bổn tôn.
Quán đảnh thứ hai,
quán đảnh bí mật,
cho phép bạn
chuyển hóa những kinh mạch và khí qua những
thực hành làm tịnh hóa ngữ và làm
trưởng thành kinh nghiệm của bạn, để bạn nghe tất cả những
âm thanh là những
thần chú.
Mục tiêu của
quán đảnh thứ ba là dẫn đến
kinh nghiệm về cái lạc vốn sẵn và
tánh không.
Quán đảnh trí huệ này tịnh hóa mọi
bất tịnh tiềm ẩn và
cặn bã của những
nguyên tố căn bản của thân, và bạn đủ chín để
kinh nghiệm đại lạc và
trí huệ bổn nguyên vốn sẵn.
Quán đảnh thứ tư là
chứng đắc sự hợp nhất siêu vượt khỏi
trí năng, và bạn đủ
trưởng thành để có thể
kinh nghiệm sự
thanh tịnh chan hòa của
Pháp thân. –
Phagmo Drušpa nói, “Cấp độ nhỏ của một vị hợp
nhất sanh tử và
niết bàn.” Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói :
Ở giai đoạn một vị, có lạc
liên hệ đến
tánh không, hay sự không có nền tảng,
vô tự tánh, của tất cả những
hiện tượng sanh khởi trên giai đoạn
thoát khỏi tạo
tác ý niệm. Một khi mọi
tư tưởng sanh khởi đều tươi mới, và sự không
thoải mái mỏng nhẹ đối với những
xuất hiện được gỡ bỏ, người ta
đi vào trạng thái được gọi là “sự hòa lẫn của
sanh tử và niết bàn”.
Thực tại ấy thì không dứt, và không có việc sự vật hóa những
xuất hiện tươi mới trẻ trung này. Cũng không có sự bám nắm nào vào
tánh không. Không có
sự thiền định theo
trí thức về những
xuất hiện bên ngoài như là không có
tự tánh, cũng không có những
hiện tượng xuất hiện một cách
nhị nguyên. Vượt ngoài một
kết luận thuộc về
trí thức, bạn
chứng ngộ rằng mọi
nhị nguyên – cái
xuất hiện và cái không
xuất hiện,
hình tướng được
tri giác và
tánh không, giai đoạn phát sanh và giai đoạn
thành tựu,
chân lý quy ước và
chân lý tuyệt đối,
sanh tử và
niết bàn, vui và buồn v.v... – là không khác biệt, mà là
tính không thể
phân chia của một vị của
nhất thể ; và
trí huệ bổn nguyên
sanh khởi. Bất kỳ
xuất hiện tươi mới và
tư tưởng tươi mới trẻ trung nào
sanh khởi, chúng đều
thoát khỏi bác bỏ hay
chấp nhận.
Với
chánh niệm toàn hảo tự tỏ biết, tự
quang minh, không
cố gắng, tâm,
chánh niệm và những
xuất hiện biểu lộ là những
biến cố tương thuộc
duyên sanh, như lửa và sức nóng. Lạc nơi những
xuất hiện hình tướng gọi là “yoga một vị”.
– Trước giai đoạn này, khi
bạn thiền định thật sự, an trụ trong
tánh không của những
hiện tượng, tâm bạn
bình an và
hài lòng. Nhưng khi bạn cần
đi vào những
xuất hiện, bạn có bị
quấy nhiễu cách nào đó.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này người ta vượt trên điều đó : những vết dơ làm nảy sanh sự không
thoải mái như vậy đã được tịnh hóa, thế nên người ta
đạt đến trạng thái gọi là “sự hòa lẫn của
sanh tử và niết bàn”. Ở điểm này người ta siêu vượt mọi sự hiểu giả tạo,
trí thức về những
xuất hiện và
tánh không ; mọi
xuất hiện của
nhị nguyên tan biến. –
Gyalwa Yang Gošnpa nói :
Như vậy, ngay trên
chứng ngộ về
thoát khỏi tạo
tác ý niệm, bạn
nhận biết bản tánh của chính bạn là
tự nhiên giải thoát ngay tại chỗ của nó, không có những
phân biệt thoát khỏi hay không
thoát khỏi tạo
tác ý niệm,
tánh không và không phải
tánh không, những cơ hội
tốt lành và không
tốt lành, xác định và phủ định với bất cứ cái gì trong
toàn bộ thế giới hiện tượng của
sanh tử và
niết bàn. Dù những
hiện tượng đa thù
xuất hiện, chúng được
chứng ngộ là
bản tánh của một
chứng ngộ duy nhất. Đây là yoga một vị của
thế giới đa thù.
Trong cấp độ nhỏ của một vị có một sự thống nhất của
sanh tử và
niết bàn : mọi
nhị nguyên – gồm những
xuất hiện và
tánh không, cái
tối hậu và cái
quy ước, giai đoạn phát sanh và giai đoạn
thành tựu... –
biểu lộ như sự hợp nhất của
bản tánh không thể
phân chia của một
chứng ngộ duy nhất. Những
xuất hiện hình tướng và
tánh không không từng bao giờ tách lìa, thế nên tất cả những phẩm tính của
con đường đều
trọn vẹn,
toàn thiện, hoặc trong những
xuất hiện hoặc trong
tánh không, và chúng thống nhất
bất nhị. Thế nên đó là đại hợp nhất.
Dù cho
thế giới đa thù được
chứng ngộ như thế là một vị, nếu vẫn còn một thoáng bám nắm vào nó, hay có một vết dơ mỏng nhạt của một
nhận thức về
kinh nghiệm hòa nhập này, đó là cấp độ nhỏ của một vị. Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói :
Trong cấp độ nhỏ của một vị, những
xuất hiện và
tánh không hòa lẫn không thể
phân chia, và mọi sự được
chứng ngộ là
bản tánh vốn sẵn. Thức tươi mới của bất cứ cái gì
sanh khởi là đầy đủ,
trọn vẹn mà không có
phân biệt giữa
tánh không và chẳng phải
tánh không. Bạn
chứng ngộ rằng mọi phẩm tính của
con đường là
trọn vẹn trong sự
xuất hiện hay trong
tánh không của bất cứ cái gì được biết như là một
hiện tượng ; thân, những
xuất hiện và tâm là không thể
phân chia. Dù bạn xác
quyết tâm bạn vào mọi lúc, vẫn còn một cảm thức mỏng nhẹ về một đối tượng của
kinh nghiệm và sự nắm hiểu nó. Sau đó, nền tảng và các thứ có vẻ
vững chắc và cứng đặc, và có sự không
thoải mái trong sự
thực hành của bạn
liên quan đến những
xuất hiện của sáu tập hợp của thức, chúng có bị
quấy nhiễu bởi những
hoàn cảnh khách quan
dữ dội. Có lúc có những
xuất hiện mảnh mún của một
nhị nguyên giữa cái được
thông hiểu và người
thông hiểu ; và như thế có một sự bất lực nhỏ nhoi trong việc
thực hành Pháp trong
bí mật. Thậm chí trong những
xuất hiện như huyễn sau đó và trong
trạng thái mộng có
mê lầm và bám nắm
thỉnh thoảng và vụn vặt. Có lúc bạn
kinh nghiệm mọât cảm thức về sự không thể
phân chia của thân, những
xuất hiện, và tâm ; bạn có
thể không quan tâm đến
nhân quả, và sự
tôn kính và lòng bi của bạn có thể yếu
đi theo cách nào đó. Thế nên chớ
đi theo lối ấy.
– “Thức tươi mới” có nghĩa
trạng thái này của thức không bị trộn lẫn với tạo tác thi thiết giả tạo của tâm
quy ước. Nó
thoát khỏi tạo
tác ý niệm và
biến chất ; nó là
bản tánh bổn nhiên.
Bản tánh đó ở đâu ? Nó đã vốn
hiện diện, nhưng
chúng ta không
nhận ra nó, thế nên nó giống như bầu trời bị mây che hay băng che phủ nước. Khi mây tan vào bầu trời, bạn thấy
rõ ràng chúng không là gì khác với bầu trời cũng như băng là đồng nhất với nước bên dưới.
Trong ngữ cảnh Đại Ấn và
Đại Toàn Thiện, “tươi mới”, “trẻ trung” khi
áp dụng cho thức hay những
xuất hiện hình tướng để chỉ sự
thanh tịnh bổn nguyên. Thức tươi mới,
tự tánh vốn sẵn của
chúng ta có thể bị che ám nhưng không thể bị
ô nhiễm. Thậm chí dù
toàn bộ sanh tử có
nỗ lực làm dơ
bản tánh vốn sẵn của thức của bạn, nó cũng không thể, dù
bản tánh ấy có thể bị
che dấu.
Tương tự, dù nếu bạn chất chồng tất cả đồ
dơ bẩn trong
thế giới lên một thỏi vàng, nó cũng không làm hư hỏng
bản chất vàng.
Vào cấp độ hay giai đoạn này của yoga thứ ba, có thể còn có dấu vết nào đó của khao khát, dấu vết nào đó của
kinh nghiệm thiền định, sự bám nắm
nhị nguyên nào đó vào
kinh nghiệm. Trong bối cảnh này, những đối tượng của sáu thức có thể còn có vẻ có những phẩm tính
vững chắc và cứng đặc
bình thường của chúng. Lửa sẽ có vẻ nóng ; gió sẽ còn có vẻ nhẹ và
lưu chuyển. Lại nữa, nếu sự
tôn kính và lòng bi bắt đầu giảm khuyết và sự chu đáo về những hành động và
hậu quả của chúng giảm sút, những cái ấy cần được xem là những khuyết điểm trong
thực hành của mình.
Thực hành thích đáng làm tăng lòng sùng mộ, lòng bi và sự chu đáo. –
Yang Gošnpa nói :
Vào cấp độ vừa của một vị, gốc rễ của
nhị nguyên chủ thể đối tượng
hoàn toàn bị cắt đứt, nhưng sự
chứng ngộ đó chưa
hoàn toàn vững chắc. Như thế người
chứng ngộ cái đó thống
nhất thế giới đa thù thành một vị, và khuynh hướng bám nắm những đối tượng được tịnh hóa
hoàn toàn. Như thế, những
hiện tượng vật chất không được xem là bên ngoài, cái giác không là bên trong, và những
xuất hiện và tâm chỉ là một.
Đi vào cấp độ vừa của một vị
biểu lộ những
tính chất này.
Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói :
Vào cấp độ vừa của một vị,
nhận thức sự vật hóa trước kia của bạn hòa tan thành một. Như thế, một khi nó được tịnh hóa, những
hiện tượng vật chất không được xem là bên ngoài, và cái giác không phải bên trong. Những
xuất hiện và tâm
đơn giản thống nhất, và gốc rễ của
nhị nguyên chủ thể đối tượng
hoàn toàn bị cắt đứt. Sự bám nắm
sanh khởi dựa vào những đối tượng, nhưng bây giờ tất cả đối tượng
sanh khởi trong
quang minh bổn nhiên của chúng. Khi chúng không thực (như những đối tượng bên ngoài), thức không còn bám nắm chúng. Với một thức
thuần nhất khi những đối tượng
xuất hiện cho nó, mọi sự
sanh khởi như sự trợ giúp cho mình. Nhờ những đối tượng như sắc
xuất hiện một cách
vô niệm, sự nắm hiểu sắc
trở thành khách quan,
vô tâm.
Dù không có sự khác biệt giữa cấp độ nhỏ của một vị và
bản tánh của hợp nhất,
kinh nghiệm trở thành vững chắc hơn. Có một cảm thức về sự thống nhất của thân, những
xuất hiện và tâm. Có ít
mê lầm hơn trước trong thức sau đó và những
giấc mộng, và sự bám nắm của sự vật hóa không xảy ra mạnh mẽ.
Tuy nhiên, khi mộng và những dịp khác, sự nương dựa hay không
chánh niệm hoàn hảo bị
xao lãng, những
xuất hiện như huyễn nhưng có chấp giữ trở nên không
rành mạch. Đây là sự khác biệt giữa
chánh niệm về một đối tượng được nắm hiểu và
chánh niệm toàn hảo : (trong
trường hợp trước) khi có
phóng dật, bạn có cảm nhận là có
phóng dật ; và sau đó, dù
thực hành tâm linh của bạn
hiện diện sống động trong
dòng tâm thức bạn, đó vẫn là
chánh niệm về một đối tượng được nắm hiểu ; và đó là một dấu hiệu rằng sự bám nắm trước kia đã
trở lại. Trong
thực hành của bạn, sự
cảnh tỉnh của
chánh niệm đơn thuần mà không có bám nắm vào
chứng ngộ được gọi là
chánh niệm toàn hảo về những
hiện tượng được
chứng ngộ ; và dù sự
nhận biết trước kia không được
duy trì, đây là một dấu hiệu rằng bám nắm không lẻn vào.
Đức Phagmo Drušpa nói, “Từ cấp độ lớn của một vị, những
hiện tượng được bình lặng trong tính
bình đẳng.”
– Những
hiện tượng được bình lặng trong tính
bình đẳng là gì ? Mọi sự khác với thức tươi mới được bình lặng, chỉ để cho sự
xuất hiện của tâm
hoàn toàn tươi mới. –
Gyalwa Yang Gošnpa nói :
Ở cấp độ lớn của một vị, mọi
hiện tượng có thể có đều bình lặng trong
trạng thái vô sanh, và đó là sự
chứng ngộ một vị. Nhờ sự
sanh khởi của những
xuất hiện đa thù, mọi
hiện tượng của
sanh tử và
niết bàn hiện diện như những xảy ra của
tánh không. Đó gọi là “cái một vị đa thù”, và nó là một
chứng ngộ sự bất khả phân của cái
sâu xa và cái rộng lớn. Đó là samadhi mà trong những kinh gọi là “sự
xuất hiện của những
hiện tượng sâu xa” và “samadhi
thoát khỏi tạo
tác ý niệm của sự
bình đẳng của tất cả các hiện tượng”.
Mọi
hiện tượng bao gồm trong
sanh tử và
niết bàn đều
hiện diện trong
bản tánh của
chứng ngộ bất nhị đúng như chúng đang ở trong
trạng thái của chính chúng, với sự tươi mới không giảm sút và sự
rực rỡ không thay đổi. Bởi thế, hoặc ở trong định hay trong sự
chứng đắc tự do, không có một dấu vết hư hỏng bởi những
đối trị ; và đó là cấp độ lớn của một vị.
– Như tất cả nước trong
thế giới, dù ở đâu cũng chảy về
đại dương và thành một vị,
cũng thế, khi có được
chứng ngộ về
tánh không,
tánh không của mỗi
hiện tượng cá thể chỉ là cùng một
tánh không. Đây là một vị đa thù.
Chứng đắc tự do không
ám chỉ niết bàn, mà
tự do khỏi những
chướng ngại như bám nắm và khao khát. Bạn
tự do với chúng, nhưng không có cái gì thực sự đã được chữa lành hay đã hư hỏng. Đó là cấp độ lớn của một vị. –
Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói :
Vào cấp độ lớn của một vị, mọi
hiện tượng có thể có trong
sanh tử và
niết bàn được
chứng ngộ là
vô sanh trong
trạng thái bình đẳng. Những
xuất hiện và tâm được biết là một, và
kinh nghiệm về sự
nhận biết trước kia của bạn trở nên
vững chắc. Bấy giờ việc sự vật hóa những
xuất hiện không ngừng được tịnh hóa. Như một kết quả, sự
chứng ngộ bất nhị này
thường trực hiện hữu ngày đêm.
Thỉnh thoảng một
kinh nghiệm nhỏ của
tri giác không xác quyết xảy ra về
quang minh toàn triệt của những
hình tướng xuất hiện vô niệm. Những
xuất hiện hình tướng quang minh thoát khỏi bám nắm thì không dứt, và có lúc
chứng ngộ sanh khởi trong
bản tánh của
toàn thể hiện tượng trong
sanh tử và
niết bàn. Dòng
tương tục của bám nắm
nhị nguyên bị cắt đứt, và những
xuất hiện như huyễn có mặt mà không có
nhận thức bám nắm nào. Hơn nữa, chúng giống như những
xuất hiện do một nhà
ảo thuật tạo ra.
Những
xuất hiện nhị nguyên vi tế có
thể không dừng, dù bạn biết chúng thật sự không
hiện hữu. Hay những
giấc mộng không
rõ ràng kéo theo bám nắm
nhị nguyên có thể xảy ra. Có lúc bạn không mộng gì cả. Những
xuất hiện nhị nguyên vi tế này xảy ra không
rành mạch như những phô diễn, những
xuất hiện hay những cái nhìn thấy trống không của sự tịnh hóa trong
kinh nghiệm của
thực hành. Chúng được nói là
xuất hiện như là thức trống không của một vị.
Thực ra, chúng là những phô diễn của những
đối trị còn sót lại. Hơn nữa, bao giờ còn một cảm thức đang
thiền định, những
biến cố khác sẽ tự động xảy ra như một kết quả. Những
xuất hiện nhị nguyên vi tế là những
bất tịnh.
Tuy nhiên một số
xuất hiện vô niệm sanh khởi như là những phô diễn đa thù,
tự nhiên xuất hiện nhưng không được xác quyết. Sự
dựa vào chánh niệm có thể bị
xao lãng, bạn
cảm thấy không
thoải mái trong sự
duy trì cảm thức tĩnh lặng, và những cảm nhận vụn vặt về
quang minh toàn triệt có thể xảy ra. Chúng là những tàn dư còn sót lại cần
loại bỏ. Bao giờ chúng còn, những
biến cố khác với những
xuất hiện nhị nguyên vi tế này tự động xảy ra như một kết quả. Chúng được gọi là những
vọng tưởng vi tế của cấp độ lớn của một vị.
Bởi thế, bất cứ
xuất hiện nào
sanh khởi, không có gì để đoạn trừ hay
chấp nhận và không có gì để
bác bỏ hay
xác nhận. Bạn biết
bản tánh bạn là tịnh quang trống không, tánh
bình đẳng không có một đối vật nào. Mọi
hiện tượng bao gồm trong những
nhị nguyên như
sanh tử và
niết bàn được
chứng ngộ là một vị. Tám mối
quan tâm thuộc
thế tục được
trung hòa, và mọi tương quan
duyên sanh trở nên
rõ ràng. Nhờ sự thấu hiểu về những
xuất hiện, cái này được gọi là “sự
sanh khởi của cái nhìn thấy và những phẩm tính của
năng lực toàn hảo của
bản tánh cốt lõi của một vị”.
– Vào giai đoạn này, những
xuất hiện vi tế thỉnh thoảng khởi lên, nhưng bạn không thực sự xác quyết chúng. Với nhà huyễn thuật, những phô diễn
ảo thuật ông làm cho
xuất hiện, nhưng ông biết chúng thực sự không
hiện hữu. Với khán giả, chúng có vẻ thật và họ đối xử với chúng như là thật. Dù bạn biết nhà
ảo thuật làm
hiện ra một con cọp và bạn không cho nó là thật, do
thói quen, bạn còn đối xử với chút gì
sợ hãi. Điều này chỉ ra rằng vẫn còn một dấu vết
thói quen cũ của bạn.
Tương tự,
nhận biết một
giấc mộng là một
giấc mộng và còn đối xử với bám luyến và tức giận với những gì trong mộng là một dấu hiệu chỉ cho thấy rằng hiểu
giấc mộng chỉ là mộng thì chưa đủ. Chỉ bằng
chứng ngộ trọn vẹn bản tánh của
giấc mộng thì bám luyến và tức giận mới dứt.
Trong những phần khác nhau của yoga
giấc mộng, bạn
thực hành chuyển hóa những
biến cố và sự vật trong
giấc mộng. Chẳng hạn, nếu có nhiều vật, bạn chuyển chúng thành một vật. Thấy một con cọp, bạn
chuyển hóa nó thành một con mèo con, do đó
sợ hãi tan biến.
Cũng thế trong
thực hành giai đoạn phát sanh, nếu có cái gì
đe dọa sanh khởi, bạn chỉ
chuyển hóa nó thành bổn tôn đã chọn.
Tuy nhiên đạt đến sự
chứng ngộ trọn vẹn tánh không về những
hiện tượng trong mộng, thì không cần làm sự
chuyển hóa nào cả. Bạn để cho bất kỳ cái gì cứ
sanh khởi, vì bạn đã thấu hiểu sự
rốt ráo không có
tự tánh của những
hiện tượng. Bởi thế, không có
ý định nào để thay đổi nó ; thay vào đó, bạn thấu hiểu
thật tánh của nó.
Sự bám nắm
nhị nguyên của
trạng thái sau
thiền định hay
trạng thái mộng là gì ? Nó là tàn dư của sự
áp dụng trước kia những
đối trị trong
thực hành của bạn. Chẳng hạn trong giai đoạn phát sanh khi có bám nắm, bạn
áp dụng sự
đối trị cố gắng thấy mọi sự là
thanh tịnh. Đó là một
đối trị còn sống kéo dài rơi rớt sau đó. –
Gyalwang Chošjey nói :
Trong ‘nhất tâm của một vị’, bạn cắt đứt những gán ghép lên tất cả những
xuất hiện trong
trạng thái bình đẳng. Trong ‘thoát khỏi tạo
tác ý niệm của một vị’, trong
trạng thái bình đẳng, không có sự phân cách giữa mọi tạo
tác ý niệm do bám nắm vào sự vật như là khác nhau hay
nhị nguyên. Trong ‘một vị của một vị’, tánh
bình đẳng đó
hoàn toàn thấm khắp mọi
kinh nghiệm và mọi
hiện tượng. Trong ‘không-thiền định của một vị’, khi sự
vững chắc đã
đạt được trong đó, nó
tiếp tục suốt ngày đêm.
Nghĩa của lời dạy của Đức Naropa rằng thứ tư là yoga của không-thiền định được ghi trong Tantra của những
Bí Mật Không Thể Nghĩ Bàn và Tantra của Dòng Sông Ali Kali Vĩ Đại :
Thứ tư, bằng
cách đi vào
thực hành không-thiền định
Với định như
kim cương,
Vô số chư Phật
toàn giác và những
tịnh độ được nhìn thấy,
Và, không
tìm kiếm, đó là
Pháp tự nhiên, vĩ đại,
tối thượng.
Bài Ca
Kim Cương của
Bất Tử của
Đại Bà La Môn nói :
Quả siêu vượt khỏi
trí năng được
thành tựu mà không mong muốn nó
Trong những phương thuốc tốt nhất, nó giống như soma.
Mọi cảm nhận qua
kinh nghiệm trong
thiền định về
tánh không và
vân vân được tịnh hóa, thế nên sự tịnh hóa
kinh nghiệm là không-thiền định. Có một
chứng ngộ thường trực rằng
tự tâm xuất hiện khác nhau như
sanh tử và
niết bàn. Nếu sự
nhận biết về
vô niệm chưa được tịnh hóa, đó là một che ám như mây trên
mặt trời của không-thiền định. Hơn nữa, thức sau đó
sanh khởi như lòng bi không đối tượng. Sự thiếu
nhận biết về
vô niệm che ám
thực tại bổn nhiên, thế nên đó là một vết dơ của thức sau đó. Với sự tịnh hóa vết dơ của
nhận biết, không có sự khác biệt giữa
duy trì chánh niệm với thấy tánh hay không thấy tánh ; thế nên
nhị nguyên của tách rời và
chứng đắc trở thành một.
Trí huệ bổn nguyên của
quán chiếu trở thành thường trực, thế nên người ta chỉ an trụ trong định. Vào mọi lúc, có
quán chiếu không
phân chia vào
không gian tuyệt đối của
bình đẳng bổn nhiên, thế nên đây là
thời gian lúc
tự tâm hiển lộ.
Vô niệm nhưng
vô ký về mặt
đạo đức được tịnh hóa, thế nên dòng
thức ấm, thức nền tảng,
trí huệ bổn nguyên
bất nhị không đứt đoạn. Như thế
chứng ngộ là
thường hằng. Những
biến cố duyên sanh của
không gian tuyệt đối bất nhị và
trí huệ bổn nguyên, cũng như
toàn thể phạm vi những
hiện tượng được
tri giác như chúng vốn là.
Tuy nhiên, nhờ sự
vắng mặt của những
xuất hiện nhị nguyên, người ta biết những
biến cố duyên sanh là không nền tảng.
Sự khác biệt giữa một vị và không-thiền định là do những
xuất hiện nhị nguyên vi tế có được tịnh hóa hay không và bạn có
sử dụng nỗ lực của
chánh niệm hay không. Vào điểm này không có sự khác biệt giữa định và thức sau đó. Những
xuất hiện nhị nguyên vi tế nhất và những
tác dụng nhị nguyên vi tế nhất được tịnh hóa. Quan trọng là không bị sa lầy vào những
đánh giá của
kinh nghiệm. Hãy chủ yếu
thiền định về tánh
bất nhị trong một
trạng thái trong đó sự bám nắm của
chánh niệm tan biến mất. Có nói rằng
bản tánh cốt lõi,
tự nhiên của chính bạn đã được biết.
Những
chi tiết về bốn cấp độ được
tìm thấy trong những ghi chú của Gyatonpa Chokyi Zangpo, chúng được trích dẫn trong bình giải của Drungchen Kun-pa Namgyal. Tôi đã phân chúng ra để
dễ hiểu. Trong yoga của không
thiền định của Đức Dagpo Rinpoche, bất cứ cái gì
xuất hiện và bất cứ cái gì
sanh khởi được thấy là một tánh, thế nên ngài nói rằng mọi
tư tưởng và ký ức
trở thành thiền định. Năm Cấp Độ nói :
Sự hợp nhất của những người không tu, sự
thanh tịnh trọn vẹn Lawapa dạy, đại yoga Sawaripa dạy,
thời gian lúc cái giác
được giải thoát vào tánh như Maitripa dạy, yoga
thoát khỏi tạo
tác ý niệm, sự
vững chắc thiền định của
Như Lai được dạy trong Kinh Sự
Đi Vào Lanka, và nghĩa của
quán đảnh thứ tư, tất cả được nói là như nhau.
–
Quán đảnh thứ tư
cho phép chúng ta đi vào một
trạng thái thiền định vượt khỏi
trí năng. Hơn nữa,
quán đảnh của lời
quý báu này có
ý nghĩa cho phép chúng ta chứng ngộ sự
thanh tịnh toàn khắp của tất cả các
hiện tượng, vì không có cái gì khác ngoài
Pháp thân.
Trong bối cảnh của tantra, có căn cứ của sự tịnh hóa, cái cần được tịnh hóa, cái tịnh hóa và quả của sự tịnh hóa. Căn cứ của sự tịnh hóa là
Phật tánh của bạn. Cái cần được tịnh hóa là mọi cái che ám
Phật tánh của bạn. Bốn
quán đảnh là những cái tịnh hóa. Với
quán đảnh thứ nhất,
quán đảnh cái bình, căn cứ của tịnh hóa là các uẩn của
chúng ta và môi trường chung quanh, chúng thật ra vốn
thanh tịnh.
Quán đảnh ngữ, căn cứ là mọi
lời nói,
chữ viết, âm tiết và những
năng lực khí. Căn cứ của tịnh hóa đối với
quán đảnh trí huệ là những
yếu tố nam (dương) và nữ (âm) và những bindu. Căn cứ của tịnh hóa với
quán đảnh thứ tư là
bản tánh của
tỉnh giác, tức là tánh giác, nó còn chưa được biết, nhưng đang
hiện diện như là
Pháp thân. –
Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói :
Về yoga không
thiền định, do tự làm quen với nó, những
vọng tưởng của những
xuất hiện nhị nguyên với thức sau đó xảy ra
cho đến cấp độ lớn của một vị được tịnh hóa. Sự không
phóng dật đơn thuần của
chánh niệm trọn vẹn về những
hiện tượng được
chứng ngộ ; và những vết dơ mỏng nhẹ của bám nắm vào
tánh không, sự
duy trì cố gắng chánh niệm trọn vẹn, và mọi
xuất hiện nhị nguyên vi tế được tịnh hóa. Bấy giờ một
trạng thái tự nhiên, tự phát được
duy trì. Có niềm vui trong sự
chứng ngộ rằng không làm gì có đối tượng của
thiền định và hành động
thiền định. Dù không có
thiền định, mọi sự không ngừng
sanh khởi như
thiền định. Mọi sự
sanh khởi như
thiền định dù bạn ở trong
nhập định hay không, và dù có
phóng dật hay không.
Tịnh quang của
thiền định, tức là
tính chất của tâm, và tịnh quang của cái chết – nghĩa là tịnh quang mẹ và con – được hợp nhất. Đó giống như bầu trời
trong sáng không mây, hay nước không gợn nhăn. Trong tịnh quang, cả hai cái được hợp nhất, và chúng chỉ là
một mình Pháp thân. Cái này
xa lìa hẳn bất cứ cái gì để
từ bỏ hay
chấp nhận và
xa lìa hẳn bất cứ đối tượng nào hay hành động nào. Bạn cảm nhận rằng không có sự khác biệt giữa chết và không chết, và bạn
thình lình có được
hiểu biết nào đó về việc không có khác biệt giữa
nhập định và thức sau đó.
Những người khác thấy bạn như được những dakini bao quanh và bạn được thấy trong những
thân thể nhân lên gấp nhiều lần. Với những người
tôn kính và sùng mộ, bạn
xuất hiện trong
hình thức của một vị Phật. Bất cứ điều gì bạn nói đều
trở thành Pháp. Bất cứ bạn làm điều gì với thân, nó cũng làm cho
chúng sanh thấm nhuần niềm tin. Bất cứ chỗ nào bạn ở lại, những
ban phước sanh khởi. Dù bạn ở
một mình, bạn không
cảm thấy chán nản hay
mệt mỏi. Bất cứ vùng nào bạn
thăm viếng, bạn đều
kinh nghiệm niềm vui và sự
tốt đẹp. Có lúc đối với những người khác bạn có vẻ bị
hấp dẫn vào
hoạt động bên ngoài và những việc
thế tục, nhưng thực sự bạn đang phô diễn
Bồ đề tâm. Bạn thấu rõ những tương quan
nhân quả giữa những hành động và những
hậu quả của chúng, và bạn biết mọi sự là
vô sanh. Bạn không muốn bất kỳ chỗ ở nào, và bạn không còn những
tư tưởng lúng túng hay cho những sự vật là dơ hay sạch. Tất cả vira và dakini
cúng dường bạn, và họ giúp bạn
đáp ứng những nhu cầu của
chúng sanh. Bạn
trở thành một viên
ngọc như ý cho bất kỳ ai.
Đức Phagmo Drušpa nói, “Với cấp độ nhỏ của không
thiền định, bạn
thoát khỏi một đối tượng
thiền định và hành động
thiền định.” Gyalwa Yang Gošnpa nói :
Như vậy, một vị là sự hợp nhất của một người
tu hành. Không-thiền định là sự hợp nhất của một người không
tu hành. Bên trên sự
chứng ngộ này, không có cái gì bạn cần sở đắc nữa, cho nên ở bên trong bạn
chứng ngộ không
thiền định. Sự
vắng mặt của một đối tượng
thiền định và hành động
thiền định trong cấp độ nhỏ của không
thiền định kéo theo sự tịnh hóa
rốt ráo người
thiền định hay người
đạt được chứng ngộ. Như thế, không có đối tượng
thiền định hay hành động
thiền định, không có đối tượng
chứng ngộ hay hành động
chứng ngộ, không có đối tượng
hiểu biết hay hành động
hiểu biết, và không có đối tượng của
chánh niệm hay hành động
chánh niệm. Không có những sự việc như vậy để
thiền định, và sau khi
hoàn toàn tịnh hóa những vết dơ của
kinh nghiệm, không còn sự
phân biệt giữa
nhập định và thức sau đó
trong suốt ngày và không có sự
phân biệt giữa
phóng dật và không
phóng dật. Trong cấp độ nhỏ của không
thiền định, vào ban đêm còn vết dơ nhỏ của bám nắm của không
nhận biết.
Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói :
Trong cấp độ nhỏ của không
thiền định, mọi sự bạn làm đều
sanh khởi như
thiền định, không cần
duy trì chúng với
chánh niệm. Bạn
thoát khỏi một đối tượng
thiền định và hành động
thiền định. Mọi sự
sanh khởi là
thiền định mà không
tùy thuộc vào việc bạn ở trong
nhập định hay không. Những
xuất hiện sau đó, trước kia đã
như huyễn vào
thời gian cấp độ lớn của một vị, thì trở nên
vi tế hơn. Bấy giờ không cần
duy trì chánh niệm hoàn hảo. Chúng
trở nên thanh tịnh tự chúng.
Phiền não gọi là “không
nhận biết tính
vô niệm của những
xuất hiện sau đó” và mọi
tư tưởng là tàn dư của
vô minh được tịnh hóa bởi cấp độ một vị. Thức nền tảng
vô niệm và
vô ký về mặt
đạo đức chưa
chuyển hóa thành
trí huệ bổn nguyên.
Bản thân sự không
nhận biết tính
vô niệm này là cái
duy nhất để
loại bỏ, nó là một
phương diện của
vô minh. Do cái đó, những
xuất hiện như huyễn thỉnh thoảng xảy ra trong những khoảnh khắc nhắn ngủi.
Bản tánh của bạn
hiện tiền một cách
vô niệm, thế nên không cần
áp dụng những
đối trị. Có thể những vết dơ mỏng manh của bám nắm
thỉnh thoảng xảy ra khi bạn đang ngủ ; và bởi vì chúng không được
nhận biết là
quang minh của chính bạn, chúng là những
sở tri chướng.
Đức Phagmo Drušpa nói, “Với cấp độ vừa của không
thiền định, một
trạng thái tự nhiên được
đạt đến.” Đức Gotsangwa nói :
Trong ban ngày, những
vọng tưởng của những
xuất hiện sau đó chỉ kéo dài khoảng một cái búng ngón tay.
Bản tánh của nó là
tự nhiên thanh tịnh, không cần
y cứ vào bất cứ cái gì được
duy trì với
chánh niệm.
Yang Gošnpa nói :
Trong giai đoạn vừa của không
thiền định, một
trạng thái của tự phát được
đạt đến. Ở đây quả
trở lại nền tảng, có một sự gặp gỡ với mẹ (tịnh quang mẹ), ba
hiện thân, và những
ước mong của bạn được
đáp ứng. Không có sự khác biệt nào giữa ngày và đêm, giữa ngủ và không ngủ,
duy trì cái gì với
chánh niệm hay trau dồi
nhận biết. Trong
đại định duy nhất, có một tự-che ám của
trí huệ bổn nguyên và một
hạt sương của
vô minh, cùng với một vết dơ nhỏ nhoi che ám
hiểu biết. Đó là cấp độ vừa của không
thiền định.
– Thậm chí ở cấp độ cao cấp này, có dấu vết
vi tế nhất của
vô minh làm che ám
trí huệ bổn nguyên. Khi người ta
đạt đến cấp độ vừa của yoga không
thiền định, những che chướng vẫn còn.
Chúng ta còn chưa
nhận biết bản tánh của
chúng ta một cách đầy đủ, và cái
vô minh này là vết dơ che ám
trí huệ bổn nguyên.
Dĩ nhiên,
thật tánh của
trí huệ bổn nguyên thì không
ô nhiễm, nhưng chính sự không
nhận biết bản tánh của
chúng ta tạo ra vết dơ.
Như Andzom Rinpoche, một trong những vị thầy Dzogchen vĩ đại của Đông
Tây Tạng,
tuyên bố : tánh bổn nguyên của
chúng sanh thì không đặt nền trên bất kỳ loại
thực thể nào ; nó là
bản tánh của
hiện diện tự nhiên.
Tuy nhiên ở cấp độ vừa của
thực hành không
thiền định này, đôi khi bạn có
thể không nhận biết bản tánh của bạn trong chốc lát, và điều này bao hàm rằng
hiểu biết về
hiện tượng bị che ám. Đó giống như một đường nước nhỏ chảy trên một tảng băng. Một khi sự che ám
vi tế này được xóa tan trong
nhập định, bạn
đạt được samadhi như
kim cương, trong đó tâm là tự
thanh tịnh, tự tịnh hóa.
Trạng thái thanh tịnh này trụ suốt ngày đêm. Nó là
tự nhiên và tự phát như sự nở của một đóa hoa. –
Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói :
Trong cấp độ vừa của không
thiền định, bạn
vững vàng đạt đến một
trạng thái tự phát.
Kinh nghiệm của bạn
trở thành vững chắc hơn trước, và bạn
chứng ngộ sự
hiện diện bổn nhiên của
sanh tử và
niết bàn.
Tự do khỏi mọi bám nắm, một khi bạn đến
trạng thái vốn sẵn này, bánh xe của
trí huệ bổn nguyên của định chuyển suốt ngày đêm. Những dấu vết của không-nhận biết có tính
vô niệm về những
xuất hiện sau đó khởi lên bởi
năng lực của
trí huệ bổn nguyên vốn định trở nên càng
vi tế hơn trước. Chúng
xuất hiện trong khoảng chỉ một cái búng ngón tay, không có
thời gian để
dự vào những đối tượng, và chúng được
giải phóng trong
quang minh tự nhiên. Vào mọi lúc,
bản tánh vô niệm xuất hiện như tịnh quang
tự nhiên của chính nó. Như một kết quả, mọi
trạng thái của
nhập định còn mang những vết dơ của
tác dụng sai lầm và những
cặn bã vi tế nhất của chúng trở nên không
nhiễm ô, trong khi những
xuất hiện sau đó, như
bát chánh đạo của những vị thánh, thì vẫn còn
nhiễm ô.
– Vào cấp độ này, những
xuất hiện sau đó khởi sanh trong
trạng thái sau
thiền định, nhưng chúng rất
vi tế và rất thoáng qua như búng ngón tay. Thật vậy chúng
xuất hiện quá ngắn đến độ không có
thời gian để bám nắm chúng. Cái không-nhận biết
vô niệm này là
trung tính. Lúc này vẫn còn một sự
phân biệt giữa định, nó không bị
ô nhiễm, và sau
thiền định, nó vẫn còn một
ô nhiễm rất
vi tế. –
Đức Phagmo Drušpa nói, “Với cấp độ lớn của không
thiền định, hai tịnh quang hòa lẫn.” Gyalwa Yang Gošnpa nói :
Trong cấp độ lớn của không
thiền định, những tịnh quang hợp
nhất thành một.
Trí huệ bổn nguyên của
không gian tuyệt đối của những
hiện tượng và
không gian tuyệt đối của
thực tại chư Phật là không thể
phân chia, thế nên tịnh quang của
con đường và tịnh quang
tự nhiên hợp thành một. Bấy giờ trong tịnh quang vĩ đại này,
trí huệ bổn nguyên
thoát khỏi tạo
tác ý niệm,
vô minh,
hiểu biết và những vết dơ của
hiểu biết đều được tịnh hóa
rốt ráo. Như thế,
trong đời này và những
đời sau không còn sự bám nắm
vi tế nhất vào những
nguyên nhân và những kết quả thuộc nghiệp. Bạn và những người khác,
sanh tử và
niết bàn đều là một. Trong cấp độ lớn của không
thiền định, những tịnh quang hợp nhất làm một, thế nên đó là sự hợp nhất của một người vô tu.
–
Trí huệ bổn nguyên của
không gian tuyệt đối của những
hiện tượng,
ám chỉ bản tánh của
thực tại như một
toàn thể, và
không gian tuyệt đối của
thực tại của chư Phật là không thể
phân chia. Điều này bao hàm sự không thể
phân chia của
sanh tử và
niết bàn.
Sanh tử và
niết bàn hợp nhất, nhưng không phải như bạn
chuyển hóa hai chất riêng biệt thành một. Hơn thế nữa, không có cái nào đã từng được đặt nền trên loại
thực thể riêng biệt nào. Bởi thế, nếu
sanh tử vốn không có nền tảng trong
thật tế, thì cũng không cần nói rằng
niết bàn cũng không có nền tảng. Và điều này có
hiệu lực với tất cả mọi
nhị nguyên. Đây là sự
nhận biết tánh
thanh tịnh bổn nguyên. –
Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói :
Trong cấp độ lớn của không
thiền định, tất cả thức được
chuyển hóa thành
trí huệ bổn nguyên. Gươm
trí huệ bổn nguyên cắt đứt những
sở tri chướng, cùng với những vết dơ của
tác dụng lầm lẫn.
Không gian tuyệt đối và
vô nhiễm của những
hiện tượng, nó là tịnh quang mẹ, và tịnh quang con của
trí huệ bổn nguyên như tấm gương được hợp nhất. Sự hợp nhất của một bậc không-tu hành và sự
giác ngộ tối thượng trở thành biểu lộ. Không có sự
phân biệt giữa
nhập định và sau
thiền định. Do
đạt đến thực tại bổn nhiên, không giả tạo, tiềm năng
tự nhiên của
Pháp thân vốn sẵn được
viên mãn cho bạn. Như một kết quả, hai
sắc thân, chúng làm
lợi lạc cho những người khác,
đáp ứng những nhu cầu của
thế giới cho đến khi
sanh tử trống rỗng. Như thế
con đường cùng đích
trở thành biểu lộ.
Trong không
thiền định, định
mở rộng bao la. Không còn sự trôi dạt khỏi định. Như thế, không có cái gì để
chánh niệm và không có cái gì để
thiền định nên
kinh nghiệm là
thanh tịnh. Bạn
thoát khỏi nỗ lực của sự thấu hiểu một cách
chánh niệm gồm cả sự
nhận biết. Bạn
hoàn thành trạng thái tịch diệt, tắt mất vào tự thân
thực tại, và bạn
tự do với những
xuất hiện bị sự vật hóa.
Trước tiên khi không
thiền định được
chứng ngộ, tất cả những phẩm tính lớn của một vị
Phật hội tụ lại như mây, nên địa thứ mười được gọi là “Pháp Vân địa”. Trong cấp độ vừa của không
thiền định, một
trạng thái của tính tự phát được
đạt đến một cách
vững chắc, và có nói là
kinh nghiệm của người ta
trở thành kiên cố hơn trước.
Sự giải thoát hiện tiền như
quang minh tự nhiên được nói là
con đường đặc biệt của sự
chấm dứt dòng
tương tục của mười địa.
– Trong những phần trước của yoga không
thiền định, có một
phân biệt giữa
thiền định và không
thiền định, nhưng trong chỗ cùng đích của yoga này, không có
phân biệt nào cả. Khi người ta
tiến bộ trên
con đường nhờ khai triển định và quán, những
phiền não chướng và
sở tri chướng được tịnh hóa. Bấy giờ tịnh quang con, tức là tịnh quang của
con đường, đến cùng đích của nó ; nó
trở thành biểu lộ và được trực tiếp
chứng ngộ. Vào điểm này, người ta
nhận biết rằng tịnh quang của
con đường không gì khác hơn là tịnh quang của nền tảng, tịnh quang mẹ – đây là sự
nhận biết bản tánh mình. Không bao giờ có che chướng nào trong tịnh quang mẹ vốn
vĩnh cửu thanh tịnh. Bao hàm trong nó là hai thân –
Pháp thân cho chính bạn và
Sắc thân vì những người khác. Nhưng tới điểm này, cấp độ lớn của không
thiền định, hai cái ấy
biểu lộ trong sự
nhận biết nhất thể của tịnh quang : tịnh quang
con đường và tịnh quang nền tảng. Đây là sự
chuyển hóa Phật tánh, hay quả, thành
con đường.
Sự
phân biệt tịnh quang con và mẹ có thể được hiểu trong bối cảnh bốn cái nhìn thấy của Nhảy Qua –
tri giác trực tiếp về
thực tại,
tiến bộ trong
kinh nghiệm thiền định, tánh
giác viên mãn, và
cuối cùng,
tịch diệt vào tự thân
thực tại. Trong bốn cái, ba cái đầu tương đương với
tiến bộ của tịnh quang con, nó càng lúc càng trở nên
biểu lộ. Với cái nhìn thấy thứ tư, không còn
gì nữa để cho ‘con’ làm. Tịnh quang
trở thành biểu lộ trong cấp độ thứ tư không gì khác hơn tịnh quang con, và đó không gì khác hơn tịnh quang mẹ. Đây là sự
nhận biết nhất thể của tịnh quang nền tảng và tịnh quang
con đường. –
Trong giai đoạn lớn của không
thiền định, một khi hai tịnh quang mẹ và con hợp nhất, không có sự
phân biệt giữa
nhập định và sau
thiền định. Do đi đến
thực tại bổn nhiên, không thi thiết giả tạo,
pháp thân được
hoàn tất cho riêng bạn. Do
hoàn thành tiềm năng
tự nhiên của
thực tại bổn nhiên, hai
sắc thân,
Báo thân và
Hóa thân, chúng làm
lợi ích cho những người khác,
đáp ứng nhu cầu cho
thế gian cho đến lúc
vòng sanh tử trống rỗng. Đây là địa thứ mười một, Ánh Sáng Phổ Quát. Chošjey nói, “Không
thiền định, địa thứ mười một, là
con đường kết thúc”, và “Đó là
con đường kết thúc trong năm con đường”. Gyalwang Chošjey nói :
Nhất tâm của không
thiền định là định của
nhất tâm trong một
trạng thái không có đối tượng
thiền định và hành động
thiền định.
Thoát khỏi tạo
tác ý niệm của không
thiền định thì siêu vượt
trí năng và
thoát khỏi tạo
tác ý niệm của
trí năng. Một vị của không
thiền định là một vị của của
toàn thể hiện hữu sanh tử và
niết bàn trong
không gian tuyệt đối của không
thiền định ; và không có chút dấu vết nhỏ nhất nào của chia biệt trong đó. Không
thiền định của không
thiền định là
đạt được sự
vững chắc trong đó. Sự
chứng đắc vững chắc trong một vị và những cấp độ thấp hơn kèm theo những hòa nhập tạm thời của
nhập định và
trạng thái sau
thiền định. Sự
chứng đắc vững chắc của không
thiền định là sự hòa nhập
tối hậu của
nhập định và sau
thiền định. Điều này có thể
so sánh với những
chứng đắc vững chắc trong giai đoạn phát sanh và giai đoạn
thành tựu.