CHƯƠNG CHÍN
Một Giới Thiệu Vào Nền Tảng,
Con Đường và Quả
Kính lễ đức
Quán Thế Âm !
Đây là những
giáo huấn thực hành sâu xa của
Quán Thế Âm. Ở đây là một
giải thích súc tích về nền tảng,
con đường và quả, chúng là những
phương pháp cho
chúng sanh hoàn thành quả của sự
thức tỉnh tâm linh. Về nền tảng, tâm của Phật được
chứng ngộ và
thể hiện bởi những bậc thánh không sai khác. Cách thế
hiện hữu nguyên sơ của tất cả các
hiện tượng là
trí huệ bổn nguyên vốn sẵn. Nó thấm khắp tất cả các địa. Nó là
bản tánh tinh khôi
hiện diện trong
dòng tâm của tất cả
chúng sanh chúng ta, từ con sâu cái kiến đến chư Phật, không
phân biệt tốt hay xấu, lớn hay nhỏ... Như thế, Kinh Định Vương nói, “Tinh túy của chư
Như Lai thấm khắp tất cả chúng sanh”, và
Tiểu Kinh về
Niết Bàn đồng tình, “Tất cả
chúng sanh được phú bẩm
tinh túy của chư Như Lai”.
Đại Kinh về
Niết Bàn nói :
Như bơ vốn có khắp trong sữa,
Cũng thế tinh túy của chư
Như Lai thấm khắp tất cả
chúng sanh.
Kinh Niết Bàn nói :
Tánh như là
thanh tịnh,
Khắp tất cả chỗ, không
phân biệt.
Như thế, mọi
chúng sanh được phú bẩm
Tinh túy của chư
Như Lai.
Tantra Sảnh Đường
Kim Cương nói :
Không có vị Phật nào và không có
chúng sanh nào
Ở ngoài viên ngọc tâm.
Tantra Hevajra nói :
Chúng sanh quả thật là chư Phật,
Nhưng họ bị che chướng bởi những vết dơ ngoại sanh.
Bạn
tiến bộ trên
con đường nhờ
thực hành sự hợp nhất này của Đại Ấn và
Đại Toàn Thiện, nó là
phương pháp thành Phật trong
một đời và với một thân, một khi bạn làm tan biến những vết dơ ký sinh này. Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói :
Nhất tâm xảy ra khi một người
tham thiền tập chú
kinh nghiệm của nó, không
phóng dật khỏi sự
trong sáng sống động và
vô nhiễm và sự
vô niệm của tâm, và
nhất tâm trụ trong dòng định và quán hợp nhất.
Ở cấp độ nhỏ của
nhất tâm, có bốn
áp dụng chánh niệm : (1)
áp dụng chánh niệm về
tính không hợp tạo,
thoát khỏi tư tưởng về thân là tịnh hay
bất tịnh ; (2)
áp dụng chánh niệm về lạc không dơ nhiễm, không xem những cảm nhận là khổ hay vui ; (3)
áp dụng chánh niệm về tâm,
thoát khỏi mọi tạo
tác ý niệm về tâm là
thường hay vô thường ; (4)
áp dụng chánh niệm về những đối tượng, cắt đứt những gán ghép về
thực tại của
niết bàn, không nghĩ đến những đối tượng là có một bản sắc riêng hay không.
Ở cấp độ vừa của
nhất tâm, do đoạn trừ sự tự mãn và
duy trì nhất tâm, (1) bạn không
quy phục những
tà kiến ; (2)
ác hạnh, như chấp giữ những
tà kiến, sẽ
tự nhiên dứt ; (3) như một kết quả, những
chứng ngộ sanh khởi tự nhiên từ bên trong ; (4) và sau đó, những phẩm tính
tuyệt hảo tăng trưởng.
Ở cấp độ lớn của
nhất tâm, bạn
thực hành bốn nền tảng của những
thần lực : (1)
vắng mặt phóng dật là nền tảng của
thần lực nguyện vọng, (2)
vắng mặt của lười biếng là nền tảng của
tinh tấn, (3)
từ bỏ những
yếu tố đối nghịch là nền tảng của
thái độ cư xử, (4) nền tảng của
thần lực của tâm nhờ
duy trì chú ý. Lingje Repa nói :
Con đường tích tập gồm ba lần bốn, là mười hai.
Tiến bộ được làm với một
chứng ngộ.
– Về năm
con đường, cấp độ nhỏ của
con đường tích tập,
đánh dấu sự bắt đầu
con đường Bồ tát,
phối hợp chặt chẽ với bốn
áp dụng chánh niệm. Bốn
từ bỏ liên quan với cấp độ vừa của
con đường tích tập và cũng
liên hệ với
nhất tâm vừa. Cấp độ lớn của
con đường tích tập
phối hợp với bốn nền tảng của
thần lực.
Tuy nhiên với sự tiếp cận của Dzogchen, bạn
tiến bộ với một
chứng ngộ. Nó
gắn liền với tất cả mười hai
chi phần của
con đường tích tập. –
Nhờ sự
chứng ngộ đó, (1) khả năng của
lòng tin thì không
gián đoạn ; như một kết quả, (2) khả năng
tinh tấn là
thường trực ; đưa đến (3) khả năng
chánh niệm không quên ; samadhi
liên tục là (4) khả năng của samadhi ; và (5)
thực thể của
trí huệ phân biệt được
chứng ngộ với samadhi. Những cái ấy
bao gồm nhất tâm lớn của
con đường chuẩn bị, chúng thuộc về
bản chất của hơi ấm (nỗn địa) và chót đỉnh (đỉnh địa). Có nói
như vầy, “Với
bản tánh của năm khả năng này
thực tại bổn nhiên được
quan sát thấy.”
Như một kết quả, (1)
thần lực của
lòng tin chiến thắng những
tà kiến ; (2)
thần lực của
tinh tấn chiến thắng sự
uể oải của
tâm linh ; (3)
thần lực của
chánh niệm vượt thắng
chểnh mảng ; (4) do đó,
thần lực của samadhi chiến thắng bám chấp
nhị nguyên vào những chủ thể và những đối tượng ; như một kết quả, (5)
thần lực của
trí huệ chiến thắng những
hình tướng của những
hiện tượng. Chúng thuộc về
bản chất của nhẫn (
nhẫn địa) và Pháp
tối thượng (Thế đệ
nhất địa). Từ nỗn địa đến thế đệ
nhất địa đều thuộc về những giai đoạn của
con đường chuẩn bị. Có nói :
Với
bản tánh của năm
thần lực vĩ đại này,
Những
yếu tố đối nghịch được
hàng phục.
Với một
chứng ngộ bạn
tiến bộTrong những
thần lực và những khả năng của
con đường chuẩn bị.
Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói :
Từ sự
sanh khởi của
tự tâm vô sanh trong sáng,
vô nhiễm, samadhi
hoàn hảo chứng ngộ rõ ràng bản tánh cốt lõi của tâm bạn, nó giống
như không gian,
thoát khỏi những tạo
tác ý niệm của ba hợp thể (người làm, hành động và đối tượng của hành động). Sự
vắng mặt của
nỗ lực là (1)
yếu tố tinh tấn của
thức tỉnh ; sự
vắng mặt của
đau khổ là (2)
yếu tố hoan hỷ của
thức tỉnh ; sự
vắng mặt của những vết dơ là (3)
yếu tố tịnh hóa của
thức tỉnh ; sự
vắng mặt của bất kỳ
phân chia nào giữa
sanh tử và
niết bàn là (4)
yếu tố phân biệt những
hiện tượng của
thức tỉnh ; sự
duy trì không quên là (5)
yếu tố chánh niệm của
thức tỉnh ; và tâm phẳng lặng đối với mọi sự là (6)
yếu tố bình đẳng của
thức tỉnh. Như vậy, có nói : “Với một
chứng ngộ người ta
tiến bộ trong những
yếu tố của
thức tỉnh của
con đường thấy.”
– Một điểm
trọng yếu trong tư thế
ngồi thiền bảy điểm là giữ xương sống thẳng, điều đó khiến cho những kinh mạch
vi tế trong thân trở nên thẳng, và
cho phép tâm an trụ tự nhiên trong
trạng thái của chính nó.
Giáo huấn cốt lõi về
thiền định là không theo những
hiện tượng sanh khởi.
Phương diện tánh không của tất cả những gì
xuất hiện với tâm là
Pháp thân ;
phương diện quang minh của những
hiện tượng là
Báo thân ; và
phương diện của lòng bi thấm khắp ngấm ngầm trong những
hiện tượng là
Hóa thân.
Ở trên là sáu trong bảy
yếu tố của
giác ngộ, chúng ở trong
con đường thứ ba,
con đường thấy. Trong những giai đoạn trước, khi bạn
trau dồi sự hoàn thiện của
nhẫn nhục và
tinh tấn,
nỗ lực là
chính yếu ; nhưng trong phần
thực hành này, sự
vắng mặt hoàn toàn nỗ lực là
yếu tố tinh tấn của
giác ngộ.
Yếu tố thứ bảy, sự
mềm dẻo,
liên kết chặt chẽ với sự không
nỗ lực của
hiện diện đơn giản tự nhiên,
thoát khỏi mọi tạo
tác ý niệm, bị bỏ khỏi danh sách trên. –
Dù một số đa dạng những
hiện tượng xuất hiện, chúng đều là “một vị” của
tự tâm ; và mọi
nhị nguyên ta-người, sanh tử-niết bàn đều một vị. Sự
chứng ngộ của một vị là (1)
chánh kiến, cái thấy
hoàn hảo,
xa lìa những
cực đoan ; vì nó siêu vượt
trí năng, nó là (2)
tư tưởng chân chánh,
hoàn hảo ; vì nó không thể
diễn tả, nó là (3)
chánh ngữ,
lời nói hoàn hảo ; vì nó không dứt, nó là (4)
chánh niệm ;
tự do là sự
duy trì (5)
chánh mạng ; vì
thành tựu mục đích vĩ đại, nó là (6)
nỗ lực ; bởi vì công việc
trọn vẹn nó là (7) sự
kết thúc của hành động (
chánh nghiệp) ; và không có sự
phân biệt giữa
nhập định và
trạng thái sau
thiền định, nó là (8)
chánh định toàn hảo như
kim cương.
Với một
chứng ngộ người ta
tiến bộTheo tám cấp độ thánh trên
con đường thiền định.
– Đây là sự
giải thích Bát Chánh Đạo theo Dzogchen,
liên kết với con đường thiền định,
con đường thứ tư trong năm
con đường. Về một vị của tất cả các
hiện tượng, bạn thấy tất cả những
xuất hiện như sự phô diễn của tánh giác, không tách lìa khỏi tánh giác của bạn. Phẩm
tính không dứt của nó được gọi là nhớ tưởng
hoàn hảo (
chánh niệm), nghĩa là mọi phân mảnh của tánh giác
hoàn toàn tan biến. Sự
duy trì chánh mạng không gì khác hơn là
sự giải thoát của bạn.
Những đoạn trước của
con đường, sự
vắng mặt của
nỗ lực được
nhấn mạnh, nhưng ở cấp độ này
nỗ lực lại được
triệu hồi, nhưng hơn là
nỗ lực quy ước, đây là sự phô diễn
tự nhiên, tự phát của
hoạt động khởi từ
trạng thái của tánh giác tự tịnh tự định. Đó gọi là “nỗ lực tối hậu” so với
nỗ lực tương đối. –
Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói :
Bất cứ nơi nào bạn không nhìn theo “có” và “không có”,
tự tâm bạn
liên tục sanh khởi như tịnh quang, không trụ trong bất cứ cái gì như một đối tượng hay
tác nhân thiền định. Đó là sự
tham thiền của không-thiền định...
Pháp thân quả của tịnh quang,
Hai
sắc thân, tự động khởi lên,
Tự tánh thân không
phân chia,
Và
đại lạc thân –
Phật là
bản tánh của năm
hiện thân...
Nhờ gặp gỡ
vị thầy tâm linh như Phật, người ta
đạt đến (1)
con đường tích tập. Nhờ sự
sanh khởi của xác tín vào những
cầu xin của mình, có (2)
con đường chuẩn bị. Sự
sanh khởi của
chứng ngộ nhờ những
ban phước là (3)
con đường thấy. Sự
tăng trưởng của nó là (4)
con đường thiền định. Sự
vắng mặt của bất kỳ
phân chia nào giữa
quân bình thiền định (
nhập định) và
trạng thái sau
thiền định là (5)
con đường kết thúc.
Sự
biểu lộ của
tự tâm mình là (1)
Hoan Hỷ địa ; do đây có sự
loại bỏ những vết dơ của
phiền não là (2)
Ly Cấu địa ; tịnh quang vốn sẵn là (3)
Phát Quang địa ; (4) Diệm Huệ (Huệ
Rạng Rỡ) địa được gọi như vậy bởi vì những phẩm tính của một vị Phật
hiển lộ ở đây ; (5)
Nan Thắng địa vì nó
sâu xa và chiều sâu của nó khó dò thấu ; (6)
Hiện Tiền địa vì
trí huệ bổn nguyên của
tự tâm trở nên
biểu lộ ; (7)
Viễn Hành địa vì vượt khỏi
sanh tử ; (8)
Bất Động địa vì người ta không bị lay chuyển bởi vết dơ của sự
quan tâm đến mình ; (9)
Thiện Huệ địa vì sự tròn vẹn của
trí huệ ; (10) sự
hoàn thiện,
viên mãn của
sức mạnh chứng ngộ là địa thứ mười,
Pháp Vân địa ; sự
sanh khởi của những
xuất hiện hình tướng tức là
Pháp thân là (11) địa thứ mười một ;
phụng sự nhu cầu cho
thế gian mà không có nguyện ước là (12) địa thứ mười hai ; sự tròn đầy của cái
tối hậu là (13) địa thứ mười ba ; và sự siêu vượt khỏi
trí năng, với
vô tâm, là (14) địa thứ mười bốn,
đại lạc.
Bây giờ đây là nghĩa của những lời dạy của những vị thầy về những
kinh nghiệm và
chứng ngộ của bốn yoga : (1) trong yoga của
kinh nghiệm, có một sự hòa nhập của lạc,
trong sáng và
vô niệm của sự
vững chắc thiền định.
Chừng nào bạn còn
chuyên chú vào đây, bạn
hoàn thành quán đảnh truyền pháp, và đó là
nhất tâm của
kinh nghiệm. Trong
trạng thái này, khi an trụ trong
tánh không, nếu sự
chứng ngộ của bạn về
tánh không thoát khỏi tạo
tác ý niệm, đó là (2)
thoát khỏi những tạo
tác ý niệm qua
kinh nghiệm. Vị đồng nhất của hạnh của bạn
trải qua trạng thái sau
thiền định không
gián đoạn vì những duyên, là (3) một vị của
kinh nghiệm.
– Lạc,
trong sáng,
vô niệm và một vị của
kinh nghiệm thuộc về
con đường tích tập. –
Lâu trước đó, sự xảy ra một
trạng thái thường trực của (4) không-thiền định là
con đường chuẩn bị. Rồi sự siêu vượt khỏi
thế tục là
con đường thấy và
con đường thiền định. Người ta
thoát khỏi tám khuyết điểm, gồm
quan điểm chính thức trước kia về thiền thứ tư, nghiên tầm và phân tích của thiền thứ tư, thích và không thích, vui và buồn, những
dao động của
chánh niệm và tỉnh giác, và những chuyển động của
năng lực sinh khí. Người ta hòa lẫn với
nhất tâm, và tức khắc và
đồng thời người ta
hoàn thành tri giác trực tiếp về Bốn
Chân Lý Cao Cả. Đó là không-thiền định thực nghiệm (hay qua
kinh nghiệm), cũng được gọi là yoga của
nhất tâm trong bốn yoga của
chứng ngộ.
Vào lúc này người ta
đạt được trí huệ nhận rõ những
hiện tượng hòa nhập với
bản tánh của samadhi ; và người ta không ngừng ở trong
chánh niệm cho đến khi
thức tỉnh tâm linh, trong khi nhiệt thành dấn thân vào
thực hành. Tâm và những đối tượng của nó được tịnh hóa cao độ. Có sự
hoan hỷ phi thường trong sự
đáp ứng nhiều cho những nhu cầu của chính mình và những người khác. Người ta
thường trực tham dự vào trong
kinh nghiệm của sự bình thản độc đáo và vĩ đại
thoát khỏi uể oải hôn trầm. Nếu người ta
không kinh nghiệm những phẩm tính này, đó có thể là
kinh nghiệm, nhưng không phải là
chứng ngộ Đại Ấn.
Bấy giờ
con đường thấy được
đạt đến, và sự làm quen với cái thấy đích thực ấy là
con đường thiền định.
Bản tánh cốt lõi của định
xuất hiện, nó giống
như không gian trống trải, trong đó những
cực đoan của
sanh tử và
bình an biến mất. Những
hiện tượng hợp tạo
xuất hiện như những
huyễn hóa và những
giấc mộng, và người ta
thâm nhập trí huệ bổn nguyên
vô niệm. Trong
trạng thái sau
thiền định như huyễn, người ta
thành thục, tịnh hóa và tinh lọc những
chúng sanh một cách
triệt để ; và bằng cách làm như vậy, người ta
thành tựu hiểu biết về
hiện tượng (
sai biệt trí). Khi
sức mạnh của
trí huệ ba la mật được
hoàn thiện ở địa thứ sáu, người ta
thoát khỏi những tạo
tác ý niệm, và người ta
xa lìa thái độ sợ và tránh
sanh tử hay
bình an. Khi những vết dơ của tâm đã được xóa tận gốc, người ta
đi vào chỗ trú ngụ
bí mật của tất cả chư Phật. Khi
đạt được đến địa thứ tám, người ta không còn thấy
sanh tử và
bình an là hai, và người ta không bị lay chuyển bởi sự
nhận biết tánh như hoặc những dấu hiệu của quả ; thế nên đây gọi là “vị duy nhất” bậc lớn.
– Trong
trạng thái sau
thiền định như huyễn, người ta tịnh hóa
tri giác của mình về
thực tại, cho nên môi trường chung quanh được thấy là một
cõi Phật, và những
chúng sanh ở môi trường đó là những vira và những dakini. –
Sự
đạt đến thức tỉnh tâm linh thì
thoát khỏi những sự hình thành trước kia của nghiệp dơ nhiễm trong
tâm thức,
thoát khỏi bệnh tật của những khuynh hướng
thói quen vi tế,
thoát khỏi nghiệp thuộc về
bản chất của tâm và trong một sự
quá độ, không thể
quan niệm nổi, nó
thoát khỏi sự
xuất hiện của
chuyển di vào cái chết. Đó là không-thiền định, và đó là cùng đích. Khi một
thực tại như vậy được
đạt đến, người ta có thể hay không thể
gán cho nó tên của một
con đường. Nó được
bàn luận về những cái tên trong bốn yoga.
– Khi
đạt đến trạng thái Phật quả không thể nghĩ bàn, người ta
thoát khỏi những hình thành trước kia của
tâm thức ;
thoát khỏi nghiệp dơ nhiễm của tâm, đến
độ người ta không có
ý nghĩ thậm chí làm những
hoạt động thanh tịnh. Hành động của người ta không được
suy nghĩ trước hay
hình dung trước, và người ta
thoát khỏi những dấu vết
vi tế nhất của những
phiền não của những khuynh hướng
thói quen. Vì
Phật quả hoàn toàn vượt khỏi
chuyển di, người ta cũng
thoát khỏi sự
xuất hiện của
chuyển di vào cái chết, bởi vì
trạng thái không
thiền định,
Phật quả, là cùng đích của mọi
con đường. –
Những địa cũng có thể
so sánh với sự
tiến triển của bốn
quán đảnh của
con đường mật chú. Đức Naropa cũng
xác nhận điều này cho Sandapa Rošlpey Dorje :
Sự
chứng ngộ thứ nhất của Đại Ấn
Bao gồm quan sátKhởi tưởng ngoại sanh.
Sự rời khỏi
vô minhBao gồm sự
chứng ngộ tánh giác
trong sáng và không có bám nắm
Được gọi là làm chủ tánh giác.
Khi năm độc có mặt như
năm trí huệ bổn nguyên,
Đó được
xác nhận là
quán đảnh cái bình.
Những phô diễn không ngừng
Xuất hiện không có sự
thiên chấp.
Như thế, lạc
sanh khởi từ
trạng thái tánh không,
Và điều đó được
xác nhận là
quán đảnh của
sáng tỏ, cái thứ hai.
Trí huệ bổn nguyên vốn sẵn
Là
trạng thái của
không gian của lạc và
tánh không không thể
phân chia.
Một vị hợp nhất của cấp độ lớn
Được
kinh nghiệm như
đại lạc của những
xuất hiện và tâm.
Điều đó được
giải thích là
quán đảnh của
trí huệ bổn nguyên.
Quán đảnh thứ ba được tổng hợp
Trong
tâm không thể
phân chia.
Khi
tự tâm thanh tịnh như bầu trời,
Không có sự
phân biệt giữa định và sau
thiền định.
Sự hợp nhất của
hai chân lý là
quán đảnh thứ tư.
Những Câu Hỏi của Hoàng Hậu Kaparabhuja với
Đại Bà La Môn Saraha nói :
Tỉnh giác nhất tâm là
quán đảnh cái bình ;
Lạc,
thoát khỏi những tạo
tác ý niệm, là
quán đảnh bí mật ;
Cái thứ ba là sự hợp nhất với
bình đẳng ;
Và không-thiền định là cái thứ tư.
– Người ta có thể xem
tỉnh giác nhất tâm liên hệ với
quán đảnh cái bình, hoặc như sự
chứng ngộ tánh giác của mình hay như sự hợp nhất của định tĩnh và
quán chiếu tánh giác.
Sự quán đảnh thứ tư là quả của ba cái trước. Nó
sanh khởi tự nhiên và tự phát không có
cố gắng nào. Nó
đơn giản là cái thấy
Pháp thân – cái một vị của
toàn thể sanh tử và
niết bàn. Tại sao bấy giờ lại cần một
quán đảnh như vậy ? Vì nó
tác động để tịnh
hóa thân, ngữ, tâm.
Quán đảnh thứ tư là sự không thể
phân chia của ba
quán đảnh trước và tịnh hóa mọi
phiền não và che chướng. –
Cách mà bốn yoga của
chứng ngộ liên hệ với những địa và những
con đường theo Đức
Rangjung Dorje được dạy trong Những
Giáo Huấn Vĩ Đại :
Nhất tâm là hai
con đường tích tập và chuẩn bị ;
Thoát khỏi tạo
tác ý niệm là
con đường thấy ;
Con đường thiền định đi từ ‘một vị’ lên đến cấp độ vừa của ‘không thiền định’.
Cấp độ lớn của không
thiền định là sự
thức tỉnh tâm linh toàn hảo.
Bạn có thể hỏi, “Nếu có nhiều người đã
đạt đến những địa và những
con đường, tại sao họ có vẻ thiếu những đặc trưng và phẩm tính của những
trạng thái ấy ?” Cho dù
chứng ngộ đã khởi sanh, những phẩm tính ấy có thể còn
vắng mặt. Như một
thí dụ, một con garuda (kim xí điểu) đã mọc cánh khi còn trong trứng, nhưng còn vỏ trứng nên chưa thể bay.
Cũng thế, dù những phẩm tính ấy không
xuất hiện với những người khác, trong
trạng thái trung ấm,
pháp thân sẽ
đáp ứng những nguyện vọng của người đó ; và rồi
chắc chắn hai
sắc thân sẽ
xuất hiện cho những người khác. Dù
hiểu biết giác ngộ đã
tăng trưởng bên trong, như
ngọn đèn dấu trong một cái bình,
tri giác siêu
giác quan v.v... bị che phủ bởi sự
tệ lậu do
thân thể, giống như một cuống thối. Sự mê mờ nhỏ
hiện có bây giờ sẽ tan biến trong
trạng thái trung ấm.
Đó là sự đồng thuận giữa những vị Tổ Kagyu.
Có nói rằng sau khi Phật
nhập diệt, không có những dấu hiệu (của
chứng ngộ)
cho đến khi người ta
đạt đến A La Hán. Kinh
Tiên Tri về Maitreya nói :
Những vị tăng rơi vào hoang mang, nói rằng “Vị tăng Ajita này được
tiên tri sẽ là vị Phật thứ năm của kiếp
may mắn này, nhưng ngài không có những dấu hiệu hay phẩm tính
tuyệt hảo, làm sao ngài có thể
thành Phật Di Lặc (Maitreya) ?”
Bởi thế,
rõ ràng mức độ
chứng ngộ không thể được
phán đoán theo sự có mặt hay không những dấu hiệu và những phẩm tính
tuyệt hảo. Nghĩa xác định được nêu lên bởi Đức Phagmo Drušpa :
Không
cần phải nghi ngờ điều này :
Đất không thể ấm lên
Ngay khi
mặt trời mới mọc,
Nhưng nó ấm dần vì những
tia sáng chiếu soi.
Những nhu cầu và mong muốn của người ta không được
đáp ứngNgay khi người ta
tìm thấy một viên ngọc,
Nhưng chúng được
ban cho nếu những
cúng dường và
cầu khẩn được làm.
Dù một đứa bé không khác gì một
con người,
Nó không thể mạnh mẽ ngay khi được sanh ra ;
Hơn nữa, nó còn phải học nhiều chuyện với sự huấn luyện
dần dần.
Cũng thế, dù
thực tại chân lý được thấy,
Mà không có sự làm quen, thì những phẩm
tính không sanh khởi ;
Nhưng với sự làm quen, cái
tối thượng được
thành tựu.
Tất cả tám
thành tựu (siddhi)
thế gian vĩ đại và v.v...
Sanh khởi theo một cách
duyên sanh.
Dưới
ảnh hưởng của chúng, với sự tự phụ
kiêu căng,
Người ta bị hủy hoại bởi sự
sanh khởi của
tri giác siêu
giác quan ;
Bởi vì người ta không học cái
thành tựu tối thượng, người ta bị che ám bởi điều đó.
Tất cả
chúng sanh như
chư thiên v.v...
Có những
thần lực kỳ diệu, theo nghiệp, không thể tưởng tượng ;
Nhưng không có cái nào trong đó được nói là những
nguyên nhân của
giải thoát.
Ở đâu có những
tính cách và dấu hiệu
Trong sự tắt mất của sự
phân chia chân lý và
mê lầm ?
Tuy nhiên có những
nghi ngờ sanh khởi về điều đó.
Kyemé Zhang nói :
Khổ đau không tan biến
Ngay khi bạn
chứng ngộ bất nhị.
Và dù những phẩm tính và khả năng
tuyệt hảo chưa
sanh khởi,
Có ai tự hạ thấp mình bằng cách nói rằng đây không phải là
con đường thấy ?
Một khối băng không thể tan
Đất và đá không thể ấm
Khi
mặt trời buổi sáng vừa mọc.
Nhưng ai có thể nói đó không phải là
mặt trời ?
Bởi vì
chúng ta mong mỏi thức tỉnh tâm linh như quả của kinh và tantra,
chúng ta không nên xem trọng quá sự có mặt hay
vắng mặt của những dấu hiệu và phẩm tính
vô thường. Nhờ
năng lực của nghiệp, những loại
tri giác siêu
giác quan và những
thần lực phi thường nhưng ít
giá trị cũng được
tìm thấy ở một số
ngạ quỷ, hồn linh của cây, đá, và những loài
ăn thịt bay
trên trời. Những dấu hiệu đã
hoàn thành tri giác siêu
giác quan chỉ nương
dựa vào định cũng được
tìm thấy ở những người không phải
Phật giáo và đạo Bošn.
Như thế, Lingje Repa nói :
Người ta có thể làm chủ được tám
thành tựu vĩ đại,
Nhưng ngoài sự
kỳ diệu của chúng
Chúng chẳng giúp gì mấy cho
giải thoát và
giác ngộ.
Bây giờ nói về quả. Orgyen Rinpoche nói :
Trí Huệ Ba La Mật trong Tám Ngàn
Bài Kệ nói :
“Một vị Phật thực sự
hoàn hảo đã
đạt được trí huệ bổn nguyên, nó thì không ngăn ngại với tất cả
hiện tượng.” Tại sao người ta được gọi là Phật ? Bởi vì người ta đã
thức tỉnh khỏi
trạng thái như ngủ của
vô minh và tâm người ta bao trùm hai
lãnh vực của
hiểu biết, người ấy được gọi là Phật.
Ý nghĩa của “thức tỉnh khỏi giấc ngủ của vô minh” là sự loại trừ
hoàn toàn hai che chướng, đã được
giải thích ở trước. Câu “bao trùm của tâm những đối tượng của hiểu biết”
ám chỉ sự
toàn thiện của
trí huệ bổn nguyên, cũng đã được nói ở trước.
Một vị Phật có ba
hiện thân :
Pháp thân,
Báo thân và
Hóa thân. Kinh Ánh Sáng Sắc Vàng
Thiêng Liêng nói, “Tất cả chư
Như Lai có ba
hiện thân :
Pháp thân,
Báo thân và
Hóa thân.”
Pháp thân là Phật thực sự, vì
Trí Huệ Ba La Mật trong Tám Ngàn
Bài Kệ nói, “Chớ nhìn thấy
Như Lai là
sắc thân.
Như Lai là
Pháp thân.” Kinh Định Vương cũng nói : “Chớ nhìn Phật như là
sắc thân.” Hai
sắc thân là những
hiện thân tạo ra bởi những
ban phước của
pháp thân, bởi
tri giác của những người
tu hành và những
cầu nguyện. Hãy biết chúng xảy ra do sự
kết hợp của ba cái này.
Bản luận này, Những
Giáo Huấn Cốt Lõi của
Quán Thế Âm : Sự Hợp Nhất của Đại Ấn và
Đại Toàn Thiện, được
hoàn thành trong mọi
thực hành của chín thừa. Về nền tảng (địa),
con đường và quả,
Đại Thành Tựu giả Karmapaksi nói :
Với sự thấu hiểu những lời và nghĩa của chín thừa
Và với những
ban phước của dòng Naropa,
Vị
tham thiền Ranjung Dorje
Đã gặp Saraha trong một cái nhìn thấy
thanh tịnh.
Sự
phát lộ của chư Phật
Là một
đại dương vô biên mà chiều sâu khó dò.
Một số người có khả năng cao, vừa và thấp
Đã
tiến bộ và
trở thành giác ngộ.
Khi họ
chứng ngộ, những
cá nhân đương thời
Được sánh với
Phổ Hiền.
Dù người ta có đi hay không theo những địa và những
con đường,
Hai mươi mốt giai đoạn của những địa và những
con đườngThấm khắp
toàn bộ sanh tử và
niết bàn.
Trong Akanista,
thực tại toàn thiện,
Mọi người đều
toàn thiện.
Cách thức
hiện hữu là
Phổ Hiền,
không gian tuyệt đối của những
hiện tượng.
Trong
đại toàn thiện Ati Yoga
Mọi thừa đều được vượt khỏi.
Mười sáu giai đoạn của những địa và những
con đườngĐều vốn
toàn thiện tự nhiênTrong Akanista,
thực tại toàn thiện.
Những dấu hiệu
đặc biệt của
con đường của quả,
Hiện diện tự nhiên không
cố gắng,
Vốn
toàn thiện trong trụ xứ Akanista của
tự tánh giác.
Tinh Túy của chư Dakini nói :
Đây là sự đánh vào
then chốt của ba
chứng đắc :
Do
đạt được Pháp thân vô sanh,
Tâm của con
đạt được sự làm chủ
Pháp thân.
Do
đạt được Báo thân không dứt,
Tâm của con
đạt được sự làm chủ
Báo thân.
Do
đạt được Hóa thân bất nhị,
Tâm của con
đạt được sự làm chủ
Hóa thân.
Tiêu chuẩn là những yoga của bốn tự tin...
Bạn
đạt được tự tin không hướng vọng đến bất kỳ
thức tỉnh tâm linh nào bên trên. Bạn xác quyết rằng lìa khỏi tánh giác của tâm bạn thì không có
giác ngộ nào khác. Bạn
đạt được tự tin trên sự xác quyết rằng tất cả những phẩm tính vĩ đại, những
hoạt động giác ngộ và lòng bi của chư Phật là sự phô diễn
tự nhiên của tánh giác của tâm bạn. Bạn xác quyết rằng tất cả những khổ đau của những
địa ngục trong những
trạng thái khốn cùng của
hiện hữu bên dưới không là gì khác hơn những
mê lầm vọng tưởng của
chính tâm bạn. Do xác quyết rằng ba
trạng thái khốn khổ của
hiện hữu, những
địa ngục nóng và lạnh, khổ đau và
cuộc đời của bạn là những phô diễn của
mê lầm của
vô minh, bạn
thành tựu sự tự tin thứ hai và thứ tư không
trở lại vòng sanh tử nữa. Ngay trên
sự thể hiện quả,
vắng tanh mọi
hy vọng và lo sợ, bạn
thức tỉnh trong
bản tánh của năm
hiện thân,
năm trí huệ bổn nguyên, và bốn
hoạt động giác ngộ ; và bạn
trở thành bánh xe
trang nghiêm của thân, ngữ, tâm, những phẩm tính và
hoạt động giác ngộ. Bạn
hoàn thành không ngừng nghỉ, tự phát những nhu cầu của tất cả
chúng sanh cho đến khi
sanh tử trống rỗng.
Những
Giáo Huấn Vĩ Đại nói :
Sự
thức tỉnh trọn vẹn được
đạt đến ở cùng đích của không
thiền định. Về việc này, do
thành tựu sự hợp nhất
tối thượng của định tĩnh và
quán chiếu trong
thực tại của bốn
bình đẳng một vị của
không gian tuyệt đối và
trí huệ bổn nguyên, quả của
pháp thân và hai
sắc thân được
hiện thành.
Pháp thân là sự
chứng ngộ bản tánh của
quán chiếu, hay là quả cùng đích của
bản tánh của
vô niệm. Những
sắc thân sanh khởi từ mặt
hiểu biết về
hiện tượng,
hiểu biết này
biểu lộ từ samadhi
như huyễn v.v... Lại nữa,
thoát khỏi những tạo
tác ý niệm là
Pháp thân ; và
đáp ứng những nhu cầu của
chúng sanh bằng bất cứ
phương tiện nào
thanh tịnh hay không
thanh tịnh cần để huấn luyện họ là
sắc thân. Về điểm này, không
thích hợp phải
phân chia ba thân, bốn thân... Bấy giờ, không lìa khỏi
pháp thân cho
lợi lạc của riêng bạn, những nhu cầu của
chúng sanh được
đáp ứng bởi hai
sắc thân, chúng dành cho sự
lợi lạc của những người khác. Nhờ bốn loại
hoạt động giác ngộ, mọi nhu cầu của tất cả
chúng sanh vô biên được
đáp ứng. Họ được hướng dẫn
dần dần trên
con đường phù hợp với những cấp độ thọ nhận
cá nhân. Đây là
phương pháp tối thượng để
hiện thực hóa, trong
một đời, với một thân và trên một chỗ ngồi,
thực tại Đại Ấn,
trí huệ bổn nguyên vốn sẵn, nó là
bản tánh của
ba thân và
năm trí. Do phát hiện
phương pháp này, tất cả những
thành tựu tối thượng và
thế gian được
hiển bày một cách không
cố gắng từ
dòng tâm của
đệ tử.
Trí huệ bổn nguyên của Đại Ấn
sanh khởi trong
dòng tâm của họ ;
trạng thái giác ngộ toàn thiện được
hiện thực, và bằng đường lối Đại Ấn của
hoạt động giác ngộ người ta
đạt đến thần lực kỳ diệu để đem tất cả
chúng sanh đến
con đường trưởng thành và
giải thoát.
– Trong những
tu viện Gelug những vị tăng thường
tranh luận có chỗ nào không có Phật hay chăng, và câu
trả lời dĩ nhiên là
Phật hiện diện ở khắp cả. Điều này có thể gợi ý rằng bạn là một vị Phật. Nhưng nếu bạn tự hỏi, “Tôi có là một vị Phật hay không ?”
nghi ngờ chắc sẽ khởi. Nhưng khi hỏi, “Chư Phật có
hiện hữu không ?” Khó mà nói chư vị có
hiện hữu hay không. Về
con người của bạn, nó có
hiện hữu hay không ? Bằng cách
theo đuổi những hàm ý về cái thấy rằng
Phật hiện diện ở khắp cả, bạn đến
Đại Toàn Thiện, nó
thoát khỏi những tạo dựng của
tâm thức về có hay không.
Cái thấy này ngược với khuynh hướng phê phán những người khác của
chúng ta.
Chúng ta nghĩ mình có thể
đánh giá người khác, dù
chúng ta không ở một
vị trí để phê phán
con người. Thật ra, chỉ một vị Phật mới
đủ khả năng đánh giá mức độ
trưởng thành tâm linh hay
chứng ngộ của người ta. Cái thấy này cũng ngược với
quan niệm của
chúng ta về những
cực đoan khác : dơ sạch, tăng giảm v.v...
Nhận biết Phật hiện diện đồng nhất ở mọi chỗ và trong mọi sự, những gán ghép
quy ước của
chúng ta lên
thực tại hoàn toàn vỡ tan. –
Nghĩa Bên Trong
Sâu Xa nói :
Từ
mạn đà la của
hiện thân như
hư không của Phật và
trí huệ bổn nguyên như
mặt trờiPhô diễn những
sắc thân trong tất cả các
thế giới mười phương.
Ngữ của người, như
âm thanh trống trời, không bao giờ không âm vang ;
Và
nghe được không cần
cố gắng bởi tất cả
chúng sanh khắp cả
không gian.
Tâm người, như viên
ngọc như ý, với
trí huệ bổn nguyên
vô tâmĐồng thời, không có những tạo
tác ý niệm
đáp ứng những
mong mỏi của những ai còn
lệ thuộc vào những tạo
tác ý niệm.
Dù người có
đi vào với
chúng sanh và
phiền não, người không
nhiễm ô.
Như thế, tôi kính cẩn cúi lạy người, bậc Chiến Thắng tự-sanh.