- Cô Gái Hạ Tiện Yêu Tôn Giả Ānanda
- Nguyên Nhân Đức Phật Cho Thọ Y Kaṭhina
- Cây Bồ Đề Ānanda
- Người Đàn Bà Đau Khổ
- Vị Tỳ Khưu Mắt Mù
- Con Ngỗng Oan Nghiệt
- Cho Xin Hạt Cải
- Triệu Phú Keo Kiệt
- Cô Gái Nô Lệ Đội Nước
- Ni Trưởng Mahā Pajāpatī Gotamī Niết-bàn
- Miếng Giẻ Chùi Chân
- Tên Thợ Săn Độc Ác
- Vị Tỳ Khưu Ni Sinh Con
- Đổi Chiếc Xe Mới
- Con Số Đen Bất Hạnh
- Devadatta Muốn Chưởng Quản Tăng Đoàn
- Thái Tử Ajātasattu Hành Thích Vua Cha
- Đức Phật Tẩy Chay Lễ Đăng Quang
- Giết Phật Bằng Cung Nỏ Và Lăn Đá
- An Tịnh Trong Ngục Tối
- Giết Phật Bằng Voi Dữ Nālāgiri
- Chiêu Bài Cuối Cùng Của Devadatta
- Trưởng Giả Cấp Cô Độc Ra Đi
- Củng Cố Pháp Và Luật
- Binh Lửa
- Tôn Giả Mahā Moggallāna Báo Hiếu Mẹ
- Tội Ác Cuối Đời Của Đức Vua Pāsenadi
- Cảnh Giới Cho Thái Hậu Videhi
- Tình Phụ Tử Thiêng Liêng
- Cái Gốc Của Ghẻ Lở, Mụn Nhọt
- Đêm Thanh, Trăng Sáng
- Tiễn Chư Trưởng Lão Lần Lượt Ra Đi
- “Pháp Truyền Thống” Của Đức Vua Pāsenadi
- “Cái Thấy Sự Thực” Hóa Giải Hận Thù
- Ngọn Lửa Thù
- Lời Của Bậc Trí
- Quả Báo Của Devadatta
- Dòng Sākya Tiêu Vong
- Tôn Giả Sāriputta Viên Tịch
- Tôn Giả Mahā Moggallāna Niết-bàn
- Nhân Quả Công Minh
- Hạ Thứ 45 Của Đức Thế Tôn
- Có Đủ Bảy Pháp Này, Đất Nước Không Thể Bại Vong!
- Bảy pháp bất thối khác
- Lại Lên Đường, Lại Ra Đi!
- Phật Hứa Với Ma Vương
- Cả Đêm, Rừng Sālā Không Ngủ
- Bụi Tan Thành Ngọc
- CẢM BẠT Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
MỘT CUỘC ĐỜI
MỘT VẦNG NHẬT NGUYỆT
TẬP 6
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Nhà xuất bản Văn Học 2014
Vị Tỳ Khưu Mắt Mù
Chuyện kể rằng, tại kinh thành Sāvatthi có ông Mahāsuvaṇṇa là một bậc phú hào, gia tài, của cải không biết để đâu cho hết nhưng lại hiếm muộn con cái.
Một hôm, nhân đi tắm về, bên vệ đường, trông thấy một cây đại thụ, cành nhánh sum suê, ông tự nghĩ: “Nơi xanh tốt, um tùm, mát mẻ như thế này, chắc phải có một vị thần linh nhiều oai lực trấn ngự!” Ông phú hộ bèn thuê người dọn dẹp sạch sẽ quanh gốc cây, cho trải một lớp cát trắng bên trong rồi xây một tường rào bảo vệ. Xong, ông trang trí thêm cờ ngũ sắc, thắp đèn sáng, sắm sanh một mâm lễ vật, dâng lên thọ thần, khấn vái, cầu nguyện rằng: “ Xin ngài hãy ban cho tôi một mụn con, trai hay gái cũng được, tôi sẽ tạ ơn lễ vật hậu hỹ, cúng tế hằng kỳ!”
Quả là có “thần linh cảm ứng” thật, vì không bao lâu, vợ ông phú hộ thọ thai. Mừng quá, ông không tiếc tiền của mua thuốc thang cho bà bảo dưỡng thai nhi. Gần mười tháng sau, bà sinh hạ một cậu con trai. Ông Mahāsuvaṇṇa tự nghĩ: “ Nhờ ta chăm sóc, bảo hộ cây đại thụ, thần linh cảm kích mới cho ta đứa con cầu tự - vậy ta đặt tên nó là Pāla(1). Thời gian sau, bà lại sinh thêm cho ông một quý tử nữa. Thế là đứa con đầu, ông đặt tên là Mahāpāla (Đại Hộ), đứa con sau được đặt tên là Cullapāla (Tiểu Hộ).
Khi hai trẻ lớn khôn, ông bà Mahāsuvaṇṇa lựa chọn nơi xứng đáng để lập gia thất cho hai người nhưng họ chưa chịu. Tuy nhiên, trước khi mất, hai ông bà phân chia gia sản đồng đều cho cả hai để làm ăn sinh sống. Và họ đã chăm chỉ làm ăn, tài sản càng ngày càng tăng thịnh, tỏ ra xứng đáng con dòng cháu giống kế thế sự nghiệp của cha ông.
Hôm nọ, khi đức Phật an cư ở Kỳ Viên – thì hằng ngày, cận sự hai hàng thường hay đến tịnh xá để cúng dường và nghe pháp. Hôm nọ, trưởng giả Mahāpāla trông thấy từng đoàn, từng đoàn người nam nữ, già trẻ tay cầm vật dụng như trầm hoa, dầu đèn đủ loại tấp nập, đi chung một đường, chẳng rõ họ đi đâu - bèn hỏi:
- Quý vị đi đâu mà trông có vẻ vui tươi vậy?
- Chúng tôi đến Kỳ Viên tịnh xá.
- Để làm gì vậy?
Một người nói:
- Rõ khổ! Hóa ra ông không biết một đức Chánh Đẳng Giác đã ra đời rồi sao?
- Quanh năm buôn bán làm ăn, tôi có biết gì đâu!
- Vậy thì hãy cùng đi, ông bạn. Hãy đến đấy để cúng dường và nghe đức Phật thuyết giảng.
- Vâng! Thế thì hãy cho tôi đi theo với!
Thời pháp hôm ấy, đức Phật thuyết tuần tự từ bố thí, trì giới, nhân quả các cảnh trời, sự cám dỗ của ngũ trần cùng phước báu cao thượng của bậc xuất gia.
Nghe xong, Mahāpāla tự nghĩ: “Khi nhắm mắt lìa bỏ cõi đời này để đến một thế giới nào đó thì vợ con đều chẳng thể đi theo mình; nhà cửa, tài sản, ruộng vườn đều phải bỏ lại; thậm chí cái xác thân này cũng không thể làm bạn đồng hành được nữa. Vậy thì có ích chi cái kiếp sống này cùng với cái gánh nặng gia đình mà ai cũng phải còng lưng mang vác? Như thời pháp mà ta vừa nghe thì đời sống xuất gia nhẹ nhàng và khoảng khoát như mây trời...”
Khi mọi người lần lượt ra về hết, trưởng giả Mahāpāla đến quỳ bên chân Phật và xin xuất gia.
Đức Phật hỏi:
- Ông còn cha mẹ, vợ con, anh em gì không?
- Chỉ còn một người em ruột, bạch đức Thế Tôn.
- Vậy thì hãy báo cho người em biết trước khi xuất gia, này Mahāpāla!
Vâng lời đức Phật, về nhà trưởng giả Mahāpāla nới chuyện với Cullapāla:
- Này em! Tất cả tài sản của nổi, của chìm, vật có tri giác và vật không có tri giác... nghĩa là toàn bộ châu báu, nhà cửa, ruộng vườn, tôi tớ súc vật... từ rày về sau, anh giao hết cho em được trọn quyền làm chủ.
- Tại sao lại nói chuyện kỳ lạ như vậy?
- Không kỳ lạ gì đâu. Em hãy cố gắng mà kế nghiệp tổ tiên.
- Thế còn anh thì sao?
- Anh sẽ xuất gia với đức Thế Tôn.
Trưởng giả Cullapāla không chịu, cố gắng dùng tình cảm để thuyết phục:
- Từ lâu, anh chính là cha, là mẹ của em. Thân mẫu mất, với tình thương, anh đã thay thế mẹ cho em nương tựa. Thân phụ mất, với sự đùm bọc, anh đã thay thế cha che chở cho em. Nếu anh bỏ nhà ra đi thì có khác nào em lại mất cha, mất mẹ một lượt nữa. Anh à, anh là bậc phú gia, tiền bạc tuy không hơn ai nhưng cũng “có máu, có mặt” trong kinh thành; sao anh không ở nhà, lấy vợ, sinh con, đến chùa làm các công đức, bắt chước cận sự hai hàng của đức Phật cũng được vậy.
Thế là hai người nói chuyện rất lâu. Nhưng ông anh không thuyết phục được em mà ông em cũng không thuyết phục được anh. Người em bèn đấu dịu:
- Thôi, anh xuất gia cũng được; nhưng hãy lập gia đình trước đã, đợi đến già hãy đi có lẽ tốt hơn vậy!
Trưởng giả Mahāpāla mỉm cười:
- Em nói vậy là lý sự cùn rồi. Xuất gia thì phải lựa chọn lúc còn trai tráng, thanh xuân khi sinh lực còn mạnh khoẻ mới học pháp, hành pháp được. Nếu lúc tuổi già, sức yếu, đầu óc không còn minh mẫn, lý trí không còn kiểm soát được cái run rẩy, cái quờ quạng của cái chân, của cái tay... thì chỉ có việc ăn hại, làm khổ mọi người mà thôi. Chí anh đã quyết. Đừng lấy những lý lẽ tình thường của thế gian mà ràng buộc, cột trói anh nữa.
Thế là trưởng giả Mahāpāla bỏ đi, quay lưng với những giọt nước mắt của người em, sau đó, ông được thọ giới tỳ-khưu, chăm chuyên học pháp và luật, tinh cần các công việc, bổn phận mà Tăng đã giao phó. Sống tại Kỳ Viên suốt năm năm, bên chân chư vị trưởng lão, tỳ-khưu Mahāpāla được thầy thương, bạn mến về tư cách cũng như tánh hạnh.
Hôm kia, sau an cư mùa mưa, tỳ-khưu Mahāpāla mạnh dạn lên đảnh lễ đức Phật và xin đề mục tu tập. Quán căn cơ, đức Phật giảng nói rất cặn kẽ về tứ niệm xứ và khuyên nên tinh tấn, miên mật hành trì sa-môn hạnh. Vâng lời đức Phật, Mahāpāla rủ thêm sáu mươi người bạn đồng tu, vừa mới xuất gia được một vài năm, rời Kỳ Viên tịnh xá, nhắm hướng bắc, đi mãi. Từ làng này sang làng nọ, từ rừng này sang rừng khác, đoàn sa-môn này sống đời du phương. Mỗi buổi sớm, họ đi khất thực quanh vùng, có gì dùng nấy, sau đó rút về nơi khuất tịch, tĩnh cư, tu tập. Thời gian gần một năm thấm thoắt trôi đi, mặc dầu giới hạnh và thiền định của họ khá tốt nhưng vẫn chưa tìm được sự an lạc cuối cùng. Họ lại ra đi. Hôm kia, cách kinh thành Sāvatthi chừng một trăm hai mươi do tuần, gặp một ngôi làng nhỏ gần biên giới, họ dừng chân nghỉ ngơi, sau đó đi trì bình khất thực. Dân chúng ở đây thấy một đoàn sa-môn tăng tướng trang nghiêm, lục căn thu thúc, họ rất kính trọng nên vật thực được họ cúng dường rất đầy đủ. Một người đàn ông ra dáng một phú hộ, sau khi đặt bát, cất tiếng lễ độ hỏi:
- Thưa chư tôn giả! Chẳng hay các ngài định đi đâu vậy?
Tôn giả Mahāpāla nhiều tuổi nhất, hạ lạp lớn hơn mọi người nên được xem như là trưởng đoàn, trả lời:
- Chúng tôi đang đi tìm một nơi chốn thuận duyên để hành trì sa-môn hạnh, này thí chủ!
- Thưa, một nơi chốn được gọi là thuận duyên ấy, nó gồm những điều kiện như thế nào, thưa tôn giả?
- Thứ nhất, là nơi vắng vẻ, yên tĩnh, không quá gần xóm làng mà cũng không quá xa xóm làng. Thứ hai, nơi ấy có thể có hang động, các tàn cây lớn rộng, có thể làm thêm một số mái che bằng tre lá để có chỗ đỡ mưa, tránh nắng. Thứ ba, là dân chúng quanh vùng có tâm biết bố thí, cúng dường để việc trì bình nuôi mạng không quá khó khăn. Chỉ cần có đủ ba điều kiện ấy thì được xem như là thuận duyên rồi, này thí chủ!
Người đàn ông quỳ xuống, sụp lạy rồi nói:
- Vậy thì xin thỉnh chư tôn giả ở đây với chúng con, là bóng mát nương nhờ cho chúng con. Ba điều kiện ấy, ở nơi này, xem ra là khá thuận lợi.
Tôn giả Mahāpāla sau khi hội ý với chư tăng, gật đầu ưng thuận, rồi nói:
- Cũng sắp đến kỳ an cư mùa mưa. Nói cách khác, chư tăng sẽ trú mưa ở đây ba tháng, không rõ thí chủ có biết bổn phận của mình lúc mời thỉnh chăng?
- Thưa, biết khá rõ! Vì con thường hay lên xuống, buôn bán làm ăn ở Sāvatthi, rất nhiều bạn bè, bằng hữu của con đã là đệ tử của đức Tôn Sư.
- Tốt! Tôn giả Mahāpāla mỉm cười – Đây lại thêm một yếu tố thuận duyên nữa vậy.
Nơi này có một ngôi rừng sầm uất, có nhiều hang động thiên nhiên, có hồ, có suối rất mát mẻ, thuận lợi cho môi trường sống. Càng vi diệu hơn nữa, người đàn ông phú hộ đã vận động mọi người trong làng, hùn góp công đức - nên chỉ non nửa tháng sau thì nơi đây đã có môt ngôi tịnh xá – thay cho giảng đường làm nơi họp tăng, cũng là chỗ hành thiền tập thể - tuy chỉ tranh tre nứa lá nhưng trông khá khang trang, tươm tất, rộng thoáng. Lại còn hàng chục cốc lá lác đác quanh sườn núi, bờ khe để chư tăng có chỗ tránh mưa, đụt nắng, hành trì chỉ quán. Ngoài ra, việc trang trí nội thất như ngoạ cụ, tọa cụ, chum vại, dầu đèn, thảm lót nhà, thảm chùi chân... đâu đâu cũng chu đáo. Những công trình phụ như nhà vệ sinh, hầm đốt rác, nhà tắm có mái che... cũng được dân làng quan tâm đào đắp, ráp dựng trong khả năng của mình. Khi các công trình lớn nhỏ hoàn tất, bà con dân làng với sự dẫn dắt của ông phú hộ, làm một cuộc lễ để dâng cúng tất thảy đến chư tăng. Họ tạo thuận duyên đến nỗi, chư tăng không cần phải làm bất cứ việc gì, chỉ có việc ôm bát đi trì bình, thời gian còn lại chỉ để dành cho sự tu tập. Chưa thôi, mới ở yên được một hôm thì một vị thầy thuốc giỏi tìm đến, nói là do ông phú hộ cắt cử đến để khám, bốc thuốc chữa trị tất cả bệnh cho chư tăng. Thấy không ai bệnh gì, ông thầy thuốc xin để lại tại tịnh xá một số thuốc cảm mạo thông thường, nóng sốt, đau bụng, táo bón, tháo dạ, ngăn độc trùng như rắn, rít, bò cạp... để đề phòng. Khi đi, ông hẹn là cứ khoảng nửa tuần trăng ông sẽ ghé lại một lần, hãy cho ông được chăm sóc sức khoẻ cho chư tăng, đấy là một hạnh phúc.
Cảm kích trước tấm lòng của ông phú hộ và dân làng, tôn giả Mahāpāla họp chư tăng ở tịnh xá, nói rằng:
- Tình hình này xem ra có một tốt, một xấu. Một tốt, là vì ân nghĩa này sẽ giúp ta tu tập tốt, sẽ hoàn thành cứu cánh sa-môn hạnh. Một xấu, cũng vì ân nghĩa này, nếu ta không chịu tu tập thì chắc chắn sẽ đi địa ngục.
Ai cũng gật đầu nói là đúng rồi, và nên tu tập tốt để đáp trả ân nghĩa.
Tôn giả Mahāpāla nói tiếp:
- Đầu con trăng này chúng ta lại vào mùa an cư rồi. Vậy, ngoài một số pháp hạnh đầu-đà mà chư hiền hữu đã thọ trì, có ai muốn phát nguyện thêm một pháp nào nữa chăng?
Có người đáp:
- Mỗi người với các pháp đầu- đà đã thọ trì, ai cũng cảm giác là chưa trọn vẹn, còn khuyết thủng chỗ này hay chỗ khác, đâu dám phát nguyện thêm, thưa pháp huynh.
- Thấy được vậy là tốt. Còn riêng tôi sẽ phát nguyện thêm pháp đầu-đà thứ mười ba – là ngăn oai nghi nằm! Cầu chúc chư hiền hữu hoàn thành sa-môn hạnh ngay trong mùa an cư này.
Mọi người cất tiếng tán thán “sādhu, sādhu – lành thay”. Tôn giả Mahāpāla sách tấn thêm:
- Sinh tử là việc lớn, chúng ta đừng buông lung, giải đãi nữa. Các cảnh của bốn đường ác sẽ hiện ra. Mà các cảnh giới cao sáng, thanh lương nó cũng hiện ra. Tùy theo tác ý, tư tưởng, sự hành trì, cái tâm dể duôi hay tinh cần của mỗi người. Hãy cố gắng lên, các bạn! Để khỏi hổ thẹn với ân nhân, thí chủ!
Thế rồi, sau cuộc lễ vào hạ, chư tăng đọc tụng, ôn tập một số giới bổn đã được ban hành, mỗi người rút về liêu cốc, hang động riêng lẻ để tu tập. Cứ mỗi nửa tháng, họ gặp nhau tại tịnh xá chung để sám hối, làm lễ uposatha, bàn một một vài việc tăng... Cuộc sống bình lặng và thanh bình như thế trôi qua. Ai cũng có thiền chứng, ai cũng tinh thục trong nội quán. Riêng tôn giả Mahāpāla vì tinh cần quá mức mà cũng vì cả tháng ngồi thiền, ngăn oai nghi nằm, không ngủ nên đôi mắt rất xốn xang, nước mắt chảy hoài, nhức buốt vô cùng. Tuy vậy, ông vẫn không bỏ cuộc, vẫn đi bát, vẫn hành thiền chăm chuyên cần mẫn.
Hôm nọ, sáng sớm, chư tăng tụ hội ở tịnh xá trước giờ đi bát, thấy vắng mặt tôn giả Mahāpāla, có người tìm đến cốc:
- Thưa pháp huynh, đã đến thời đi khất thực.
Bên trong có tiếng vọng ra:
- Vâng, vâng, tôi sẽ đi ngay!
Khi xuống đến tận nơi, ai cũng thấy đôi mắt của tôn giả Mahāpāla đỏ hoe, nước rỉ ra ràn rụa , bèn hỏi – thì được đáp:
- Không sao đâu! Tôi chỉ đau mắt chút đỉnh.
Sau khi đi khất thực quanh làng trở về, chư tăng báo chuyện đau mắt của vị trưởng đoàn đến gia đình phú hộ - nên buổi chiều, người nhà của vị y sĩ tìm đến trao cho một loại thuốc rồi chỉ dẫn cách dùng. Đây là một loại thuốc nước rất công hiệu, chỉ cần rỏ ít giọt vào mũi(1), nằm yên một lát cho thuốc thấm, ngày vài lần là hết đỏ mắt, hết nhức mắt ngay.
Nhận thuốc quý, nhưng tôn giả Mahāpāla chần chừ, do dự. Nếu muốn rỏ thuốc vào mũi có hiệu quả là phải nằm xuống, mà nằm xuống là phá vỡ “pháp đầu-đà ngăn oai nghi nằm” đã thọ trì. Nghĩ vậy, tôn giả Mahāpāla tự nói với mình: “Ta không thể phá bỏ pháp hạnh đầu-đà đã phát nguyện!” Nên tôn giả không nằm, cứ ngồi nghiêng đầu lui sau một chút mà rỏ thuốc vào mũi.
Hôm sau, lúc đi bát, tôn giả gặp vị y sĩ, ông ta hỏi:
- Thuốc của tôi gởi, tôn giả đã dùng chưa mà trông đôi mắt vẫn còn đỏ hoe vậy?
- Tôi đã dùng rồi, thí chủ!
Vị y sĩ tự nghĩ: “Lạ chưa! Thuốc rỏ mắt của mình là một thần dược nổi tiếng xưa nay, mà tại sao bây giờ không công hiệu kìa!” Bèn hỏi:
- Thế khi rỏ thuốc, tôn giả ngồi hay nằm?
Hỏi ba lần, thấy vị tôn giả vẫn làm thinh, không đáp, vị y sĩ lại nghĩ: “ Được rồi! Mình sẽ đến tận nơi quan sát là biết liền”. Buổi chiều vị y sĩ tìm đến cốc của tôn giả khi ngài đang đi kinh hành ngoài trời. Đưa mắt nhìn quanh bên trong, vị y sĩ thấy trống trơn, chỉ có môt tấm nệm cỏ vừa vặn chỗ ngồi, không hề thấy giường nằm ở đâu cả.
Biết chuyện gì đã xảy ra, vị y sĩ gặp tôn giả, cất giọng khẩn cầu, tha thiết:
- Tôn giả ơi! Đừng làm như thế, không nên đâu! Hãy thương lấy cái thân mình một chút, tôn giả! Cái thân nó gánh cái tâm đấy! Có sức khoẻ khang kiện, đôi mắt có sáng thì việc hành đạo mới tốt, mới dễ dàng được! Hãy nằm xuống khi rỏ thuốc, lúc ấy thuốc mới ngấm vào bên trong được, tôn giả! Tôi van xin ngài đấy!
- Thôi được rồi, cảm ơn thí chủ! Để tôi suy nghĩ lại xem!
Nói thì nói thế, nhưng vị tôn giả này lại tự phản vấn: “ Này, hiền hữu Pāla ơi! Hiền hữu hãy nói cho ta biết, đôi nhục nhãn này so với pháp hạnh đã phát nguyện, cái nào quý trọng hơn?” Và rồi, vị tôn giả lại tự nói với mình: “Trong mù mịt trầm luân sinh tử, trải qua vô số kiếp giạt trôi vô định trong biển luân hồi, hiền hữu có khác nào ở trong cảnh đui mù tăm tối? Trải qua thời gian ấy, biết bao nhiêu là đức Chánh Đẳng Giác đã ra đời? Biết bao nhiêu là pháp và luật của chư vị - hiền hữu có thấy, dù chỉ chút ít? Rõ là hiền hữu có mắt mà cũng như đui mù mà! Bây giờ, với nhân duyên thù thắng, hiền hữu gặp được giáo pháp của Phật, nguyện hành trì theo con đường ấy; và khi đã phát nguyện rồi, chẳng lẽ nào hiền hữu lại thối thất, ngã lòng? Nếu đôi mắt này có tối tăm vĩnh viễn, nhưng lại có được tuệ nhãn, thấy được pháp vô thường, vô ngã để giác ngộ, giải thoát – há không là sự đánh đổi quá nhiều lợi lạc hay sao? Vậy, dù mắt có bị mù, hiền hữu cũng không nên bỏ pháp”.
Nghĩ thế xong, như đã quyết định, tôn giả mỉm cười, tự ngâm lên một bài kệ để nhắc nhở mình:
“- Mắt đui thì cứ mặc
Thân tàn cũng vậy thôi
Chí ta giờ đã quyết
Pháp hạnh chẳng buông lơi
Giữ tâm, không giữ mắt
Thà chết, ngồi không nằm
Tinh cần tu niệm xứ
Minh sát, tuệ như chân!”
Hôm sau, tôn giả vẫn ngồi như thế để rỏ thuốc vào mũi rồi ôm bát đi vào làng. Vị thầy thuốc có tâm, đã đứng chờ đâu đó sẵn, thoáng nhìn rồi cất tiếng hỏi:
- Lại thế nữa rồi! Tôn giả vẫn ngồi mà rỏ thuốc ư?
- Đúng vậy, thí chủ!
- Như thế thì cứ vẫn đau nhức?
- Đúng vậy, thí chủ!
Vị y sĩ cất tiếng than:
- Thôi rồi, vậy là nghề thầy thuốc có tiếng thơm của tôi từ nay đổ sông, đổ biển. Thiên hạ sẽ nói rằng, thuốc chữa mắt của tôi từ nay không còn tác dụng. Vậy, nếu còn thương tôi, thì nếu có ai hỏi, xin quý ngài nói rằng, tôi chưa từng cho thuốc và ngài cũng chưa từng rỏ thuốc. Chúng ta chưa từng quen biết nhau. Tôi không có cách nào khác hơn.
- Xin thí chủ yên tâm. Tôi sẽ im lặng và tôi sẽ không nói gì hết.
Vị thầy thuốc với sắc mặt buồn bã, quầy quả bỏ đi.
Buổi tối, trước giờ hành thiền, tôn giả lại đọc kệ sách tấn mình:
“- Thầy thuốc bỏ đi rồi
Diêm chúa chẳng chê mồi
Mắt vô phương cứu chữa
Sao còn dám dể duôi!”
Từ đấy, tôn giả tinh cần không mỏi mệt, không còn để ý cái đau, cái nhức của đôi mắt nữa. Mọi thấy biết, quan sát cảm giác, tri giác, tâm hành và nhận thức mỗi ngày thêm tinh tế, sắc bén. Thỉnh thoảng, ngài đi sâu vào thiền, an trú lạc định, chấm dứt tất thảy cảm giác đau để nghỉ ngơi, tịnh dưỡng. Tuy nhiên, đến tháng thứ hai thì ngài thấy đôi mắt mình đã tối đen như mực. Sáng sớm, khi chư sư ở ngoài cất tiếng hỏi:
- Thưa, đã đến giờ khất thực.
Bên trong đáp:
-
- Còn pháp huynh thì sao?
- Mắt tôi không thấy gì nữa rồi!
Sau khi biết rõ sự thật, ai cũng đau lòng và thương xót. Ai cũng hứa đi hai bát để chu cấp vật thực hằng ngày. Gia đình ông phú hộ và cả dân làng, ai cũng khởi tâm chăm lo chu đáo cho vị tôn giả mắt mù của mình không thiếu thốn thứ gì. Thỉnh thoảng, tôn giả Mahāpāla vẫn nhắc nhở mọi người đừng buông lơi đề mục, bất cứ ngày hay đêm. Nhờ dân làng hộ độ chu đáo, nhờ tinh cần, nhờ không giải đãi nên qua tháng thứ ba, tôn giả Mahāpāla đắc quả A-la-hán luôn với tuệ phân tích. Sáu mươi vị tỳ-khưu đồng đạo, lần lượt trước sau đều cùng tâm chứng và quả chứng.
Sau lễ ra hạ, chư vị đều muốn về Kỳ Viên đảnh lễ đức Đạo Sư. Tôn giả Mahāpāla khuyên mọi người hãy lên đường, còn ngài có thể tự lo liệu được.
- Hãy đi cùng chúng tôi, thưa pháp huynh!
- Không! Tôn giả lắc đầu – Tôi nay yếu đuối, mù loà, đường sá thì xa xôi, gian trở. Tôi mà đi thì vướng bận mọi người, tôi không làm thế được. Hãy cho tôi gởi lời đảnh lễ đức Đạo Sư, và nói rằng, chúng đệ tử nhờ hồng ân của ngài mà đã làm xong những việc cần phải làm!
Thấy họ thành tâm, khẩn thiết quá, tôn giả nói tiếp:
- Thôi, thế này vậy. Tôi có người em, trưởng giả Cullapāla, chắc chư hiền hữu đã biết. Hãy kể rõ tình trạng của tôi hiện nay cho em tôi biết, và nó sẽ tìm cách dẫn tôi về!
Chẳng biết sao hơn, họ đành chào từ giã.
Ông phú hộ và cả dân làng đều bịn rịn lúc tiễn đưa. Và họ biết, họ không thể níu kéo những cánh chim trời.
Ròng rã mấy tháng, đoàn sa-môn mới về đến Kỳ Viên. Sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn, họ kể về tình trạng mù mắt của tôn giả Mahāpāla với tâm bi cảm.
Đức Phật nói:
- Cái gì xảy ra cũng có nhân, có duyên của nó. Khi phải thời, Như Lai sẽ giảng giải trước đại chúng.
Về phần trưởng giả Cullapāla, sau khi biết chuyện, ông rất đau xót. Suy nghĩ, bàn tính kỹ càng, ông trưởng giả gởi một đứa cháu trai trong họ tộc, tên là Tế Hộ, nhờ chư tôn giả cho học kinh luật rồi xuất gia sa-di. Suốt nửa tháng được chư tôn giả tận tình kềm cặp, hướng dẫn - sa-di Tế Hộ đã biết cách đi đứng, ngồi nằm, biết cách mặc y, mang bát, biết cách đi trì bình khất thực. Rồi họ chỉ đường cho sa-di Tế Hộ đến ngôi làng biên giới để đón tôn giả Mahāpāla trở về.
Trong lúc chờ đợi, trưởng giả Cullapāla chu đáo kiếm tìm một mảnh đất không xa nhà quá mà cũng không xa Kỳ Viên tịnh xá, kiến tạo một tịnh thất giản dị, với ý nghĩ: “ Nếu anh ta vào sống ở tịnh xá thì sẽ phiền luỵ đến nhiều người. Vậy nên, ở chỗ này là phải lẽ, ta sẽ cho người kề cận hộ độ chu đáo; khi cần, anh ta có thể nhờ người dẫn đến Kỳ Viên để đảnh lễ đức Thế Tôn!”
Kể chuyện về Tế Hộ. Đến nơi, sau khi cậu cháu nhận biết được nhau, vị sa-di ở lại nửa tháng, chăm lo quán xuyến mọi việc trong ngoài, đi bát trong làng, hết lòng phụng dưỡng người cậu mắt mù. Hôm kia, thấy tiết trời có vẻ tạnh ráo, mát mẻ, quang đãng, Tế Hộ thưa:
- Cậu Cullapāla ở nhà, sốt ruột, mong đợi sư cậu lắm! Vậy, ngày mai, cháu sẽ dẫn sư cậu lên đường về quê.
Tôn giả Mahāpāla im lặng, gật đầu nhẹ.
Thế là sau khi chào từ giã dân làng, Tế Hộ vai mang y bát, tay cầm đầu gậy, dẫn tôn giả Mahāpāla cầm gốc gậy theo sau. Cứ mỗi sáng sớm, thấy đúng giờ, sa-di Tế Hộ đi bát trong vùng, mang về, sớt một nửa vào bát cho sư cậu, còn một nửa mình thọ dụng. Trời chiều tối thì họ tìm một chỗ có mái che, hang động hay tàn cây nào đó để qua đêm. Ngày lại ngày qua đi như thế, hai cậu cháu chậm rãi lên đường, không có sự cố gì xảy ra.
Hôm kia, đến một ngôi làng có tên là Kaṭṭhanagara, họ dừng chân nghỉ ngơi...
Bất chợt giọng hát xuân tình của một sơn nữ từ đâu đó vẳng lại. Sa-di Tế Hộ ngây người ra, tay rời đầu gậy hồi nào không biết. Mê mẩn tâm thần, sa-di Tế Hộ cất giọng run run: “Sư cậu đợi cháu một lát, cháu trở lại ngay”. Nói thế xong, Tế Hộ nhắm hướng chạy đến chỗ cô sơn nữ.
Lát sau, tiếng hát chấm dứt. Không biết họ đã làm gì với nhau. Tôn giả Mahāpāla suy nghĩ: “Ta vừa nghe tiếng hát luyến láy, véo von, lả lơi như gọi tình, rõ ràng là của một cô con gái nào đó tuổi đang còn xuân trẻ. Tại sao khi Tế Hộ bỏ đi một lát thì âm thanh kia lại ngưng lặng một cách khả nghi như thế?” Chợt nghĩ đến lời đức Phật dạy: “Này các tỳ-khưu! Như Lai biết chắc, là trên thế gian này, không có âm thanh nào có năng lực chiếm đoạt trái tim của người nam bằng âm thanh của người nữ”(1). Thế là Tôn giả đoán chắc, ông sa-di đã phá giới rồi!
Ngay lúc ấy, cái gốc gậy đưa đến tay tôn giả rồi một tiếng nói thoảng bên tai:
- Sư cậu, bây giờ chúng ta lên đường thôi!
Tôn giả không nắm gậy, nghiêm sắc mặt:
- Nãy giờ ông đi đâu?
- Cháu... cháu đi một chốc thôi mà!
- Mắt ta đui nhưng tâm ta sáng! Ông đang mặc y mà vừa làm điều xấu xa, hoen ố, không thể giấu ta được đâu!
- Cháu... cháu...
- Không cậu không cháu gì nữa hết. Con người ông đã dơ uế. Ta không nắm gậy của một kẻ dơ uế như ngươi!
Sa-di Tế Hộ cũng là kẻ không quen nói dối, và ông ta cũng không hề biện bác gì cho mình, lặng lẽ cởi y, chỉ quàng sơ trên mình một tấm vải rồi nói:
- Cậu trách cháu đúng, nhưng chỉ đúng một nửa. Cháu đâu có muốn xuất gia, vì thương cậu nên cháu mới xuất gia. Xuất gia để có tăng tướng chỉ để dẫn cậu về quê mà thôi. Bây giờ cháu đã xả y rồi đó, cậu nên để cháu dẫn đi!
- Không, không bao giờ ta đi cùng ngươi nữa. Cứ để mặc ta.
Tế Hộ năn nỉ:
- Còn nhiều khoảng rừng lắm thú dữ và phi nhơn, sư cậu lại mù loà, nguy hiểm lắm!
- Đừng lo cho ta. Ta sẽ lần mò từng bước một. Phi nhơn và thú dữ có thể xé xác ta, nhưng cái tâm phạm hạnh của ta thì chúng làm gì được!
Nói thế xong, xúc động chánh pháp, tôn giả lại đọc lên liên tiếp hai bài kệ:
“- Dẫu đường xa nguy hiểm
Tối tăm, đôi mắt mù
Thà thân này nằm xuống
Không đi cùng người ngu!
Dẫu đường xa nguy hiểm
Tối tăm, đôi mắt mù
Thà thân này chết gục
Không đi cùng người ngu!”(1)
Nghe qua hai bài kệ, Tế Hộ vô cùng hoảng sợ, hối hận vô cùng, cất tiếng than dài: “ Ôi! Vì đam mê nhục dục, vì bị quyến rũ nhất thời, trong cái tâm trong sáng của cậu ta, ta là kẻ xấu xa đê tiện đến như thế ư? Ta là người ngu ư?(2)” Tế Hộ ôm mặt, khóc ròng rã rồi bỏ chạy mất dạng.
Trong lúc ấy, tại cung trời Đao Lợi, Đế Thích thiên chủ thấy bảo tọa của mình nóng ran lên, ông tự nhủ: “A! Có kẻ nào dưới trần thế có dã tâm truất phế ngôi vị thiên chủ để chiếm ngai vàng của ta đây!(3) ” Nghĩ thế xong, Đế Thích dùng thiên nhãn rà soát nhân gian, và câu chuyện của hai cậu cháu tôn giả Mahāpāla hiện ra trong võng lưới của ông. “Ồ, ta phải giúp đỡ vị sa-môn phạm hạnh nầy - Đế Thích nghĩ tiếp - Nếu không, cái đầu của ta sẽ nứt bể thành bảy mảnh đấy!”
Thế rồi, giả dạng một thường nhân, Đế Thích hiện xuống ngay bên cạnh, dẫm mạnh bước chân trên đất nghe thành tiếng.
Tôn giả Mahāpāla hỏi:
- Ai đấy?
- Tôi, tôi đây! Chỉ là một khách lữ hành.
- Ra là một thiện nam. Vậy ông đi đâu đó?
- Tôi trên đường về kinh thành Sāvatthi.
- Vậy thì ông bạn cứ đi đi. Chúc đường xa mạnh giỏi.
- Cảm ơn! Thế tôn giả đi về đâu?
- Ta cũng đến nơi đó, ông bạn!
- Thế thì hay quá, chúng ta cùng chung đường. Ngài hãy đi cùng tôi cho vui.
- Mắt ta bị mù. Ta sẽ gây nhiều khó chịu, phiền phức cho ông bạn lắm, không nên đâu.
- Không sao mà! Tôi cũng là kẻ nhàn hạ, thảnh thơi, chẳng có việc gì phải gấp gáp. Vả lại, ngài biết không, sống giữa cuộc đời, thỉnh thoảng cũng nên làm một vài việc lành để nương tựa cho mai sau! Thôi, không lý sự nữa, hãy đi cùng tôi để tôi còn bòn được chút ít phước báu chứ!
“Hóa ra là một người tốt, một quý nhân rất hiểu biết, có tấm lòng lại còn có đức khiêm tốn nữa!” – Nghĩ thế xong, tôn giả đáp:
- Vậy thì tốt! Ta sẽ làm phiền thiện hữu đó! Hãy cầm lấy đầu gậy của ta.
Đế Thích cầm đầu gậy, dùng phép thâu ngắn đường, nên mới đi chưa được bao lâu, kinh thành Sāvatthi đã hiện ra. Tôn giả Mahāpāla nghiêng tai lắng nghe tiếng người cười nói lao xao, tiếng xe ngựa, xe bò, tiếng rao hàng, tiếng âm nhạc vọng ra từ đền tế... ngạc nhiên, cất tiếng hỏi:
- Những âm thanh này rất quen thuộc, chẳng lẽ chúng ta đã tới một thành phố?
- Đúng vậy, thưa tôn giả! Chúng ta đã về tới kinh thành Sāvatthi rồi đó.
- Lẽ nào như vậy được?
- Vâng, vì tôi biết một con đường tắt, thưa ngài sa-môn.
Tôn giả Mahāpāla tự nghĩ: “ Đây đúng là việc làm của một vị trời nhiều oai lực, nhưng mà người ta muốn ẩn danh!” – bèn nói:
- Vô cùng tri ân thiện hữu!
Đế Thích dẫn Mahāpāla đến tịnh thất mà trưởng giả Cullapāla làm sẵn, vào bên trong, nắm tay dìu tôn giả ngồi xuống trên nệm cỏ rồi biến mất. Đế Thích lại biến hình thành một người bạn thân của trưởng giả Cullapāla, tìm đến nhà, kêu lớn ngoài cửa:
- Cullapāla ơi! Cullapāla ơi!
- Chi vậy, ông bạn?
- Mừng cho bạn. Thế là anh em lại được trùng phùng!
- Chuyện gì?
- Hóa ra bạn chưa biết sao? Tôi vừa thấy ông sư Mahāpāla đang ngồi nơi tịnh thất của bạn đó!
Trưởng giả hay tin như thế, tức tốc bươn bả đi đến tịnh thất, nhưng ngạc nhiên, khi quay lại thì ông bạn kia đã biến đi đâu mất. Đến nơi, thấy tôn giả Mahāpāla gầy ốm, xanh xao, hai con mắt sâu đen mà không kềm chế được cảm xúc, cứ ôm chân ông anh mà khóc ròng rã.
Tôn giả Mahāpāla mỉm cười:
- Ông đã khóc xong chưa?
- Em thương sư anh quá!
- Ngược lại, ta lại thương em còn hơn thế nữa. Mắt ta mù nhưng tâm ta sáng, ta thấy đường đi lối về, còn em thì vẫn đang con mịt mù trong đêm đen sinh tử. Hãy cố gắng sống đời một cận sự hiền thiện em nhé!
- Thưa vâng! Em sẽ không làm sư anh thất vọng đâu.
- Ừ, vậy là tốt!
Im lặng một lát, tôn giả Mahāpāla kể lại chuyện Tế Hộ rồi nói:
- Vì lý do ấy, ta đã đuổi nó đi, em có phiền lòng không?
- Không! Nó đã tỏ ra không xứng đáng. Nó phải được dạy bảo nghiêm khắc hơn nữa kìa!
- Cảm ơn em!
Sau cuộc nói chuyện ấy, trưởng giả Cullapāla thu xếp cho hai thiếu niên gia nhân được xuất gia sa-di, ở bên cạnh tôn giả để chăm lo mọi sự. Ngày ngày, cả hai đi trì bình khất thực, dành một phần để dâng lên tôn giả, thì giờ còn lại, họ làm mọi việc trong ngoài như những đầy tớ trai cần mẫn nhất. Thương tình thân phận của cả hai, tôn giả Mahāpāla thường nói pháp và luật, giảng dạy nhưng bước sơ cơ cho họ tu tập. Lâu lâu, tôn giả nhờ họ dẫn đường vào Kỳ Viên tịnh xá để đảnh lễ đức Phật và vấn an sức khỏe của ngài.
Sáu mươi vị A-la-hán bạn cũ, thỉnh thoảng ghé thăm, thấy tôn giả Mahāpāla có người em quý báu, chăm lo cho như vậy cũng yên tâm.
Hôm nọ, có một nhóm tỳ-khưu phương xa đến, nghe tiếng tôn giả tu hành tinh tấn quyết đắc quả A-la-hán đến nỗi bị mù mắt nên họ dự định ghé thăm nhân vật có ý chí sắt đá ấy. Tuy nhiên, một trận mưa lớn đã tạo nên trở ngại nên họ hẹn nhau vào sáng hôm sau.
Tôn giả Mahāpāla, theo lệ thường, do tinh tấn đã trở thành thói quên nên sáng sớm tinh sương nào, ngài cũng đi kinh hành trên lối mòn xung quanh cốc. Tuy nhiên, ngài không biết là do trận mưa đêm qua đã làm cho những con mối cả đàn cả lũ rụng cánh đầy trên đất. Lại nữa, có những vũng nước ngập làm cho giun ngộp thở nên chúng cũng bò loằn ngoằn lên những đám đất khô ráo. Tôn giả của chúng ta cứ vô tư lui tới nên dẫm đạp chúng chết la liệt trên đường kinh hành. Những vị tỳ-khưu phương xa đến nhằm lúc hai sư sa-di chưa quét dọn kịp. Họ hỏi vị sa-di:
- Ai vừa đi kinh hành trên con đường này?
- Thưa, thầy của chúng tôi, tôn giả Mahāpāla!
Họ la toáng lên:
- Coi kìa!
Sự việc, sau đó được chư tăng phản ánh lại với đức Phật, ngài hỏi:
- Các ông có thấy tận mắt ông sư Mahāpāla giết những con mối và những con giun ấy không?
- Thưa, không thấy.
- Các ông không thấy như thế nào thì “con trai” của Như Lai không thấy cũng y như thế. Các bậc lậu tận không bao giờ còn tư tác, còn cố ý, chủ ý giết hại bất kỳ một chúng sanh nào. Ngoài ra, con trai của Như Lai còn để lại một bài học về phạm hạnh, tròn sáng, không tỳ vết như mảnh trăng trong giữa bầu trời quang rạng không mây!
Hội chúng yên lặng như để thấu hiểu sự xác định của đức Tôn Sư rằng, tư tác (cetanā) là nghiệp, không có tư tác không có nghiệp; lát sau có vị hỏi:
- Tôn giả Mahāpāla có nhân duyên sâu dày, có căn lành vi diệu mới đắc được đạo quả A-la-hán, nhưng tại sao còn bị quả mù mắt, bạch đức Thế Tôn?
- Nhân nào thì quả nấy, này chư tỳ-khưu!
Do đại chúng tò mò không biết nghiệp quá khứ của tôn giả Mahāpāla như thế nào nên đức Phật đã vén bức màn sinh tử như sau:
“- Vào một thuở xa xưa, có một ông y sĩ du phương, đi khắp các nơi từ thành thị đến thôn quê để hành nghề nuôi mạng. Hôm nọ, gặp một phụ nữ đau mắt, ông hỏi:
- Có phải mắt của bà chị có vấn đề phải không?
- Thưa phải! Tôi bị xốn xang, đau nhức, ngại rằng đến lúc nào đó tôi sẽ không còn thấy đường nữa.
Sau khi xem xét một hồi, vị y sĩ nói:
- Nếu tôi chữa trị lành mắt cho bà chị - thì vấn đề trả tiền công như thế nào?
Người đàn bà mau mắn nói:
- Ối, trời ơi! Nếu thầy mà chữa lành mắt cho tôi thì tôi tình nguyện đưa cả con gái đến làm tôi mọi cho thầy suốt đời.
- Được lắm! Cứ hứa thế nhé! Đừng thất hứa đó.
Nói thế xong, vị y sĩ liền bào chế tức khắc một loại thuốc nước rỏ mắt trao cho người đàn bà. Kỳ diệu làm sao, về nhà, bà chỉ cần rỏ vào mắt một lần thì mắt liền sáng, không còn xốn xang, đau nhức nữa. Bần thần, bà suy nghĩ: “ Mình đã trót hứa đem cả con gái đến nhà ông ta làm tôi đòi, nhưng e rồi sẽ không tránh khỏi bị hành hạ, ngược đãi. Chi bằng mình kiếm lời tráo trở phủ nhận chuyện ấy là xong!”
Khi vị y sĩ đến nhà thăm bệnh tình, hỏi rằng: “Mắt bà chị hôm nay ra sao?” Người đàn bà đáp: “Lúc trước thì chỉ đau sơ sơ, nhưng khi rỏ thuốc của thầy rồi thì nó đau nhức hơn thế nữa. Thầy báo hại tôi rồi!” Vị y sĩ do biết thuốc mình bào chế là thuốc thần, lại nữa, tinh mắt quan sát thì biết ngay sự tráo trở của mụ ta, bèn nghĩ: “Ta không cần tiền công của mụ, nhưng tâm địa dối láo ấy sẽ bị trổ quả, ta sẽ làm cho đôi mắt của mụ ta đui mù luôn!” Bèn nói:
“- Nếu vậy thì tôi sẽ đổi cho bà chị một loại thuốc thần diệu hơn, loại thuốc này không những mắt sáng mà còn sáng hơn mắt của người bình thường nữa”. Thế rồi, ngay tại chỗ, vị ý sĩ bào chế thuốc mới và trao cho người đàn bà với nụ cười:
“- Chịu khó rỏ vào mắt chỉ một lần thôi cũng phát sanh hiệu quả”.
Và đúng là hiệu quả thật! Sau khi người đàn bà rỏ vào mắt mình loại thuốc mới ấy - thì mắt bà liền bị tối tăm vĩnh viễn.
Này chư tỳ-khưu! Vị y sĩ thuở xưa chính là Mahāpāla hiện nay đó! Cái nghiệp ác xưa làm mù mắt người, nó cứ đeo đẳng, chạy đuổi mãi theo con trai của Như Lai từ kiếp này sang kiếp khác, cho đến tận bây giờ. Nó không chịu buông tha đâu. Nghiệp ác luôn chạy theo người làm ác giống như bánh xe luôn luôn lăn theo sau lưng con bò kéo xe vậy.
Rồi đức Thế Tôn kết thúc bằng bài kệ:
“- Các pháp, tư tác(1) dẫn đầu
Tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên
Nói, làm xấu ác, chẳng hiền
Bánh xe bò kéo, khổ liền theo sau!”(2)
(1) Nghĩa là bảo vệ, hộ trì, che chở.
(1) Chỗ nào cĩng nói rỏ vào mũi, không phải vào mắt?!
(1) Aṅguttara Nikāya I: “Nāhaṃ bhikkhave aññaṃ ekasaddampi samanupassāmi yo evaṃ purisassa cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati yathayidaṃ bhikkhave ithīsaddoti”.
(1) Pāḷi: Handāhaṃ hatacakkhusmi, kantāraddhānamāgato, sayamāno na gacchāmi, natthi bāle sahāyatā. Handānaṃ hatacakkhusmi, kantāraddhānamāgato, marissāmi no gamissāmi, natthi bāle sahāyatā.
(2) Người “ngu” theo thuật ngữ kinh điển, khác nghĩ với tính từ ngu bây giờ. Phàm cái gì tốt đẹp, lành, hiền thiện được gọi là người trí - ngược lại các đức tính ấy gọi là người ngu!
(3) Ý nói cái tâm giữ gìn phạm hạnh của vị đại đức Mahāpāla vượt trội phước báu của Đế Thích thiên chủ. Dĩ nhiên, đúng là vậy rồi; nhưng ngay chính quả vị thiên chủ cao quý kia, đối với một bậc vô lậu – thì nó chẳng khác gì đống phân, hầm bệnh!
(1) Theo Abhidhamma thì ý (mano), thức (viññāṇa), tâm (citta)... đồng nghĩa; nhưng tôi chọn dịch là tư tác (cetanā) – vì tư tác mới là nghiệp. Từ trước đến nay, nhiều nơi bảo tác ý (manasikāra) là nghiệp; không phải vậy, tác ý mới chỉ là hướng tâm, như bánh lái của chiếc thuyền. Trong 7 biến hành tâm sở (Duy Thức chỉ có 5): Xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư, nhất tâm, mạng căn – thì chính tư (tư tác-cetanā) mới quan trọng, mới tạo nghiệp; sau đó, các lộ trình tâm mới khởi theo – chúng đồng khởi. Tuy nhiên, nếu dịch là tâm hay ý đều không sai, vì ý, tâm, tư tác - được coi là tâm - và các pháp (dhammā), hai từ đầu trong câu kệ, chính là những tâm sở (theo chú giải).
(2) Pháp cú I: Manopubbaṅgamā dhammā, manoseṭṭhā manomayā, manasā ce paduṭṭhena, bhāsati vā karoti vā, tato naṃ dukkhamanveti, cakkaṃ’vā vahato padaṃ (Kinh lời vàng).