Ông Nguyễn
Hiền Đức là Nhà
Nghiên cứu Sử
Phật Giáo đã từng
cộng tác với Báo Giáo Ngộ và viết những bài sưu khảo có
giá trị. Hôm nay, ông đã
hoàn thành được
tác phẩm “Lịch Sử
Phật Giáo Đàng Ngoài: 1593-1802” và gởi tặng tôi, xin
ý kiến. Tôi
nhận thấy đây là một
công trình sưu tập
công phu, có
giá trị. Tôi
hoan hỷ giới thiệu đến tất cả
mọi người muốn
tìm hiểu lịch sử Phật giáo để
hiểu biết thêm về những điều cần biết trên bước đường thăng hoa
tri thức.
Mùa An Cư, Phật lịch 2543-1999
HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ QUẢNG
TRƯỞNG BAN
HOẰNG PHÁP TRUNG ƯƠNG
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
LỜI MỞ ĐẦU
Bộ sách “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” bắt đầu được biên soạn từ năm 1979, sau nhiều năm nghiên cứu tài liệu, đi đến các chùa cổ, các di tích lịch sử trong khắp cả nước, bản thảo bộ sách hoàn thành bước đầu vào năm 1992, gồm bảy quyển với hơn 5.000 trang:
1. Lịch sử Phật giáo Việt Nam (từ thời Du nhập đến đời Lý).
2. Lịch sử Phật giáo Việt Nam: thời Nhà Trần (1225- 1400).
3. Lịch sử Phật giáo Việt Nam: thời Nhà Hồ - Lê - Mạc (1400-1592).
4. Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài (1593-1802).
5. Lịch sử Phật giáo Đàng Trong (1558-1802).
6. Lịch sử Phật giáo Việt Nam: thời Nhà Nguyễn (1802-1945).
7. Lịch sử Phật giáo Việt Nam: thời Hiện đại (1945- 1992).
Năm 1993, bắt đầu xin phép xuất bản quyển “Lịch sử Phật giáo Đàng Trong”. Sau nhiều trở ngại, khó khăn, đến đầu năm 1995, sách mới được xuất bản nhờ sự giúp đỡ của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ban Tôn giáo Chính phủ và Cục Xuất bản.
Đến nay (năm 1999), bộ Lịch Sử Phật giáo Việt Nam lại được in tiếp, với quyển “Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài “ (1593 - 1802). - 7 - Nhân đây, chúng tôi trân trọng chân thành tri ân sự giúp đỡ của Nhà Xuất bản Tôn giáo, Cục Xuất bản, Nhà Xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, chúng tôi cũng không quên ơn các bậc tiền bối về Lịch sử Phật giáo Việt Nam: Ông Trần Văn Giáp, Thượng tọa Mật Thể, Tiến sĩ Lê Mạnh Thát, …
Chúng tôi chân thành cảm tạ sự giúp đỡ nhiệt tình của Đại đức Nhật Từ, Đại đức Thông Thiền, Đại đức Chơn Quang, học giả Lý Việt Dũng, cùng các vị trụ trì các chùa khắp trong nước mà chúng tôi đã đến nghiên cứu. Mặc dù đã cố gắng hết sức mình với sự cẩn trọng tối đa trong việc nghiên cứu và biên soạn, nhưng quyễn sách này khó có thể tránh được những thiếu sót hoặc lầm lẫn do hạn chế nhiều mặt của tác giả, cũng như vì tài liệu về lịch sử Phật giáo Việt Nam vốn đã ít, lại chưa được sưu tập đầy đủ. Vì vậy, kính mong các bậc tiền bối, các thiện tri thức và các học giả niệm thứ , giúp thêm tài liệu, ý kiến để biên soạn lại hoàn hảo hơn trong kỳ tái bản. Hy vọng qua quyển “Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài “ này, cũng như quyển “Lịch sử Phật giáo Đàng Trong “ trước đây, độc giả có được những nhận định mới tốt đẹp hơn và thấy được những tinh hoa của Phật giáo Việt Nam, để cùng góp sức khôi phục lại giá trị chân thực, sự phong phú và sự thâm sâu của Phật giáo Việt Nam vốn đã bị mai một và mờ nhạt trong thế kỷ qua. Đồng thời, cũng hy vọng là trong thế kỷ XXI, Phật giáo Việt Nam được phục hưng và phát triển rực rỡ như thời Lý - Trần, góp phần trong việc giáo hóa chúng sinh đem lại hòa bình, thanh tịnh và an lạc cho đất nước, cho thế giới và cõi Ta bà giả tạm này.
Mùa Phật Đản năm Kỷ Mão (1999)
NGUYỄN HIỀN ĐỨC
LỜI DẪN NHẬP
Trước đây, một số sách cho rằng Phật giáo du nhập vào Việt Nam vào đầu kỷ nguyên Dương lịch nhưng qua sự tích “Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung”, chúng ta thấy rằng có thể Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam ngay từ thời Hùng Vương. Sau đó Phật giáo bắt đầu phát triển vào thế kỷ đầu kỷ nguyên Dương lịch với sự tích “Công chúa Bát Nàn” đi tu ở chùa Tiên La vào thời Trưng Vương (năm 40-43), truyện “Man Nương” với Tăng sĩ Khâu Đà La ở chùa Dâu (chùa Pháp Vân) vào thời Sĩ Nhiếp cai trị Giao Châu (năm 187-226). Tiếp theo đó, Phật giáo Việt Nam phát triển hưng thịnh từ cuối thế kỷ II, III với sự xuất hiện Trung tâm Phật giáo Liên Lâu (Luy Lâu).
Trung tâm Phật giáo Liên Lâu ở
Việt Nam phát triển cùng thời với
Trung tâm Phật giáo Lạc Dương và
Trung tâm Phật giáo Bành Thành của
Trung Quốc, nhiều tăng sĩ ngoại quốc,
đa số là các tăng sĩ của các nước
Thiên Trúc (
Ấn Độ) dừng chân ở Giao
Châu hoằng hóa một
thời gian trước khi qua
Trung Quốc.
Ngoài ra, vào cuối thời Đông Hán (25-220), chiến tranh,
loạn lạc xảy ra khắp nước Trung Hoa, nhất là vùng kinh đô
Lạc Dương, khiến cho một số
nhà trí thức và tăng sĩ ở đó, gồm cả người Trung Hoa và người ngoại quốc (
Ấn Độ,
Nhục Chi, Khương Cư…) đã phải chạy tản cư sang tị nạn ở Giao Châu.
Vì vậy Trung tâm Phật giáo Liên Lâu phát triển và hưng thịnh với nhiều nhà
Phật học và tăng sĩ
nổi tiếng như: Mâu Bác,
Ma Ha Kỳ Vực,
Chi Cương Lương Lâu,
Khương Tăng Hội,
Hàn Lâm, Bì Nghiệp, Trần Tuệ, Đạo Thanh, Đạo Cao, Pháp Minh… có thể
Khương Tăng Hội đã
thành lập phái thiền
Liên Hoa ở Liên Lâu thời đó . Vào thế kỷ V, trước khi
Sơ Tổ Thiền tông Trung Hoa là
Bồ Đề Đạt Ma đến Trung - 9 - Quốc (năm 520), ở Giao Châu đã có nhiều tăng sĩ hoằng hóa
nổi tiếng như
Đàm Hoằng, Huệ Thắng, Thích Đạo Thiền… Sau khi
Thiền tông phát triển ở Trung Hoa,
đệ tử của
Tổ Tăng Xán (Tổ thứ ba) là
Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã sang
Việt Nam khai sáng phái thiền
Tỳ Ni Đa Lưu Chi và
tiếp theo đó,
Thiền sư Vô Ngôn Thông cũng từ
Trung Quốc sang
Việt Nam hoằng hóa,
thành lập phái thiền
Vô Ngôn Thông. Các phái thiền ở
Việt Nam thời đó: Phái
Liên Hoa, phái
Tỳ Ni Đa Lưu Chi, phái
Vô Ngôn Thông phát triển mạnh với các
Thiền sư Nam Dương (
Thần Hội),
Định Không, Thông Thiện,
La Quí,
Vô Ngại,
Pháp Thuận,
Cảm Thành,
Thiện Hội,
Vân Phong, Chân Lưu (
Quốc sư Khuông Việt)… Vua Lý
Thái Tổ khai sáng
triều đại nhà Lý, đã được
tu học ở các chùa từ nhỏ và
lên ngôi với sự giúp đỡ của
Thiền sư Vạn Hạnh,
Đa Bảo … nên các vua nhà Lý đều sùng
mộ đạo Phật và
hết lòng hộ trì Phật pháp. Vào thời nhà Lý (1010-1225), ngoài các phái thiền trên,
Thiền sư Thảo Đường (thuộc phái
Vân Môn của
Trung Quốc)
thành lập thêm phái thiền
Thảo Đường. Các phái thiền
Liên Hoa,
Tỳ Ni Đa Lưu Chi,
Vô Ngôn Thông và
Thảo Đường phát triển
rực rỡ vào
thời đại nhà Lý và đầu
thời đại nhà Trần.
Vào đầu thế kỷ thứ XIII,
truyền thống phái thiền ở núi
Yên Tử đã manh nha với
Thiền sư Hiện Quang,
Quốc sư Phù Vân,
Thiền sư Tiêu Dao, vua
Trần Thái Tông,
Thượng sĩ Tuệ Trung… Sau khi
xuất gia (năm 1299), với
pháp hiệu là Hương Vân Đại
Đầu Đà, hay
Trúc Lâm Đầu Đà, Thượng hoàng
Trần Nhân Tông đã
kết hợp các phái thiền
Liên Hoa,
Tỳ Ni Đa Lưu Chi,
Vô Ngôn Thông,
Thảo Đường và
sơn môn Yên Tử để
thành lập nên phái thiền
Trúc Lâm, đặc trưng của
Thiền tông Đại Việt.
Phái thiền
Trúc Lâm phát triển mạnh với
quan niệm “tu nhập thế”, vừa tu vừa hòa nhập trong
cuộc đời để
phổ độ chúng sinh; theo
truyền thống của
Lục Tổ Huệ Năng,
tu thiền trong “tứ oai nghi”, vừa
hoạt động trong cuộc sống
xã hội, vừa
tu thiền, vừa hoằng truyền
Phật pháp. Phái thiền - 10 -
Trúc Lâm phát triển khắp nước, các buổi
thuyết pháp được tổ chức ở nhiều chùa.
Trúc Lâm Đầu Đà vân du khắp nước, vừa
bài trừ mê tín dị đoan, vừa phổ truyền
Phật pháp, giảng dạy về
Thiền học. Theo ý chỉ của
Điều Ngự Giác Hoàng,
Tôn giả Pháp Loa đã đứng ra tổ chức khắc bản in bộ
Đại Tạng kinh với hơn 5.000 quyển, trong đó gồm luôn cả một số sách của các
Thiền sư Việt Nam. Phái thiền
Trúc Lâm nổi tiếng vào thời ba vị Tổ đầu tiên:
Trúc Lâm,
Pháp Loa,
Huyền Quang và các
Thiền sư Thạch Lâu,
Thạch Đầu,
Đạo Tiềm, Ngu Ông,
Vô Sở,
Liễu Minh,
Huyền Sách,
Thiên Nhiên, Tông Cảnh, Phả Trắc, Hương Tràng,
Pháp Đăng,
Pháp Không … Bảo Phác,
Bảo Sát và các vua
Trần Thái Tông, Thánh Tông, Minh Tông cùng các
cư sĩ Vô Sơn Ông, Nguyên Ức, Nguyễn Sưởng …
Sau khi nhà Minh đô hộ
Việt Nam (1407-1427) và nhà Hậu Lê
lên ngôi (1428-1527)
Phật giáo bị suy hoại, phái thiền
Trúc Lâm bị mất dấu, không còn thấy
truyền thừa. Vào thời nhà Mạc (1527-1592)
Phật giáo mới được
phục hưng chút ít vì còn chịu
ảnh hưởng đến chiến tranh. Đến thế kỷ XVII,
Thiền sư Minh Châu-Hương Hải mới
xuất hiện với
danh nghĩa của phái thiền
Trúc Lâm và đã ra sức
phục hưng phái thiền này.
Ngoài ra,
Hòa thượng Chuyết Công cùng
đệ tử là
Thiền sư Minh Hành-Tại Tại của phái
thiền Lâm Tế của Trung Hoa sang Đàng Ngoài hoằng hóa đã
tiếp thu thêm
tinh hoa của phái thiền
Trúc Lâm, và hai phái thiền Trúc Lâm-Lâm Tế ở Đàng Ngoài gần như sát nhập vào nhau. Đến thời
Thiền sư Chân Nguyên và các
Thiền sư Chân Hiền,
Chân Như, Chân Hỉ, Chân Tuệ, Chân An … ở Đàng Ngoài, hai phái thiền này
trở thành như thuộc
truyền thống Trúc Lâm-Yên Tử và
tiếp tục truyền thừa hưng thịnh
cho đến thời nhà Nguyễn.
TÓC TIÊN NĂM 2000
NGUYỄN HIỀN ĐỨC
MỤC LỤC
-Tổng Quan
Phật Giáo Đàng Ngoài (1593-1802)
- Chương I:
Truyền Thống Trúc Lâm -
Yên Tử - Chương II:
Hòa Thượng Chuyết Công Với Phái
Thiền Lâm Tế Ở Đàng Ngoài.
- Chương III :
Tổ Sư Hương Hải Với Phái Thiền
Trúc Lâm Ở Đàng Ngoài.
- Chương IV :
Thiền Sư Chân Nguyên Với Sự Song Hành Của Hai Phái Thiền Trúc Lâm-lâm Tế.
- Chương V: Phái Thiền
Tào Động Ở Đàng Ngoài.
- Chương VI:
Thiền Sư Lân Giác Với Phái
Liên Tông.
- Chương VII : Các
Tỳ Kheo Ni Ở Đàng Ngoài.
- Chương VIII:Các Chúa Trịnh Và Vua Lê Với
Phật Giáo Đàng Ngoài.
- Chương IX: Các
Công Trình Trùng Tu Chùa Cổ Ở Đàng Ngoài.
- Chương X:
Phật Giáo Đàng Ngoài Thời Tây Sơn.
- Chương XI:
Thiền Sư Hải Lượng Với
Thiền Viện Trúc Lâm.
- Chương XII:
Ảnh Hưởng Phật Giáo Trong
Văn Học Bắc Ha