Trong sách Dân quyền sơ bộ (Bước đầu dân quyền), ông Tôn Trung Sơn định nghĩa về hội nghị như sau: “Nói chung, khi nghiên cứusự lý rồi theo đó mà giải quyết, tự một mình mình thì gọi là độc tư, hai người với nhau thì gọi là đối thoại, ba người trở lên tuân theo những nguyên tắc nhất định, thì gọi đó là hội nghị”. Nói một cách đơn giản, hội nghị chính là việc hội họp từ ba người trở lên, tuân theo một số quy tắc, cùng nghiên cứusự lý, khai thông, làm cầu nối hữu hiệu, đạt đượcthỏa thuận, giải quyếtvấn đề, dựa vào việc thu thập nhiều ý kiến hữu ích, nhờ đó phát huy được trí tuệ và sức mạnh của tập thể.
Phương thức hội nghị chú trọng đến trật tự, chương trình và các quy định. Từ rất sớm, vào thời đại của Đức Phật, phương thức này đã được thực hiện. Căn cứ ghi chép trong kinh Trung A-hàm, Đức Phật nêu ra một trong những điều kiện làm giàu mạnh, an vui cho một quốc gia chính là “thường ngồi lại với nhau, cùng bàn bạc chính sự”, đủ thấy Đức Phật coi trọng hội nghị. Chẳng những thế, Đức Phật còn chế định trình tự và các quy định cho Tăng đoàn. Hội nghị Tăng-già có thể nói chính là ông tổ của hội nghịdân chủ ngày nay, hình thức của nó có thể lược chia làm bốn loại sau:
Thứ nhất, bố-tát: Tăng đoàn mỗi nửa tháng một lần đều cử hành lễ bố-tát, thỉnh một vị Tỳ-kheo thuộc rõ giới pháp đến tại trú xứ để thuyết giới; hễ đã thuộc Tăng chúng cùng cư trú trong một khu vực nhất định thì đều có nghĩa vụ tham giahội nghị bố-tát. Nếu do bệnh hoặc có những lý do quan trọng khác không thể dự họp hội nghị, một Tỳ-kheo nhất định phải xin phép vắng mặt đúng pháp trước khi cuộc bố-tát xảy ra, đồng thời nhờ Tỳ-kheo ở chung trình bày sự việc trước đại chúng giúp, mọi nghị quyết tăng sự được thông qua trong đại hội bố-tát, người vắng mặt phải tán đồng vô điều kiện. Trong mỗi nửa tháng, nếu có Tỳ-kheo nào vi phạmgiới luật, sau khi Tỳ-kheo ấy đã tự nêu rõ lỗi của mình và sám hốitrước mặtđại chúng thì Tăng đoàn không được tiếp tục dị nghị bàn tán chuyện thị phi của đương sự.
Thứ hai, yết-ma: Phương pháphội nghị mà Tăng đoànsử dụng để giải quyết các việc của Tăng cũng như các việc thọ giới, thuyết giới, sám hối, kết giới. Có ba loại yết- ma: Đơn bạch yết-ma, Bạch nhị yết-ma, và Bạch tứ yết- ma. [Đơn bạch yết-ma để giải quyết những vấn đề đơn giản, chỉ cần một lần nêu vấn đề để Tăng chúng cùng biết là đủ. Bạch nhị yết-ma để giải quyết những vấn đề quan trọng, gồm một lần nêu vấn đề và một lần hỏi lại để Tăng chúngbiểu quyết. Bạch tứ yết ma để giải quyết những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, gồm một lần nêu vấn đề và ba lần biểu quyết]. Yết-ma của Tăng đoàn giống như phương pháptam độc(1) trong hội nghịhiện đại, phát huy tinh thầndân chủ cao độ, lấy ý kiếnđại chúng và sức mạnhgiải quyếtthỏa đáng các việc trong Tăng đoàn, thành tựuđời sốnglục hòa kính.
Thứ ba, diệt tránh: Nhằm giải quyết các sự kiệntranh luận giữa Tăng chúng trong phạm vigiới luật, Đức Phật chế định bảy pháp diệt tránh, nghĩa là bảy phương phápdập tắt mọi tranh chấp trong tập thể. Bảy phương pháp này gồm có: Hiện tiền tỳ-ni, Ức niệm tỳ-ni, Bất si tỳ-ni, Tự ngôn tỳ-ni, Đa nhân mích tội tỳ- ni, Tội xứ sở tỳ-ni, Như thảo phú địa tỳ-ni. Bảy phương pháp này lấy nguyên tắc công bằng và ôn hòa để xử lý các sự tranh chấp lớn nhỏ, không chỉ bảo vệ quyền lợicá nhân mà còn quan tâm tới cả tình, lý, và pháp, khiến Tăng đoànđạt đượcthanh tịnh hòa lạc.
Thứ tư, thuyết pháp: Sau khi Đức Phậtthành đạo, trú tại thế gian thuyết pháp 45 năm, từ những ghi chép trong kinh điểnPhật giáo có thể biết, sự truyền bá của Phật giáovô cùng coi trọng nhận thức tập thể. Ví dụ, dười thời Đức Phậtthuyết pháp, có lúc Ngài dùng phương thức hỏi lại các vị đệ tử để giúp thính chúng hiểu chỗ quan trọng; có lúc thông qua căn cơ đối tượng để chất vấn, tùy theotrường hợp để làm sáng tỏ những điều còn nghi ngờ… Vì vậy, hội trường thuyết pháp của Phật giáo y hệt hội thảo học thuật, thông qua phương thức vấn đáp qua lại, tăng trưởngtrí tuệ; trong hội nghị ấy Đức Phật chính là người chủ trì khéo nắm bắt bầu không khí hội trường và căn cơtâm niệm của các thành viên trong hội nghị.
Ngoài ra, bản thân kinh Phật chính là biên bảnhội nghịvô cùng hoàn chỉnh, thường phân làm “Tự phần” (phần tựa), “Chánh tông phần” (phần Chánh tông), “Lưu thông phần” (phần Lưu thông). Phần tựa lại có “lục thành tựu”(2), so với kết cấu biên bảnhội nghịhiện đại tuy có khác nhau nhưng lại cùng một ý nghĩa.
Sau khi Đức Phậtnhập diệt, Tăng đoàntuân theophương pháphội nghị mà Đức Phật đã chế định, đồng thờiphối hợp nhu cầu diễn tiến của thời đại, dần dần phát triển ra nhiều loại hội nghị khác nhau. Không chỉ triệu tập nội trong Tăng đoànhội nghị, đạt tới nhận thức chung, mà còn mở rộng tổ chức hội nghị giữa Tăng và tục, tứ chúngđệ tử đều được tham dự. Sau đây lược nêu bốn loại:
Thứ nhất,kết tập: Sau khi Đức Phậtnhập diệt, các vị đệ tử Phật muốn làm cho Chánh pháptrường tồn, lần lượt tổ chức hội nghịkết tập kinh điển qua bốn lần, thông qua sự xét duyệt của đại chúng, kinh điểnPhật giáo mới có thể hoàn chỉnh, lại có hậu thếlưu truyền một cách có hệ thống. Có thể thấy rằng, dù cho Đức Phật không còn trụ ở thế gian này nữa, hội nghị của Phật giáo vẫn được tiếp tục tiến hành, áp dụng các nguyên tắc quyết nghị đại chúng.
Thứ hai, truyền giới: Ý nói nghi thứctruyền giới pháp cho hàng Tăng Nixuất gia hoặc cư sĩtại gia. Theo trình tự thọ giới là giảng giới, diễn lễ, thỉnh giới, sám ma, chánh thọ… Lúc chánh thọ, Hòa thượng yết-ma giảng giảiý nghĩathọ trìgiới pháp, và thực hiện ba lần yết- ma, lần lượt hỏi: “Tận hình thọ năng trì phủ?” (trong cuộc đời còn lại của con, có thể gìn giữ được không?), người thọ giới đáp “y giáo phụng hành”, bắt đầu thệ ướcthọ giới. Từ đây đủ thấy quá trình truyền giới rất nghiêm cẩnthận trọng, cũng như thái độcẩn thận của Phật giáo đối với các nghị quyếttrọng đại.
Thứ ba, biện kinh: Kể từ lúc đạo Phật còn ở Ấn Độ đã thấy tín đồPhật giáothường xuyên lấy hình thứchội nghịbiện luận để nêu ra các luận đề, tiếp nhận chất vấn, phản bác…, nhờ đó tăng thêm sự nhận biếtchính xác và năng lựctư duy. Qua hình thức này, các tín đồPhật giáo có cơ hội cùng nhau trau dồi, bàn bạc nghiên cứu, tìm tòihọc hỏi cái hay, sửa chữa khuyết điểm của mình, truy cầu chân lý, đúng như người ta thường nói “chân lý càng biện luận càng rõ ràng”.
Thứ tư, dịch kinh: Phật giáo từ Ấn Độ truyền rộng ra đến các nước khác trên thế giới, chủ yếu dựa vào việc lưu thôngphiên dịchkinh điển. Sự nghiệpphiên dịchTrung Quốc cổ đại, phần lớn do triều đình hộ trì, xây dựng viện dịch kinh, và đồng thờithiết lập các chức vụ khác nhau. Căn cứ Phật tổ thống kỷ, quyển 43 ghi chép, trong dịch trường (nơi phiên dịchkinh điển) có chín chức vụ được thiết lập như dịch chủ, chứng văn, thư tự phạn học tăng, bút thọ, chuyết văn, nhuận văn, chứng nghĩa, tham dịch, và san định. Thông thường, trong quá trình phiên dịch, sẽ gặp một vài vấn đề, như cắt bỏ hoặc bổ sung văn pháp khác nhau, những lời lặp lại, những lời dùng để chú thích, những lời thêm vào cho rõ nghĩa, đều cần phảithảo luận với những người trong hội dịch thuật, sau khi đạt đượcnhận thức chung, mới có thể tiến hành công việc phiên dịch. Tổ chức hội nghịphiên dịch, phát huy đầy đủ tối đa tinh thầnsáng tác tập thể và các chức năngPhật giáo.
Theo diễn tiến trào lưu thời đại, mọi việc trong xã hội ngày nay, đều được coi trọng công khai, công chính, và công bằng. Kế thừaý tưởngtôn trọng ý dân của Đức Phật, Phật giáophối hợp nhu cầu thời đại, tiến hành tổ chức các hình thứchội nghịhiện đại, hoặc tập hợp nhân sĩ giáo giới cùng nhau nghiên cứuthảo luậngiáo nghĩaPhật giáo hoặc phương châm hoằng bá giáo pháp. Sau này, Phật giáo vẫn cần thông qua việc tổ chức các hội nghị, đồng thời không phân chủng tộc, vùng miền, tông phái, mọi ngườidựa vào sự tôn trọngbao dung, hoan hỷdung hòa, để các đại biểu đến từ các khu vực quốc gia trên toàn cầu, có thể cùng nhau trao đổi, nghiên cứu, xây dựngnhận thức chung. Nếu mọi người đều có tâm thái bao dungrộng lượng, bình đẳng, dựa vào trình tự nghị sự, trao đổi cởi mở, thảo luậnrộng rãi, nhiều vấn đềhóc búa, nan giải ắt có thể giải quyết một cách vẹn toàn, tăng thêm sự an lạc hòa bình cho toàn thế giới. •
Nguồn: Phật giáo và thế tục, in trong bộ sách Phật học giáo khoa thư của Đại sưTinh Vân, NXB. Từ Thư Thượng Hải, năm 2008, trang 38 -42
Chú thích:
Là ba trình tự phải trải qua trong nghị án xem xét và lập pháp nghị viện quốc giaTây phương. Nó có nguồn gốc từ nước Anh: three readings. Sau này nhiều quốc giamô phỏnghình thức này. Tam độc, là âm Hán Việt, nghĩa là ba lần đọc. Đọc lần thứ nhất thường chỉ tuyên đọc đầu đề và nội dung chính của bản nghị án, và sau đó tiến hành đăng ký nghị án, giao nộp cho ban liên quan thẩm tra; đọc lần thứ hai thì đọc toàn văn của bản nghị án, và nói rõ kết quả thẩm tra của ban liên quan, tiến hành đại hộitranh luận, nói rõ từng điều được xem xétđồng thời nêu ra ý kiến chỉnh sửa; đọc lần thứ ba trên nguyên tắc chỉ tiến hành sửa đổi lời văn, và chính thức tiến hành biểu quyết.
Chỉ thời thuyết pháp của Phật đà cần có đủ sáu điều kiện mới được thành tựu, gồm: Như vầy (Tín thành tựu), tôi nghe (văn thành tựu), nhất thời (thời thành tựu), Phật (chủ thành tựu), tại một nơi nào đó (xứ thành tựu), và tập hợp đủ thành phần (chúng thành tựu).
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát
Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN
Một đồng.. giữa lúc nguy nan
Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình..
Bão giông tan tác quê mình..
Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia....
Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :
Một hình chụp văn bản lan truyền qua mạng xã hội hôm 12 Tháng Tám được cho là thư thông báo rời bỏ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (giáo hội quốc doanh) của Thượng Tọa Thích Minh Đạo, trụ trì tu viện Minh Đạo ở thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.