- Giải Thích Tên Kinh
- Phẩm Tựa Thứ Nhất
- Phẩm Phương Tiện Thứ Hai
- Phẩm Thí Dụ Thứ Ba
- Phẩm Tin Hiểu Thứ Tư
- Phẩm Dược Thảo Dụ Thứ Năm
- Phẩm Thọ Ký Thứ Sáu
- Phẩm Hóa Thành Dụ Thứ Bảy
- Phẩm Thọ Ký Cho Năm Trăm Vị Đệ Tử Thứ Tám
- Phẩm Thọ Ký Cho Bậc Hữu Học Và Vô Học Thứ Chín
- Phẩm Pháp Sư Thứ Mười
- Phẩm Thấy Bảo Tháp Thứ Mười Một
- Phẩm Đề Bà Đạt Đa Thứ Mười Hai
- Phẩm Khuyên Trì Thứ Mười Ba
- Phẩm An Lạc Hạnh Thứ Mười Bốn
- Phẩm Từ Dưới Đất Vọt Lên Thứ Mười Lăm
- Phẩm Thọ Lượng Của Như Lai Thứ Mười Sáu
- Phẩm Phân Biệt Công Đức Thứ Mười Bảy
- Phẩm Tùy Hỷ Công Đức Thứ Mười Tám
- Phẩm Công Đức Pháp Sư Thứ Mười Chín
- Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh Thứ Hai Mươi
- Phẩm Thần Lực Của Như Lai Thứ Hai Mươi Mốt
- Phẩm Chúc Lũy Thứ Hai Mươi Hai
- Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Dược Vương Thứ Hai Mươi Ba
- Phẩm Bồ Tát Diệu Âm Thứ Hai Mươi Bốn
- Phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm Thứ Hai Mươi Lăm
- Phẩm Đà La Ni Thứ Hai Mươi Sáu
- Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Vua Diệu Trang Nghiêm Thứ Hai Mươi Bảy
- Phẩm Khuyến Phát Của Bồ Tát Phổ Hiền Thứ Hai Mươi Tám
Giảng Giải: Hoà Thượng Tuyên Hoá
Hán dịch: Ngài Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có hai
mươi tám phẩm, thứ nhất là phẩm tựa ; tường thuật nhân duyên của Kinh văn. Bổn
lai tất cả Kinh văn, phẩm đầu tiên không gọi là phẩm tựa, nhưng chỉ có bộ Kinh
Pháp Hoa này, dùng phẩm thứ nhất làm phẩm tựa.
Tôi nghe như vầy.
"Tôi nghe" là nghe (văn) thành tựu, "tôi" là ai ? Tôi gồm
có cái tôi giả, và thần ngã của ngoại đạo. Cái "tôi" này là tôi giả, chẳng
phải tôi thật. Sao lại nói "tôi nghe" mà không nói "tai
nghe" ? Vì lỗ tai chỉ là một bộ phận của thân thể, chẳng phải gọi chung cho
toàn thân thể. Cho nên Ngài A Nan nói "Tôi nghe".
"Như vầy" là tin thành tựu. Pháp như vầy mới có thể tin, chẳng phải
pháp như vầy, thì không thể tin. "Tôi nghe như vầy" có nhiều ý nghĩa
:
1. Dứt lòng nghi của đại chúng : Khi Ngài A Nan kết tập Kinh điển, ban đầu lên
pháp tòa, tướng tốt trang nghiêm như đức Phật, do đó đại chúng khởi lên ba điều
nghi.
Điều nghi thứ nhất là : Các vị đại A La Hán trong pháp hội, cho rằng Đức Phật
chưa vào Niết Bàn, còn đến giảng Kinh thuyết pháp.
Điều nghi thứ hai là : Đại chúng cho rằng, vị Phật này từ phương khác đến.
Điều nghi thứ ba là : Đại chúng nghi ngờ cho rằng Ngài A Nan đã thành Phật, nếu
không sao Ngài lại có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp của đức Phật, nhưng
khi Ngài A Nan lên pháp tòa, nói "Tôi nghe như vầy", thì lập tức cả đại
chúng chẳng còn hoài nghi gì nữa. Tất cả đại chúng đều biết Ngài A Nan đang nói
:"Pháp như vầy là tôi A Nan thân tự nghe được những gì Đức Phật nói, chứ
chẳng phải tôi tự tạo ra".
2. Tôn trọng sự phó chúc của Phật. Khi Đức Phật vào Niết Bàn, thì phó chúc cho
Ngài A Nan :"Khi bắt đầu tất cả Kinh điển đều nên dùng "Tôi nghe như
vầy". Vì tôn trọng sự chỉ thị của đức Phật, cho nên khi kết tập Kinh điển,
thì Ngài A Nan trước hết nói "Tôi nghe như vầy", bốn chữ.
3. Dứt tranh luận. Ngài A Nan là đệ tử trẻ của đức Phật. Nếu Ngài không nói rõ
bộ Kinh này, do Ngài nghe Đức Phật nói chứ chẳng phải mình nói, thì trong đại
chúng nhất định sẽ khởi tranh luận :"Ngài có thể nói, tôi cũng có thể nói
!" Mọi người nhất định sẽ khởi sự luận nghị, song, khi Ngài A Nan nói bộ
Kinh này do đức Phật nói, thì lập tức đại chúng dứt tranh luận và sự bất bình.
4. Khác với ngoại đạo. Ngoại đạo dùng hai chữ "A Ưu" để bắt đầu Kinh
điển của họ, "A" là không, "Ưu" là có. Vì ngoại đạo nói tất
cả vạn pháp chẳng phải có thì là không, chẳng phải không tức là có. Kinh điển
của Phật nói, dùng :"Tôi nghe như vầy", để bắt đầu Kinh điển, để khác
với ngoại đạo.
Khi Đức Phật sắp vào Niết Bàn, thì Ngài A Nan hỏi Đức Phật bốn việc : Sau khi Đức
Phật nhập diệt thì :
a. Khi kết tập Kinh điển dùng chữ gì bắt đầu Kinh điển, để khiến cho mọi người đều
tin là Phật nói ?
b. Sau này về phương pháp tu hành y theo pháp gì mà trụ ?
c. Sau này chúng con nương ai làm thầy ?
d. Những Tỳ Kheo ác tính, chúng con đối xử với họ ra sao ?
Đức Phật trả lời :
Thứ nhất : Khi kết tập Kinh điển, thì trước hết Kinh bắt đầu câu :"Tôi
nghe như vầy".
Thứ hai : Y theo tứ niệm xứ mà trụ.Tứ niệm xứ là thân, thọ, tâm, pháp.
1. Quán thân bất tịnh : Thân thể của chúng ta dù tắm rửa rất sạch sẽ, cũng có mồ
hôi chảy ra, nếu không tắm thì thối không chịu nổi ! Trên thân có chín lỗ
thường tiết ra thứ bất tịnh : Ghèn, nước mắt, nước mũi, cứt ráy, đàm, đại tiện,
tiểu tiện .v.v., luôn luôn tiết ra chất dơ bẩn. Cho nên phải quán thân bất
tịnh. Người nhiều tham dục thì hãy dùng quán bất tịnh để đối trị, quán nam nữ
dù đẹp cũng là dơ bẩn không sạch, tức nhiên không sạch, lại có gì để tham luyến
? Biết không sạch thì sẽ chẳng tham trước, chẳng còn tâm dâm dục.
2. Quán thọ là khổ : Thọ là lãnh thọ, bất cứ cảnh giới thiện ác, thuận nghịch
gì hiện tiền, bạn lãnh thọ thì tâm của bạn sẽ giao động. Có giao động thì là
khổ. Tất cả sự tiếp thọ, chịu đựng mọi cảnh giới đều là khổ. Nếu bạn biết nó là
khổ, thì chẳng tham hưởng thụ, cầu dục lạc, như thế thì sẽ đoạn diệt khổ.
3. Quán tâm vô thường. Tâm của chúng ta như sóng trong biển, niệm trước diệt, niệm
sau sinh, niệm niệm biến đổi, sinh sinh không ngừng, nhưng mỗi một niệm đều là
vô thường hư vọng.
4. Quán pháp vô ngã. Pháp có : sắc pháp, tâm pháp. Trong Bách Pháp Minh Môn
Luận có nói :"Sắc pháp có mười một, tâm pháp có tám, tâm sở pháp có năm
mươi mốt, bất tương ưng pháp có hai mươi bốn, vô vi pháp có sáu, tổng cộng thành
một trăm pháp". Tuy nhiên có nhiều pháp như thế, nhưng đều vô ngã, cho nên
đừng chấp trước pháp. Trong Kinh Kim Cang có nói : "Pháp còn phải xả bỏ,
hà huống là phi pháp". Tu hành, tu đến cực điểm thì người và pháp chẳng
còn nữa. Trước kia, khi chưa minh bạch Phật pháp, thì chấp cái ta rất sâu nặng,
tất cả đều thuộc về ta, gì cũng đều là của ta. Nhưng khi minh bạch Phật pháp
rồi, thì chấp trước vào pháp, biến thành pháp chấp, có sự chấp trước thì có
quái ngại, có quái ngại thì khởi điên đảo, khởi điên đảo thì sinh mộng tưởng.
Nếu quán cái ta chẳng còn nữa, vậy còn pháp thì sao ? Cho nên phải quán pháp vô
ngã. Từ quán thân bất tịnh rồi thì quán tâm, thọ, pháp, cũng đều bất tịnh. Quán
thọ là khổ rồi thì quán thân, tâm, pháp, cũng đều là vô thường. Quán pháp vô
ngã rồi thì quán thân, thọ tâm cũng đều vô ngã. Cho nên, tuy nói là bốn Niệm
Xứ, nhưng chúng có mối quan hệ với nhau. Sau khi Phật vào Niết Bàn rồi, mỗi vị Tỳ
Kheo đều nên y theo bốn Niệm Xứ mà trụ, không thể tơ hào xa lìa.
Thứ ba : Phải lấy giới làm thầy. Tất cả những người xuất gia, phải y theo giới luật
tu hành, nếu không y theo giới luật tu hành, thì Phật pháp sẽ diệt vong. Nếu y theo
giới luật tu hành, thì Phật pháp sẽ tồn tại lâu dài trên thế gian. Có một người
y theo giới luật tu hành, thì Phật giáo có một phần quang minh, có mười người
thì có mười phần quang minh, có trăm người, ngàn người, vạn người, cho đến ai
ai cũng đều y theo giới luật tu hành, mà không hủy phạm, thì Phật giáo có vô
lượng vô biên quang minh, chiếu phá tiêu diệt tất cả sự đen tối trên thế gian.
Cho nên giữ giới trong sạch, y theo giới luật tu hành, là lời dạy cuối cùng,
quan trọng nhất của Đức Phật. Giới là thầy hiện tại của Tỳ Kheo tu hành.
Thứ Tư : Không nói năng gì với Tỳ Kheo ác tính. Không đếm xỉa gì đến họ, lấy sự
yên lặng đối đãi với họ. Tỳ Kheo ác tính chẳng cứ đạo lý, cho nên đừng đả động
gì đến họ, để họ tự sinh hổ thẹn, do đó sẽ làm ảnh hưởng đến họ, khiến cho họ
hồi tâm trở lại giữ quy cụ, đó là biện pháp tốt nhất.
Ngài A Nan hỏi Phật bốn câu hỏi ; Phật đều trả lời phó chúc, cho nên tất cả Kinh
điển, trước hết đều bắt đầu bằng câu :"Tôi nghe như vầy". "Tôi
nghe" là Ngài A Nan nói : "Pháp như vầy là tôi A Nan thân tự nghe Đức
Phật nói, chứ chẳng phải tôi tự bày vẽ tạo ra". "Như vầy" là từ
chỉ pháp, tức là nói bộ Kinh này, gọi là tin thành tựu, bạn tin tức là như vầy,
không tin thì chẳng phải như vầy. "Như " là bất biến (không thay
đổi), tùy duyên là "vầy". "Như vầy" tức là tùy duyên không thay
đổi, không thay đổi mà tùy duyên, tức cũng là như như bất động, liễu liễu
thường minh. Và "như vầy" là một sự ấn khả, tức là nếu bạn làm đúng
khế hợp với tâm của Phật tức là như vầy. Nếu trái với tâm của Phật thì chẳng như
vầy.
Ngài A Nan ít tuổi hơn đức Phật rất nhiều, khi đức Phật ba mươi tuổi thành đạo,
thì cũng lúc ấy Ngài A Nan ra đời. Ngài A Nan hai mươi lăm tuổi mới xuất gia,
vậy hai mươi lăm năm về trước, Kinh điển của Phật nói, Ngài cũng chẳng nghe
qua, sao Ngài lại đi kết tập Kinh điển ? Ngài A Nan là em bà con chú bác với
Đức Phật, tuy hai mươi lăm tuổi mới xuất gia, nhưng Ngài thỉnh cầu đức Phật nói
lại hết những Kinh điển đã nói lúc trước. Do đó, Phật dùng sức thần thông, nói lại
hết những Kinh điển đã nói lúc trước cho Ngài A Nan nghe. Sức trí nhớ của Ngài
A Nan tốt vô cùng, một khi lọt vào tai thì vĩnh viễn không bao giờ quên. Cho
nên nói :"Phật pháp như biển cả, chảy vào tâm A Nan". Hơn nữa Ngài A Nan
cũng là đại quyền thị hiện, vì trong quá khứ tất cả chư Phật nói Kinh điển,
cũng đều do Ngài A Nan kết tập, hơn nữa mỗi vị Phật thuyết pháp cũng đều như
nhau, cho nên Ngài A Nan khai ngộ rồi, đều nhớ lại tất cả pháp tạng của tất cả
Chư Phật đã nói trong quá khứ.
Một thời, Đức Phật ở tại thành Vương Xá, trên núi Kì Xà Quật, cùng với đại chúng
Tỳ Kheo, một vạn hai ngàn người tụ tập.
"Một thời" là thời thành tựu. Cho nên không nói rõ ngày tháng chính
xác, là vì muốn tránh nhà lịch sử học, truy tìm khảo chứng gốc rễ không có ý
nghĩa. Một thời này, tức là lúc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói Kinh Pháp Hoa, tức
là vào lúc đó.
"Đức Phật" là chủ thành tựu. "Phật" là nửa tiếng Phạn, nói
đầy đủ là Phật Đà Gia". Phật dịch là "giác". Giác thì có :
1. Bổn giác,
2. Thủy giác,
3. Cứu Kinh giác.
1. Bổn giác : Tức là giác ngộ Phật tánh vốn có sẵn, không cần phải trải qua sự
tu hành, mà vẫn đầy đủ sự giác ngộ.
2. Thủy giác : Mới bắt đầu giác ngộ. Chúng ta phát tâm muốn học Phật pháp, nghiên
cứu Kinh điển giáo lý, đó gọi là thủy giác.
3. Cứu Kính giác : Bắt đầu giác ngộ rồi, thì ngày càng tinh tấn, ngộ hiểu Phật
pháp, cho đến khi hoàn toàn minh bạch Phật pháp thành Phật, đó gọi là cứu kính
giác. Lại có lối nói khác :
1. Tự giác : Tự giác ngộ chân lý. Như hàng nhị thừa (Thanh Văn, Duyên Giác) chỉ
tự giác, mà không thể giác tha, cho nên gọi là người tiểu thừa.
2. Giác tha : Mình giác ngộ rồi, cũng phải đem chân lý phát dương quang đại,
giáo hóa chúng sinh, khiến cho tất cả mọi người cũng đều giác ngộ. Bồ Tát thì
tự độ độ tha, tự lợi lợi tha. Người tiểu thừa chỉ biết lợi mình mà không biệt
lợi người, chỉ muốn làm tự liễu hán. Cho nên, Phật trách người tiểu thừa là tiêu
nhạ bại chủng, không thể hoằng dương Phật pháp quảng đại.
3. Giác hạnh viên mãn : Đó là sự viên mãn của Phật. Ủức Phật thì ba giác tròn
vạn đức đầy. Vị Phật này là chỉ ai ? Tức là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, sinh ra
tại Ấn Độ, thái tử của vua Tịnh Phạn, tên là Tất Đạt Đa, mười chín tuổi xuất
gia, ba mươi tuổi thành đạo, thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng Kinh hơn ba
trăm hội.
"Ở tại thành Vương Xá, trên núi Kì Xà Quật". Thành Vương Xá tức là
kinh đô nước Ma Kiệt Đà, là thành của vua Tần Bà Sa La ở, bốn phía thành có năm
dãy núi lớn bao bọc, núi hướng đông bắc là núi Linh Sơn. Núi Kì Xà Quật tức
cũng là núi Linh Thứu (Linh Sơn), vì núi hình giống như con chim Thứu, cho nên
gọi là núi "Linh Thứu". "Thành Vương Xá núi Kì Xà Quật" là
xứ thành tựu.
"Cùng với chúng Đại Tỳ Kheo một vạn hai ngàn người tụ tập", là chúng
thành tựu. Những Kinh điển khác đa số đều nói là hai trăm năm mươi người tụ
tập, nhưng đặc biệt người trong hội Pháp Hoa nhiều hơn, tới một vạn hai ngàn
người tụ tập. Đại Tỳ Kheo tức là Tỳ Kheo đã chứng quả A La Hán. Tỳ Kheo là
tiếng Phạn có ba nghĩa :
1. Khất sĩ : Tỳ Kheo chẳng nấu nướng, mỗi ngày đến giờ ăn, thì ôm bát đi vào
trong thành, hoặc làng quê khất thực hóa trai, làm như thế không những thân an
đạo tồn, mà còn phước lợi cho thí chủ. Phật chế Tỳ Kheo ngày ăn một bữa, quá
ngọ không ăn, đó là hành hạnh đầu đà (khổ hạnh).
2. Bố ma : Người xuất gia, khi thọ giới Tỳ Kheo thì tam sư thất chứng hỏi rằng
:"Con có phải là đại trượng phu chăng ?" Đáp :"là đại trương
phu". Hỏi :"Con đã phát tâm bồ đề chưa ?" Đáp :" Đã phát
tâm bồ đề". Trong lúc Yết Ma vấn đáp, bạn đáp nói đã phát tâm bồ đề, thì
lúc đó có địa hành Dạ Xoa truyền lời cho không hành Dạ Xoa, không hành Dạ Xoa truyền
lời cho thiên ma lục dục thiên nghe, nói rằng :"Ở nhân gian lại có thêm
người xuất gia, quyến thuộc của Phật lại tăng thêm, còn quyến thuộc của chúng
ta lại giảm bớt". Ma vương nghe lời nói đó, thì sinh tâm đố kị và sợ hãi,
cho nên gọi là bố ma.
3. Phá ác : Phá ác gì ? Tức là phá phiền não ác, vô minh ác và tham sân si ba
ác độc.
Trước mỗi bộ Kinh đều có sáu thành tựu, đó là : Tin thành tựu, nghe thành tựu, thời
thành tựu, chủ thành tựu, xứ thành tựu, và chúng thành tựu. Có sáu thứ thành tựu
nầy, đức Phật mới nói pháp. Nếu thiếu một trong sáu thứ không thành tựu, thì
không thể nói pháp.
Đều là A La Hán, các lậu đã hết, chẳng còn phiền não. Sớm được lợi mình, hết
những sự ràng buộc trong các cõi, tâm được tự tại.
"Đều là A la hán", đây là khen ngợi công đức của bậc A la hán. A la
hán là tiếng Phạn, cũng có ba ý nghĩa như Tỳ Kheo. Tỳ Kheo tức là nhân của A la
hán, A la hán tức là quả của Tỳ Kheo.
1. Ứng cúng : Lúc tại nhân địa thì Tỳ Kheo là khất sĩ. Tại quả địa thì A la hán
là ứng cúng, tức là xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của trời người. Cũng gọi
là "cúng ứng", tức là đi cúng dường những Tỳ Kheo khác. Lúc đức Phật
còn ở đời, thì tất cả Tỳ kheo đều cúng dường đức Phật, nhưng có một lần nọ, đức
Phật biến thành một đạo nhân, chuyển sự cúng dường đến tất cả các vị Tỳ kheo,
cho nên gọi là "cúng ứng".
2. Sát tặc : Giết tặc vô minh, tặc phiền não, tặc mắt tai mũi lưỡi thân ý sáu
tên tặc. A la hán hoàn toàn tiêu diệt, giết sạch hết những tên tặc nầy. Chẳng
những giết "tặc", mà cũng giết "chẳng phải tặc". Thế nào là
"chẳng phải tặc" cũng giết ? Vì những thứ đó hàng tiểu thừa nhận rằng
chẳng phải tặc, nhưng tại Phật và Bồ Tát nhìn lại, thì cũng đều là tặc, cho nên
"chẳng phải tặc" cũng phải giết.
3. Vô sinh : Chứng được tứ quả A la hán, thì ngộ vô sinh pháp nhẫn. Ở trong ba ngàn
đại thiên thế giới, chẳng thấy có chút pháp sinh, cũng chẳng thấy có chút pháp
diệt. Cảnh giới nầy nói chẳng ra, giảng chẳng được, nhưng chỉ có thể nhẫn thọ
nơi tâm, cho nên gọi là vô sinh pháp nhẫn.
A la hán có bốn bậc :
Sơ quả,
Nhị quả,
Tam quả và
Tứ quả.
Sơ quả A la hán còn gọi là quả Tu đà hoàn, là bước đầu tiên của A la hán. Chứng
được sơ quả A la hán, thì sinh tử vẫn chưa dứt. Cho nên gọi là "kiến đạo
vị" (bậc thấy đạo). Tu đà hoàn là tiếng Phạn, dịch là "nhập
lưu", nhập vào dòng Thánh nhân pháp tính, ngược dòng phàm phu sáu trần.
Sáu trần tức là : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Sắc trần : Người chứng được sơ quả chẳng nhập vào sáu trần, bậc ấy có một thứ
định lực, bất cứ sắc đẹp nào ở trước mắt, cũng chẳng động tâm.
Thanh trần : Một số người thích nghe tiếng âm nhạc ca khúc êm tai. Nhưng người chứng
được sơ quả, bất cứ tiếng hay dở tốt xấu thị phi, cũng đều chẳng lay động,
chẳng bị thanh trần lay chuyển, mà chuyển được thanh trần.
Hương trần : Con người thích ngửi hương thơm, nhưng mùi hôi thối thì khởi tâm
chán ghét, có tâm hoan hỉ và chán ghét, thì có tâm thích ghét, khởi tâm thích
ghét thì bị hương trần lay chuyển.
Vị trần : Bình thường con người ăn vật ngon, thì ham ăn nhiều, nhưng khi ăn đến
vật không ngon thì không thích ăn, đó lại bị vị trần lay chuyển.
Xúc trần : Người bình phàm tham trước xúc giác, cho đến tham luyến tình ái giữa
nam nữ không xả bỏ, tham trước xúc chạm vàng bạc báu vật mỹ lệ nhỏ nhẵn. Đó đều
là nhìn chẳng xuyên thủng, không chuyển được xúc trần.
Pháp trần : Chấp trước vào đủ thứ pháp, đó tức là pháp trần. Sơ quả A la hán
chẳng bị sáu trần ở trên lay chuyển, bậc ấy đạt đến cảnh giới nầy.
Nếu có người nói họ tự chứng quả, hoặc đắc đạo khai ngộ, phải chứng nghiệm họ
có chân thật chăng, thì hãy làm cho họ một phần thức ăn ngon thượng hạng, và
một phần thức ăn khó ăn nhất. Xem thử họ chọn món nào ? Nhưng đừng cho họ biết
bạn đang thử họ, nếu họ biết được, thì họ sẽ chuyên ăn món thức ăn khó ăn, cũng
là bị hương vị trần lay chuyển. Đây tức là tạo tác, đeo mặt giả để lường gạt
người. Vì chẳng bị vị trần lay chuyển, thì dù một chút phân biệt lựa chọn cũng
chẳng có, ngon dở đều ăn, đó mới có thể chứng minh, người tu hành có một chút
công phu. Cho nên, chứng được sơ quả Thánh nhân, thì phải có chứng cứ, chẳng
phải ai cũng có thể nói mình đã chứng quả khai ngộ.
Nhị quả A la hán, còn gọi là quả Tư đà hàm, Tư đà hàm là tiếng Phạn, dịch là "Nhất
lai", nếu như không hướng về trước tu hành, thì vẫn còn phải một lần sinh
lên cõi trời, một lần sinh xuống nhân gian, cho nên nhị quả là quả nhất lai. Sơ
quả thì còn bảy lần thọ sinh tử.
Tam quả A la hán, gọi là quả A na hàm, cũng là tiếng Phạn, dịch là "Bất
lai", chẳng còn thọ sinh tử trong cõi dục nữa. Sơ quả là "bậc thấy
đạo", nhị quả và tam quả là "bậc tu đạo", tứ quả là "bậc vô
học", không cần học nữa, đã chấm dứt sinh tử. Nhưng tứ quả chỉ đoạn được
"phần đoạn sinh tử", còn "biến dịch sinh tử" vẫn chưa đoạn
trừ được. Bây giờ giải thích sơ lược về hai loại sinh tử :
1. Phần đoạn sinh tử : Mỗi người đều có một phần thân hình của mình, thân hình đó
đều có sự phân biệt, mạng sống đều có sự giới hạn.
2. Biến dịch sinh tử : Ở trong tâm, niệm trước diệt, thì niệm sau sinh, niệm
sau diệt, thì niệm sau nữa lại sinh, niệm niệm sinh diệt biến đổi không ngừng.
Bồ Tát đã đoạn trừ được biến dịch sinh tử.
Người chứng được tứ quả A la hán, thì có thần thông biến hoá không thể nghĩ
bàn, cảnh giới vi diệu khó tả. Ngài có ngũ nhãn lục thông, lại có thể vọt thân
lên hư không mà đi. Ngài có thể trên thân phun ra lửa, dưới thân phun ra nước;
trên thân phun ra nước, dưới thân phun ra lửa. Tóm lại, ở trong hư không Ngài có
mười tám thần thông biến hoá. Vì tứ quả A la hán có thần thông, cho nên liệt vào
một trong bốn bậc Thánh trong Phật giáo : Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn.
Trước kia, có một vị A la hán dẫn theo một vị đệ tử mới thu nhận, cùng đi du
hành, vị đệ tử đó mang hành lý đi trên đường bèn nghĩ : "Hành Bồ Tát đạo
là tối vô thượng, ta nhất định phải phát tâm tu Bồ Tát đạo, để độ tất cả chúng sinh".
Vị đệ tử nghĩ như thế, thì vị A la hán lập tức biết được. Bèn nghĩ : "Vị
đệ tử hiện tại phát tâm bồ đề, mà ta chỉ là A la hán, ta phải mang hành
lý". Do đó, bèn lấy hành lý từ vị đệ tử và mang trên vai. Đi được một đoạn
đường, vị đệ tử lại nghĩ : "Ngài Xá Lợi Phất vừa mới hành Bồ Tát đạo, thì
có người đến xin Ngài con mắt, móc ra con mắt trái cho, thì người đó không
muốn, còn nói không phải, nói là muốn con mắt bên phải. Ôi ! Bồ Tát đạo thật là
khó hành khó nhẫn. Hay là ta không nên tu Bồ Tát đạo, mà tu pháp A la hán, làm
tự liễu hán cho xong". Vị Thầy A la hán lập tức biết được tâm niệm của đệ tử,
từ lớn lùi xuống nhỏ, cho nên đưa hành lý lại cho vị đệ tử mang. Vị đệ tử mang
hành lý chưa được bao lâu, lại phát khởi lại tâm Bồ Tát, vị A la hán biết, lại
mang hành lý thế cho vị đệ tử. Cứ đưa qua lấy lại như vậy mấy lần, khiến cho vị
đệ tử nghĩ rất là kỳ lạ, bèn hỏi : "Sư phụ ! Một lúc thì Thầy mang hành lý,
một lúc lại đưa cho con, bây giờ Thầy lại mang, đó chẳng phải là làm phiền
chăng, con thật không hiểu". Vị La hán đáp : "Trên đường đi, có lúc
con phát tâm Bồ Tát, hồi tiểu hướng đại, cho nên hành lý phải đưa cho ta người
hành pháp A la hán mang. Đi được một đoạn đường, con lại hồi đại hướng tiểu,
chẳng muốn tu Bồ Tát đạo mà muốn tu pháp A la hán, cho nên hành lý phải đưa cho
con mang. Hiện tại con lại phát khởi tâm lớn, thì hành lý phải đưa cho ta
mang". Vị đệ tử nghe xong, mới biết sư phụ của mình thật sự có lai lịch, do
đó vị đệ tử phát tâm đại bồ đề, hành Bồ Tát đạo.
Khi kết tập Kinh điển Tôn Giả A Nan chưa chứng được tứ quả, chưa đắc được lậu
tận thông. Lúc kết tập tạng Kinh, mọi người tuyên bố rõ, chỉ có những người
chứng được tứ quả A la hán, mới có thể tham gia. Mà Tôn Giả A Nan chỉ chứng
được tam quả, cho nên mọi người chẳng cho Ngài A Nan vào. Ngài đứng ở ngoài cửa
lo lắng vạn phần, nghĩ : "Biết làm sao ? Hết thảy Kinh điển của Phật nói,
ta đều nhớ hết. Nhưng bây giờ, chỉ vì ta chưa chứng được tứ quả A la hán, nên
không thể tham gia pháp hội kết tập tạng Kinh, làm thế nào bây giờ ?" Trong
lúc cấp bách như thế, thì Ngài lập tức chứng được tứ quả A la hán. Do đó, Ngài
nói : "Hiện tại tôi đã chứng được tứ quả A la hán rồi, các Ngài hãy mở cửa
cho tôi vào đi !" Các vị đại A la hán ở bên trong nói : "Nếu ông
chứng được tứ quả, thì cần gì phải mở cửa để vào ? Ông hãy vào lỗ ổ khoá cửa đi
!" Ngài A Nan nghe, nghĩ : "Đúng đó ! Hà tất phải mở cửa ?" Do
đó, Ngài bèn vận dụng thần thông đi vào lỗ ổ khoá cửa. Cho nên người chứng được
quả A la hán, ra vào không cần phải mở cửa. Nếu có người nói đã chứng quả, nhưng
phải mở cửa mới có thể ra vào, thì biết người đó đại vọng ngữ, nói lời giả dối.
Chứng được tứ quả A la hán, mới có thể sạch hết các lậu, phiền não tức là lậu, có
tám vạn bốn ngàn thứ phiền não, thì có tám vạn bốn ngàn thứ lậu. Sinh ra phiền
não tức là lậu đi xuống, gọi là hữu lậu, rớt (lậu) xuống cõi dục, cõi sắc, cõi
vô sắc. Hết thảy tất cả mao bệnh, tâm dục niệm, tham luyến mỹ vị, tiếng hay,
nhà tốt, xe cộ .v.v., đều gọi là lậu. Những gì bạn ưa thích tham muốn, hoặc
buông bỏ chẳng được, đều gọi là lậu. Hết thảy tập khí ác mao bệnh quái lạ, như
thích hút thuốc, uống rượu, bài bạc, tìm người nữ, đó đều gọi là lậu. Người nữ
thích tìm người nam cũng là lậu, người nữ mỗi tháng đều có kinh nguyệt, cho nên
người nữ càng nhiều lậu. Người nam chẳng buông bỏ được tâm dâm dục, đây gọi là lậu
lớn nhất. Thân thể của chúng ta gọi là thân hữu lậu, mắt, tai, mũi, miệng, nơi
đại tiểu tiện đều gọi là lậu. Nói rõ ra là trong tâm của bạn khởi vọng tưởng,
giữ gìn chẳng được tinh khí thần của chính mình, đây gọi là lậu. Những thứ lậu
nầy cũng giống như dưới đáy bình có lỗ hổng, có bao nhiêu nước trong bình đều
rỉ ra hết bấy nhiêu, làm được bao nhiêu công đức thì lậu ra hết bấy nhiêu. Lậu có
quá nhiều, đếm cũng đếm không hết, kỳ thật chẳng phải chỉ có tám vạn bốn ngàn thứ.
Song, bậc A la hán đã hết các lậu, "Đã hết" chẳng phải nói là đã lậu
hết ; mà là đã hoàn toàn chẳng còn lậu nữa. Chẳng phải nói lậu ra hết, thì gọi
là hết ; mà là vốn đã chẳng còn lậu nữa, vốn chẳng lậu nữa, đây mới gọi là
"hết lậu". Cho nên mọi người xem Kinh phải đặc biệt hiểu rõ ý nghĩa
nầy. Lậu tận thông tức là các lậu đã hết, phải chứng được tứ quả A la hán mới
đắc được. Hiện tại một vạn hai ngàn vị đại A la hán, các lậu đều đã hết, bậc Thánh
nhân chẳng còn chút tập khí mao bệnh nào.
Những vị đại A La Hán này, vì đều đã đắc được lậu tận thông, cho nên chẳng còn phiền
não. "Chẳng còn" nghĩa là chẳng có nữa. Những gì cần làm các Ngài đã
làm xong, chẳng còn thọ thân sau nữa. Sinh tử đã dứt, cho nên chẳng có phiền
não. Phiền não cứu kính có bao nhiêu ? Có tám vạn bốn ngàn, nhưng tổng quát lại
thì tức là vô minh. Vô minh sinh ra tất cả phiền não, phân ra thành ba loại, tức
là tham, sân, si, ba độc. Ba độc này che lấp Phật tánh của mọi người. Chúng ta
từ vô thủy cho đến hiện tại, chưa thành Phật là vì có ba thứ phiền não này. Ba
thứ độc này, độc hại con người sinh ra trong cơn say, chết đi trong ảo mộng,
khiến cho không thể trở về nguồn cội, khôi phục lại bộ mặt thật của thuở nào. Nhưng
nếu tu ba học vô lậu : Giới, định, huệ thì có thể diệt trừ ba độc này, khôi phục
lại thanh tịnh.
Giới : Tức là chấm dứt làm các điều ác, phòng ngừa việc quấy, đối trị với tâm
tham. Tâm tham tức là tham mà không chán, không biết đủ. Người nhiếp chánh có
dã tâm lớn, đều muốn nuốt chiếm đoạt đất đai tài sản của nước khác. Người tham
lam luôn luôn muốn tất cả vật chất của thế giới quy thuộc về mình. Có tâm tham
thì sẽ sinh ra niệm tà, tham tài vật không thể có được. Vì sao sinh ra tham ?
Là vì không hiểu về giới. Giới thì chấm dứt làm các điều ác, phòng ngừa việc
quấy, kêu bạn nên biết đủ, đừng tham lam. Bạn giữ được giới luật thì có thể
chiến thắng lòng tham của bạn.
Định : Tức là có định lực, chẳng có định lực thì sẽ nổi giận, thấy người thấy việc
đều cảm thấy không vừa mắt. Nếu chẳng có ai, mình thấy không vừa mắt thì sẽ nổi
giận. Có người không những chính mình nổi giận mà còn đánh mình nữa, cho một
bạt tai vào má trái, lại sợ má phải "ăn dấm" cho nên lại bồi cho một
bạt tai.
"Ăn dấm" là một câu chuyện vào thời xưa của Trung Quốc. Vào đời
Đường, có một ông quan đại thần là thuộc hạ của vua, ông ta rất sợ vợ vô cùng.
Ông quan này, nếu mỗi lần về nhà trễ, thì vợ của ông ta bắt ông ta quỳ ở trước
giường, cho đến khi bà ta bảo thôi, thì ông ta mới dám đứng lên. Ông quan này,
ban ngày thấy hoàng đế thì phải lạy, ban đêm về nhà trễ thì phải quỳ vợ. Ông
quan này rất thân với hoàng đế, do đó đem tình hình trên nói với hoàng đế,
hoàng đế lập tức nói có biện pháp. Sang ngày sau, hạ thánh chỉ gọi vợ của ông quan
vào cung, hoàng đế nói với bà ta :"Chồng của bà chẳng làm bậy với người
nữ, cũng chẳng làm việc sai quấy, chỉ về nhà trễ mà thôi, sao bà lại bắt ông ta
phạt quỳ trước giường ? Đó thật là chẳng đúng, nếu về sau bà không tái phạm
nữa, thì trẫm tha thứ bà vô tội, còn nếu về sau cũng như thế thì trẫm bắt ngươi
chết, bà phải uống thuốc độc dưới tay của trẫm". Bà ta nói :"Tốt !
Tôi chịu uống thuốc độc, dù tôi có chết cũng phải nghiêm trị ông ta". Do
đó, bèn bưng bát thuốc độc uống một hơi cạn sạch. Nhưng uống xong rồi vẫn không
chết, chỉ cảm thấy bụng chua chua. Nguyên do, chẳng phải là thuốc độc mà là một
chén dấm. Hoàng đế cố ý nói dấm là thuốc độc để thử bà ta có dám uống chăng, không
ngờ bà ta có chí khí sắt đá, dù bà ta có thể uống thuốc độc chết, cũng phải
nghiêm trị chồng, cho nên từ đó về sau, Trung Quốc lưu truyền về chuyện
"uống dấm" này, nghĩa là vợ rất là nghiêm nghị đối với chồng.
Vậy người rất nóng giận sao lại phải đánh mình ? Vì y chẳng có định lực, do đó thấy
người, thấy việc, thấy mình, đều cảm thấy chẳng vừa mắt. Cho nên, phải tu định,
khi có định lực thì không nổi tâm sân hận, mà hàng phục được con ma sân hận.
Huệ : Vì sao ngu si ? vì chẳng có trí huệ, suốt ngày đến tối khởi vọng tưởng,
làm chi phối tâm không được nghỉ ngơi, đều vì chẳng có trí huệ, cho nên đối với
bất cứ việc gì, đều nhận thức không rõ ràng, hồ đồ điên đảo. Người có trí huệ
thì : "việc đến thì ứng, việc đi thì lặng". Việc gì đến thì ứng phó
nó, đều đón nhận mà giải quyết ; việc đi rồi thì để tâm nghỉ ngơi, không bắt
tâm phải làm nô lệ cho thân thể. Bây giờ tôi nói với bạn một câu sự thật
:"Ngu si là gì ? tức là trí huệ". Bạn sẽ nói :"Thầy lại nói hồ
đồ rồi, nếu như ngu si là trí huệ, trí huệ là ngu si, thì sao lại còn phải học
trí huệ mà vứt bỏ ngu si ?"
Bạn đừng cho rằng tôi nói pháp lộn xộn, tôi nói ngu si này, bổn thể của nó, có thể
biến thành trí huệ, chẳng phải nói lìa khỏi ngu si mà đi tìm trí huệ riêng
ngoài. Trí huệ vốn ở trong ngu si, song, bạn không biết dùng nó, nếu bạn dùng
nó được thì nó tức là trí huệ, không dùng được nó tức là ngu si. Ví như định tức
cũng là sân, sân cũng tức là định. Bạn muốn đắc được định lực, thì hãy biến cái
sân hận thành định lực. Bạn thật muốn trì giới thì trong sự tham biến thành
giới, chứ chẳng phải đi tìm bên ngoài. Tất cả những thứ này đều nằm ở trong tự
tánh của bạn. Bạn dùng được nó tức là giới định huệ, không dùng được tức là
tham sân si. Diệu lý là tại chỗ này, bạn không minh bạch cũng tại chỗ này.
Những vị A La Hán này vì các lậu đã sạch, chẳng còn phiền não, cho nên những gì
cần làm đã làm xong. Tại sao chúng ta tự mình không đắc được lợi ích ? Vì lúc
được, lúc mất, lúc có, lúc không. Thế nào mới gọi là chân chánh đắc được lợi
ích cho chính mình ? Tức là hiểu biết thật sự, đắc được trí huệ chân thật, chứng
được quả A La Hán, mình giác ngộ rồi lại lợi ích chính mình.
"Dứt sự ràng buộc trong các cõi". Gì gọi là sự ràng buộc trong các
cõi ? Tức là nghiệp và chướng, tức là dục giới, sắc giới và vô sắc giới, còn
gọi là tam hữu (ba cõi). Tam hữu phân ra thì có hai mươi lăm cõi. Dục giới có mười
bốn cõi : Tức là :
Bốn đại châu (Đông Thắng Thần châu,© Nam Thiệm Bộ châu, Tây Ngưu Hóa châu,
Bắc Câu Lưu châu),
Bốn đường ác (A© tu la, súc sinh, ngạ quỷ, điạ ngục),
Sáu cõi trời dục giới (Tứ Thiên© Vương, Trời Đao Lợi, Trời Dạ Ma, Trời
Đâu Xuất, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại).
Sắc giới có bảy cõi : Tức là :
Trời Tứ Thiền (Trời Sơ Thiền, Trời Nhị Thiền, Trời Tam Thiền, Trời Tứ
Thiền),
Trời Đại Phạm
Trời Vô Tưởng
Trời Ngũ Bất Hoàn.
Vô sắc giới có bốn cõi : Tức là :
Trời Tứ Không Xứ (Trời Không Vô Biên Xứ, Trời Thức Vô Biên Xứ,ª Trời Vô Sở Hữu Xứ, Trời Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ).
Dứt sự ràng buộc trong các cõi, tức là vượt ra khỏi ba cõi, không còn ở trong cõi
dục, cõi sắc và cõi vô sắc. Do đó : "Vượt ra khỏi ba cõi, không ở trong ngũ
hành", như thế mới thật sự chấm dứt sinh tử.
Có những người chẳng minh bạch về Phật pháp, cho rằng tu đến Trời Tứ Thiền là
cao siêu nhất rồi. Kỳ thật, đó vẫn còn ở trong tam giới hai mươi lăm cõi, căn
bản họ chẳng biết gì là tốt, trong sự tu hành có thể nói là xa lại càng xa,
song, những người đó hồ đồ, nói với mọi người rằng đã đạt tới cảnh giới cao
nhất. Giống như Tỳ Kheo Vô Văn, lấy tứ thiền làm tứ quả, đến được cảnh giới tứ
thiền, cho rằng đã chứng tứ quả, khi ông ta bị đọa lạc thì phỉ báng Phật rằng
:"Phật nói chứng được tứ quả thì dứt sinh tử, sao tôi bây giờ còn đọa lạc
?" Phỉ báng Phật thì càng đọa lạc vào ba đường ác, vĩnh viễn không ra
khỏi, không những chỉ một mình Tỳ Kheo Vô Văn đọa vào địa ngục, mà bao nhiêu đồ
đệ theo ông ta cũng đi theo vào địa ngục. Do đó có câu :
"U mê truyền cho u mê,
Một truyền hai chẳng hiểu,
Ông thầy đọa địa ngục,
Đệ tử cũng theo vào".
"Tâm được tự tại". Những vị A La Hán này, trong tâm khoái lạc vô
biên, tiêu giao tự tại, giống như Bồ Tát Quán Tự Tại, suốt ngày đến tối ngồi
tham thiền, rất khoái lạc vô ngần, chẳng có tơ hào phiền não, tâm thật sự đắc được
tự tại, trí huệ. Sự khoái lạc ở đây, bên trong thật sự tự tại, chứ chẳng phải
bên ngoài cố ý tạo tác la lên om sòm. Bạn đừng cho rằng suốt ngày đến tối la
lối, tức là khoái lạc, ngược lại, đó là phiền não điên đảo ! Tại sao ? Bạn thấy
được việc của bạn thích thì bị nó chuyển, chính mình còn chẳng có định lực, mà
còn la lối cười điên lên, đó thật sự có gì khoái lạc ? Chẳng có gì cả !
Tên của các Ngài là : A Nhã Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp,
Già Da Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Chiên
Diên, A Nậu Lâu Đà, Kiếp Tân Na, Kiều Phạm Ba Đề, Ly Bà Đa, Tất Lăng Già Bà
Tha, Bạt Câu La, Ma Ha Câu Hi La, Nan Đà, Tôn Đà La Nan Đà, Phú Lâu Na Di Đa La
Ni Tử, Tu Bồ Đề, A Nan, La Hầu La.
Những tên vừa cử ra ở trên là đại chúng, hai mươi mốt vị đại Thanh Văn đệ tử
của đức Phật, ở trong một vạn hai ngàn người của đại hội Pháp Hoa.
1. "A Nhã Kiều Trần Như".
Ngài là một trong năm vị đầu tiên, được đức Phật độ trước nhất. Đức Phật ở dưới
cội bồ đề thấy sao mai mọc mà ngộ đạo, do đó Phật thốt lên ba lần lành thay
:"Hết thảy chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật". Đức
Phật chỉ nói hết thảy chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật, chứ
chẳng phải nói tất cả chúng sinh tức là Phật, song, có những đệ tử của Phật sau
này hoặc là Phật giáo đồ nói :"Ai ai cũng đều là Phật, người và Phật chẳng
có khác biệt ". Đó tức là kẻ đui dẫn người mù, muốn lòa mắt thiên hạ.
Đức Phật thốt lên ba lần lành thay, rồi dùng Diệu quán sát trí quán sát, biết trước
hết phải đến vườn Lộc Uyển độ năm anh em Kiều Trần Như. Vì sao ? Vì trong quá
khứ năm vị này chuyên môn phá hoại và phỉ báng Đức Phật. Trong vô lượng kiếp về
trước, tuy nhiên sáu người cùng phát tâm tu đạo, nhưng năm người họ liên kết
với nhau khinh khi Phật, có khi đánh Ngài, mắng Ngài, ăn thịt Ngài hoặc uống máu
của Ngài, song, đức Phật không những không khởi tâm oán giận họ, mà ngược lại Ngài
phát nguyện nói :"Các vị thật trợ giúp cho ta tu hành ! Nếu ta tương lai
có thể thành Phật, thì nhất định phải độ các vị trước hết. Hiện tại các vị đối
với ta không tốt, nhưng ta chẳng phiền não oán giận chút nào, ngược lại ta càng
đối xử tốt với các vị ". Đức Phật nhẫn nhục được như thế thật là quá vĩ
đại, chúng ta mỗi người tu đạo hãy học theo gương tốt ấy.
Lại có câu chuyện về vua Ca Lợi và Tiên Ông nhẫn nhục. Thuở xưa, Đức Phật tu
hành thì chuyên tu pháp môn nhẫn nhục, cho nên gọi là Tiên Ông nhẫn nhục. Một
ngày nọ, vua Ca Lợi (tiền thân của Kiều Trần Như) đem một số cung phi mỹ nữ vào
rừng săn bắn, trong sự vô ý các cung phi mỹ nữ thấy Tiên Ông nhẫn nhục đang
ngồi thiền, do đó bèn quây quần ông ta để hỏi đạo. Vua Ca Lợi cho rằng Tiên Ông
nhẫn nhục dụ dỗ phi tần của vua, bèn sinh tâm đố kị, do đó bèn chặt tay chân tứ
chi của Tiên Ông nhẫn nhục. Mỗi khi vua chặt một chi thì hỏi :"Trong tâm
ông có oán giận tôi chăng ?" Tiên Ông nhẫn nhục đáp :"Tôi chẳng giận
ông, nếu tôi không sân hận thì tứ chi của tôi hoàn lại như cũ, nếu có tâm sân
hận thì tứ chi của tôi không thể hoàn lại như cũ". Vừa nói xong thì quả
nhiên tay chân tứ chi hoàn lại như cũ, lúc đó tất cả Hộ Pháp thiện thần phẫn nộ
vua Ca Lợi, bèn mưa đá xuống chỗ của vua Ca Lợi để trừng phạt vua Ca Lợi. Nhưng
Đức Phật cầu thỉnh với các vị thiện thần :"Đừng trách ông ta, ông ta đến
khảo nghiệm tôi, để tôi thành tựu đạo nghiệp. Tương lai khi tôi thành Phật, thì
trước hết tôi sẽ độ ông ta". Tuy nhiên Ngài A Nhã Kiều Trần Như đối xử rất
thậm tệ với Phật, nhưng Đức Phật thành Phật rồi thì độ ông ta trước nhất.
"A Nhã" nghĩa là "giải bổn tế" cũng gọi là khai ngộ đầu
tiên.
2. "Ma Ha Ca Diếp".
Ma Ha nghĩa là "lớn" (đại), do đó Ma Ha Ca Diếp tức là Đại Ca Diếp.
Ca Diếp dịch là "ẩm quang", còn gọi là "Đại quy thị". Đại
Quy Thị là họ của Ngài, vì khi tổ tiên của Ngài tu đạo, thì thấy một con rùa
lớn cõng trên lưng một họa đồ, cho nên lấy đó mà làm họ.
Tên của Ngài Đại Ca Diếp là Tí Bát La. Tí Bát La là tên cây, vì cha mẹ của Ngài
cầu nguyện với cây này mà sinh ra Ngài, cho nên lấy Tí Bát La làm tên, và trên
thân của Ngài có quang minh, che lấp hết các quang minh khác, giống như uống
(ẩm) hết tất cả quang minh khác. Sao Ngài lại có quang minh ? Có câu chuyện như
vầy : Vợ của Ngài (Tỳ Kheo Ni Tử Kim Quang) trong quá khứ là một người nữ rất
nghèo nàn. Sau khi Đức Phật Tì Bà Thi diệt độ, có người làm tháp thờ Phật và tạo
tượng Phật, trải qua thời gian lâu thì tháp cũng hư hoại mà tượng cũng hư. Do
đó, người nữ này thấy vậy bèn phát bồ đề tâm muốn sơn sửa lại tượng Phật ở
trong Chùa, cho nên cô ta đi các nơi xin tiền, mỗi ngày tiền xin được thì mua
vàng, khổ nhọc trải qua mười chín năm, số vàng tích tụ cũng không ít, cô ta mời
một thợ đúc vàng đến để thếp vàng tượng Phật. Khi thợ đúc vàng biết cô ta cực
khổ như thế, khiến cho ông ta rất cảm động, ông ta bèn đi quyên mọi người thêm
để tu bổ tượng Phật, cho nên ông ta cũng phát tâm muốn giúp đỡ cô ta làm. Hai
người cùng nhau trùng tu Chùa và tượng Phật lại đẹp đẽ rồi, ông thợ vàng xin cầu
hôn với người nữ nghèo đó, người nữ nghèo cũng vui vẻ đáp ứng. Hai người kết
hôn rồi thì phát nguyện : đời đời kiếp kiếp đều muốn làm vợ chồng. Vì thếp vàng
tượng Phật, cho nên hai người thân thể đều phóng kim quang, do đó khi Ngài Ca
Diếp ra đời thì trên thân có kim quang (áng sáng vàng). Sau khi Ngài lớn lên,
cha mẹ của Ngài muốn Ngài cưới vợ, Ngài nói :"Thân của con phóng kim quang,
thì phải tìm người nữ trên thân cũng có kim quang, thì con mới cưới cô ta, nếu không
thì con sẽ sống độc thân". Thời gian sau tìm được một người nữ trên thân cũng
phóng kim quang, cho nên hai người kết hôn với nhau. Hai người kết hôn rồi đều
cùng xuất gia tu đạo, chứng được quả vị A La Hán rồi, mới biết trong quá khứ đã
từng phát nguyện, đời đời kiếp kiếp đều muốn làm vợ chồng.
Bạn đừng lầm rằng họ phát nguyện đời đời kiếp kiếp làm vợ chồng mà nói rằng
:"Tương lai tôi gặp người nam (người nữ), tôi cũng muốn y phát nguyện như
thế, đời đời kiếp kiếp đều làm vợ chồng". Tuyệt đối đừng như thế, họ phát
nguyện đời đời kiếp kiếp làm vợ chồng là muốn tu đạo, đều phải quy y Tam Bảo,
xuất gia tu đạo, bạn đừng phát nguyện đời đời kiếp kiếp làm vợ chồng, vì càng
làm càng đọa vào địa ngục, phải xuất gia tu đạo mới có thể, cho nên Ngài Ca
Diếp và vợ của Ngài xuất gia đều chứng quả.
Ngài Ma Ha Ca Diếp là vị Tổ thứ nhất. Bạn có muốn gặp vị Tôn Giả này chăng ! Bây
giờ Ngài vẫn còn ở trong thế giới này, Ngài đang ngồi thiền nhập định trong núi
Kê Túc ở Tỉnh Vân Nam Trung Quốc. Ngài đợi đến khi Bồ Tát Di Lặc ra đời thành
Phật, thì đem y bát của Phật Thích Ca giao cho Đức Phật Di Lặc. Bây giờ Ngài
vẫn chưa viên tịch. Nếu các bạn ai thành tâm đến núi Kê Túc lạy Ngài Ma Ha Ca Diếp,
thì có thể sẽ thấy được Ngài. Tại núi Kê Túc thường có ba thứ quang minh :
Quang minh của Phật, quang minh màu vàng và quang minh màu bạc. Nếu ai có thành
tâm, không những có thể thấy quang minh, mà còn có thể nghe tiếng chuông. Tiếng
chuông đó dù ở ngoài mấy trăm dặm cũng có thể nghe được.
Ngài Ca Diếp là người lớn tuổi nhất trong số đệ tử của Đức Phật, cũng là người
tu khổ hạnh bậc nhất. Nhưng Ngài càng già thì càng có tinh thần sức lực. Cha mẹ
của Ngài, người ở nước Ma Kiệt Đà, giàu có vô cùng, có thể nói "Phú khả
địch quốc", mà vua nước Ma Kiệt Đà cũng từng lạy Ngài làm thầy, nhưng từ
khi Ngài theo Phật xuất gia tu đạo, thì không những đem tài sản ra bố thí mà
còn chuyên môn hành đầu đà khổ hạnh, chịu khổ chịu cực. Một ngày nọ, khi Đức
Phật thuyết pháp thì đức Phật chia cho Ngài nửa tòa ngồi, kêu Ngài Ca Diếp cùng
ngồi. Lúc đó Ngài Ca Diếp đã già lắm, khoảng một trăm bốn mươi lăm tuổi. Đức
Phật nói với Ngài Ca Diếp :"Ông tuổi đã quá lớn rồi, tinh thần chắc chắn
không được sung túc, ông hành đầu đà khổ hạnh sợ chịu không được. Ông đừng hành
khổ hạnh nữa, thay đổi ăn uống ngon một chút, mặc tốt hơn một chút, ở chỗ thích
hợp hơn một chút !" Nhưng Ngài cũng nghe lời của Đức Phật, Ngài vẫn cứ hành
khổ hạnh. Do đó, Ngài được Đức Phật khen ngợi :"Phật pháp của ta trụ thế
lâu dài, là có quan hệ rất lớn với sự tu hành đầu đà khổ hạnh của Đại Ca Diếp.
Nếu cứ tu hành đầu đà khổ hạnh như thế, thì Phật pháp của ta nhất định trụ thế
lâu dài". Cho nên, Tổ Sư Ma Ha Ca Diếp là người tu hành đầu đà khổ hạnh
bậc nhất.
Một lần nọ, đức Phật đang muốn thuyết pháp, thì có một vị trời Đại Phạm Thiên, lấy
cành hoa Kim Ba La đến cúng dường Đức Phật. Vị trời đó nằm dưới đất thỉnh Đức
Phật ngồi lên thân của ông để thuyết pháp. Đức Phật ngồi lên trên thân vị trời
đó, tay cầm cành hoa dơ lên trước đại chúng trời người trăm vạn người và mở nụ
cười, khi Đức Phật cười thì Ngài Ca Diếp cũng cười. Cho nên đó gọi là
:"Niêm hoa vi tiếu, truyền Phật tâm ấn". Đức Phật bèn nói :"Ta
có chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, giáo ngoại
biệt truyền, lấy tâm ấn tâm, đã phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp". Do đó, Ngài
Ma Ha Ca Diếp trở thành vị Tổ thứ nhất. Đức Phật chỉ truyền cho Ngài Ca Diếp,
Ngài Ca Diếp lại truyền cho Tổ thứ hai Ngài A Nan, Ngài A Nan lại truyền cho Tổ
thứ ba Thương Na Hòa Tu, Ngài Thương Na Hòa Tu lại truyền cho Tổ thứ tư Ưu Ba
Cúc Đa .v.v., một đời truyền xuống một đời đều dùng tâm ấn tâm. Từ sơ Tổ truyền
đến Tổ thứ hai mươi tám Bồ Đề Đạt Ma. Tổ Bồ Đề Đạt Ma đem tâm ấn của Phật mang
đến Trung Quốc, truyền cho Tổ thứ hai là Huệ Khả. Ngài Huệ Khả lại truyền cho
Tổ thứ ba là Tăng Xán .v.v., cho đến Lục Tổ Huệ Năng. Về sau thì một hoa nở năm
cánh, phân ra : Tông Lâm Tế, Tông Pháp Nhãn, Tông Tào Động, Tông Quy Ngưỡng và Tông
Vân Môn. Cho đến hiện tại Phật pháp lại truyền đến tây phương, đó là sơ lược về
Tổ sư tương truyền.
"Mười hai hạnh đầu đà khổ hạnh". Nay giảng sơ lược về hạnh đầu đà khổ
hạnh vừa mới đề cập đến ở trên. "Đầu đà" là tiếng Phạn, dịch là "phấn
chấn", nghĩa là phấn chấn tinh thần ; như khi đả thiền thất thì thường nói
phấn chấn tinh thần, không sợ khổ, càng khổ thì càng nỗ lực. Giống như Ngài Ca
Diếp già như thế, mà cũng hành hạnh đầu đà, phấn chấn tinh thần hành mười hai
hạnh đầu đà.
1. Mặc y bá nạp. Y bá nạp còn gọi là y phấn tảo, tức là tấm y vốn có trăm ngàn lỗ
rách, nhưng mỗi khi rách thì vá lại, chẳng biết vá bao nhiêu lần mà nói. Tấm y
này người khác chẳng ai muốn mặc. Người xuất gia nhặt vải vụn ở trong đống rác,
rồi giặt sạch mà may vá thành y để mặc. Mặc y này tốt ở chỗ nào ? Nếu nói ra
thì nhiều lắm. Ví như bạn mặc y này lên, thì chẳng còn tâm tham, cũng diệt trừ tâm
tham của người khác. Những Tỳ Kheo khác thấy bạn mặc y lam lũ mà không mặc y tốt,
họ cũng phát khởi đạo tâm để tu đạo. Hơn nữa, bạn mặc y rách nát lam lũ, thì
trộm cướp nhất định không trộm cướp của bạn. Vào năm 1948, tôi ở tại chùa Nam
Hoa thì có bọn cướp đến cướp Chùa. Chúng phá cửa xông vào, lập tức kêu tôi đưa
tiền ra, tôi bèn nói :"Các anh xem, tôi mặc y như thế này, có giống người
có tiền chăng ?" (Lúc đó tôi mặc y như lúc tôi mặc y thủ hiếu bên cạnh mộ
của mẹ tôi, thủ hiếu xong rồi, tôi vẫn luôn luôn mặc nó để làm kỷ niệm mẹ của
tôi. Vì tấm y đó đã rách nát, cho nên khi ở tại Đông Bắc (Trung Quốc), ai quy y
với tôi thì vá cho tôi một miếng vào cái y đó, do đó tấm y đó có rất nhiều lỗ
vá). Tuy nhiên, tôi nói với bọn cướp trong phòng có báu vật, kêu chúng có thể
đi vào mà lấy, song, những tên cướp thấy tôi mặc y như thế, cũng chẳng vào
phòng cướp lấy gì cả, bèn bỏ đi hết. (Thật tế, trong phòng thật có hai báu vật
sống, đó là hai chú Sa Di sợ hãi nằm dưới gầm giường).
Hơn nữa, bạn mặc y phấn tảo thì người giàu cũng xa lìa bạn, như thế thì ít bị quấy
nhiễu, còn có điểm tốt quan trọng nhất là người nữ cũng xa lìa bạn. Tu đạo, nếu
mặc y như thế thì lâu dần sẽ có một hương vị rất kỳ đặc, nhưng hương vị này đối
với người nữ mà nói thì đó là mùi thối, cho nên mặc y phấn tảo có rất nhiều chỗ
tốt nói không hết được.
2. Chỉ có ba cái y. Tỳ Kheo hành hạnh đầu đà chỉ có ba tấm y, do đó
:"Ngoài thân chẳng vật gì khác, cũng chẳng có phiền não gì phát sinh".
Ba y tức là :
Thứ nhất là Tổ y, còn gọi là đại y, tiếng Phạn gọi là y Tăng già lê, dịch là
"y hai mươi lăm điều". Y hai mươi lăm điều, bốn dài một ngắn, cộng
thành một trăm hai mươi lăm ô, đó là biểu thị hình tướng của ruộng phước, cho nên
còn gọi là y phước điền. Y này nếu vào cung vua, tụ lạc khất thực, thuyết pháp
thì mới mặc.
Thứ hai là y bảy điều, y bảy điều hai dài một ngắn, cộng thành hai mươi mốt ô, tiếng
Phạn gọi là y Uất Đa La Tăng, dịch là "y nhập chúng". Khi lễ bái,
tụng Kinh, nghe pháp, hội họp với đại chúng .v.v., thì mặc y này.
Thứ ba là y năm điều, y năm điều một dài một ngắn, cộng thành mười ô, tiếng
Phạn gọi là y An Đà Hội dịch là "y chấp tác", khi làm việc chấp tác
mọi nơi đều mặc y này. Nếu Tỳ Kheo hành hạnh đầu đà, thì chỉ có ba y này và bình
bát với tọa cụ. Bình bát là cái bát của Tỳ Kheo dùng để ăn cơm, tọa cụ dùng để
trải lễ Phật ở trong chánh điện.
3. Khất thực : Mỗi ngày khi đến giờ ăn thì vào thành, vào làng khất thực, chứ mình
chẳng nấu nướng gì cả.
4. Khất thực có thứ tự : Nghĩa là khi đi khất thực, thì không lựa nhà giàu hoặc
nhà nghèo, mục đích là tiêu diệt tâm phân biệt mà hành bình đẳng, đó là hành vi
đại công vô tư.
5. Ngày ăn một bữa, tức là sáng cũng không ăn, chỉ ăn một bữa trưa. Ăn một bữa trưa
rất tốt nhưng đáng tiếc không dễ gì làm được. Tại sao ? Vì đói một chút thì
muốn ăn, cho nên đa số nhiều người chịu không được sự khổ hạnh ngày ăn một bữa.
Song, công đức ngày ăn một bữa nói không hết được. Tóm lại, bạn bớt ăn một chút
thì bớt một chút phiền não, ăn nhiều một chút thì phiền não cũng nhiều một
chút. Ngoài ra, khi Tỳ Kheo ăn cơm thì phải có ba quán niệm và năm điều quán
tưởng.
Ba quán niệm : Thứ nhất : Nguyện dứt tất cả điều ác. Thứ hai : Nguyện tu tất cả
điều lành. Thứ ba : Thệ độ tất cả chúng sinh.
Năm điều quán tưởng :
Thứ nhất : "Kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ". Nghĩa là : hãy tính
xem vật ăn phải tốn bao nhiêu công nhân mới làm thành. Ví như sự hình thành một
hạt gạo, phải trải qua gieo giống, tưới nước, bón phân, nhổ cỏ .v.v., bao nhiêu
là sự khổ cực, cho nên làm được hạt gạo rất khó khăn vô cùng, đến nơi cũng
không dễ. Cho nên có câu :
"Giữa nắng trưa gay gắt,
Nông dân nhọc nhằn cuốc,
Mồ hôi đổ trên lúa,
Bưng bát cơm ai biết,
Mỗi hạt bao đắng cay".
Do đó, chúng ta mỗi người nên thương tiếc vật chất, tiết kiệm, đừng tùy tiện
lãng phí, mà hãy nghĩ đến nó, đến nơi không dễ dàng. Tại sao trên thế giới này
có những nước thiếu lương thực, nhân dân chẳng có cơm ăn ? Vì lãng phí vật chất
quá nhiều, cho nên chẳng có cơm ăn. Chúng ta là người tin Phật, nhất là đối với
nhân quả phải cẩn thận, vật chất, ẩm thực, tài vật, bạn dùng được thì dùng, không
dùng được thì cho người khác dùng, nhưng đừng có tùy tiện vứt đi, do đó:
"Trong bếp có cơm dư,
Ngoài đường có kẻ đói".
Cho nên trong nhà nếu còn cơm dư, thì hãy bố thí cho người không có cơm ăn,
đừng vứt đi.
Thứ hai : "Thổn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng". Nghĩa là : hãy
nghĩ xem mình có công đức gì, đáng thọ thập phương cúng dường, độ lượng đức
hạnh của mình có đủ chăng ? là đủ hay thiếu ? đáng thọ lãnh của thí chủ cúng dường
chăng ? nếu đức hạnh không đủ thì hãy mau dụng công tu đạo.
Thứ ba : "Phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tông. Nghĩa là : phòng ngừa tâm
của mình, lìa khỏi mọi lỗi lầm. Lìa khỏi lỗi lầm gì ? Tức là lìa khỏi tham sân
si ba độc. Ăn vật ăn thì đừng phân biệt vật ngon hay dở, đừng nên vật ngon thì
ăn nhiều, vật dở thì không ăn, như thế thì không đúng.
Thứ tư : "Chánh sự lương dược, vi liệu hình khô". Khi Tỳ Kheo ăn cơm
thì nghĩ rằng vật ăn vào dùng làm thuốc, để cho thân thể khỏi khô héo, nếu
không ăn thì không thể sinh tồn.
Thứ năm : "Vi thành đạo nghiệp, ưng thọ thử thực". "Tại sao tôi
phải ăn cơm ? Vì muốn dụng công tu đạo, nếu tôi không ăn cơm thì đứng không
vững, ngồi không yên. Vì tôi muốn tu đạo, cho nên không thể không ăn".
6. Ăn có tiết lượng. Tức là phải có sự tiết chế đối với thức ăn uống, ăn có số lượng.
Không thể cảm thấy vật ăn ngon, ăn xong rồi lại muốn ăn nữa, luôn luôn nghĩ nhớ
không quên, như thế thì chẳng có tiết lượng. Bất cứ thấy vật gì ngon, nếu mỗi
bữa ăn hai bát, thì nhất định ăn hai bát. Không thể nói vật này không ngon thì
tôi ăn một bát, khi vật ăn ngon thì ăn ba bát, mà chẳng tiết chế chút nào.
Người hành hạnh đầu đà thì vốn ăn hai bát mới no, nhưng chỉ ăn một bát rưỡi, tiết
lượng bát ăn một chút, đó là ăn có tiết lượng.
7. Quá giờ ngọ không uống nước có chất bổ. Không uống sữa, nước trái cây, cà
phê, trà hoặc mật ong, mà chỉ uống nước lạnh. Song, điều này rất khó hành, vì
ngay cả trà cũng liệt vào chất bổ, không được uống, cho nên không dễ gì hành
được. Đó là năm điều khổ hạnh về ăn uống, dưới đây nói về khổ hạnh chỗ ở.
8. Ở nơi A Lan Nhã. A Lan Nhã là tiếng Phạn, dịch là "nơi vắng lặng".
Vắng lặng tức là nơi không ồn ào, chẳng có bất cứ âm thanh gì. Nơi đây là ở
trong rừng núi, trong thâm cốc, hoặc là nơi xa thành thị, là nơi tu hành tốt nhất
cho người tu hành.
9. Ở dưới gốc cây. Người hành hạnh đầu đà thì ở dưới gốc cây. Tại sao? Vì người
tu đạo lấy trời đất làm nhà, đi khắp nơi đều ở được, nhưng không ở quá mỗi gốc
cây ba đêm, vì người tu đạo chân chánh thì rất thanh cao, vì tránh cho người
biết họ để đến cúng dường, cho nên ở dưới gốc cây chừng hai đêm thì bỏ đi, để
tránh có người muốn đến cúng dường, đó là không cầu bất cứ ai cúng dường.
10. Ở ngoài trời. Người tu đạo ở ngoài trời, thật là lấy trời đất làm phòng,
tức có ánh sáng của trăng sao, đời sống như thế, sao mà quá tự tại tiêu dao, do
đó có câu :
"Nguyệt đáo thiên tâm xứ,
Phong lai thủy bất thức,
Nhất cổ thanh dị vị,
Lược đắc thiểu nhân tri".
Đời sống thiên nhiên như thế, rất ít người lãnh hội được những chỗ áo diệu của
nó.
11. Ở ngoài nghĩa địa, tức là ở với người chết, làm bạn với ma quỷ. Tại sao ?
Vì ngồi ở trong mồ mả thì mình có thể tu quán về vô thường, thấy rõ đời người
là vô thường, bất cứ sớm tối trước sau gì cũng sẽ chết, chết rồi thì chôn cất
vào mộ, hóa thành đống xương trắng. Ngồi trong mộ tu đạo, thì có thể giác ngộ
tất cả đều là vô thường, do đó sẽ không sinh ra đủ thứ tâm tham sân si, mà cũng
chẳng có chấp trước.
12. Lưng không chạm đất. Ở Ấn Độ, có vị Hiếp Tôn Giả, suốt đời không bao giờ
nằm, mà luôn luôn ngồi không nằm. Nếu ngủ nằm thì càng ngủ càng muốn ngủ mà
chẳng muốn dậy. Song, nếu thường ngồi không nằm thì ngủ một giấc sẽ tỉnh dậy,
tỉnh dậy rất dễ dàng dụng công tu hành tham thiền. Cho nên thường ngồi không
nằm về phương diện tu hành giúp ích không ít.
Nếu hành được một hoặc hai hạnh đầu đà vẫn tốt như thường, tùy theo khả năng
của mình. Ngài Ca Diếp tuy rất già nua, nhưng Ngài vẫn hành mười hai hạnh đầu
đà, cho nên Ngài là người hành đầu đà đệ nhất.
3. Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp
4. Già Gia Ca Diếp
5. Na Đề Ca Diếp
Ba anh em này trước khi quy y với đức Phật, thì đều thờ thần lửa ngoại đạo. Các
vị này cho rằng lửa là thần thánh cao nhất, là mẹ của vạn vật, cho nên chuyên
môn cung kính lửa, lạy lửa. Bạn nói họ có ngu si chăng ? Lạy lửa lại có ích gì
?
"Ưu Lầu Tần Loa" là tiếng Phạn dịch là "rừng mộc qua", Ngài
hoan hỉ nhất là tu đạo trong rừng mộc qua. Ngài và năm trăm đệ tử của Ngài ở
bên bờ sông Ni Lạc Ca. Hai người em cùng ở chung với Ngài. "Già Gia" dịch
là "thành", hoặc là "núi đầu voi", vị này có ba trăm vị đệ
tử. "Na Đề" dịch là "sông", vị này có hai trăm vị đệ tử,
cho nên anh em Ca Diếp cộng lại được một ngàn vị đệ tử.
Đức Phật ngộ đạo rồi, bèn đi đến Vườn Nai độ năm vị Tỳ Kheo Kiều Trần Như. Độ xong
rồi, Ngài quán sát người kế tiếp phải độ là ba anh em Ca Diếp, do đó đức Phật
tìm đến Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp, Phật biết nếu độ được vị này, thì hai người em
kia và tất cả các đệ tử cũng đều độ được, song, Phật không thể nói toạc ra ý
nghĩ đó, cho nên dùng phương tiện khéo léo nói :"Trời đã tối rồi ! Tôi
không thể tiếp tục đi nữa, có thể nào cho tôi tá túc trong động của ông một đêm
được chăng ?" Ưu Lầu Tần Loa nói :"Có một con rồng lửa hung ác ở
trong động đó, nó nhất định thiêu chết ông". Nhưng Đức Phật nói :"Chẳng
có vấn đề gì, nó không thể làm thương hại đến tôi". Do đó, Ưu Lầu Tần Loa
mời Đức Phật vào trong sơn động đó ở. Quả nhiên nửa đêm, con rồng lửa thật lớn,
miệng phun ra lửa muốn thiêu chết Đức Phật. Song, Đức Phật đã nhập định hỏa quang
tam muội, chẳng bị tổn thương chút nào. Lúc đó, Đức Phật dùng thần lực nhiếp rồng
bỏ vào trong bình bát, sau đó nói pháp cho nó nghe, rồng chịu quy y với Phật.
Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp quá đỗi kinh ngạc. Tuy nhiên, Ngài cho rằng mình là người
tu hành có công phu, nhưng không thể bì được cảnh giới và thần lực của đức
Phật, cho nên đem năm trăm đệ tử cùng quy y với đức Phật. Khi hai người em nghe
tin Ngài đã xuất gia theo Phật, cũng phát tâm muốn xuất gia và đem hết các đệ
tử gia nhập vào trong Tăng đoàn. Xuất gia chẳng bao lâu, ba anh em đều chứng
quả A La Hán.
6. Xá Lợi Phất
Khi Xá Lợi Phất chưa ra đời, thì mẹ của Ngài thường biện luận với cậu của Ngài
(Ma Ha Câu Hi La), nhưng đều bị thua. Song, từ khi mang thai Ngài Xá Lợi Phất
thì rất là kỳ lạ, tức là mẹ của Ngài biện luận với cậu của Ngài thì ngược lại
cậu của Ngài đều bị thua. Cho nên, Ma Ha Câu Hi La biết được cậu bé ở trong
thai của chị mình, nhất định là người có đại trí huệ. Tại sao ? Vì ông ta biết
trước kia chị của mình đâu có thông minh như thế, mà bây giờ lại thông minh
lanh lợi, chắc chắn đứa bé trí huệ đó giúp cho bà ta. Ma Ha Câu Hi La cảm thấy
bản lãnh của mình không đủ, nếu tương lai biện luận với cháu của mình mà thua
thì mất mặt, do đó ông ta đi về phía nam Ấn Độ tìm thầy học pháp. Ngày đêm chỉ
lo chuyên tâm học, chẳng có thời gian để cắt tóc, cạo râu, cắt móng tay, mà để
móng tay dài ra, cho nên đa số đều gọi Ngài là "Trường Trảo Phạm Chí"
(Ông Phạm Chí móng tay dài).
Khi Ngài học y, bói, xem tướng, chiêm tinh, biện luận .v.v. , xong hết rồi, thì
trở về nhà gặp chị của Ngài, tìm Xá Lợi Phất. Song, chị ông ta nói Xá Lợi Phất
đã theo Phật xuất gia rồi, ông ta tức khắc sinh tâm kiêu ngạo nói :"Cháu
ngoại của ta mới tám tuổi đã đăng tòa thuyết pháp, danh đồn khắp nơi, mấy trăm luận
sư đều bị cậu ta luận bại, là cậu bé thông minh như thế, sao lại có thể theo vị
Sa Môn xuất gia ? thật là đáng tiếc ! Tôi phải đi gặp vị Sa Môn đó, xem thử ông
ta có bản lãnh gì ?" Do đó, Ma Ha Câu Hi La đi gặp Đức Phật, ông ta gặp
Đức Phật đem hết phương pháp sở học ra, cũng chẳng cách chi biện luận thắng
được Đức Phật, cuối cùng ông ta lập tông với Phật. Phật hỏi ông ta :"Ông lấy
gì làm tông ?" Ông ta đáp :"Tôi lấy không thọ làm tông, bất cứ Ngài
giảng đạo lý gì, tôi cũng chẳng lý tới, cũng chẳng tiếp thọ, xem thử Ngài có
biện pháp gì ?" Phật nói :"Tốt ! Ông lấy không thọ làm tông, vậy ông đã
thọ chấp kiến không thọ của ông hay chưa ?" Phật hỏi như vậy, đúng là hỏi
ngược lại ông ta ! Nếu nói thọ thì vốn chẳng có tông này, càng trái ngược với
mình. Trước khi biện luận, ông ta đánh cá với Phật :"Nếu tôi biện luận thua
thì hãy cắt đầu của tôi xuống, nếu Ngài thua thì phải trả lại đứa cháu của
tôi". Nhưng khi luận thua thì ông ta bỏ chạy, không muốn cắt đầu, chạy
chẳng bao xa thì nghĩ lại :"Mình là nam tử hán đại trượng phu, nói ra thì
phải giữ lời, sao lại nuốt lời ? Thôi hãy trở lại chịu cắt đầu !" Do đó
chạy lại chỗ đức Phật muốn lấy đao cắt đầu, nhưng Phật nói :"Ở trong Phật
pháp của ta chẳng có phương pháp này, ông biện luận thua là người thua cuộc, hà
tất phải cắt đầu". Sau đó Phật thuyết pháp cho ông ta nghe, ông ta lập tức
khai mở pháp nhãn, đắc được pháp nhãn thanh tịnh, biết Phật pháp áo diệu vô
cùng, mà pháp của mình học là pháp ngoại đạo, chẳng bằng một trong vạn phần của
Phật pháp. Cho nên, ông ta không những không đòi cháu về, ngược lại cũng theo
Phật xuất gia, đó là một đoạn nhân duyên của Ngài Xá Lợi Phất và cậu của Ngài
Ma Ha Câu Hi La.
Xá Lợi Phất là tiếng Phạn, dịch là "phu tử", lại gọi là "châu
tử" hoặc "phân tử". Vì mẹ của Ngài gọi là "Thu", có
cặp mắt rất xinh đẹp như chim Thu, cho nên gọi là Thu. Và mắt mẹ của Ngài cũng
giống như hạt châu, cho nên gọi là châu. "Phất" nghĩa là con.
Xá Lợi Phất trí huệ đệ nhất, đồng thời thần thông cũng lớn vô cùng. Có một lần,
Ngài Mục Kiền Liên và Ngài so sánh thần thông. Khi Đức Phật đi đến đâu thuyết
pháp, thì tất cả các đệ tử đều theo đi nghe pháp. Chỉ có lần đó Ngài Xá Lợi
Phất đang vá y, Ngài Mục Kiền Liên bèn giục hối Ngài đi, nhưng giục hối cách
nào Ngài cũng khẳng định vá tấm y xong rồi mới đi, do đó Ngài Mục Kiền Liên dùng
thần thông khiến cho tấm y xếp lại, Ngài Xá Lợi Phất để tấm y bên phải nói
:"Nếu bạn giở nổi tấm y lên, thì tôi sẽ đi với bạn". Ai biết, dùng
hết tất cả thần thông, không những không thể giở tấm y lên được, mà tấm y cũng chẳng
nhúc nhích tí nào. Bạn thấy trí huệ của Ngài Xá Lợi Phất lớn hơn so với thần
thông ! Bổn lai Mục Kiền Liên là thần thông đệ nhất, nhưng so sánh với trí huệ
của Ngài Xá Lợi Phất thì đấu không qua Ngài được, đủ thấy trí huệ quan trọng
hơn hết, thần thông là thứ yếu.
7. Đại Mục Kiền Liên.
Mục Kiền Liên là tiếng Phạn, dịch là "lai bặc căn" hoặc là "thái
thúc thị", tên của Ngài là Tí Lợi Bát (tên một thứ cây), vì cha mẹ của Ngài
cầu nguyện với cây Tí Lợi Bát mà sinh ra Ngài, cho nên lấy tên này làm tên,
nhân duyên giống như Ngài Ca Diếp.
Tuy nhiên mẹ của Ngài Mục Kiền Liên cầu thần, nhưng không tin Phật, Pháp, Tăng,
cũng chẳng cung kính Tam Bảo, mà phỉ báng phá hoại Tam Bảo. Do đó, bà ta chết
rồi bị đọa vào địa ngục. Khi Ngài Mục Kiền Liên chứng đắc ngũ nhãn lục thông
rồi, bèn quán sát khắp thế giới tìm mẹ của Ngài, thì thấy mẹ của Ngài ở trong
địa ngục làm ngạ quỷ, chịu vô lượng thống khổ. Ngài Mục Kiền Liên thương xót
buồn rầu, mới mang một bát cơm đến cho mẹ ăn, nhưng cơm vừa tới miệng thì hóa
thành lửa than. Tại sao ? Vì mẹ của Ngài tội lỗi sâu nặng, cho nên bất cứ ăn
vật gì vào đến miệng của bà ta đều hóa thành lửa, mà ăn chẳng được.
Mục Kiền Liên tuy là thần thông đệ nhất, mà cũng chẳng cách chi cứu được mẹ của
Ngài, do đó mới đi tìm đức Phật, khóc lóc nói :"Mẹ của con đọa vào địa
ngục làm ngạ quỷ, con mang cơm đến cho bà ăn, nhưng khi cơm đến miệng thì biến
thành lửa than, nay con cầu Đức Thế Tôn từ bi thương xót, cứu mẹ của con".
Đức Phật nói :"Vì mẹ của con phỉ báng Tam Bảo, tội nghiệp quá nặng, sức
của một mình con chẳng thể cứu đặng, nếu muốn cứu mẹ của con thì vào ngày rằm
tháng bảy, cũng là ngày Phật hoan hỉ, lúc chư Tăng tự tứ, thiết lễ Vu Lan Bồn
để cúng dường mười phương Phật Pháp Tăng, ngày đó, nếu con cúng dường Tam Bảo, thì
mẹ của con sẽ lìa khổ được vui". Ngài Mục Kiền Liên nghe rồi, y theo
phương pháp của Phật, thiết lễ Vu Lan Bồn để cúng dường Tam Bảo, khiến cho mẹ
của Ngài lìa khỏi cảnh khổ trong địa ngục, mà sinh về cõi trời hưởng sự sung
sướng.
Cho nên mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, mỗi Chùa đều làm lễ Vu Lan, siêu độ cha
mẹ bảy đời và cha mẹ hiện tiền. Có người hỏi :"Nhưng cha mẹ của tôi chưa
chết ? Vậy tôi làm thế nào ?" Cha mẹ của bạn chưa chết thì bạn siêu độ cha
mẹ bảy đời quá khứ, cha mẹ còn sống cũng được lợi ích thêm phước sống lâu.
Thần thông của Ngài Mục Kiền Liên rộng lớn, là đệ tử Phật có thần thông đệ
nhất. Một lần nọ, Đức Phật lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp, đi ngang qua núi
Tu Di, gặp một con rồng độc. Con rồng độc này rất đố kị Đức Phật, muốn cản trở
đức Phật lên trời thuyết pháp, do đó miệng phun ra cát độc muốn hại chết đức
Phật. Nhưng Ngài Mục Kiền Liên dùng thần thông, biến cát độc thành bông tơ mềm
mại, làm cho rồng độc tức mình, do đó rồng độc lại hiện thân to lớn, cuộn tròn
ba vòng núi Tu Di, Ngài Mục Kiền Liên cũng hiện thân lớn hơn rồng độc, quấn núi
Tu Di chín vòng. Rồng độc thấy Ngài Mục Kiền Liên lợi hại hơn nó, nhưng nó vẫn chưa
chịu thua. Do đó, Ngài Mục Kiền Liên bèn biến thành con trùng nhỏ, chui vào
trong bụng rồng độc cắn ruột dạ dầy của nó đau đớn vô cùng, chịu hết nổi, rồng
độc cũng chẳng còn thần thông gì khác để chống chọi, cho nên chịu thuần phục
quy y Phật, do đó, đủ thấy thần thông của Ngài Mục Kiền Liên rộng lớn vô cùng.
Ngài Mục Kiền Liên tức cũng là Bồ Tát Địa Tạng Vương, vì thấy mẹ của Ngài thọ
khổ, mà không nỡ thấy tất cả chúng sinh thọ khổ, do đó Ngài phát nguyện muốn
làm Bồ Tát Địa Tạng Vương, vào địa ngục cứu giúp chúng sinh thọ khổ, lìa khổ
được vui, Ngài phát nguyện rằng :
"Địa ngục chưa trống không,
Thề không thành Phật.
Chúng sinh độ hết, mới chứng bồ đề".
8. Ma Ha Ca Chiên Diên.
Ma Ha nghĩa là "lớn". Ca Chiên Diên dịch là "văn sức". Văn
chương của Ngài rất sinh động, xuất sắc vô cùng. Ngài còn có tên là Phiến Thằng
(sợi dây), vì khi Ngài được sinh ra chẳng bao lâu, thì cha của Ngài qua đời, do
đó mẹ của Ngài muốn cải giá, nhưng có cậu bé Ca Chiên Diên này giống như sợi
dây trói buộc bà ta, nên không thể tùy ý cải giá. Ngài còn gọi là Hảo Kiên, vì
hai bắp vai của Ngài nhìn trông rất đẹp. Lại có cái tên nữa là Tư Thắng vì tư
tưởng của Ngài nhạy bén hơn người.
Ngài Ca Chiên Diên khéo về thuyết pháp, bất cứ giảng về đạo lý gì, Ngài cũng
đều đưa ra rất nhiều đạo lý, khiến cho người nghe tâm vui mừng kính phục, cho
nên trong mười đệ tử lớn của đức Phật, Ngài là người luận nghị đệ nhất.
Một lần nọ, có một vị ngoại đạo chuyên nói về đoạn kiến, gặp được Tôn Giả hỏi
rằng :"Phật giáo các Ngài nói : người chết rồi còn có đời sau, nhưng đạo
của tôi nói : người chết rồi chẳng có đời sau, tôi có lý do để bác Ngài. Ngài
nói người chết rồi lại có đời sau, còn đi thọ khổ, nhưng theo chỗ tôi biết thì
những người chết rồi, vốn chẳng có ai về nói họ thọ khổ gì, như vậy làm sao có
đời sau ? Cho nên tôi nói người chết như đèn tắt, nhất định chẳng có đời
sau".
Ngài Ca Chiên Diên đáp :"Người không trở về, giống như người phạm tội bị
người ta bắt đi nhốt vào ngục tù, họ còn có thể về nhà chăng ? Những người đọa
vào địa ngục cũng như thế !"
Vị ngoại đạo lại nói :"Nhưng những người sinh lên cõi trời, tôi cũng chẳng
thấy có người nào trở lại, ở trong địa ngục không được tự do, thì không thể trở
về, đó còn có lý do để nói, chứ đằng này sinh lên cõi trời là tự do, sao cũng
chẳng thấy họ trở về ?"
Ngài Ca Chiên Diên nói :"Người được sinh lên cõi trời, giống như người từ
hầm phân bò lên, dùng nước tắm rửa sạch sẽ rồi, họ còn muốn bò xuống hầm phân
nữa chăng ?"
Vị ngoại đạo lúc đó bí lối câm mồm chẳng nói được gì. Ngài Ca Chiên Diên lại
nói tiếp :"Một ngày một đêm trên trời Đao Lợi, là một trăm năm ở nhân gian
của chúng ta. Ông hãy nghĩ xem, những người sinh về cõi trời ít nhất họ cũng
phải nghỉ ngơi, dọn dẹp đâu đó cho gọn gàng mọi việc, cũng phải mất vài ba ngày,
tức là nhân gian khoảng hai ba trăm năm. Lúc đó, thì ông đã chết mất, xương cốt
chẳng còn, thì ông còn biết họ trở lại chăng ?" Đến đây vị ngoại đạo chẳng
còn gì để nói. Cho nên, Ngài Ca Chiên Diên là người luận nghị đệ nhất. Bất cứ
đạo lý gì đều có thể giảng, đầu đầu thì đạo, thao thao bất tuyệt, khiến cho
người nghe thấm nhuần vị đạo.
9. A Nậu Lâu Đà.
Vị Tôn Giả này tức là Tôn Giả Không Nghèo, còn gọi là A Na Luật. Trong vô lượng
kiếp về trước, Ngài từng cúng dường cho một vị Bích Chi Phật, nhưng lúc cúng
dường Ngài không biết vị đó là Bích Chi Phật. Nguyện lực của vị Bích Chi Phật
đó là : bảy ngày mới xuống núi một lần, hóa duyên bảy nhà, nếu bảy nhà không có
ai cúng dường, thì Ngài chẳng hóa duyên nữa mà trở về núi. Vốn bảy ngày vừa qua,
Ngài chẳng khất thực được gì, mà lần này cũng như thế, do đó vị Bích Chi Phật
lại phải ôm bát không trở về núi, vì đời sống của người dân lúc đó rất khó khăn
khổ sở, đâu có thức ăn dư mà bố thí cho người xuất gia. Ngài A Nậu Lâu Đà lúc
đó là người nông dân nghèo, mỗi ngày làm ngoài đồng rất vất vả mà ăn cơm rất
đạm bạc. Buổi trưa hôm ấy, Ngài thấy vị Tỳ Kheo già chẳng khất thực được gì, bèn
sinh tâm cảm động nói : "Ngài là người xuất gia tu đạo gặp lúc thất mùa
đói khát, chẳng có cơm ăn, thật là đáng thương. Ngài không hiềm cơm canh đạm
bạc thì con dâng cúng cho Ngài".
Vị Bích Chi Phật nói :"Ông chịu bố thí cho tôi thật là tốt, tôi sẵn sàng
nhận sự cúng dường của ông, nhưng ông lấy gì để ăn ?" A Nậu Lâu Đà nói
:"Hôm nay con không ăn cũng không sao". Do đó, vị Bích Chi Phật thọ
trai xong rồi, bèn hiển thần thông hiện mười tám thứ biến hoá, nói :"Ta đã
thọ sự cúng dường của ông, sau này đời đời kiếp kiếp ông sẽ chẳng còn nghèo khổ
nữa". Vị Tỳ Kheo hồi hướng cho ông rồi, Ngài A Nậu Lâu Đà tiếp tục làm
việc, chẳng bao lâu trong rẫy chạy ra một con thỏ. Con thỏ rất kỳ lạ, nhảy nhót
đùa giỡn chung quanh rồi chạy lên vai Ngài A Nậu Lâu Đà không chịu xuống. Ngài
A Nậu Lâu Đà lấy xuống mà không cách chi gỡ xuống được, mới trở về nhà, kêu vợ
của ông ta cầm con thỏ xuống. Cầm xuống thì con thỏ sống đã biến thành con thỏ bằng
vàng óng ánh sáng chói, do đó ông ta bèn chặt cái chân trước để đi bán lấy
tiền, nhưng cái chân bị chặt chẳng bao lâu lại mọc ra như cũ. Cho nên, từ đó về
sau Ngài A Nậu Lâu Đà không những đời này trở thành phú ông giàu có, mà cho đến
chín mươi kiếp cũng đều vinh hoa phú quý.
Đó là A Nậu Lâu Đà cúng dường cho vị Bích Chi Phật mà đắc được quả báo không
nghèo.
A Nậu Lâu Đà thích nhất là ngủ, có một lần đức Phật đang giảng Kinh thuyết pháp
mà Ngài ngủ gục, bị Phật quở trách, Ngài A Nậu Lâu Đà hổ thẹn vô cùng, mới phát
tâm tinh tấn dũng mãnh không ngủ. Bảy ngày bảy đêm không ngủ, mắt bị lòa. Đức
Phật thương xót mới dạy Ngài tu Tam muội Kim Cang Chiếu Minh. Không lâu, Ngài
đắc được thiên nhãn thông, thấy rõ ba ngàn đại thiên thế giới, như thấy trái Am
Ma La trong lòng bàn tay. Trong số đệ tử của đức Phật Ngài A Nậu Lâu Đà là
người có thiên nhãn đệ nhất.
10. Kiếp Tân Na.
Cha mẹ của Ngài Kiếp Tân Na đã bốn năm mươi tuổi mà chưa có con, do đó mới đến miếu
thờ vì sao thứ tư trong Nhị Thập Bát Tú để cầu con. Tâm thành sở chí, cảm ứng
linh nghiệm, chẳng bao lâu hạ sinh một đứa con, do nhân duyên đó cho nên đặt
tên là "Phòng Tú". Tôn giả Kiếp Tân Na tức là vì sao thứ tư đó. Trong
số đệ tử của Phật, Ngài là người tinh thuật học (giỏi về chiêm tinh) đệ nhất.
11. Kiều Phạm Ba Đề.
Vị Tôn giả này có động tác rất là kỳ quái, tức là mỗi khi ăn cơm xong, thì
giống như bò gặm cỏ, trong mồm cứ nhai nuốt không ngừng, cho nên gọi là Ngưu Từ
Tôn Giả, lại gọi là Ngưu Vương. Vì Ngài có tập khí này, cho nên Đức Phật sợ
người đời thấy Ngài mà sinh hủy báng, sẽ bị đọa lạc, do đó mới kêu Ngài lên
sống ở trên cõi trời, thọ nhận chư thiên cúng dường. Tại sao Ngài có tập khí
này ? Vì quả báo ác khẩu (chửi mắng). Vô lượng kiếp về trước, khi Ngài còn là
chú tiểu Sa Di, đã từng khinh mạn chửi mắng một vị Bích Chi Phật già, ăn cơm
như bò gặm cỏ, tuy vị Bích Chi Phật khuyên Ngài lập tức sám hối, song, Ngài
chẳng hổ thẹn chút nào, ngược lại còn bôi bác nói :"Sám hối cái gì ? Tôi
đâu có giống ông như thế !" Do chửi mắng khinh khi như thế, cho nên chết
rồi đọa làm bò năm trăm đời, về sau được chuyển làm thân người, nhưng không tránh
khỏi hình tướng tập khí làm bò, ăn rồi vẫn giống như bò gặm cỏ. Đó là vì quá
khứ đã phỉ báng vị Bích Chi Phật. Do đó, cử chỉ hành động gì chúng ta đều phải
cẩn thận, kiểm thảo phản tỉnh chính mình, đừng tùy tiện phỉ báng khinh khi phá
hoại người khác.
12. Ly Bà Đa.
Ly Bà Đa là tiếng Phạn, là vì sao thứ bảy trong Nhị Thập Bát Tú, cha mẹ của Ngài
cũng cầu sao mà được con. Ngài còn có tên là "Giả Hòa Hợp", trước khi
chưa xuất gia, Ngài nghèo khổ vô cùng, có lần đến ngủ ở trong miếu hoang. Ban
đêm có hai con quỷ, một lớn một nhỏ đến kéo theo một thây người chết. Hai con
quỷ gặp Ngài hỏi rằng :"Ê ! Ngươi muốn chúng ta ăn thây chết này, hay là
ăn ngươi !" Ngài Ly Bà Đa chẳng đếm xỉa gì đến bọn chúng, do đó hai con
quỷ thương lượng, con quỷ lớn thì ăn thây chết, con quỷ nhỏ thì xé từng bộ phận
của Ngài Ly Bà Đa đắp vào thây chết. Chẳng bao lâu, con quỷ lớn ăn hết thây chết,
đầu mắt tay chân đều bị con quỷ nhỏ đem ráp vào thây chết. Lúc đó, Ngài kinh
hãi vạn phần :"Toàn thân của tôi đã bị quỷ xé rách ra, bây giờ tôi chẳng
còn thân thể nữa, làm sao đây ?"
Ngài lập tức chạy về xóm làng, thấy người bèn hỏi :"Tôi có thân thể chăng
? Xin nói cho tôi biết !" Nhưng ai cũng đều cho rằng Ngài bị điên. Lát
sau, Ngài gặp một nhóm hoà thượng lại hỏi rằng :"Các vị có thấy tôi có thân
hay không ?" Trong số hoà thượng đó có vị đã chứng quả A La Hán, biết có thể
độ Ngài xuất gia mới nói :"Thân người vốn là giả mà chẳng tự có, nếu ông
tu hành chứng quả, đắc được tự tính quang minh, thì đó mới là chân thật không
giả, ông có hay không có nhục thân này lại có quan hệ gì ?" Ngài nghe như vậy
rồi bèn theo vị Hoà Thượng đó xuất gia, chẳng bao lâu thì Ngài khai ngộ. Vì Ngài
bị quỷ xé thân ăn, ngộ được lý thân người giả hợp, cho nên có tên là "Giả
Hoà Hợp".
13. Tất Lăng Già Bà Tha.
Tất Lăng Già Bà Tha dịch là "Dư Tập", vì Ngài chưa trừ khử sạch hết
tập khí nhiễm ô nhiều đời nhiều kiếp. Có một lần, Ngài đi qua sông thì kêu thần
sông ngưng nước lại đừng chảy, vị thần sông nầy là người nữ, do đó Ngài nói
:"Tiểu tì, ngưng chảy." Vì Ngài đã chứng quả A La Hán có thần thông.
Tuy nhiên nói như thế, nhưng thần sông cũng không dám không nghe chỉ thị của
Ngài, song, trong tâm rất bực bội, nhưng chẳng dám nói ra. Tình hình như thế
xảy ra nhiều lần, nữ thần sông không còn nhẫn nhịn được nữa bèn đi lên gặp Đức
Phật nói :"Đức Thế Tôn ! Ngài có vị đệ tử hiệu là Tất Lăng Già Bà Tha, vị
đó chẳng tôn trọng con chút nào, mỗi lần đến bờ sông của con thì nói
:"Tiểu tì, ngưng chảy. " Nói lời như thế thật là vô lễ, thật chẳng có
lễ độ đối với người." Đức Phật nói đợi vị ấy về thì sẽ bảo vị ấy xin lỗi
với thần sông. Chẳng bao lâu, Tôn Giả trở về, đức Phật nói với Tôn Giả :"Con
qua sông Hằng thì tại sao gọi thần sông : "Tiểu tì, ngưng chảy." Đó thật
là vô lễ, phải mau xuống xin lỗi với vị thần ấy." Do đó, Ngài Tất Lăng Già
Bà Tha đến bờ sông, chắp tay lại cười hì hì nói :"Ê ! Tiểu tì, đừng giận
!" Nói như vậy càng làm cho thần sông bực mình. Thần sông bèn nói với Đức
Phật :"Ngài thấy đó ! Đang ở trước mặt Ngài mà Tôn Giả nầy vẫn còn kêu con
như thế." Đức Phật nói :"Con không biết đâu ! Năm trăm đời về trước,
con là tôi tớ của Tôn Giả Tất Lăng Già Bà Tha, Tôn Giả kêu con "tiểu
tì" đã quen rồi, bây giờ tuy con làm thần sông, nhưng tập khí của Tôn Giả
vẫn chưa thay đổi. Vì các con có quan hệ chủ tớ như thế, cho nên Tôn Giả bây giờ
vẫn cứ gọi con là tiểu tì." Thần sông nghe Đức Phật nói như thế thì mới vỡ
lẽ. Cho nên Tôn Giả Tất Lăng Già Bà Tha tập khí nhiều đời nhiều kiếp vẫn còn,
cho nên gọi là "dư tập".
14. Bạc Câu La.
Tên của Tôn Giả nầy dịch là "Thiện Dung", đó là vì tướng mạo của Tôn
Giả đoan nghiêm trang trọng. Tôn Giả trong vô lượng kiếp về trước, chuyên tu
giới không sát sinh. Ngài chuyên môn tu giới nầy, không những biểu hiện bên
ngoài chẳng phạm giới, mà nội tâm bên trong cũng thanh tịnh trong sạch, chẳng
khởi ý niệm giết hại. Vì giữ gìn cẩn thận, cho nên cảm ứng được năm thứ quả báo
hại không chết.
Khi Ngài vừa mới sinh ra thì đã biết nói, vui vẻ tươi cười nói :"Cha mẹ,
cha mẹ." Rất kháu khỉnh dễ thương, nhưng cha mẹ sợ hãi hoảng hốt, cho rằng
Ngài là yêu ma quỷ quái chuyển thế. Do đó, mẹ của Ngài sinh tâm độc ác đem bỏ
Ngài vào lò nấu muốn nấu chín Ngài. Nhưng nấu mãi mà không chết, mà còn cười cho
rằng là trò chơi. Mẹ của Ngài nói :"Thằng nầy là yêu quái chẳng sợ lửa,
nhưng chắc chắn sẽ sợ nước." Do đó, đem bỏ Ngài xuống sông cũng không
chết.
15. Ma Ha Câu Hi La.
Tên của Tôn Giả nầy dịch là "Đại tất" (đầu gối to), vì đầu gối của
Ngài rất lớn. Ngài là cậu của Ngài Xá Lợi Phất, trước khi xuất gia Ngài biện
luận với Đức Phật, đánh cuộc rằng :"Nếu ta thua thì hãy chém đầu ta, nếu
ta thắng thì ta sẽ dẫn cháu về." Cuối cùng Ngài biện luận thua, nhưng Phật
không cần chém đầu Ngài mà thuyết pháp độ cho Ngài xuất gia. Ngài Ma Ha Câu Hi
La biện tài vô ngại, là người biện tài đệ nhất. Ngài với Tôn Giả Bạc Câu La đều
là thường tùy chúng của Đức Phật (Chúng luôn luôn đi theo Đức Phật).
16. Nan Đà.
Đức Phật có ba đệ tử đều gọi là Nan Đà : Nan Đà, A Nan Đà, Tôn Đà La Nan Đà. Vị
Nan Đà nầy là chỉ vị Phóng Ngưu Nan Đà (Nan Đà chăn bò), dịch là "Thiện
Hoan Hỉ". Vì Ngài hỏi đức Phật mười một việc chăn bò, biết đức Phật đầy đủ
Nhất Thiết Trí mới theo Phật xuất gia, chứng được quả A La Hán. Ngài rất thông
minh, có âm thanh tuyệt vời.
17. Tôn Đà La Nan Đà.
Tên của Tôn Giả nầy lấy theo tên vợ của Ngài (Tôn Đà La) mà làm tên, vì Ngài thương
mến lưu luyến vợ của Ngài. Tôn Đà La dịch là "hảo ái" hoặc là
"đoan chánh", tướng mạo của vợ Ngài là tuyệt thế giai nhân, là người
đẹp nhất trong xứ Ấn Độ. Do đó, Ngài Tôn Đà La Nan Đà rất thương yêu vợ vô
cùng. Khi đức Phật thấy Ngài nhân duyên đã chín mùi, muốn độ Ngài xuất gia
(Ngài là em cùng cha khác mẹ với Đức Phật). Nhưng Ngài chẳng bỏ được người vợ xinh
đẹp, cho nên chẳng muốn xuất gia. Do đó, đức Phật dùng phương tiện pháp môn.
Một ngày nọ, đức Phật vào vương cung khất thực, muốn Ngài ôm bình bát của đức Phật
về Tinh Xá Kỳ Hoàn, nhưng Ngài bước từng bước mà không muốn rời xa vợ, song
chẳng dám từ chối mạng lệnh của anh mình (đức Phật), do đó giải thích với vợ nguyên
nhân phải ra đi. Tôn Đà La nhổ nước bọt trong lòng bàn tay nàng, hạn định Tôn
Giả Nan Đà phải trở về trước khi nước bọt khô, nếu không thì cô ta sẽ không mở
cửa cho Tôn Giả Nan Đà vào.
Tôn Giả hứa sẽ trở về liền, không ngờ đến Tinh Xá Kỳ Hoàn rồi, Phật không cho Tôn
Giả về mà muốn Tôn Giả xuất gia, do đó xuống tóc cho Tôn Giả. Tuy nhiên đã xuất
gia nhưng hằng ngày Tôn Giả đều muốn tìm cơ hội trốn về nhà, vì Tôn Giả chưa xả
bỏ đặng nàng Tôn Đà La !
Đức Phật thấy Tôn Giả luôn luôn buồn rầu không vui, mới đưa Tôn Giả lên núi đi
du ngoạn. Đến trên núi thấy bầy khỉ đùa giỡn, đức Phật bèn hỏi :"Con hãy
so sánh bầy khỉ nầy với nàng Tôn Đà La ai đẹp hơn ? " Tôn Giả nói
:"Đương nhiên nàng Tôn Đà La đẹp hơn, bầy khỉ xấu xí làm sao sánh với nàng
Tôn Đà La." Đức Phật nói :"Con thật là thông minh, biết phân biệt đẹp
xấu, được rồi, chúng ta trở về." Trở về, Tôn Giả nhớ vợ không ngui, tuy
nhiên luôn luôn muốn trốn đi nhưng chẳng có cơ hội.
Phật thấy Tôn Giả buồn bã không vui, lần nầy Phật đưa Tôn Giả lên các cõi trời
du ngoạn, thấy thiên cung thật đẹp đẽ trang nghiêm, lại có một thiên cung, bên
trong có rất nhiều tiên nữ xinh đẹp tuyệt trần. Đức Phật hỏi Tôn Giả :"Con
thấy những vị tiên nữ nầy đẹp hay là nàng Tôn Đà La đẹp hơn ?" Tôn Giả nói
:"Đương nhiên là tiên nữ đẹp hơn, nàng Tôn Đà La sánh với tiên nữ cũng
giống như khỉ sánh với nàng Tôn Đà La, nàng Tôn Đà La sao có thể sánh với tiên
nữ được !" Tôn Giả thấy những tiên nữ đẹp mà chẳng thấy chủ nhân, do đó
mới hỏi tiên nữ :"Ai là chủ nhân của các vị ?" Tiên nữ đáp :"Chủ
nhân của chúng tôi là em của đức Phật, là Tôn Giả Tôn Đà La Nan Đà. Bây giờ anh
ấy đang theo đức Phật tu đạo, đời sau anh ấy sẽ sinh về cung trời nầy, chúng
tôi sẽ hầu hạ anh ấy." Tôn Giả nghe như vậy tâm mừng rỡ vô cùng, nghĩ rằng
:"Có những tiên nữ xinh đẹp như thế sẽ hầu hạ mình, mình nhất định phải
dụng công tu hành."
Lần nầy trở về, Tôn Giả đã hoàn toàn quên nàng Tôn Đà La, mà chỉ nhớ đến các tiên
nữ. Cho nên Tôn Giả thay đổi thái độ trước kia, ngược lại rất tinh tấn dụng
công tu hành, nhưng đức Phật biết Tôn Giả chỉ muốn tu để sinh về cõi trời làm
chủ nhân của các tiên nữ. Do đó, một ngày nọ, đức Phật đưa Tôn Giả đi xuống địa
ngục xem cho biết. Đến địa ngục thấy cảnh trạng thật thê thảm hãi hùng, nào là
: núi đao, chảo dầu sôi, hầm lửa, đủ các thứ địa ngục, khiến cho người thấy
toát mồ hôi, toàn thân run sợ ! Cuối cùng đến địa ngục nọ, thấy có hai con quỷ
giữ chảo dầu sôi mà chẳng thấy có ai ở trong đó, bèn hỏi quỷ rằng : "Sao trong
chảo dầu sôi nầy chẳng thấy có ai ?" Quỷ đáp :"Anh không biết đâu,
chảo dầu sôi này để dành cho em của đức Phật tức là Tôn Giả Tôn Đà La Nan Đà,
bây giờ đã theo Phật xuất gia tu đạo, nhưng chỉ muốn tu để hưởng phước cõi
trời, sau khi hưởng thụ hết phước cõi trời thì Tôn Giả sẽ đọa vào địa ngục, đợi
Tôn Giả sẽ vào chảo dầu sôi nầy." Tôn Giả nghe rồi thì toàn thân toát ra
mồ hôi run lập cập nghĩ :"Không xong rồi, nguyên lai chảo dầu nầy chuẩn bị
dành riêng cho ta, biết làm sao ?" Sau đó, Phật đưa Tôn Giả trở về nhân
gian, vì Tôn Giả mà nói về pháp môn : Khổ, không, vô thường, vô ngã. Lúc đó Tôn
Giả tinh tấn dụng công tu hành chẳng bao lâu chứng được quả A La Hán.
Tuy nhiên ban đầu Tôn Giả rất thương nhớ vợ, nhưng từ khi thấy các vị tiên nữ
quá xinh đẹp hơn vợ, thì Tôn Giả chẳng còn nhớ vợ nữa. Một khi biết được khổ ở
địa ngục thì mới chân chánh phát tâm tu hành. Nếu không biết khổ ở địa ngục,
thì Tôn Giả chưa chịu phát tâm tu hành.
18. Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử.
Phú Lâu Na dịch là "Mãn", là tên cha của Ngài. Di Đa La Ni dịch là
"Từ", là tên mẹ của Ngài. Nghĩa của tên là Mãn Từ Tử. Khi Ngài vừa ra
đời, thì chư thiên cõi trời mưa châu báu xuống nhà của Ngài đó là điềm cát tường.
Ngài là vị A La Hán thuyết pháp đệ nhất trong số đệ tử của đức Phật.
19. Tu Bồ Đề.
Khi Ngài sinh ra thì châu báu trong nhà đều không (biến mất hết), cho nên gọi
là Không Sinh. Cha mẹ của Ngài tìm thầy bói tướng xem thử, thì đoán rằng đó là
cát tường trong sự cát tường, do đó lại có tên là Thiện Cát, qua bảy ngày sau,
châu báu trong nhà đều xuất hiện trở lại, cho nên Ngài lại có tên nữa là Thiện
Hiện. Trong số đệ tử của Phật, Ngài là người giải không đệ nhất.
20. A Nan.
A Nan là vị Tôn Giả kết tập Kinh điển, là thị giả của Đức Phật. A Nan dịch là "Khánh
Hỉ", vì ngày Đức Phật thành đạo là ngày Ngài ra đời, cho nên cha mẹ của
Ngài quá đỗi vui mừng, do đó đặt tên là Khánh Hỉ.
21. La Hầu La.
Là con của đức Phật. Khi La Hầu La chào đời thì xảy ra việc thị phi phiền não rất
nghiêm trọng. Đức Phật đã xuất gia sáu năm, mà Da Du Đà La vợ của Ngài mới sinh
ra một đứa con, cho nên quyến thuộc của đức Phật giận dữ vô cùng, cho rằng công
chúa không giữ đạo làm vợ, do đó có người muốn trừng phạt công chúa, nhục mạ
công chúa, tiếng xấu đồn lan tràn khắp nơi :"Đức Phật đã xuất gia sáu năm mà
vợ của Phật mới mang bầu !" Tuy nhiên người trong cung nói với phụ vương
của đức Phật là bảo đảm công chúa chẳng làm chuyện đó, đứa con nầy chắc chắn là
con của đức Phật, nhưng chẳng có ai tin. Thật tế thì La Hầu La ở trong thai mẹ
sáu năm. Nhưng duyên bên ngoài bức bách quá, do đó nàng Gia Du Đà La mới phát
nguyện rằng :"Nếu tôi không giữ đạo làm vợ thì nhảy vào hầm lửa, lửa sẽ thiêu
chết mẹ con tôi, nêu tôi trong sạch thì thiên thần hãy bảo hộ tôi khiến cho mẹ
con tôi không bị lửa thiêu chết", mới làm một hầm lửa. Công chúa Gia Du Đà
La bồng Ngài La Hầu La nhảy vào hầm lửa, nhưng lạ thay hầm lửa biến thành hồ
sen, có đóa hoa sen lớn đỡ mẹ con hai người. Từ đó về sau mọi người đều biết là
Công Chúa Gia Du Đà La bị oan, ai ai cũng hiểu rõ sự việc nầy chẳng phải là việc
tầm thường, cũng chẳng còn ai phỉ báng công chúa nữa.
Tên của Ngài La Hầu La dịch là "Phú Chướng" (chướng che đậy), vì
trong quá khứ Ngài La Hầu La từng bít miệng hang chuột trong vòng sáu ngày, cho
nên đời nầy Ngài phải ở trong thai mẹ sáu năm, đó là quả báo. Cho nên quả báo tuần
hoàn thật là đáng sợ ! La Hầu La là con của đức Phật cũng không tránh khỏi ác
nghiệp mình đã tạo ra trong quá khứ, mà phải ở trong thai mẹ sáu năm, cho nên
gọi là Phú Chướng, vì mang thai La Hầu La mà sinh rất nhiều phiền não chướng
ngại.
Cứu kính con của đức Phật ra sao. Có phải con của Phật chăng ? Phải. Vậy có phải
Phật quan hệ hành vi vợ chồng như người bình thường chăng ? Không phải. Vì công
chúa Gia Du Đà La muốn có con, do đó Đức Phật dùng tay chỉ vào bụng thì nàng
mang thai, đó là một cảnh giới không thể nghĩ bàn, nếu bạn muốn khảo chứng thì
hiện tại tôi chẳng có chi làm cho bạn hiểu đặng, chỉ có cách bạn dụng công tu hành,
tu đến cảnh giới đó thì sẽ thấy rõ cảnh giới của Phật vi diệu khó nghĩ bàn.
Đó là những vị đại A La Hán, hàng tri thức trong chúng.
Tức là chỉ hai mươi mốt vị đại A La Hán ở trên. Trong tâm của đại chúng minh bạch
là tri, mắt thấy là thức ; tâm, mắt đều minh bạch tức là tri thức. Tri thức là
đối với người ngu si mà nói. Người ngu si thì bất tri bất thức (chẳng hiểu
biết), người trí huệ là tri thức. Nhưng đạo lý phải nói hai bên, nếu bạn thật
bất tri bất thức, đó mới là chân chính trí huệ. Chân chính bất tri bất thức mới
chân chính trí huệ. Chân chính bất tri bất thức mới chân chính vô tư vô lự
(không suy nghĩ). Được vô tư vô lự thì trí huệ của mình mới hiển hiện được, đó
mới là chân chính tri thức trí huệ.
Đại A La Hán thì thọ nhận sự cúng dường của trời người. Nghĩa của A La Hán là :
Ứng cúng, sát tặc, vô sinh. A La Hán không những sát tặc (giết kẻ tặc), mà cho
đến bất tặc (chẳng phải tặc) cũng giết. Vì cảnh giới của A La Hán thì cho rằng
chẳng phải tặc, nhưng cảnh giới của Bồ Tát thì đó là tặc. Cho nên, nếu hồi tiểu
hướng đại thì chẳng phải tặc cũng phải giết.
Lại có hai nghìn người hữu học và vô học.
Trong bốn quả Thánh, thì ba quả trước là bậc hữu học, chứng được tứ quả A La
Hán mới là bậc vô học. Trong hội Pháp Hoa, bậc hữu học và vô học cộng lại có
hai ngàn người. Hai ngàn người nầy lại biểu thị "thập như thị". Mười
pháp giới, từ pháp giới địa ngục cho đến pháp giới của Phật, mỗi pháp giới đều
có đủ pháp nhân quả thập như thị. Đó là : Như thị tướng (tướng như vầy), như
thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên,
như thị quả, như thị báo, như thị bổn mạt (gốc ngọn) cứu kính. Mỗi như thị, lại
biến thành mười, mười lại biến thành trăm, trăm lại biến thành ngàn, đó là biểu
thị hữu học vô học hai ngàn người.
Tỳ Kheo Ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề, cùng với quyến thuộc sáu ngàn người tụ hội. Mẹ
của La Hầu La là Tỳ Kheo Ni Gia Du Đà La, cũng cùng với quyến thuộc tụ hội.
Ma Ha là lớn. Ba Xà Ba Đề dịch là "Ái Đạo". Vị Đại Ái Đạo Ty Kheo Ni
nầy, không những chỉ là dì của Đức Phật mà mỗi vị Phật ra đời, bà ta đều làm dì
của Đức Phật, nuôi dưỡng chăm sóc các Ngài trưởng thành. Quyến thuộc kể cả lục
thân, bạn bè. Đại Ái Đạo Tỳ Kheo Ni với quyến thuộc sáu ngàn người, thân nhân bạn
bè đều ở trong hội Pháp Hoa.
Mẹ của La Hầu La là Gia Du Đà La cũng xuất gia theo Phật, làm đệ tử của Phật, trở
thành Tỳ Kheo Ni. Tỳ Kheo Ni cũng có ba nghĩa như Tỳ Kheo là khất sĩ, bố ma,
phá ác. Tỳ Kheo Ni Gia Du Đà La cũng cùng với quyến thuộc ở trong hội Pháp Hoa.
Bậc đại Bồ Tát gồm tám vạn người, đều không thối chuyển nơi đạo Vô thượng
chánh đẳng chánh giác, đều đắc được Đà La Ni nhạo thuyết biện tài, chuyển bánh
xe pháp bất thối chuyển, đã từng cúng dường vô lượng trăm ngàn các Đức Phật, ở
chỗ các Đức Phật gieo trồng các gốc công đức. Thường được chư Phật ngợi khen,
dùng từ để tu thân, khéo vào huệ của Phật, thông đạt đại trí huệ, đến nơi bờ
kia, danh đồn khắp vô lượng thế giới, có thể độ được vô số trăm ngàn chúng
sinh.
Bồ Tát là tiếng Phạn, nói đủ là Bồ Đề Tát Đỏa. Bồ Đề là giác, Tát Đỏa là hữu tình.
Một vị Bồ Tát giác ngộ hữu tình, tức cũng là trong hữu tình Bồ Tát là một vị
giác ngộ. Ngài dùng phương pháp đạo lý giác ngộ, đi giác ngộ những hữu tình
khác. Ngoài ra, còn có hai tên gọi khác là chúng sinh đại đạo tâm, hoặc là Khai
Sĩ. Bậc đại Bồ Tát có đầy đủ bảy đại.
1. Đủ đại căn cơ : Căn cơ của Bồ Tát sâu rộng vô cùng. Ngài gieo trồng gốc công
đức, từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay, đã trồng xuống căn lành sâu rộng quảng
đại, căn lành nầy gọi là gốc công đức. Căn lành Ngài trồng xuống nhiều vô lượng
vô biên, cho nên nói là gieo trồng các gốc công đức. Hơn nữa chẳng phải chỉ
trồng căn lành ở nơi một vị Phật, hai vị Phật, ba, bốn, năm vị Phật, mà là giống
như trong Kinh Kim Cang có nói : "Ở nơi vô lượng bô biên trăm ngàn vạn ức
vị Phật, nhiều như số cát sông Hằng, đều đã từng gieo trồng các căn lành."
Ở trước vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức vị Phật, nhiều như số cát sông Hằng,
đều đã từng gieo trồng các căn lành.
2. Đủ đại trí huệ : Ngài phát đại bồ đề tâm rộng độ tất cả chúng sinh, tuy độ khắp
tất cả chúng sinh, nhưng chẳng chấp tướng độ chúng sinh, đó tức là đại trí huệ.
Trong Kinh Kim Cang có nói :"Loài sinh bằng trứng, bằng thai, bằng ẩm ướt,
bằng biến hóa, loài có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng,
chẳng không tưởng, ta đều khiến cho vào Vô Dư Niết Bàn mà diệt độ. Diệt độ như
vậy vô lượng vô số vô biên chúng sinh, mà thật chẳng có chúng sinh nào được diệt
độ." Chẳng có một chúng sinh nào là Phật độ, mà chúng sinh đều tự độ vậy.
Nghĩa là : tuy nhiên độ chúng sinh mà chẳng chấp tướng độ sinh. Chẳng giống như
chúng ta làm được một việc gì tốt thì tuyên dương :"Tôi độ được bao nhiêu
người xuất gia, tôi độ được bao nhiêu người phát tâm tin Phật, hoặc là người
nào đó là do tôi độ, người nào đó là do tôi giới thiệu để tin Phật." Đó là
chấp trước tướng. Vì sao chấp tướng ? Vì ngu si. Người có đại trí huệ thì chẳng
chấp tướng. Bồ Tát thì lìa tất cả tướng, tức là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Nếu không lìa tướng thì chẳng phải là Bồ Tát.
3. Tin đại pháp : Đại pháp tức là pháp đại thừa. Bạn phải tin sâu pháp môn đại thừa
thật tướng, tin sâu nhân quả, tin sâu trí huệ Bát Nhã. Phật pháp như biển cả, chỉ
có niềm tin mới vào được. Nếu bạn thiếu niềm tin, thì dù Phật pháp rộng lớn,
cũng không thể độ bạn được. Trong Kinh Hoa Nghiêm có nói :
"Tin là nguồn gốc mẹ công đức,
Nuôi lớn tất cả các căn lành."
Căn lành từ đâu đến ? Từ niềm tin đến, từ niềm tin sinh ra, cho nên tin là mẹ của
tất cả công đức. Đại Bồ Tát tin sâu tất cả đại pháp, diệu pháp vô thượng, nhất
là đối với bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nầy, Ngài đặc biệt tin sâu coi trọng.
Chúng ta có đại tín tâm chân chánh đối với Phật pháp, thì chúng ta cũng là đại Bồ
Tát. Trong Kinh Kim Cang có nói :"Cho đến trong một niệm sinh niềm tin
thanh tịnh, thì phước đức ấy thắng hơn dùng bảy báu bố thí ba ngàn đại thiên
thế giới." Công đức của một niềm tin thanh tịnh của bạn, đồng như dùng bảy
báu để bố thí cho tất cả thế giới, mà Đức Như Lai hoàn toàn biết tâm niệm nầy của
bạn, không thể khiến cho luống qua. Cho nên chúng ta là người học Phật pháp,
đều phải đem niềm tin chân chánh ra, mới có thể đắc được sự tương ưng.
4. Hiểu đại lý : Trong Kinh Hoa Nghiêm có nói : Tin, hiểu, hành, chứng. Do đó, hiểu
đại lý thì phải y chiếu tín tâm, trước hết phải tin, sau mới hiểu, rồi thực hành,
cuối cùng sẽ chứng đắc. Đại lý là gì ? Tức là minh bạch tất cả chúng sinh vốn
là Phật, tức cũng là :"lý tức Phật" ở trong "sáu tức Phật".
Nói theo lý, thì mỗi chúng sinh đều là Phật, nhưng phải tu hành mới thành Phật được.
Nếu không tu hành mà cứ nói mình là Phật thì chẳng ích gì. Ví như bạn tự phong
làm vua, suốt ngày tự hô : Ta là hoàng đế ! Ta là hoàng đế ! Nhưng chẳng có văn
võ bá quan đến bảo hộ bạn, chẳng có nhân dân để chi trì, nếu chẳng có, bạn chỉ
là hoàng đế trống rỗng, có ích gì ? Cho nên, theo lý mà nói thì tất cả chúng
sinh vốn là Phật, nhưng phải tu hành mới trở về nguồn cội được, nhận thức bộ mặt
thật vốn có của mình. Tại sao phải minh bạch chúng sinh vốn là Phật ? Vì trí huệ
thật tướng không lìa tâm chúng sinh, đều đầy đủ trong mỗi tự tính của chúng
sinh, cho nên phải hiểu đại lý.
5. Tu đại hạnh : Đại Bồ Tát siêng tu lục độ vạn hạnh : Bố thí, trì giới, nhẫn nhục,
tinh tấn, thiền định, trí huệ.
A. Bố thí : Gồm bố thí tài, bố thí pháp, bố thí không sợ hãi.
a. Bố thí tài, lại có : nội tài (đầu, mắt, tủy, não), và ngoại tài (ngai vàng, vợ
con). Hành Bồ Tát đạo là chẳng có tướng ta, chẳng có tướng người, cho nên Bồ
Tát xả bỏ tất cả, bố thí cho mọi người.
b. Bố thí pháp, tức là thuyết pháp lợi sinh, vì Chúng sinh mà thuyết giảng Phật
pháp. Cho nên người học Phật pháp, đều phải học tập giảng Kinh thuyết pháp, để
thuyết giảng cho mọi người nghe. Nếu biết chút ít thì nói chút ít, biết nhiều
thì nói nhiều, tùy theo sự hiểu biết của mình, mà giảng giải cho người nghe, đó
tức là bố thí pháp, dùng pháp để bố thí giáo hóa chúng sinh.
c. Bố thí không sợ hãi, tức là nếu có người gặp hoàn cảnh bất như ý hoặc tai nạn,
trong tâm sợ hại âu lo, mà lúc đó bạn an ủi họ, khiến cho họ tiêu trừ hết tất
cả sợ hãi lo âu, tâm được yên ổn.
B. Trì giới : Giới có : năm giới, tám giới, mười giới, mười giới trọng bốn mươi
tám giới khinh, giới Tỳ Kheo, giới Tỳ Kheo Ni.
C. Nhẫn nhục : Là phương pháp hữu dụng nhất, nếu bạn nhẫn nhục được, thì giống như
lượm được báu vật vậy. Có câu chuyện nầy tôi đã từng nói qua : Có vị tu hành,
tu hạnh nhẫn nhục ghi câu "Tính của tôi như tro", dáng lên ở trước
cửa. Ý nghĩa câu đó là : tính của vị đó chẳng còn lửa, chưa bao giờ nóng giận.
Vị tu hành nầy, ngày đêm tinh tấn dụng công, tính tình tu rất nhu hòa.
Lúc đó, có vị Bồ Tát đến khảo nghiệm đạo hạnh của vị đó. Bồ Tát đến trước cửa của
vị đó hỏi :"Mấy chữ nầy là chữ gì ?" Đáp :"Tính như tro."
Lát sau, Bồ Tát trở lại hỏi nữa :"Tấm đó biên cái gì vậy ? vì tôi chẳng nhớ
rõ." Đáp : "Tính như tro." Cứ như thế trở lại hỏi mấy lần, cuối
cùng vị tu hành nổi lửa sân lên, lớn tiếng la lớn :"Tính như tro ! Tính
như tro ! Ông có nghe không ! Ông có nghe không ! Cứ đến nhiễu loạn sự tu hành của
tôi." Bồ Tát cười nói :"Té ra tro vẫn còn lữa." Nói xong vọt
thân lên hư không biến mất. Bạn biết vị Bồ Tát nầy là ai chăng ? Đó là Bồ Tát
Quán Thế Âm đến khảo nghiệm ông ta, kết quả tu mấy chục năm tính như tro nhưng
vẫn còn lửa. Trước khi Bồ Tát Quán Âm đi có nói :"Ngươi hãy tiếp tục tu
hành, hai mươi năm sau ta sẽ đến nữa." Do đó, đủ thấy nhẫn nhục là việc
cực đoan chẳng dễ dàng, quan trọng nhất là chẳng còn nóng giận.
D. Tinh tấn : Gồm thân tinh tấn và tâm tinh tấn. Thân tinh tấn là : Lạy Phật, tụng
Kinh, trì Chú .v.v., ngày đêm sáu thời đều tinh tấn dụng công, một phút một
giây cũng không giải đãi phóng dật. Chân chánh dụng công chẳng phải cứ giả bề
mặt bên ngoài, mà là tự mình chân thật dụng công, đừng ở trước mặt đại chúng
tạo tác, giả vờ. Tâm tinh tấn là luôn luôn siêng tu giới, định, huệ, diệt trừ
tham, sân, si.
E. Thiền định : Tham thiền đả tọa thì phải cần tinh tấn để trợ giúp, có tinh tấn
thì tất có nhẫn nại ; có nhẫn nại tất tu được công đức, tham thiền đả tọa nhập định.
Nếu chẳng tinh tấn, một nóng mười lạnh, tu một ngày, nghỉ mười ngày, thì vĩnh
viễn cũng chẳng đắc được thiền định.
F. Bát Nhã : Bát Nhã là quan trọng nhất, người tu hành phải có trí huệ, thiếu trí
huệ thì rất khó tu hành. Người có trí huệ thì bất cứ lúc nào cũng đều dụng
công, thấy gì cũng đều là trí huệ, do đó : "Thuý trúc hoàng hoa vô phi Bát
Nhã". Nghĩa là : Trúc xanh hoa vàng đâu chẳng phải là Bát Nhã trí huệ.
Giống như tôi có một đệ tử nói với tôi : "Sư huynh nào đó khi nói chuyện với
con thì mắng con". Mắng ai ? Đó chẳng phải là ngu si chăng ! Nếu bạn có
trí huệ thì y mắng bạn mà bạn không nhận sự mắng nầy, thì sự mắng nầy trở về y
! Ví như có người ngửa mặt lên trới phun nước miếng, nước miếng chẳng bao lâu
lại trở về mặt mình, hoặc là bạn có thể xem như người đó, vì mình mà ca hát, hoặc
là nói tiếng ngoại quốc, như thế thì việc lớn sẽ hóa nhỏ, việc nhỏ chẳng còn
nữa, đó mới là thật sự có trí huệ. Đừng trách cứ rằng : Y mắng chưởi tôi. Cứu
kính : Tôi lại là ai ? Bồ Tát chẳng có tướng tôi, chẳng có tướng người, chẳng
có tướng chúng sinh, chẳng có tướng thọ mạng, như vậy còn cái tôi chăng. Người
xuất gia phải sớm trừ khử cái tướng tôi, đừng để nó tồn tại sẽ có chướng ngại.
Bồ Tát còn phải quét sạch ba tâm : Tâm quá khứ, tâm hiện tại và tâm vị lai. Tâm
quá khứ : quá khứ đã qua rồi, cho nên tâm quá khứ không thể đắc được. Tâm hiện
tại : nếu bạn nói bây giờ là hiện tại, nhưng từng sát na trôi qua không ngừng,
cho nên tâm hiện tại cũng không thể đắc được. Tâm vị lai : vị lai thì chưa đến,
do đó tâm vị lai cũng không thể đắc được. Nếu bạn đã thấu rõ ba tâm không thể
đắc được, thì còn có gì để chấp trước, không chấp trước tất cả, tức là đắc được
giải thoát, được tự tại thật sự.
Bồ Tát lại có bốn pháp nhiếp : Bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.
Bố thí : Bồ Tát phải luôn luôn có tâm bố thí, bố thí khắp cho tất cả chúng sinh.
Ái ngữ : Bồ Tát chẳng có tướng ta, cho nên đối với tất cả chúng sinh thường sinh tâm thương xót, xem chúng sinh như chính mình, chẳng có chút phân biệt ta người. Bồ Tát tự độ độ tha, đối với bất cứ chúng sinh nào, cũng đều dùng lời dịu dàng ôn hòa để đối xử.
Lợi hành : Tất cả chúng sinh đều thích sự lợi ích, cho nên Bồ Tát thường làm việc lợi ích cho chúng sinh.
Đồng sự : Bồ Tát hóa thân trăm ngàn ức, thấy thân gì độ
được họ, thì hiện ra thân đó để độ họ. Khi Đức Phật hành Bồ Tát đạo, thì vì
muốn độ một bầy nai mà hóa thành thân nai để giáo hóa chúng, đó là một trong
những đồng sự.
Hành Bồ Tát đạo thì khó hành mà hành được, khó xả mà xả được, khó nhẫn mà nhẫn được,
khó nhường mà nhường được. Đó là những điều kiện tu hạnh Bồ Tát phải có.
6. Trải qua đại kiếp. Một kiếp tức là mười ba vạn chín ngàn sáu trăm năm. Một ngàn
kiếp hợp lại làm một tiểu kiếp, hai mươi tiểu kiếp làm một trung kiếp, bốn
trung kiếp làm một đại kiếp. Vậy Bồ Tát phải tu bao nhiêu kiếp ? Ba đại A Tăng
Kỳ kiếp. A Tăng Kỳ là tiếng Phạn dịch là "vô lượng số". Cho nên làm
Bồ Tát chẳng phải là việc dễ dàng, phải trải qua ba vô lượng số đại kiếp thời
gian mới thành đại Bồ Tát.
7. Cầu đại quả : Bồ Tát cầu đại quả gì ? Ngài cầu quả Vô thượng chánh đẳng
chánh giác, tức là thành Phật.
Cho nên đại (Ma ha tát) đầy đủ bảy đại ý nghĩa nầy. Trong hội Pháp Hoa nầy có
bao nhiêu vị đại Bồ Tát ? Có tám vạn người. Tám vạn người nầy đều đắc đại đạo
Vô thượng chánh đẳng chánh giác, do đó con đường nầy chỉ tiến về trước, cho nên
nói : Đều không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Có ba bất thối chuyển.
1. Vị bất thối : Bồ Tát đại thừa không thối lùi về quả vị nhị thừa.
2. Niệm bất thối : Đại Bồ Tát luôn luôn nghĩ nhớ hành Bồ Tát đạo, tu lục độ vạn
hạnh, niệm niệm hướng về trước mà chẳng lui về sau, chưa từng nghĩ : Tôi không
hành Bồ Tát đạo, mà làm tự liễu hán ! Bồ Tát không bao giờ khởi ý niệm như thế.
3. Hành bất thối : Bồ Tát tinh tấn không giải đãi, chỉ có tiến chứ chẳng có
lùi.
"Đều đắc được Đà La Ni nhạo thuyết biện tài". Đà La Ni là tiếng Phạn,
dịch là "tổng trì". Tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa. Còn gọi là
"giá trì", hoặc là Chú. Đà La Ni là sinh thiện diệt ác, che (giá) ác,
giữ (trì) thiện, nghĩa là : không làm các điều ác, làm các điều lành, và nghĩa
là giới, đại đồng tiểu dị, bất quá giữ giới luật thì bạn tự mình giữ gìn, Đà La
Ni thì trì tụng Chú, sức lực của Chú trợ giúp cho bạn dứt các điều ác, sinh các
điều lành. Đà La Ni có rất nhiều thứ, Bồ Tát đều đắc được, và còn đắc được nhạo
thuyết biện tài, cũng có thể nói là đắc được Đà La Ni nhạo thuyết biện tài.
"Chuyển bánh xe pháp bất thối chuyển". Chuyển bánh xe pháp là gì ? Bồ
Tát thường chuyển bánh xe pháp, tức là chuyển bánh xe pháp bất thối chuyển. Ví
như hiện tại chúng ta giảng Kinh thuyết pháp, hoặc phiên dịch Kinh ra tiếng
Anh, tiếng ngoại ngữ khác, hoặc giới thiệu Phật pháp cho mọi người đều biết, đó
đều là chuyển bánh xe pháp. Tất cả những công việc hoằng pháp, đều gọi là chuyển
bánh xe pháp. Cho nên, chúng ta là Phật giáo đồ, đều phải coi công việc chuyển bánh
xe pháp là trách nhiệm của mình, đem hết khả năng ra làm. Hơn nữa, hiện tại là thời
đại khoa học, có máy in, máy đánh chữ, chúng ta lợi dụng những công cụ nầy, lưu
truyền rộng rãi những bản Kinh đã dịch ra tiếng ngoại quốc, khiến cho mỗi người
đều có phần, đó tức là chuyển bánh xe pháp, khiến cho Phật pháp chảy mãi không
ngừng, vĩnh viễn không dứt. Khi tôi còn thiếu thời tại Đông Bắc Trung Quốc, học
Phật pháp chẳng bao lâu thì thích nhất là in Kinh Phật, in ra mấy trăm mấy ngàn
bộ. Mỗi khi vào dịp lễ hoặc ngày sinh nhật của thân nhân bạn bè, thì tôi đều
biếu cho họ làm quà, khiến cho họ sinh ra cảm hứng đối với Phật pháp, đó là tôi
chuyển bánh xe pháp bất thối trước kia. Hy vọng mỗi người đều tận hết khả năng
lưu truyền Phật pháp, khiến cho bánh xe pháp chuyển mãi không ngừng.
Đại Bồ Tát cúng dường vô lượng chư Phật, ở nơi các đạo tràng của chư Phật trải
qua vô lượng kiếp, vun bồi các gốc công đức lành. Bạn thường cúng dường Tam
Bảo, tức là vun bồi gốc rễ đức hạnh của chính mình. Cho nên, tám vạn vị đại Bồ
Tát nầy, thời khắc luôn luôn đều được chư Phật tán thán ca ngợi :"Thiện nam
tử ! Ông hành Bồ Tát đạo bất thối chuyển, thật tốt thật không sai !"
Đại Bồ Tát dùng tâm từ bi giáo hóa chúng sinh, tu dưỡng thân mình. Các Ngài khéo
đắc được trí huệ của Phật, thông đạt đắc được đại trí huệ, cho nên đến được bờ kia.
Nếu đắc được đại trí huệ thì đến được bờ kia (Ba La Mật). Danh hiệu của tám vạn
đại Bồ Tát nầy, vang khắp trong vô lượng thế giới, tất cả chúng sinh thường
nghe thường niệm thường biết. Trong tất cả vô lượng vô biên thế giới, Bồ Tát độ
giáo hóa vô số trăm ngàn chúng sinh.
Tên của các Ngài là : Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Đại Thế,
Bồ Tát Thường Tinh Tấn, Bồ Tát Bất Hưu Tức, Bồ Tát Bảo Chưởng, Bồ Tát Dược
Vương, Bồ Tát Dũng Thí, Bồ Tát Bảo Nguyệt, Bồ Tát Nguyệt Quang, Bồ Tát Mãn
Nguyệt, Bồ Tát Đại Lực, Bồ Tát Vô Lượng Lực, Bồ Tát Việt Tam Giới, Bồ Tát Bạt
Đà Bà La. Bồ Tát Di Lặc, Bồ Tát Bảo Tích, Bồ Tát Đạo Sư .v.v… các vị đại Bồ Tát
như vậy, gồm tám vạn người tụ hội.
Tám vạn vị đại Bồ Tát có tám vạn danh hiệu, nếu kể ra hết thì bộ Kinh Pháp Hoa nầy
sẽ quá dài, cho nên chỉ đề ra mấy vị đại Bồ Tát đứng đầu trong số đó làm đại
biểu.
Bồ Tát đại biểu đứng đầu có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi. Văn Thù Sư Lợi là tiếng Phạn,
dịch là "Diệu Đức", "Diệu Cát Tường". Vị Bồ Tát nầy trí huệ
rộng lớn vô cùng, tư cách cũng già nhất. Trong quá khứ, Ngài sớm đã thành Phật,
hiệu là Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật, thành Phật rồi Ngài ẩn lớn hiện nhỏ, hành
Bồ Tát đạo giáo hóa chúng sinh, trợ giúp Phật hoằng dương giáo hóa. Bồ Tát Văn Thù,
Bồ Tát Quán Âm, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Địa Tạng là bốn vị Đại Bồ Tát. Bồ Tát
Văn Thù ở tại núi Ngũ Đài, là đạo tràng Ngài thường hiển hiện. Thần thông diệu dụng
của Ngài thật không thể nghĩ bàn.
Lão Hoà Thượng Hư Vân đã từng phát nguyện đi ba bước lạy một lạy, từ Nam Hải
núi Phổ Đà lạy đến núi Ngũ Đài cầu sự cảm ứng của Bồ Tát Văn Thù, khiến cho
Ngài cũng đắc được đại trí. Lộ trình ba bước một lạy dài khoảng năm sáu ngàn
dặm, bạn nói phải lạy bao lâu mới xong ? Là một đoạn thời gian rất dài, nếu
muốn biết tỉ mỉ thì hãy xem quyển Hư Vân Lão Hoà Thượng Niên Phổ, hoặc là Họa Truyện.
Trong đó có một đoạn như thế nầy : Tức là Ngài Hư Vân lạy đến sông Hoàng Hà,
thì vào lúc mùa đông tuyết xuống quá nhiều, mới tá túc cạnh bờ sông trong một
cái sạp để tránh tuyết rơi, trải qua mấy ngày tuyết từ từ bớt dần, Ngài cũng
đói rã rượi, gần như sắp chết. Lúc đó có một vị ăn mày đến, lấy cỏ che chung
quanh cái sạp, nổi lửa nấu cháo gạo vàng, dâng cho Hoà Thượng dùng. Ăn xong thì
hồi phục sức lại, Ngài Hư Vân mới hỏi vị ăn mày tên họ và từ đâu đến. Vị ăn mày
nói :"Họ Văn tên Cát, đến từ Ngũ Đài, ai cũng đều biết tôi." Sau đó
vị ăn mày này mang hành lý cho Ngài Hư Vân, Ngài Hư Vân thì ba bước một lạy rất
là thuận tiện.
Trên đường đi, có khi vào chùa tá túc, nhưng Hoà Thượng trong chùa chuyên môn
khinh khi vị ăn mày nầy, lại mắng Ngài Hư Vân :"Ông lễ lạy thì lễ lạy, sao
còn dẫn kẻ ăn mày đi theo !" Ngài Hư Vân bị người mắng chưởi, còn vị ăn
mày lại càng bị người mắng chưởi, thậm chí không cho vị ăn mày ngủ ở trong chùa,
bị đuổi ra khỏi chùa. Vị ăn mày nói với Ngài Hư Vân :"Từ đây còn cách núi
Ngũ Đài chẳng bao xa, tôi đi về trước, ông từ từ đến, hành lý của ông chẳng bao
lâu sẽ có người mang lên núi cho ông." Quả nhiên giữa đường, Ngài Hư Vân
gặp một vị quan đánh xe ngựa, giúp Ngài mang hành lý đến núi Ngũ Đài, còn Ngài
Hư Vân thì ba bước một lạy. Khi đến núi Ngũ Đài, mới hỏi các vị Hoà Thượng của
núi Ngũ Đài, có biết một vị ăn mày tên là Văn Cát chăng ! Nhưng chẳng có ai
biết, sau đó mới kể cho một vị Tăng nghe, thì vị Tăng chắp tay lại nói :
"Đó là hóa thân của Bồ Tát Văn Thù !" (Văn là Văn Thù, Cát là Diệu
Cát Tường).
Ngài Hư Vân lạy Bồ Tát Văn Thù, được sự cảm ứng của Bồ Tát Văn Thù đến giúp đỡ
Ngài. Ngài với Bồ Tát ở chung khá lâu nhưng cũng chẳng biết, kết quả sau nầy
mới biết là Bồ Tát Văn Thù hiển thánh, thế mà chẳng nhận ra. Cho nên, chỗ diệu
của Bồ Tát Văn Thù thật không thể nghĩ bàn. Vì chỗ diệu của Ngài, nên hóa thành
một kẻ ăn mày. Nếu Ngài biến thành một ông trưởng giả giàu hoặc đánh xe ngựa
đến giúp đỡ Hoà Thượng cũng có thể. Nhưng Ngài không làm như thế ! Ngài cũng nguyện
theo Hoà Thượng chịu khổ. Cho nên, đó là đại trí đại huệ của Bồ Tát Văn Thù Sư
Lợi.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là vị Bồ Tát rất đặc thù, khi Ngài ra đời thì có mười điều
cát tường phát sinh, chẳng giống các vị Bồ Tát khác. Bồ Tát Văn Thù là bậc đại
trí huệ, có bạn sẽ hỏi :"Vậy Tôn Giả Xá Lợi Phất cũng là bậc đại trí huệ,
giữa Bồ Tát Văn Thù và Ngài Xá Lợi Phất có gì khác biệt ?" Trí huệ của Bồ
Tát Văn Thù là thật trí, trí huệ đại thừa, còn trí huệ của Tôn Giả Xá Lợi Phất là
quyền trí, trí huệ tiểu thừa.
Sau đây là mười điều cát tường phát sinh khi Bồ Tát Văn Thù
ra đời.
1. Quang minh đầy phòng. Quang minh nầy sáng hơn bất cứ ánh sáng đèn gì, đại
biểu đại trí huệ của Bồ Tát.
2. Cam lồ đầy sân. Cam lồ là một thứ nước bất khả tư nghì, có thể trị lành đủ thứ
bệnh, nếu ai uống được thì chẳng bị uy hiếp về khổ sinh, già, bệnh, chết.
3. Đất vọt lên bảy báu. Bảy báu là : vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích
châu, mã não. Tại sao bảy báu vọt lên ? Vì Bồ Tát Văn Thù đã tu lục độ vạn hạnh
hết sức cứu kính viên mãn, cho nên Ngài đến đâu cũng đều cảm ứng châu báu từ
duới đất xuất hiện.
4. Thần thông khai mở bảo tàng. Sức đại thần thông của Bồ Tát Văn Thù, khiến
cho đất nứt ra mà lộ ra bảo tàng ẩn náu ở dưới đất, đây chẳng giống đất vọt lên
bảy báu, như điều thứ ba ở trên, ở đây đất nứt xé ra mà hiển lộ ra bảo tàng.
5. Gà sinh phụng hoàng. Điềm nầy càng chẳng tầm thường so với điềm vừa rồi ở
trên. Kì thật, gà chỉ sinh gà, nhưng vì Bồ Tát Văn Thù ra đời là việc phi
thường đặc thù, cho nên trứng gà nở ra phụng hoàng (phụng hoàng là thần của
loài chim).
6. Heo sinh rồng con. Điềm cát tường nầy, càng hi kỳ ít thấy hơn gà sinh phụng
hoàng. Nếu bạn đã cảm thấy quá bất khả tư nghì, thì hãy xem mấy điềm dưới đây
nữa.
7. Ngựa sinh kì lân. Kì lân, thân nai đuôi bò, một sừng. Ngựa mà sinh kì lân là
điều hiếm có trên đời.
8. Bò sinh bạch trạch. Bạch trạch là tên của loài thần thú, biết nói. Là mội
loài thần thú hiếm có vô cùng mà cát tường, chẳng giống bò cũng chẳng giống
ngựa.
9. Thóc biến thành vàng. Các bạn nghĩ có kì dị chăng ? Có những người cho rằng thật
là quá kì dị, cho nên không tin. Nếu bạn không tin là vì bạn chẳng minh bạch.
Nếu bạn minh bạch thì chẳng có nghi vấn gì, trước kia chắc chắn bạn chưa nghe
qua những việc nầy, cho nên làm sao bạn tin được. Bất quá, thế giới nầy quá
rộng lớn, mà những gì chúng ta thấy nghe đều có hạn, vì chúng ta chưa nghe qua
những hiện tượng kì dị nầy, khi thóc chuyển biến thành thóc bằng vàng rồi, thì không
thể làm vật ăn nữa, nhưng đó chỉ là số ít.
10. Voi đủ sáu ngà. Thông thường chúng ta chỉ biết voi có hai ngà. Nhưng khi Bồ
Tát Văn Thù ra đời, thì voi đều mọc ra sáu cái ngà, bạn nói đó có kì dị chăng ?
Có vị cư sĩ hỏi :"Tại sao voi đủ sáu ngà ?" Sáu ngà là tượng trưng
cho sáu độ (lục độ), voi là đại biểu cho vạn hạnh.
Đó là mười điềm cát tường hiển hiện khi Bồ Tát Văn Thù ra đời, đó cũng là biểu hiện
Ngài thuyết pháp biện tài vô ngại. Bồ Tát Văn Thù trí huệ đệ nhất trong chúng Bồ
Tát, đầy đủ dũng mãnh thật trí, thuyết pháp viên dung vô ngại. Nếu như các bạn
nghe được Bồ Tát Văn Thù thuyết pháp, thì các bạn sẽ thấy sự giảng pháp của tôi
còn thua Ngài xa lắm, vì chẳng cách chi so sánh được. Hoặc có bạn sẽ nói
:"Chúng con rất thích Hoà Thượng giảng pháp, chúng con cảm thấy Hoà Thượng
giảng rất là hay." Nhưng nếu quý vị nghe được sự giảng pháp của Bồ Tát Văn
Thù, thì sẽ biết không thể sánh với Ngài được.
Bồ Tát Quán Thế Âm. Danh hiệu của Ngài là Quán Tự Tại. Quán Thế Âm là quán sát
âm thanh của thế gian. Chúng ta đều biết Ngài, vì Ngài từ bi nhất, như tình
thương của người mẹ ban cho chúng sinh tất cả sự mong cầu. Do đó, tại Trung
Quốc có câu liễu rằng : Nhà nhà Quán Âm, cửa cửa Di Đà Phật. Bồ Tát Quán Thế Âm
là đệ tử lớn của Phật A Di Đà. Phật A Di Đà là giáo chủ cõi Tây phương thế giới
Cực Lạc. Bên trái của Ngài là Bồ Tát Quán Thế Âm, bên phải của Ngài là Bồ Tát Đại
Thế Chí. Đó là Tây phương Tam Thánh. Khi Phật A Di Đà hết làm giáo chủ, thì Bồ
Tát Quán Thế Âm lên thay thế làm giáo chủ, sau đó khi Bồ Tát Quán Thế Âm hết
làm giáo chủ, thì Bồ Tát Đại Thế Chí lên thay thế làm giáo chủ.
Vì Bồ Tát Quán Thế Âm, thường hóa hiện vô lượng số thân hình để cứu độ khổ nạn của
chúng sinh, cho nên Ngài có danh hiệu là Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài
dùng ngàn con mắt chiếu soi chúng sinh trôi nổi trong biển khổ, cho nên dùng
ngàn tay để cứu vớt chúng sinh lìa khỏi biển khổ, khiến cho họ đến nơi yên ổn
an vui.
Phẩm thứ hai mươi lăm trong Kinh Pháp Hoa là Phẩm Phổ Môn Quán Thế Âm Bồ Tát,
chuyên nói về thần lực không thể nghĩ bàn của vị Bồ Tát nầy, chúng ta sẽ nghiên
cứu về phẩm nầy sau.
Bồ Tát Đắc Đại Thế, tức là Bồ Tát Đại Thế Chí. Mỗi khi vị Bồ Tát nầy cất bước
đi, thì ba ngàn đại thiên thế giới đều phát sinh sáu thứ chấn động, đó là nguyên
nhân Ngài được danh hiệu là Đắc Đại Thế Bồ Tát. Sáu thứ chấn động là gì. Tức là
: Động, dũng, khởi, chấn, hống, thanh. Sức mạnh của những sự chấn động nầy phát
khởi, thì dù bom đạn mạnh hết sức của thời đại hiện nay, cũng không thể sánh
bằng, bất quá những thứ chấn động ấy, chẳng phải như vũ khí tân thời sẽ phá hủy
tiêu diệt tất cả vạn vật. Sáu thứ chấn động nầy chẳng tổn hại tơ hào đến bất cứ
vật gì.
Bồ Tát Đắc Đại Thế, còn gọi là Bồ Tát Vô Biên Quang Sí Thân, vì ai thấy được
quang minh một lỗ chân lông của vị Bồ Tát nầy, thì giống như thấy được quang
minh thanh tịnh vi diệu của chư Phật Như Lai trong mười phương.
Bồ Tát Thường Tinh Tấn. Thường nghĩa là chưa từng thối lui. Tinh tấn gồm có
thân tinh tấn và tâm tinh tấn. Vị Bồ Tát nầy tu hành tinh tấn chưa từng ngừng
nghỉ. Ngài siêng tu vạn hạnh để giáo hóa chúng sinh, dũng mãnh tinh tấn phi
thường. Ngài chẳng giống như chúng ta, vừa mới tiến hành một kế hoặch gì, nếu gặp
khó khăn thì thối thất bỏ qua. Bồ Tát Thường Tinh Tấn chưa từng ngủ nghỉ, luôn luôn
nỗ lực công việc. Ngài có thể trải qua thời gian dài vô lượng kiếp, thử đi giáo
hóa một chúng sinh, trợ giúp cho họ phát đại bồ đề tâm. Ngài giáo hóa chúng
sinh nầy, có thể dùng vô số pháp môn, đem hết khả năng và thời gian, hoặc có
khi cũng chẳng cách chi cứu độ họ. Tuy nhiên như thế, nhưng Bồ Tát Thường Tinh
Tấn chưa từng mệt mỏi hoặc thối thất nghị lực. Cho nên chúng ta muốn cứu độ chúng
sinh, nên học theo vị Bồ Tát nầy. Nếu một đời nầy độ không được người nào đó,
thì chúng ta hãy phát tâm đời sau nhất định phải độ họ, hoặc là đời sau nữa,
đời sau sau nữa cũng phát tâm như thế, cho đến khi thành công mới thôi.
Nói về phương diện khác, nếu bạn chú ý đến có người nào đó thường theo bạn, thử
đến giáo hóa hướng dẫn bạn, thì bạn hãy lập tức nghe lời sự dạy dỗ hướng dẫn
của họ và sinh đại tín tâm. Người đó có khả năng tức là Bồ Tát Thường Tinh Tấn,
không sợ phiền não nguyện lực mà trải qua đời đời kiếp kiếp thử giáo hóa cứu độ
bạn ! Bạn không nên không nghe lời sự khuyên dạy của họ !
Tâm tinh tấn nghĩa là tâm chưa từng sợ thối lùi, chưa bao giờ nghĩ : Khó quá ! Bạn
cũng chẳng cảm thấy giáo hóa người khác là khốn khổ. Thường tinh tấn tức là
siêng năng chuyên cần không thối tâm.
Bồ Tát Bất Hưu Tức. Bạn sẽ nghĩ : "Thường tinh tấn và bất hưu tức có gì
khác biệt ? Hai danh từ nầy chẳng phải là tương tợ chăng ? Tại sao chúng ta cần
tên khác nhau của hai vị Bồ Tát ?"
Trên thật tế thì chẳng biết có bao nhiêu vị Bồ Tát Thường Tinh Tấn, cũng chẳng
cách chi đếm được có bao nhiêu vị Bồ Tát Bất Hưu Tức, các Ngài nhiều vô lượng
vô biên. Nói tóm lại, nếu bạn tu tập luôn luôn (dụng công không ngừng), thường
tinh tấn thì chính bạn là Bồ Tát Thường Tinh Tấn. Nếu bạn truy cầu nghiên cứu
Phật pháp chưa từng nghỉ ngơi, thì bạn cũng là Bồ Tát Bất Hưu Tức.
Vậy các Ngài cứu kính có gì khác nhau ? Tuy nhiên, trên căn bản thì các Ngài giống
nhau, nếu như bạn muốn nói về sự khác nhau của các Ngài, thì vị Bồ Tát Thường
Tinh Tấn vào dòng sinh tử tiếp tục không ngừng, để cứu độ Chúng sinh. Còn Bồ
Tát Bất Hưu Tức, thì trải qua thời gian lâu dài rộng lớn, ở trong dòng sinh tử
chưa từng mệt mỏi.
Không mệt mỏi, nghĩa là : Ngài không sợ gian lao khổ nhọc. Nếu lạy Phật hoặc
tụng Kinh thì Ngài không vì một chút mệt nhọc mà đi nằm nghỉ. Bất cứ làm gì,
Ngài cũng chưa từng nghỉ ngơi. Bồ Tát Bất Hưu Tức bận rộn vô cùng, nhưng Ngài
tuyệt đối không than thở, hoặc chẳng có ai thấy Ngài làm việc thiện, Ngài cũng
tinh tấn tiếp tục công việc không nghỉ ngơi. Ngài chưa từng rao bán công đức của
mình.
Có một số cư sĩ thường đến đây quảng cáo công đức của họ, tuyên dương mình làm
được bao nhiêu công đức, hoặc bỏ ra bao nhiêu tiền, những người nầy hoàn toàn
trái ngược với Bồ Tát Bất Hưu Tức. Bồ Tát Bất Hưu Tùc, trải qua nhiều đại kiếp
như số cát sông Hằng, chưa từng nghỉ ngơi, giải đải, nhiều ngày đầy tháng,
nhiều tháng đầy năm, nhiều năm thành trăm ngàn vạn ức kiếp mà Ngài không nghỉ
ngơi.
Bồ Tát Bảo Chưởng. Bảo là bảo bối, cũng là pháp bảo. Chưởng là bàn tay. Bồ Tát
có khi lấy hạnh môn của Ngài tu mà làm tên, có khi lấy đức hạnh để làm tên, có
khi dùng nguyện lực để làm tên. Bàn tay của vị Bồ Tát Bảo Chưởng nầy có đủ thứ
pháp bảo. Pháp bảo thứ nhất trên tay của Ngài là Châu như ý, châu như ý nầy là
toại tâm như ý, chẳng có sự mong cầu gì mà chẳng được. Tay thứ hai là Quyên tố
thủ, tay thứ ba là Bảo bát thủ, thứ tư là Bảo kiếm thủ, thứ năm là Bạt triết thủ,
thứ sáu là Kim cang xử thủ, thứ bảy là Thí vô úy thủ, thí vô úy thủ nầy của
Ngài, chẳng sợ hãi bất cứ những gì. Vị Bồ Tát Bảo Chưởng nầy, khi tại nhân địa
thì tu ngàn tay ngàn mắt của Quán Thế Âm Bồ Tát và bốn mươi hai tay và mắt, cho
nên đắc được bảo chưởng. Vì trong bàn tay của Ngài đầy đủ tất cả pháp bảo cho
nên gọi là Bồ Tát Bảo Chưởng.
Bồ Tát Dược Vương. Trong Kinh Lăng Nghiêm, hai mươi lăm vị Thánh thuật lại sư chứng
đắc của mình, trong đó có Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng. Vị Bồ Tát
nầy có một đoạn nhân duyên như vầy : Trong quá khứ có vị Chuyển luân thánh
vương, có một ngàn vị vương tử. Một ngàn vị vương tử cùng phát tâm xuất gia,
tức là một ngàn vị Phật của Hiền kiếp nầy. Đức Phật Thích Ca là vị Phật thứ tư
trong Hiền kiếp. Vị Chuyển luân thánh vương có riêng một bà thiếp phi, sinh
được hai người con, người con lớn phát nguyện muốn hộ trì pháp của một ngàn
người anh, khi mỗi một vị Phật ra đời, Ngài đều hộ pháp. Người con thứ hai thấy
người anh phát nguyện làm hộ pháp, thì Ngài phát nguyện khi một ngàn người anh
thành Phật, thì bất cứ vị nào thành Phật, Ngài đều muốn đến cúng dường Phật
trước nhất. Khi Phật trụ thế thì Ngài luôn luôn đến cúng dường. Chẳng phải chỉ cúng
dường một người anh, mà là một ngàn người anh thành Phật, thì Ngài đều đến cúng
dường. Khi Phật nhập Niết Bàn rồi, đến thời kỳ mạt pháp thì Ngài lại phát
nguyện cứu độ chúng sinh, dùng đủ thứ thuốc để chữa bệnh cho chúng sinh. Bất cứ
nạn lửa, đao binh, nạn nước, nạn ôn dịch, Bồ Tát Dược Vương đều phát nguyện,
đến cứu độ tất cả chúng sinh có những bệnh khổ tai nạn nầy. Đó là nhân duyên quá
khứ của Bồ Tát Dược Vương.
Bồ Tát Dược Vương chuyên môn chữa bệnh cho chúng sinh, Ngài không những chữa thân
bệnh, mà cũng chữa tâm bệnh cho chúng sinh. Thân tâm của chúng sinh bệnh đều
chữa khỏi mới có thể tu hành.
Bồ Tát Dũng Thí. Dũng là dũng mãnh. Thí là bố thí. Bố thí phải có tâm dũng mãnh
mới bố thí được, nếu chẳng có tâm dũng mãnh, thì chẳng bố thí được. Trong lục
độ vạn hạnh, bố thí là hàng đầu, trong vạn hạnh, lấy lục độ làm chủ thể, lục độ
lấy bố thí làm chủ thể. Cho nên, chúng ta hành bố thí, tức là bao quát lục độ
vạn hạnh.
Bố thí phải có tâm dũng mãnh, công đức bố thí thật không thể ngĩ bàn. Vì khi bạn
bố thí, thì dùng tinh thần không thể nghĩ bàn để bố thí, cho nên quả báo đắc
được cũng không thể nghĩ bàn. Chúng ta hành bố thí thì tốt lắm, song, nếu nghĩ
đến chính mình rằng :"Nếu mình đem tiền bố thí cho người khác thì con đâu
mà mua sắm ? Nếu đem quần áo ra bố thí thì mình lấy gì mặc ? Nếu đem nhà cửa bố
thí thì mình lại ở đâu ?" Đó tức là chẳng có tâm dũng mãnh. Một khi mà
nghĩ đến cái ta, thì chẳng bố thí đặng. "Nếu đem đồ ăn uống bố thí cho
người ta thì mình lại ăn cái gì ?" Nếu nghĩ đến chính mình, thì tâm dũng mãnh
tiêu tan mất, hơn nữa cũng chẳng còn tinh thần bố thí. Nhưng Bồ Tát Dũng Thí,
khi Ngài bố thí thì chẳng suy nghĩ đắn đo gì cả. Ngài thấy người nào đó gặp khó
khăn thì giúp đỡ họ, đem quần áo, đem thức ăn của mình bố thí được bao nhiêu
thì hay bấy nhiêu, nghĩa là làm hết khả năng. Vì Bồ Tát Dũng Thí dũng mãnh nhất
về bố thí, dũng mãnh về bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy, cho nên gọi là
Bồ Tát Dũng Thí.
Bồ Tát Bảo Nguyệt. Bồ Tát nầy dùng bảo nguyệt làm danh hiệu.
Bồ Tát Nguyệt Quang. Vị Bồ Tát nầy dùng ánh sáng của mặt trăng làm danh hiệu.
Ánh sáng của mặt trăng diệt trừ tất cả đen tối ban đêm.
Bồ Tát Mãn Nguyệt. Vị Bồ Tát nầy công đức như trăng rằm. Các vị Bồ Tát trên đây
rất nghiêm trì giới luật, do đó : "Nghiêm trì Tỳ ni, hoành phạm tam giới,
năng ư quốc độ, thành tựu oai nghi". Tỳ ni tức là giới luật. Các Ngài
nghiêm trì giới luật quang minh như bảo nguyệt, viên mãn, làm đại mô phạm cho tam
giới, làm khuôn mẫu. Cho nên Bồ Tát Bảo Nguyệt, Bồ Tát Nguyệt Quang, Bồ Tát Mãn
Nguyệt, trì giới tinh tấn như trăng rằm, thân miệng thanh tịnh không tì vết.
Bồ Tát Đại Lực. Vị Bồ Tát nầy sức lực mạnh vô cùng, không kém sứ lực của Bồ Tát
Đắc Đại Thế.
Bồ Tát Vô Lượng Lực. Bồ Tát Việt Tam Giới. Hai vị Bồ Tát nầy, siêu việt khỏi dục
giới, sắc giới, vô sắc giới (tam giới). Làm thế nào siêu việt ? Vì có đại lực,
có vô lượng lực. Ba vị Bồ Tát Đại Lực, Vô Lượng Lực, Việt Tam Giới, đều tu cùng
một hạnh môn, đó là hạnh môn tinh tấn Ba La Mật, dũng mãnh tinh tấn tiến về
trước, cho nên ba danh hiệu đều như nhau. Đại Lực tức là Vô Lượng Lực, Vô Lượng
Lực cũng tức là Việt Tam Giới. Nếu các Ngài chẳng có đại lực, vô lượng lực thì cũng
không thể siêu việt khỏi tam giới. Tại sao tu tinh tấn Ba La Mật ? Vì đều đắc
được đại lực, vô lượng lực, đắc được dũng mãnh siêu việt tam giới. Cho nên các
Ngài luôn luôn tinh tấn chẳng giải đãi, đều tiến về trước, đó là nguyên do danh
hiệu của ba vị Bồ Tát nầy.
Bồ Tát Bạt Đà Bà La. Bạt Đà Bà La dịch là "Hiền thủ", "Hiền
hộ". Hiền Thủ : Vị Bồ Tát nầy đứng đầu trong hiền chúng, làm thượng tọa ở
trong chúng Bồ Tát. Ngài là đại Bồ Tát trong chúng Bồ Tát. Hiền Hộ : Ngài là
một vị Bồ Tát hộ trì chúng sinh trong Thánh hiền.
Bồ Tát Di Lặc. Ngài còn gọi là Bồ Tát A Dật Đa.
Di Lặc dịch là "Từ Thị". A Dật Đa dịch là "Vô Năng Thắng",
chẳng có thiên ma ngoại đạo nào thắng qua Ngài được. Ngài hiện nay ở nội viện
cung trời Đâu Suất. Ngài tu từ tâm tam muội, tức cũng là tu nhẫn nhục tam muội,
đối với tất cả chúng sinh đều có tâm từ bi, cho nên mỗi chúng sinh nào thấy
Ngài đều phát sinh tâm từ bi.
Tương lai Bồ Tát Di Lặc sẽ thay thế Đức Phật, làm giáo chủ cõi Ta Bà nầy. Tương
lai khi nào sẽ thay thế ? Có một số ngoại đạo nói : Bồ Tát Di Lặc đã ra đời. Đó
là nói lời mộng mị ! Đức Phật Thích Ca nói rất rõ ràng, tại thế giới nầy (Hiền
kiếp), mỗi một trăm năm thì thân người giảm xuống một tất, tuổi thọ cũng giảm
xuống một tuổi, giảm đến tuổi thọ của con người chỉ còn mười tuổi thì ngừng.
Lúc đó lại bắt đầu tăng lên, cũng trải qua một trăm năm thì thân người cao thêm
một tất, tuổi thọ cũng tăng thêm một tuổi, đến khi tuổi thọ của con người tám
vạn bốn ngàn tuổi thì lại bắt đầu giảm xuống, giảm đến tuổi thọ còn tám vạn
tuổi thì Bồ Tát Di Lặc mới xuất hiện ra đời, giáo hóa chúng sinh. Lúc đó, tức
cũng là Long Hoa tam hội. Cho nên, hiện tại ngoại đạo chẳng hiểu Phật pháp nói
cuồng nói bậy.
Hiện tại tuổi thọ của con người khoảng sáu, bảy mươi tuổi, vậy khi tuổi thọ con
người giảm xuống còn mười tuổi, thì bạn tính xem thời gian còn dài bao lâu ?
Sau đó mới tăng đến tám vạn bốn ngàn tuổi, lại dài bao lâu ? Sau đó giảm xuống
còn tám vạn tuổi thì Bồ Tát Di Lặc mới ra đời. Cho nên những tà môn ngoại đạo
cứ nói lời mộng mị.
Bồ Tát Bảo Tích. Vị Bồ Tát nầy tích lũy rất nhiều bảo vật, tích lũy vô lượng vô
biên công đức. Công đức cũng như bảo vật, như pháp bảo.
Bồ Tát Đạo Sư. Đạo Sư là gì ? Là thầy dẫn đường. Ngài làm đạo sư dẫn đường
chúng sinh, tiếp dẫn chúng sinh, tức là hướng dẫn người trở về con đường chánh,
trở về Phật đạo. Hướng dẫn ai ? hướng dẫn người bị đọa địa ngục. Người đọa địa
ngục chịu vô lượng sự khổ, chẳng biết phát bồ đề tâm, cũng chẳng biết sám hối.
Cho nên, Bồ Tát Đạo Sư dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để dẫn đường chỉ lối
cho họ, dạy họ phát bồ đề tâm, đi trên đường giác ngộ.
"Các vị đại Bồ Tát như vậy tám vạn người tụ hội". Những vị đại Bồ Tát
như ở trên đã nói có tám vạn người tụ hội.
Lúc đó, Thích Đề Hoàn Nhân và quyến thuộc hai vạn Thiên Tử đều tụ hội. Lại
có Thiên Tử Minh Nguyệt, Thiên Tử Phổ Hương, Thiên Tử Bảo Quang. Bốn vị Đại
Thiên Vương và quyến thuộc một vạn Thiên Tử đều tụ hội. Thiên Tử Tự Tại, Thiên
Tử Đại Tự Tại và quyến thuộc ba vạn Thiên Tử đều tụ hội.
Lúc đó là lúc đương thời, tức là lúc Đức Phật nói bộ Kinh Pháp Hoa nầy. Đương
lúc đó, có tám vạn Bồ Tát cùng đến pháp hội đạo tràng. Tám vạn vị Bồ Tát nầy
đều là đại Bồ Tát, đều là con của Phật. Đức Phật là Đấng Pháp Vương, Bồ Tát là
Pháp Vương tử nghĩa là con của đấng Pháp Vương. Cho nên trong Kinh A Di Đà có
nói : Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử .v.v. Những vị đại Bồ Tát ở trong Kinh Pháp
Hoa nầy đều là Pháp Vương Tử.
Đức Phật có ba hạng con :
1. Chân tử : Tức là Bồ Tát Pháp Vương Tử. Các Ngài là quyến thuộc bên ngoài của
Phật, hộ trì Phật ở bên ngoài.
2. Nội tử : Tất cả Tỳ Kheo và A La Hán đều là nội tử của đức Phật.
3. Ngoại tử : Tất cả phàm phu chúng sinh, cũng đều là con của Phật, bất quá là ngoại
tử của Phật, ở bên ngoài Phật pháp, chưa học tập Phật pháp ; tuy nhiên họ học
tập Phật pháp, nhưng chưa chứng quả, vẫn ở địa vị phàm phu, chưa đạt đến địa vị
Thánh Hiền, cho nên gọi là ngoại tử. Ba hạng con của Phật bao quát : Bồ Tát, A
La Hán và lục đạo chúng sinh. Ba cõi Thánh và sáu cõi phàm hợp lại là chín pháp
giới chúng sinh.
Thích Đề Hoàn Nhân : Là tiếng Phạn, dịch là "Năng tác". Năng là cái
gì ? được làm Chúa trời. Thích Đề Hoàn Nhân tức là Chúa trời mà một số người
sùng bái. Thích Đề Hoàn Nhân ở trong Chú Lăng Nghiêm tức là Nhân Đà La Gia, Nam
mô Nhân Đà La Gia. Nhân Đà La Gia tức cũng là Thích Đề Hoàn Nhân, làm chủ chư thiên
cõi trời Tam Thập Tam (trời Đao Lợi), tức cũng là Ngọc Hoàng Đại Đế, mà một số người
cung kính. Tuy nhiên ông ta làm Hoàng Đế trên cõi trời, nhưng còn ở trong pháp giới
của sáu cõi phàm, chẳng phải là Thánh Hiền. Cho nên, Thích Đề Hoàn Nhân là hộ
pháp ở trong Phật giáo.
Thích Đề Hoàn Nhân và quyến thuộc hai vạn người đều cùng đến hội Pháp Hoa. Còn
có Thiên Tử Minh Nguyệt, vị Thiên Tử nầy như trăng sáng, khiến cho người thấy được
thì tâm rất thanh lương. Lại có Thiên Tử Phổ Hương, Thiên Tử nầy thích mùi
hương, trên thân thường thường tỏa ra hương thơm, huân khắp pháp giới. Lại có
Thiên Tử Bảo Quang, vị Thiên Tử nầy thích bảo vật, trên thân có quang minh báu.
Thiên Tử Phổ Hương biết tất cả chúng sinh cũng đều thích hương thơm, do đó
phóng ra một mùi hương khắp thế giới để trừ khử mùi hôi thối. Nếu chẳng phải vị
Thiên Tử nầy phóng ra hương thơm, thì chúng ta ở thế giới nầy hôi thối không
thể tả. Thiên Tử Bảo Quang cũng biết tất cả chúng sinh đều có tâm tham, thích
bảo vật quý giá, cho nên vị nầy phóng ra bảo quang, làm thỏa mãn nguyện vọng của
chúng sinh. Thỏa mãn nguyện vọng thì phát bồ đề tâm. Hai vị Thiên Tử nầy, chẳng
phải chỉ có mình thích hương thơm và bảo vật, mà là vì tất cả chúng sinh cũng
đều thích hương thơm và bảo vật, cho nên hai vị nầy phóng ra hương thơm và bảo quang,
làm mãn nguyện tâm nguyện của chúng sinh, cũng khiến cho chúng sinh trên thế gian
đều thức tỉnh, gặp cảnh giới không thể nghĩ bàn nầy, mà phát tâm bồ đề vô thượng.
Hương là trì giới thanh tịnh, bảo là bố thí vô tướng.
Lại có Tứ Đại Thiên Vương. Phương đông Trì Quốc Thiên Vương, phương nam Tăng Trưởng
Thiên Vương, phương tây Đa Văn Thiên Vương, phương bắc Quảng Mục Thiên Vương.
Tứ đại Thiên Vương ở giữa núi Tu Di, các vị Thiên Vương nầy đều bảo hộ tất cả
chúng sinh ở thế giới nầy, cho nên gọi là hộ thế Tứ Vương, bốn ông vua giúp
đời. Bốn vị Thiên Vương nầy cùng với quyến thuộc một vạn người đều đến hội Pháp
Hoa.
Lại có Thiên Tử Tự Tại, vị Thiên Tử nầy tự tại vô cùng, ở trên cõi trời Hóa Lạc.
Sự khoái lạc ở cõi trời Hóa Lạc do biến hóa mà có, sự khoái lạc ở cõi trời khác,
họ có thể biến hóa ra ỡ cõi trời của họ để hưởng thụ. Thiên Tử Đại Tự Tại, tức
là Thiên Tử Tha Hóa Tự Tại. Sự khoái lạc của họ chẳng phải ở cõi trời của họ,
mà là do các cõi trời khác rồi họ biến hóa ra. Vị Thiên Tử nầy, cùng với quyến
thuộc ba vạn Thiên Tử đều cùng nhau đến pháp hội Pháp Hoa.
Chủ Thế giới Ta Bà : Phạm Thiên Vương, Thi Khí Đại Phạm, Quang Minh Đại Phạm
và quyến thuộc một vạn hai ngàn Thiên Tử đều tụ hội.
"Thế giới Ta Bà" : Ta Bà là tiếng Phạn. Thế giới Ta Bà là thế giới
như thế nào ? Là thế giới vui sướng, thế giới vui nhất. Có người nói :
"Hoà Thượng ! Con nghe Hoà Thượng giảng Kinh đã lâu rồi, cũng chưa nghe
Hoà Thượng giảng sai, nhưng chỗ nầy lại giảng sai ! Con thấy chữ Ta Bà dịch là
khổ nhất, sao Hoà Thượng nói là vui ?"
Vậy bạn biết là khổ thì đừng lưu luyến ! Tại sao bạn không buông xả đặng thế
giới nầy ? Tại sao tôi nói thế giới nầy là vui ? Vì tôi thấy bạn xả chẳng đặng
thế giới nầy, do đó chắc chắn là vui ! Nếu khổ thì bạn sớm đã bỏ nó rồi !
Hoà Thượng giảng như thế thì con cũng chẳng có gì để nói.
Bạn chẳng có gì để nói, còn ta thì có lời để nói. Lời gì ? Thế giới nầy chẳng
khổ cũng chẳng vui, mà là một thế giới chẳng có vị đạo. Tuy nhiên chẳng có vị
đạo gì, nhưng phiền não thì quá nhiều, rất nhiều sự thống khổ. Cho nên Ta Bà dịch
là "kham nhẫn", kham nhẫn chịu đựng mọi hoàn cảnh khổ. Hoàn cảnh khổ
có ba sự khổ, tám sự khổ, vô lượng sự khổ.
Ba sự khổ :
1. Khổ khổ : Khổ trong sự khổ, là khổ của người nghèo, chẳng có cơm ăn, chẳng
có áo mặc, lại không nhà để ở, bạn nói đó có khổ chăng ?
2. Hoại khổ : Hoặc có người giàu, không những có nhà ở, còn ở nhà cao cửa rộng.
Không những có áo mặc, mà còn mặc tơ lụa áo gấm tân thời. Không những có cơm
ăn, mà còn ăn những thức ăn sơn trân hải vị, hưởng tận vị ngon của thiên hạ.
Nhưng bất hạnh thay đột nhiên bị tai nạn cháy nhà, hoặc bị trộm cướp, bị đụng
xe .v.v. Tất cả tài sản, sự sung sướng đều bị phá sạch, đó tức là hoại khổ.
3. Hành khổ : Chẳng phải khổ khổ của người nghèo, cũng chẳng phải hoại khổ của người
giàu, đó là từ bé lớn lên, trưởng thành rồi già nua, mắc bệnh ngặt nghèo rồi chết
đi. Niệm niệm biến đổi không ngừng, sinh diệt liên tục không gián đoạn, đó là
hành khổ.
Tám sự khổ :
1. Sinh khổ.
2. Già khổ.
3. Bệnh khổ.
4. Chết khổ.
5. Thương mà xa lìa là khổ : bạn thương yêu người nào đó, nhưng hoàn cảnh bắt buộc
phải xa lìa, bạn nói có đau khổ chăng ?
6. Ghét mà gặp nhau là khổ : Bạn ghét người nào đó không muốn gặp họ, nhưng
thình lình gặp người đó ở một nơi nào đó, bạn nói có khổ chăng ?
7. Cầu không được là khổ : Bạn mong cầu điều gì đó mà không được, có khổ chăng
?
8. Năm ấm thiêu đốt là khổ : Khổ nầy rất lợi hại. Năm ấm (sắc, thọ, tưởng,
hành, thức) thường theo bạn, không rời nửa bước, đi đứng nằm ngồi đều cùng với
bạn, như lửa thiêu đốt, đó cũng là khổ.
Có nhiều sự khổ như thế mà đều kham chịu được. Một số người đều cho rằng thế giới
nầy như trái Tần-bà, ngon ngọt. Kỳ thật, ăn rồi mới biết còn đắng hơn trái
huỳnh liên. Vậy biết được thế giới nầy là khổ, nếu tu đạo chịu đựng nhiều sự
khổ thì nhất định sẽ thành Phật.
Trước kia tôi có vị đệ tử Quả Thuấn, thời kỳ kháng chiến bị Nhật bắt đi làm lao
công, ăn chẳng no, mặc chẳng ấm, ngủ chẳng đủ. Nếu người tu đạo chịu khổ được
một nửa của người lao công, thì nhất định sẽ thành Phật. Cho nên khi y xuất gia
rồi, ngày ăn một bữa, ngủ ngồi không nằm, tu hạnh đầu đà. Trong số đệ tử của
tôi, y là người tu đầu đà đệ nhất.
Về sau, y không muốn lưu lại thế giới nầy nữa, cho nên dùng lửa tự thiêu. Thiêu
xong rồi thân thể vẫn ngồi yên. Khi có người đến xem dùng tay rờ thân thể của y,
thì ngã xuống thành tro. Đó là chứng minh y có định lực. Nếu chẳng có công phu
nhập đînh, thì người bình thường như chúng ta, dùng lửa thiêu thân thể sẽ nhảy
lên. Cho nên, bất cứ người nào nói mình có định lực, thường nhập đînh, thì bạn
có thể thử nghiệm họ, dùng lửa thiêu họ, nếu họ không nhảy lên thì thật có định
lực. Như Quả Thuấn tự thiêu thành tro, vẫn ngồi yên tại đó, đó mới là thật có
định lực. Chẳng có định lực như vậy, thì đừng khoe khoang rằng có định lực. Cho
nên tôi chẳng dám nói tôi có định lực, bằng không thì phải chịu thử nghiệm.
"Chủ Phạm Thiên Vương". Chủ là làm chủ. Phạm là Đại Phạm Thiên Vương.
"Thi Khí Đại Phạm". Thi Khí là tiếng Phạn, dịch là "nhục
kế".
"Quang Minh Đại Phạm". Lại có vị Thiên Vương Quang Minh Đại Phạm và
các Thiên Vương khác một vạn hai ngàn Thiên Tử đều đến đại hội Pháp Hoa.
Có tám vị Long Vương. Đó là : Long Vương Nan Đà. Long Vương Bạt Nan Đà. Long
Vương Sa Già La. Long Vương Hòa Tu Cát. Long Vương Đức Xoa Ca. Long Vương A Na Bà Đạt
Đa. Long Vương Ma Na Tư. Long Vương Ưu
Trước kia rồng rất nhiều, ai ai cũng đều có thể thấy. Ngày nay thì rồng chẳng xuất
hiện. Tại sao bây giờ rồng chẳng xuất hiện ? Vì hiện tại người quá nhiều, khiến
cho rồng chẳng dám xuất hiện.
Rồng thuộc về loài súc sinh, nhưng chẳng giống với các loài khác ; rồng có thần
thông biến hóa, có thể biến lớn biến nhỏ, lúc ẩn lúc hiện. Rồng tại sao phải
làm rồng ? Kiếp trước của rồng là người tu đạo. Vì khi tu đạo thì "thừa
cấp giới hoãn", cho nên đọa làm thân rồng. Bây giờ giải thích thừa cấp giới
hoãn.
Thừa cấp giới hoãn : Thừa là đại thừa tiểu thừa, giới là giới luật. Người nầy tu
đạo tuy rất cấp tấn, nhưng chẳng giữ giới luật, dục niệm không đoạn trừ, nhất
là dâm dục chưa dứt được, đối với giới luật cẩu thả lơ là, cho nên đọa làm thân
rồng. Vì tu pháp đại thừa rất tinh tấn dũng mãnh, cho nên có thần thông.
Giới cấp thừa hoãn : Tuy giữ gìn giới luật, nhưng chẳng tinh tấn về pháp đại thừa.
Người tu đạo kiểu nầy kiếp sau cũng làm người, được làm người giàu sang, nhưng chẳng
thông minh lắm. Vì tu giữ giới luật rất cẩn thận, cho nên làm người giàu sang,
nhưng chẳng đọc tụng Kinh điển đại thừa, chẳng nghiên cứu Phật pháp, cho nên
chẳng có trí huệ, chẳng được thông minh lắm.
Thừa giới câu cấp : Không những đối với pháp đại thừa rất tinh tấn tu hành tiến
về trước, mà giới luật cũng giữ gìn rất tinh nghiêm. Người tu đạo như thế nầy
có thể sớm khai ngộ chứng quả. Nếu không thể chứng quả cũng sẽ sinh về cõi trời
hưởng thọ phước báu.
Thừa giới câu hoãn : Loại người nầy không tu pháp đại thừa cũng chẳng giữ giới luật,
suốt ngày đến tối giải đãi, sáng ngủ đến mười giờ mới dậy, tối thì đi nghỉ sớm,
do đó :
"Nhật cao tam can thân vị khởi,
Toán lai danh lợi bất như hàn."
Nghĩa là : Mặt trời mọc cao hơn mười trượng, nhưng người tu hành nầy vẫn chưa dậy,
những người cầu danh cầu lợi chẳng thanh nhàn như ta, gì cũng chẳng làm. Người
thừa giới câu hoãn, chẳng giữ giới luật cũng chẳng nghiên cứu Phật pháp. Tuy
nhiên, mang danh là xuất gia, nhưng thật tế thì chẳng tu hành, chẳng dụng công,
thích ăn không ngồi rồi, việc gì cũng chẳng làm, cứ thối lui về sau. Nhưng có vật
gì ngon thì lén ăn trước. Thường thì thích ăn mà lười biếng làm, tương lai sẽ
đọa địa ngục, suốt ngày đến tối phải ăn toàn sắt nóng. Bạn thích ăn thì mời bạn
xơi cái đó, thích không làm việc, không thích nghiên cứu Phật pháp, thì đến nơi
đó chẳng cần bạn làm chi cả, chỉ kêu bạn thọ tội, trên thì núi đao, dưới thì
chảo dầu sôi .v.v., khiến cho bạn thưởng thức mùi vị, xem bạn còn lười nữa
chăng ?
Trong hội Pháp Hoa nầy có tám vị Long Vương, ngoài ra còn có vô số quyến thuộc của
loài rồng. Giảng đến đây, tôi nhớ lại lúc còn ở Đông Bắc (Trung Quốc), thì Quả
Thuấn dùng cỏ tranh làm một cái am, thỉnh tôi đến khai quang. Tôi dẫn theo Quả
Năng, Quả Thị, Quả Hữu, một số đệ tử tôi đi. Đêm đó, tá túc lại lều tranh của
y. Do đó, có mười con rồng đến muốn quy y Tam Bảo. Lúc đó, thời tiết hạn hán
chẳng mưa, tôi bèn hỏi mười con rồng : "Rồng thì lo về mưa, tại sao các vị
không mưa xuống ?" Rồng đáp : "Mưa xuống phải có lệnh của Trời Đế
Thích, có lệnh của Trời Đế Thích mới có thể mưa xuống, nếu không chúng tôi
không dám tùy tiện mưa xuống." Tôi nói : "Các vị hãy thế tôi, đến
thỉnh cầu Trời Đế Thích mưa xuống chung quanh chỗ tôi khoảng bốn mươi dặm. Nếu
ngày mai các vị thỉnh Trời Đế Thích mưa xuống, thì ngày mốt ta sẽ quy y cho các
vị, thu các vị làm đệ tử vào cửa Phật." Quả nhiên, ngày thứ hai trời mưa xuống,
mà chỉ mưa chung quanh bốn mươi dặm, cho nên sang ngày sau tôi quy y cho mười
con rồng đó. Quy y rồi mấy con rồng đều phát tâm tu hành.
Tôi cho mười vị Long Vương nầy cùng một pháp danh gọi là "Cấp Tu Khoái
Độ", nghĩa là tu mau lên để sớm cứu độ tất cả loài rồng. Cho nên, nhiệm vụ
của chúng hiện tại là giáo hóa rồng ! Nói ra chuyện nầy có vẻ là thần thoại,
nhưng thật tế thì chẳng phải thần thoại, đó là sự thật hiện đời của tôi.
Rồng có thần thông biến hóa, tuy nhiên người nhìn chẳng thấy, nhưng rồng vẫn
tồn tại. Hiện tại có tám vị Long Vương trong hội Pháp Hoa :
1. Long Vương Nan Đà.
2. Long Vương Bạt Nan Đà : Nan Đà là tiếng Phạn, dịch là "hoan hỉ".
Bạt Nan Đà dịch là "thiện hoan hỉ". Hai vị Long Vương nầy là hai anh
em. Trước kia chúng chẳng giữ quy cụ, nhưng từ khi Ngài Mục Kiên Liên hàng phục
được chúng, thì họ trở thành hộ pháp trong Phật giáo, cho nên đến tham dự hội Pháp
Hoa. Hai anh em Long Vương nầy, ủng hộ nước Ma Kiệt Đà, khiến cho phong điều vũ
thuận, mưa gió điều hòa thì ngũ cốc dồi dào. Do đó hai vị Long Vương nầy rất có
ích lợi cho con người.
3. Long Vương Sa Già La : Sa Già La dịch là "biển
mặn". Vị Long Vương nầy ở trong biển mặn.
4. Long Vương Hòa Tu Cát : Hòa Tu Cát dịch là "nhiều đầu". Vị Long
Vương nầy có bảy đầu, hoặc chín đầu, hoặc mười hai đầu, hoặc mười lăm đầu. Vị
Long Vương nầy là vị Long Vương nhiều đầu.
5. Long Vương Đức Xoa Ca : Đức Xoa Ca dịch là "hiện độc". Vị Long
Vương nầy hiện ra nhiều chất độc, ai bị chất độc nầy thì sẽ chết.
6. Long Vương A Na Bà Đạt Đa : A Na Bà Đạt Đa dịch là "không nhiệt
não", chẳng có nhiệt phiền não.
7. Long Vương Ma Na Tư : Ma Na Tư dịch là "thân lớn". Vị Long Vương
nầy thân thể to lớn, gọi là đại thân Long Vương.
8. Long Vương Ưu Bát La : Ưu Bát La dịch là "thanh liên hoa". Vị Long
Vương nầy gọi là Long Vương Thanh Liên Hoa.
Các vị Long Vương nầy, mỗi vị đều mang quyến thuộc, trăm ngàn rồng con rồng
cháu, đến hội Pháp Hoa để nghe Phật giảng Kinh.
Có bốn vị Khẩn Na La Vương. Đó là : Pháp Khẩn Na La Vương, Diệu Pháp Khẩn Na
La Vương, Đại Pháp Khẩn Na La Vương, Trì Pháp Khẩn Na La Vương. Mỗi vị có bao
nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đều tụ hội.
Không những có rồng mà cũng có Khẩn na la, cũng là một trong Thiên Long bát bộ.
Khẩn na la dịch là "nghi thần", vì Khẩn na la giống như người, nhưng
trên đầu có một cái sừng. Khẩn na la là thần tấu nhạc cho Trời Đế Thích.
1. Pháp Khẩn Na La Vương : Vị nầy có nhiều phương pháp để tấu âm nhạc.
2. Diệu Pháp Khẩn Na La Vương : Vị nầy không những có pháp mà còn diệu phi thường.
Âm nhạc tấu lên hay vô cùng, khiến cho người nghe đều hoan hỉ.
3. Đại Pháp Khẩn Na La Vương : Âm nhạc của vị nầy tấu lớn phi thường, pháp cũng
lớn, tiếng cũng lớn.
4. Trì Pháp Khẩn Na La Vương : Âm nhạc của vị nầy tấu lên, khiến cho người sinh
tâm hoan hỉ, y pháp tu hành.
Có bốn vị Càn Thát Bà Vương. Đó là : Nhạc Càn Thát Bà Vương, Nhạc Âm Càn
Thát Bà Vương, Mỹ Càn Thát Bà Vương, Mỹ Âm Càn Thát Bà Vương. Mỗi vị có bao
nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đều tụ hội.
Càn Thát Bà Vương cũng là thần tấu âm nhạc cho Trời Đế Thích.
1. Nhạc Càn Thác Bà Vương : Âm nhạc của vị nầy tấu rất hay vô cùng.
2. Nhạc Âm Càn Thát Bà Vương : Âm nhạc của vị nầy tấu lên, còn hay hơn so với vị
Nhạc Càn Thát Bà Vương.
3. Mỹ Càn Thát Bà Vương : Âm nhạc của vị nầy tấu lên mỹ diệu êm tai vô cùng.
4. Mỹ Âm Càn Thát Bà Vương : Âm nhạc của vị nầy tấu lên hay không thể tả, vi diệu
nhất, êm tai nhất.
Các vị nầy thích nhất là ngửi mùi hương, dùng hương làm thức ăn. Cho nên, khi Đế
Thích muốn nghe âm nhạc, thì chỉ cần đốt lên hương chiên đàn, thì họ sẽ đến tấu
âm nhạc.
Trong bộ Kinh nầy, có nói về các chúng Thần tấu nhiều loại âm nhạc hay vô cùng, song, họ vốn chẳng phải sở hữu của Phật giáo, mà là thuộc về sự quản lý của Trời Đế Thích. Trời Đế Thích quy y với Phật rồi, thì Trời Đế Thích và quyến thuộc bộ hạ đều trở thành Thiên Long hộ pháp.
Có bốn vị A Tu La Vương. Đó là : Bà Trĩ A Tu La Vương, Khư La Khiên Đà A Tu La Vương, Tỳ Ma Chất Đa La A Tu La Vương, La Hầu A Tu La Vương. Mỗi vị với bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đều tụ hội.
A Tu La Vương lại gọi là vô đoan chánh, cũng gọi là vô tửu, vì chúng có phước trời, mà chẳng có quyền lực trời. Diện mạo của người nam rất xấu xí, nhưng người nữ rất đẹp. Chúng thích nhất là đấu tranh.
1. Bà Trĩ A Tu La Vương : Bà Trĩ nghĩa là "bị trói", bị ai trói ? Bị binh trời tướng trời trói, hoặc dịch là "tối thắng", thắng hết tất cả mọi cảnh tình dục.
2. Khư La Khiên Đà A Tu La Vương : Dịch là "bắp vai lớn", dùng để gánh vác pháp.
3. Tỳ Ma Chất Đa La A Tu La Vương : Tỳ Ma Chất Đa La, nghĩa là "âm thanh sóng biển", hoặc dịch là "tịnh tâm", vị nầy là nhạc phụ của Trời Đế Thích.
4. La Hầu A Tu La Vương : Nghĩa là "chướng trì", thân của vị nầy cao và to lớn, tay có thể rờ mặt trời mặt trăng, che lấp ánh sáng. Tóm lại, vị nầy luôn luôn vì phiền não làm chướng ngại, do đó suốt ngày bực bội nóng giận.
Bốn vị A tu la nầy, với quyến thuộc của họ đều đến nghe Phật pháp.
Có bốn vị Ca Lâu La Vương. Đó là : Đại Oai Đức Ca Lâu La Vương, Đại Thân Ca Lâu La Vương, Đại Mãn Ca Lâu La Vương, Như Ý Ca Lâu La Vương. Mỗi vị với bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đều tụ hội.
Ca Lâu La Vương là đại bàng kim sí điểu, là chim lông cánh sắc vàng.
1. Đại Oai Đức Ca Lâu La Vương : Oai đức của vị nầy lớn vô cùng, hơn các Ca Lâu La Vương khác, có thể che trời phủ đất.
2. Đại Thân Ca Lâu La Vương : Vị nầy ở trên núi Kim cang đại thụ, hai cánh dãn ra rộng dài khoảng ba trăm ba mươi sáu do tuần.
3. Đại Mãn Ca Lâu La Vương : Chim nầy chỉ cần quạt cánh một cái, thì nước biển rẽ làm đôi, bắt rồng ăn mà lấy làm thỏa mãn.
4. Như Ý Ca Lâu La Vương : Chim nầy trên cổ có hạt châu như ý. Chỉ cần nghĩ đến ăn rồng, thì rồng tự động vào trong miệng. Vì loài chim cánh vàng nầy có bản lãnh ăn rồng, gần như muốn tuyện nòi, vì muốn bảo hộ rồng tồn tại, cho nên Long Vương đến cầu cứu với Đức Phật. Đức Phật đem tấm y Cà sa cũ cho Long Vương, kêu Long Vương phân ra từng sợi chỉ, và cột vào mỗi con rồng, thì chim đại bàng cánh vàng không dám ăn nữa. Quả nhiên, chim đại bàng cánh vàng chẳng có gì để ăn, mới đến khiếu nại Đức Phật. Phật thuyết pháp khuyên nói đừng ăn rồng nữa. Từ đó về sau mỗi khi chư Tăng dùng cơm trưa, thì thí cho nó ít cơm. Đó là nguyên nhân chim đại bàng cánh vàng quy y với Đức Phật. Hiện tại chúng mang tất cả quyến thuộc đến pháp hội để nghe pháp.
Vua A Xà Thế con của bà Vi Đề Hi, và bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đều tụ hội. Hết thảy đều lễ dưới chân Đức Phật, rồi lui về ngồi một bên.
Vua A Xà Thế là con của Bà Vi Đề Hi và Vua Tần Bà Sa La, cũng là ông vua hung ác nhất trong các ông vua. Vì ông phạm tội ngũ nghịch : Giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật chảy máu, và phá hòa hợp Tăng chúng. Ông ta đại nghịch bất đạo như thế đều do Đề Bà Đạt Đa (em chu bác với Đức Phật) xúi giục. Vì Đề Bà Đạt Đa sớm đã muốn chiếm đoạt thay thế Đức Phật, cho nên xúi A Xà Thế giết cha, giết mẹ để đối phó với Đức Phật. Vua A Xà Thế chẳng còn tính người, bắt Vua cha giam vào ngục bảy lớp tường, để bỏ đói cho đến chết, chẳng cho ai vào thăm. Bà mẹ là Vi Đề Hi chỉ có cách lén lấy nước nho, đổ vào trong hột chuỗi mang vào cho vua Tần Bà Sa La dùng. Hai người khóc lóc với nhau, nỗi đau đớn chẳng còn muốn sống nữa, trong hoàn cảnh đau thương như thế, mới nghĩ nhớ đến Đức Phật, cầu Đức Phật giúp đỡ. Tâm vừa nghĩ như thế thì Đức Phật biết ngay, do đó đức Phật phái Ngài Mục Kiền Liên vào trong ngục, vì họ nói Kinh Thập Lục Quán, khiến cho họ y pháp tu hành, sau đó họ được vãng sinh về thế giới Cực Lạc.
Vi Đề Hi nghĩa là "suy nghĩ". A Xà Thế nghĩa là "sinh oán" (chưa sinh ra đã chẳng cát tường), hoặc nghĩa là "đoạn chỉ" (đứt ngón tay), khi ông ta sinh ra rồi, mẹ của ông ta rất chán ghét, mới cắn đứt ngón tay của ông ta, do đó mới gọi là "đứt ngón tay".
Tội của Vua A Xà Thế không thể tha thứ, đáng đọa vào địa ngục vô gián, nhưng về sau ông ta thật sự ăn năn hối cải, phát lồ sám hối, cải ác hướng thiện, quy y với Đức Phật, mang tất cả quyến thuộc đến pháp hội nghe Phật pháp, đảnh lễ Đức Phật rồi lui về một phía ngồi xuống.
Bấy giờ, tất cả bốn chúng đều vây quanh đức Thế Tôn, cung kính cúng dường tôn trọng tán thán ca ngợi.
Lúc nầy, tất cả Thiên Long bát bộ đều hướng về Đức Phật đảnh lễ, mỗi người đều ngồi theo vị trí của mình. Bốn chúng là : Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ. Ngoài ra, bốn chúng còn có ý nghĩa là : Phát khởi chúng, đương cơ chúng, ảnh hưởng chúng và kết duyên chúng. Phát khởi chúng : Biết cơ duyên của chúng sinh thành thục mà hướng về Đức Phật phát ra vấn đề, có trí huệ phương tiện thiện xảo. Đương cơ chúng : Là nghe pháp từ Đức Phật, đắc đạo được thọ ký, như Kinh Kim Cang đương cơ chúng là Ngài Tu Bồ Đề. Trong Kinh Lăng Nghiêm đương cơ chúng là Ngài A Na và hai mươi lăm vị Thánh. Đương cơ chúng trong Kinh A Di Đà là Ngài Xá Lợi Phất và các đại A La Hán, Bồ Tát, .v.v… Ảnh hưởng chúng là các đại Bồ Tát, từ trước đã từng nghe nhiều Đức Phật thuyết pháp, đã hiểu rõ, nhưng vì muốn làm ảnh hưởng đến người khác, sinh tín tâm và tâm thành đối với pháp, cho nên cũng đến ủng hộ đạo tràng, khiến cho họ im lặng chú ý cung Kinh nghe pháp. Kết duyên chúng : Số còn lại tuy là dự nghe, tâm chưa thấu hiểu, nhưng kết nhân lâu xa, đó là kết duyên chúng, hoặc họ cũng dùng phẩm vật hoặc thức ăn đến cúng dường Tam Bảo và kết duyên với đại chúng ở trong pháp hội.
Lúc đó, bốn chúng đệ tử vây quanh đi nhiễu đức Phật ba vòng, từ bên phải nhiễu vòng bên trái. Sau khi nhiễu xong thì cung kính đảnh lễ đức Phật, cúng dường đức Phật, tán thán ca ngợi đức Phật. Trong bài xướng của chúng ta có câu :
"A Di Đà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân."
Hoặc là :
"Thiên thượng thiên hạ vô như Phật,
Thập phương thế giới diệc vô tỉ,
Thế gian sở hữu ngã tận kiến,
Nhất thiết vô hữu như Phật giả."
Đó đều là kệ tán khi lễ Phật.
Bây giờ nói về tầm quan trọng của sự kết duyên. Nếu chẳng có duyên, thì dù bạn
đối với họ tốt thế nào, họ đối với bạn cũng chẳng vừa ý. Trước kia, có một vị
pháp sư biện tài vô ngại, người trời đều đến nghe vị nầy thuyết pháp, chỉ là
chẳng có duyên với ai, cho nên không có ai đến nghe vị nầy thuyết pháp. Vị nầy
hiểu rõ về nhân quả, cho nên đi mua rất nhiều gạo, đem vào rừng bố thí cho
chim, lại niệm chú Đại Bi và chú Lăng Nghiêm gia trì vào gạo không ngừng, quán
tưởng tất cả bầy chim ăn gạo rồi, sẽ có thể thoát khỏi thân phi cầm, mà chuyển
làm thân người. Hai chục năm sau, vị pháp sư nầy vẫn còn là người xuất gia,
diễn nói pháp thì tự nhiên có rất nhiều người, mà đều là người trẻ đến nghe
pháp, đều cung kính năm thể sát đất. Những người trẻ nầy, quá khứ đều là chim,
đắc được pháp thí cho nên mới sinh làm người. Vì bái ân đức mà đến ủng hộ đạo tràng.
Cho nên, phải thường kết duyên lành với người, đừng lấy tâm sân đối đãi với người,
nếu không thì chẳng có duyên với người, ai ai cũng đều lánh xa.
Cúng dường thì phải dùng tâm thành khẩn và chân thật để cúng dường. Tâm chân thật
tức là tâm xả đặng, xả bỏ những gì tâm còn ái chấp. Tâm thành khẩn tức là chẳng
có tâm tạp loạn, làm việc phải thật lòng, chuyên tâm nhất chí.
Trước kia có vị ăn mày, vì thấy người cúng dường Tam Bảo tu công đức, mà khiến
cho ông ta cũng phát tâm cúng dường, nhưng vì tiền chỉ đủ mua bình dầu đến cúng
dường Tam Bảo. Lúc đó, vị Hòa Thượng trụ trì trong chùa (có thiên nhãn thông)
ra nghinh tiếp ông ta, và mời ông ta dùng cơm. Trong lúc ấy, lại có một người
nhà giàu, cũng mang đến một phi dầu để cúng dường Tam Bảo, nhưng Hòa Thượng trụ
trì không đích thân ra tiếp, chỉ kêu vị Tăng tri khách ra tiếp. Nhiều vị Tăng
trong chùa không hiểu tại sao Hòa Thượng trụ trì hậu đãi người nghèo đó, dù chỉ
cúng Tam Bảo có một bình dầu, còn người giàu kia cúng một phi dầu, mà Hòa
Thượng lại lạnh nhạc. Khi mọi người bàn tán thì Hòa Thượng đến giải thích nói :
"Một người giàu có mua hai ba trăm lít dầu chẳng khó khăn gì, song một người
ăn mày nghèo sơ, chỉ có mấy đồng tiền mà đem hết ra để mua dầu cúng Tam Bảo, dù
chỉ một bình nhỏ, nhưng công đức thật vô lượng hơn người giàu kia. Đó gọi là khó
xả mà xả được, ông ta mới là người dùng chân tâm để cúng dường Tam Bảo, ông ta
là một vị đại hộ pháp ! Người trong hoàn cảnh khốn khó mà còn nghĩ đến cúng
dường Tam Bảo, công đức đó thật là vĩ đại ! Một người đời nầy giàu có cũng vì
trong quá khứ, họ tu tích tập phước báu khó xả mà xả được, khó hành mà hành
được."
Nghe những lời nầy rồi đồ chúng mới minh bạch, cúng dường Tam Bảo cần có chân
tâm và thành tâm.
Vì các Bồ Tát nói Kinh đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, pháp giáo hóa Bồ Tát,
được Phật hộ niệm.
Khi Đức Phật thuyết pháp thí có sáu điềm lành :
1. Điềm lành về thuyết pháp.
2. Điềm lành về nhập định.
3. Điềm lành về mưa hoa.
4. Điềm lành về đất chấn động.
5. Điềm lành về chúng hoan hỉ.
6. Điềm lành về phóng quang.
Lần nầy, Đức Phất thuyết pháp chẳng giống trước kia, vì lần nầy thì thuyết pháp
trước, sau mới nhập định. Đức Phật vì tất cả Bồ Tát ở trong đại hội Pháp Hoa
nói Kinh điển đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa. Kinh đại thừa có bảy nghĩa :
1. Pháp đại : Tức là bao quát tất cả Tam Tạng mười hai bộ Kinh, cũng bao quát tất
cả pháp tiểu thừa.
2. Phát đại bồ đề tâm : Từ phàm phu, tu cho đến khi thành Phật, tâm nầy vĩnh viễn
không thối chuyển.
3. Hiểu đại Tạng : Minh bạch giáo pháp đại tạng, y giáo phụng hành.
4. Tịnh đại : Thấy được đạo thì tịnh tâm đại.
5. Trang nghiêm đại : Tức là phước trí đại.
6. Thời đại : Đức Phật trải qua ba đại A Tăng Kỳ kiếp để tu trì, là thời gian
lâu dài, cũng có thể gọi là nhân đại.
7. Cụ túc đại : Là lục độ vạn hạnh đều viên mãn, dùng tướng tốt tự trang
nghiêm, mà đắc được quả Bồ Tát, cũng có thể gọi là quả đại.
Vì có bảy ý nghĩa nầy cho nên gọi là đại tạng, Ma Ha Tát có bảy thứ đại nhưng chẳng
giống như ở trên vừa nói.
"Nói Kinh đại thừa", trên thì khế với Kinh của Phật, dưới thì hợp với
căn cơ của chúng sinh, cho nên gọi là khế Kinh. Trước khi nói Kinh Pháp Hoa,
thì Đức Phật nói Kinh Vô Lượng Nghĩa. Vô Lượng Nghĩa tức là nghĩa vô số lượng.
Vô lượng là từ hữu lượng mà ra, hữu lượng là từ một mà ra, một từ vô tướng mà
ra, vô tướng từ thật tướng mà ra, cho nên vô lượng nghĩa cũng là Kinh thật tướng
nghĩa. Do đó, thật tướng vô tướng, tướng vô sinh tử, vô vô tướng, vô Niết Bàn tướng,
mà vô sở bất tướng. Vô lượng làm một, một làm vô lượng, tức cũng là thật tướng.
Thậm chí, một cũng chẳng có, chỉ là người đầu lại thêm đầu, bày vẽ ra một, đó
là tự tìm phiền não mà thôi.
"Kinh Vô Lượng Nghĩa" là phương pháp giáo hóa Bồ Tát đại thừa, được
Phật hộ niệm, Kinh Vô Lượng Nghĩa là chỗ Phật tự chứng đắc, đoạn văn dưới đây
nói rằng : Phật tự trụ đại thừa vậy, tuy muốn khai thị mà căn tính của chúng
sinh chậm chạp, yên lặng lâu là cốt yếu đó, chẳng cần nói mau, cho nên gọi là
hộ niệm.
Đức Phật nói Kinh nầy rồi, bèn ngồi kiết già, nhập Tam muội Vô lượng nghĩa xứ,
thân tâm đều bất động.
Đức Phật nói Kinh Vô Lượng Nghĩa xong rồi, thì ngồi kiết già, cũng gọi là ngồi
theo tư thế hoa sen, tư thế kim cang. Ngồi kiết già trợ giúp rất nhiều cho việc
tu đạo, không khiến cho người hôn trầm ngủ gục, mà dễ sinh ra định lực, có định
thì tự nhiên sẽ phát huệ. Ai ngồi thẳng ngay ngắn được, thì giới thể vốn có sẽ
hiện tiền, tất cả Thiên Long bát bộ đều đến ủng hộ, còn yêu ma quỷ quái tự
nhiên sẽ xa lánh, cho nên ngồi kiết già là một pháp ngồi tu đạo viên mãn nhất.
Bây giờ, lấy một công án để chứng minh tầm quan trọng của sự ngồi kiết già.
Quan Trung Hỉ là bạn của tôi. Vị nầy là người tu đạo có ba ngàn người đồ chúng,
nhưng vị nầy hiểu rõ chính mình chẳng có đạo nghiệp, chưa được liễu sinh thoát tử,
do đó vị nầy cấp tốc cầu chánh đạo, đi khắp nơi tìm minh nhãn thiện tri thức,
nhưng ba năm trôi qua cũng chưa tìm được.
Một đêm nọ, cháu của vị nầy là Quan Chiêm Hải, chưa từng gặp tôi, mà ở trong mộng
thấy tôi và còn cầu đạo nơi tôi, mà tôi dùng tay từ trên đầu của y lột xuống
một tấm da heo, và nói tấm da nghiệt nầy khử sạch rồi thì có thể tu đạo. Ngày
thứ hai, tôi đi thăm chú của y thì Quan Chiêm Hải ngó một cái thì nhận ra tôi,
chú của y nhắc lại việc tôi thủ hiếu ba năm ở mộ phần mẹ của tôi, hai người mừng
rỡ vạn phần, cho rằng đưa đạo vào cửa, lập tức hai chú cháu cùng quỳ xuống hướng
tôi cầu đạo. Nhưng tôi nói tôi chẳng có đạo hạnh, không thể thu nhận họ làm đệ tử,
song tôi sẽ mang họ đi tìm danh sư. Cuối cùng, vì Quan Trung Hỉ chẳng tìm được
vị thầy vừa ý, do đó Quan Trung Hỉ trở lại cầu đạo với tôi. Tôi nói tôi chẳng
có đạo, bất quá có thể dạy cho ông ta một phương pháp tu hành, nhưng ông ta
trước hết phải học ngồi tư thế kiết già. Quả nhiên, ông ta y pháp tu hành,
nhưng hai đầu gối của ông ta quá lớn kì lạ, muốn học ngồi kiết già thật là khó
khăn vô cùng, bất cứ ngồi thế nào cũng chẳng được, song ông ta cũng chẳng sợ
đau đớn khó khăn, vẫn kiên quyết tập ngồi cho bằng được, tập lên tập xuống thì
hai đầu gối của ông ta sưng đỏ lên. Bảy mươi ngày trôi qua, tôi thấy ông ta vẫn
đi chưa được ! Tôi khuyên ông ta đừng tập nữa, phương pháp ngồi kiết già rất
khó khăn với ông ta, nhưng ông ta kiên quyết nói trừ khi tôi chết, bằng không
tôi nhất định phải tập cho tốt. Nếu tập ngồi kiết già mà tập không xong thì còn
nói gì về việc tu đạo ?
Qua một trăm ngày sau, tôi vẫn đến thăm ông ta thì đầu gồi của ông ta hết sưng cũng
hết đau, chẳng những thế mà ông ta ngồi rất là đoan nghiêm, thật là có chí thì
việc tất thành. Ông ta ngồi kiết già thành công rồi, tôi bèn chỉ ông ta phương
pháp ngồi thiền.
Cháu của ông ta là Quan Chiêm Hải, cũng như người chú, tìm thầy năm năm trời, cũng
chẳng tìm được thầy vừa ý. Cuối cùng cũng phải trở về tìm tôi quỳ xuống. Tôi
hỏi y : "Anh làm gì thế ?" Y nói : "Con đi tìm minh sư đã nhiều
năm, nay mới phát giác thầy mới là vị thầy chân thật nhất, mong thầy nhận con
làm đệ tử !" Thấy y cầm tay áo của tôi giựt giựt, tôi giả dạng nóng giận,
phất tay áo bỏ đi khoảng hơn nửa dặm đường thì quay lại xem, thấy y vẫn còn quỳ
ở đó ! Tôi nói : "Anh còn làm gì ở đây ?" Y nói : "Nếu Ngài không
nhận con làm đệ tử, thì con sẽ quỳ cho đến chết ở tại đây !" Vì muốn thử
tâm thành của y, tôi lại phất tay áo bỏ đi, lần nầy đi hơn một dặm đường, quay
đầu lại nhìn vẫn thấy y quỳ bất động ở đó, đủ thấy y thành tâm, do đó tôi thu
nhận y làm đệ tử. Y là đệ tử đầu tiên của tôi tại Đông Bắc Trung Quốc.
Quan Trung Hỉ y theo pháp tu hành được năm năm, thì có sở thành tựu, nghĩ muốn gặp
tôi để nói lời cảm kích, vì ông ta biết trước ngày vãng sinh. Song, việc nầy
ông ta chẳng được mãn nguyện, vì từ đầu đến cuối, tôi với anh ta mất liên lạc.
Quả nhiên, như chính ông ta đã dự liệu ngày đó, ông ta ngồi ngay ngắn mà vãng
sinh, ngày đó có rất nhiều người hành xóm, đều mộng thấy có hai vị đồng tử mặc
y màu xanh, dẫn ông ta về Tây phương ! Cho nên ngồi kiết già trợ giúp không ít cho
việc tu đạo.
Đức Phật nói xong Kinh Vô Lượng Nghĩa rồi, bèn ngồi kiết già, nhập Tam muội Vô lượng
nghĩa xứ, tức cũng là nhập thật tướng định. Thân tâm đều bất động. Thân không động
thì tâm chẳng động, tâm chẳng động thì thân không động, đó là chân tâm vốn
không động. Đây là điềm lành sự nhập định của Đức Phật.
Lúc đó, trời mưa hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, hoa mạn thù sa, hoa ma
ha mạn thù sa, rải ở trên Đức Phật và các đại chúng.
Đoạn văn nầy nói về mưa hoa. Khi đức Phật nhập đînh, thân tâm đều chẳng động,
thì hoa trời từ trên trời mưa xuống. Hoa Mạn đà la là hoa trắng nhỏ. Hoa Ma ha
mạn đà la là hoa trắng lớn. Hoa Mạn thù sa là hoa đỏ nhỏ. Hoa Ma ha mạn thù sa
là hoa đỏ lớn. Bốn thứ hoa nầy đều rải cúng dường ở trên thân của Đức Phật, và
tất cả đại chúng trong pháp hội. Bốn thứ hoa nầy đại biểu cho bốn vị trí là : Thập
trụ, thập hạnh, thập hồi hướng và thập địa, tức cũng là bốn tấn độ của Bồ Tát
đạo, là giai đoạn tu hành phải trải qua.
Khắp hết thảy thế giới của chư Phật, đều có sáu thứ chấn động.
Đây là điềm lành về chấn động. Đức Phật vì biểu thị sư quan trọng của Kinh Pháp
Hoa, mà hiện ra đủ thứ điềm tốt lành. Khắp hết thảy cõi Phật trong mười phương
ba đời, đều có sáu thứ chấn động : Chấn, hống, kích (về âm thanh), động, dũng,
khởi (về hình tượng). Sáu thứ chấn động nầy dụ chó sáu căn : Mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và ý. Nếu nói rộng ra, thì trong sự chấn động, mỗi thứ lại phân ra ba
thứ, cộng thành mười tám thứ, tức cũng dụ cho mười tám giới. Thế nào là một thứ
phân ra làm ba thứ ? Ví như : Động, biến động, đẳng biến động. Chấn, biến chấn,
đẳng biến chấn. Hống, biến hống, đẳng biến hống. Kích, biến kích, đẳng biến
kích. Dũng, biến dũng, đẳng biến dũng. Khởi, biến khởi, đẳng biến khởi.
Động, chỉ là một nơi chấn động. Biến động, là một bốn thiên hạ (Nam Thiệm Bộ
Châu, Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu và Bắc Câu Lưu Châu), đều chấn
động. Đẳng biến động, tức ba ngàn đại thiên thế giới đều chấn động.
Sáu thứ chấn động đại biểu cho : Thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa,
đẳng giác và diệu giác. Tức cũng biểu thị muốn phá vô minh, thì trước hết phải
trải qua sáu giai đoạn biến động. Người tu tập thiền định, đều thân tự thể
nghiệm qua những giai đoạn nầy. Đối với người chẳng tu thiền mà nói, đó chỉ là
chấn động của sáu căn mà thôi.
Dũng, từ bên đông vọt ra thì bên tây lặng. Đông vọt thì tây chìm. Phương đông là
mộc tức cũng là màu xanh ; màu xanh dụ cho gan thuộc về nhãn căn (mắt). Phương
nam là màu đỏ cũng là lửa, dụ cho tim, thuộc về thiệt căn (lưỡi). Phương tây là
màu trắng, thuộc về kim, chỉ cho phổi, thuộc tĩ căn (mũi). Đây là biểu thị công
đức của mắt sinh, thì phiền não của mũi diệt. Phiền não của mắt diệt, thì công
đức của mũi sinh. Sáu căn nầy đều có công đức của nó, công đức sinh thì phiền
não diệt ; phiền não sinh thì công đức diệt, tức cũng là sáu thứ chấn động.
Phương bắc là màu đen, thuộc thủy, dụ cho thận, thuộc về nhĩ căn (tai), cũng hổ
tương giao lưu công đức và phiền não với năm căn kia. Thân thuộc về bốn phương
(mắt, tai, mũi, lưỡi đều ở trong đó). Ý có công năng phan duyên với bốn phương
nầy. Cho nên, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác và Diệu
giác là chấn động bên ngoài, còn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý là chấn động
bên trong.
Sáu thứ chấn động nầy, là điềm lành về chấn động, biểu thị sáu căn chấn động.
Sáu căn nầy hổ tương trợ giúp, kết thành một đảng, dựa nhau làm bậy, có thể làm
thiện, cũng có thể làm ác. Tạo điều ác thì sẽ khiến cho pháp thân đọa lạc vào
ba đường ác. Song, người thành Phật cũng nương vào sự trợ giúp lẫn nhau của sáu
căn nầy. Như công đức của lỗ mũi sinh ra, thì phiền não của con mắt diệt đi.
Phiền não của con mắt là gì ? Công đức của con mắt là gì ? Khi mắt thấy sắc (vật
chất) cái mà mình yêu thích, nhưng không đắc được thì sẽ sinh phiền não, theo đó
mà khởi tâm tham, tức cũng là nguồn gốc của phiền não. Sau đó, mắt cũng sẽ mang
lại công đức không ít, nó giúp người xem Kinh điển, nghiên cứu Phật pháp, thâm nhập
Kinh tạng. Hoặc thấy tượng Phật thì sinh tâm cung kính lễ bái. Do đó, sáu căn
nầy đều có công năng trợ giúp hoặc phá hoại, hãy xem chúng ta vận dụng nó như
thế nào ! Dùng làm thiện thì có công đức, dùng làm ác thì đọa lạc, chẳng nghi
ngờ gì hết. Cho nên Kinh Lăng Nghiêm nói rằng : "Thành Phật hoặc đọa địa ngục,
đều do sáu căn nầy." Cho nên nói ngu si tức là trí huệ, đó là đạo lý sáu căn
vận dụng một dạng với nhau. Nếu chúng ta khéo vận dụng nhĩ căn (căn tai) để
nghe pháp, nghe Phật pháp nhiều rồi mà thông được một, thì tất cả đều thông,
hiểu một thì tất cả đều hiểu, biết một thì tất cả đều biết, giác một thì tất cả
đều giác.
"Tự tánh như hư không,
Chân vọng đều ở trong,
Ngộ triệt bổn lai thể,
Một thông tất cả thông."
Đồng đạo lý nầy, có thể đưa ra ví dụ về ăn, mặc, ở và hành động. Tại sao con người
phải ăn cơm ? Vì để nuôi thân thể, mặc áo là để che lạnh. Cho nên ăn cơm, mặc
áo, ngủ nghỉ, là những thứ cần thiết cho sinh mạng không thể thiếu, mà tự tánh
của chúng ta rất cần Phật pháp để nuôi dưỡng, nếu không thì xảy ra vấn đề. Do
đó, lợi dụng sáu căn để thành vô thượng đạo, đây là sáu căn chấn động vậy. Người
đã từng tập ngồi thiền, thì sẽ có kinh nghiệm sự chấn động nầy, hoặc tay, hoặc
mắt, hoặc tai, mũi, lưỡi, thân, tình huống chấn động của sáu căn. Trong Kinh
Lăng Nghiêm nói rằng : Tĩnh cực quang thông đạt, đó là công phu tu thiền đạt
đến cực điểm, thì hiện ra một thứ cảnh giới, nếu không khởi tâm chấp trước, tức
là cảnh giới tốt.
Trong pháp hội Lăng Nghiêm mùa hè đó, có người ngồi thiền thì tay hay tự động,
đó là sự biến hóa của thân thể, động tắc biến, biến tắc hóa. Tự động của thân
thể là người tu thiền đã từng trải qua một phen hạ thủ công phu, mới phát sinh
hiện tượng nầy, nhưng phải qua sự chỉ điểm của minh nhãn thiện tri thức, mới
không lầm đi vào đường tà, hoặc sinh tâm kinh hãi, hoặc do đó mà bỏ tu thiền.
Thật ra, sư kinh hãi nầy là dư nhiều, tự động nầy không ngoài một trong sáu thứ
chấn động. Đạo lý nói ở trong Kinh Phật tất định với tự tánh thân thể của chúng
ta đều tương hợp, chẳng phải vì chúng ta tìm một con đường tương ưng, mà con đường
nầy là tự tánh của chúng ta vốn đầy đủ. Tám vạn bốn ngàn pháp môn là dùng để
đối trị tám vạn bốn ngàn tập khí xấu, bệnh tật của chúng ta. Rõ là người có đủ
thứ tập khí mao bệnh mà chẳng tự biết được, cho nên suốt ngày đều bị trần lao
lay chuyển, lấy khổ làm vui, càng ngày càng đọa đi xuống, mà vẫn không tỉnh. Do
đó, trong Kinh nầy, Phật dùng sáu thứ chấn động làm dụ, để đối trị sáu căn, làm
phương pháp tiêu trừ tập khí ác. Chấn động tức là phá trừ vô minh : Phá vô minh
sơ quả, nhị quả, tam quả và tứ quả ; sau đó lại phá vô minh Thập địa và Đẳng
giác, đây là sáu giai đoạn thành Phật, tức cũng là sáu quả vị lần lược thành
Phật.
Bấy giờ, trong pháp hội các chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ,
trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già,
người, chẳng phải người, và các ông vua nhỏ, Chuyển luân thánh vương, các đại
chúng, được chưa từng có, vui mừng chắp tay một lòng nhìn Đức phật.
Đây là điềm lành chúng vui mừng.
Lúc đó, tức cũng là lúc sáu thứ chấn động, trong pháp hội có các chúng đại Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni .v.v. Tỳ Kheo có ba nghĩa :
1. Khất thực.
2. Bố ma.
3. Phá ác.
Tỳ Kheo ni, cũng giống như ở trên, đều có ba nghĩa, là nữ chúng xuất gia. Trước
kia, có vị tu hành, vì xác định khai ngộ thật sự của mình mới đi gặp một vị cao
Tăng đã khai ngũ nhãn lục thông. Khi vị cao Tăng biết được ý của vị tu hành,
thì bắt đầu khảo vị tu hành rằng : "Ông có sở đắc gì ?" Vị tu hành
đáp : "Tôi chẳng có sở đắc gì." Cao Tăng lại hỏi : "Ông khai ngộ
gì ?" Vị tu hành đáp : "Tôi biết Ty Kheo Ni là người nữ !" Vị
cao Tăng nghe rồi, lập tức ấn chứng cho vị tu hành, nói vị tu hành đã thật sự
khai ngộ. Tại sao nói vị đó đã khai ngộ ? Vì vị cao Tăng biết vị đó đến, chẳng
có tơ hào nói dối, vị đó rất khẳng định trả lời. Vậy nếu chúng ta cũng trả lời
như thế, có phải cũng đã khai ngộ ? Chẳng phải vậy ! Khai ngộ chẳng phải lượm
lặt những gì của người khác. Phàm là học theo người đã nói qua, đều chẳng phải thật
khai ngộ, trừ khi tự mình ngộ ra, riêng có một lần gặp, mà câu nầy lại chưa có
người nói qua.
Cư sĩ nam, cư sĩ nữ có hai nghĩa : 1. Cận sự nam hoặc cận sự nữ. 2. Cận trụ
nam, cận trụ nữ. Tỳ Kheo, Ty Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ là bốn chúng đệ tử.
Ngoài ra có trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma
hầu la già, người, chẳng phải người, các ông vua nhỏ, Chuyển luân thánh vương
.v.v. Dạ xoa là tốc tật quỷ, lại gọi là dũng kiện. Sức mạnh của quỷ thần nầy,
có thể dời núi lấp biển, một tay đẩy quả núi ra ngoài một trăm dặm, một tay lại
kéo quả núi trở về. Ma hầu la già là đại mãng xà. Chẳng phải người, là một
trong tám bộ quỷ thần. Chuyển luân thánh vương có phước báu rất lớn, có ngàn vị
vương tử, lại có bảy báu, trong đó có một báu là bảo châu như ý. Bảo châu nầy
khiến cho chủ nhân tùy thời tùy lúc muốn gì có nấy, muốn bao nhiêu có bấy
nhiêu, tùy tâm mãn nguyện. Ngoài ra, còn có xe kim luân, có thể trong nháy mắt
thì đưa Chuyển luân thánh vương đi chu du tứ thiên hạ, lộ trình so với lên mặt
trăng còn xa nhiều lắm. Có người sẽ thắc mắc : "Thời đại Đức Phật chẳng có
Chuyển luân thánh vương, vậy Chuyển luân thánh vương đáo để từ đâu đến ?"
Chuyển luân thánh vương từ phương khác đến, chẳng phải chúng ta có thể thấy
hoặc nghe được. Người biết thì biết, không biết thì không biết. Đừng cho rằng
những gì mình không thấy, thì nói là chẳng có việc đó. Ngoài chỗ ở của mình,
còn có lân cư, có thành thị, thị trấn .v.v., do đó phải nhìn xa hiểu rộng, đừng
dùng tầm mắt một làng nhỏ bé để nhìn thành thị. Là các đại chúng, được chưa
từng có. Vì chưa từng nghe qua pháp nầy, cho nên vui mừng chắp tay, một lòng
nhìn Đức Phật.
Bấy giờ, Đức Phật phóng ra luồng hào quang trắng ở giữa chân mày, chiếu soi
hết thảy một vạn tám ngàn thế giới ở phương đông.
Lúc đó, chúng sinh đều hoan hỉ chuyên tâm nhìn Đức Phật, đức Phật cũng hoan hỉ,
cho nên giữa chân mày phóng ra luồng hào quang trắng. Đây là điềm lành về phóng
quang. Bây giờ, người tạo tượng Phật đều gắn ở giữa chân mày của Đức Phật một
hạt châu hoặc đá quý để đại biểu luồng hào quang trắng. "Chiếu soi hết
thảy một vạn tám ngàn thế giới ở phương đông." Phương đông thuộc mộc, tượng
trưng cho mùa xuân, vạn vật đều sinh trưởng. Đây dụ cho chúng sinh huệ mạng của
một vạn tám ngàn thế giới, đều đắc được quang minh của Phật chiếu mà tăng trưởng.
Dưới thì chiếu đến địa ngục A Tỳ, trên thì chiếu đến cõi trời Sắc Cứu Kính. Ở
thế giới nầy, đều thấy hết thảy chúng sinh trong sáu nẻo của các cõi kia.
Hiện tại điềm lành hiện ra là phương khác được độ. Đức Phật phóng quang minh, chẳng
những điềm lành chiếu thấy thế giới nầy, mà thậm chí chiếu xuống đến địa ngục A
Tỳ (địa ngục Vô Gián), địa ngục nầy một người rớt xuống thì chật, nhiều người
rớt xuống cũng chật đầy, thời gian chịu khổ chẳng gián đoạn. Chỉ cần tội nghiệp
sâu nặng, thì đọa vào đó, vạn kiếp khó mà ra khỏi. Trời Sắc cứu kính tức là
từng trời cao nhất của sắc giới. Từ phương đông của thế giới Ta Bà nhìn qua một
vạn tám ngàn thế giới, đều thấy hết chúng sinh trong sáu đường của các cõi đó, đều
thấy rõ quả báo của mỗi loài.
Sáu nẻo luân hồi là : Trời, A tu la, loài người, ba đường lành ; địa ngục, ngạ quỷ,
súc sinh, ba đường ác. A tu la có khi liệt vào trong ba đường ác, thành bốn đường
ác. Trời là do tu năm giới mười điều lành, mà được sinh về cõi trời. Làm người
căn bản nhất là giữ gìn năm giới :
1. Không sát sinh : Người giữ được giới nầy thì đắc được tuổi thọ sống lâu,
được quả báo trường thọ. Ngược lại, kẻ sát sinh sẽ bị quả báo tuổi thọ ngắn ngủi
hoặc chết yểu. Đó cũng nói rõ, tại sao có người sống lâu có người chết yểu.
2. Không trộm cắp : Trộm là làm tổn hại đến tài vật và phước mạng của kẻ khác, cắp
là chưa được sự chấp thuận của người ta, mà mình tự lấy đồ vật hoặc tiền tài. Quả
báo là trong đời nầy hoặc đời sau, tài sản của mình cũng sẽ bị người trộm cắp
hoặc bị cướp đi. Nếu giữ được giới không trộm cắp, thì được giàu sang phú quý.
3. Không tà dâm : Ai dâm vợ con của người ta, thì tương lai quả báo bị người chơi
lại, hoặc vợ mình chẳng trinh tiết, hôn nhân gặp nhiều sự trở ngại, gia đình ly
tán, .v.v., đủ thứ chướng ngại phiền não.
4. Không nói dối : Tức là không nói láo gạt người. Có những người nói : tôi một
đời đều thật thà, chưa từng lường gạt người, cũng chẳng hại người, tại sao tôi
lại bị người gạt, bị người hại. Nên biết, quả báo nầy chẳng phải một đời tạo
ra, mà là thông cả ba đời, quá khứ hiện tại và vị lai. Xưa kia đã tạo ra nghiệp
nói dối, khi nhân duyên thành thục thì nghiệp báo sẽ hiện tiền, phải thọ quả
báu bị gạt, bị hại. Trong Kinh có câu rằng :
Trải qua trăm ngàn kiếp,
Nghiệp tạo ra chẳng mất,
Khi nhân duyên chín mùi,
Phải thọ lấy quả báo.
5. Không uống rượu : Cũng kể cả hút thuốc, hút cần sa, hút á phiện, ma tuý, khiến
cho người mất đi lý tính. Uống rượu sẽ khiến cho người càng uống càng uống
nhiều, uống càng nhiều thì càng hồ đồ, làm cho nhiễu loạn tính tình, mà làm ra
đủ thứ tội lỗi thất thường, hồi đầu trở lại thì đã trăm năm. Hiện tại giới y
học rất lạm dụng đối với thuốc men, cho nên cũng liệt vào trong giới nầy. Vì xử
dụng ma túy, hoặc thuốc kích thích quá độ khiến cho bệnh tình của bệnh nhân bỏ
mạng, hoặc khiến cho tinh thần càng thêm hỗn loạn chẳng được yên.
Năm giới là gốc căn bản làm người, quan trọng là sửa đổi tập khí ác của : thân,
khẩu, ý, ba nghiệp, tiến thêm một bước nữa thì chẳng khởi ý niệm : giết hại, trộm
cắp, tà dâm, nói dối và uống rượu. Phàm là chưa được sự hứa khả của người khác,
mà tự trộm lấy đi xử dụng, là phạm giới trộm cắp. Ví như thấy người mua một
bình rượu, trong tâm nghĩ : Ồ ! Rượu ngon, thôi thì uống trước một ly thử !
Khởi ý niệm như thế tức thì đã phạm giới trộm cắp và giới uống rượu. Có phải
uống rượu của người thì không phạm giới uống rượu chăng ? Chẳng phải, tuy chẳng
uống rượu của người, nhưng cũng uống sữa hoặc thức uống khác, nếu khởi ý niệm
tham ái chấp trước cũng là phạm giới nầy. Ví như, thấy trong tủ lạnh có một
chai sữa, bèn khởi lên một niệm tham cũng chẳng biết ba bảy hai mươi mốt, cầm
lên uống, uống xong thì chẳng biết của ai mua. Sữa là việc nhỏ, nhưng chưa được
sự đồng ý của người mà uống, tức cũng phạm giới ăn cắp. Nói đi cũng phải nói
lại, người bị mất sữa cũng phải phản tỉnh, tại sao người ta lại ăn cắp đồ của
tôi ? Ồ ! Đó là kiếp trước tôi đã từng ăn cắp tài vật của người, đó là nhân quả
báo ứng. Lấy đó mà hồi quang phản chiếu, luôn luôn cảnh tỉnh mình, về sau đừng
tái phạm nữa. Song, người ăn cắp sữa cũng đừng nói : hiện tại tôi ăn cắp của anh,
đợi kiếp sau tôi sẽ hoàn lại. Nên biết kiếp sau có thể chẳng có vật để hoàn trả
lại cho người. Tóm lại, một cây kim, sợi chỉ, cộng cỏ, khúc gỗ, chẳng phải sở
hữu của mình, nếu chưa được chủ nhân đồng ý mà lấy đi, tức phạm giới ăn cắp.
Đạo lý những giới căn bản khác cũng như thế.
Phước báo của trời vô cùng vô tận, nhưng cao tột đỉnh cũng có ngày sẽ đọa lạc. Hưởng
hết phước báo thì năm tướng suy hiện ra vẫn phải đọa lạc. Do đó, chỉ tu phước
báu cõi trời mà không tu trí huệ, thì vĩnh viễ lưu chuyển ở trong sáu nẻo luân
hồi. A tu la cũng tu năm giới mười điều lành, nhưng dở ở chỗ dùng tâm đấu tranh
để làm công đức. Khi hành thiện bố thí thì đều thích nổi danh, tranh đệ nhất, ở
trước mọi người thì tỏ thái độ nhà đại từ thiện xuất hiện, bỏ ra nhất định phải
nhiều hơn bất cứ ai. Dùng phương thức huyền diệu tự ngã để làm bố thí, nói
thẳng đó chẳng qua là dùng tiền bạc để mua danh, vốn chẳng phải thật tâm hành
thiện, cho nên công đức đắc được cũng là hữu lậu. Còn có những kẻ hư ngụy, mặt
ngoài hành thiện một cách yên lặng, nhưng trong bóng tối lại cố ý để cho mọi
người biết họ đang bố thí, hành động như thế tự mình tuyên truyền ngụy quân tử,
so với công đức của những người ở trên tuyên truyền tự ngã càng âm hiểm dối
trá, thuộc về âm tính A tu la. Nhân mà không thẳng thì quả cong vạy. Tại nhân
địa mà tâm không thẳng, thì tương lai quả báo đắc được cũng sẽ biến thành quả
ác. Nếu tâm của họ bất chánh, thích đấu tranh, tâm sân quá nặng, thì đời sau sẽ
thành A tu la. Do đó, khi bố thí thì đừng sai nhân quả, nên dùng tâm chân thật
và tâm vui thích để hành sự, mới được quả lành. Người cũng tu năm giới mười
điều lành mà ra, thuộc về năm giới mười điều lành bậc hạ. A tu la là năm giới
mười điều lành bậc trung, còn chư thiên thì năm giới mười điều lành bậc thượng,
đó là ba đường lành.
Quả báo của ba đường ác, đều do khởi tâm tham, sân, si. Tham quá nhiều thì sẽ
thành ngạ quỷ. Người còn sống quá tham ăn, thì kết quả chết rồi, vật gì cũng ăn
chẳng được, chẳng có sở hữu gì hết. Người tâm sân quá nặng, thì khi chết rồi sẽ
đọa vào địa ngục, chịu đủ thứ khổ hình, như vào trong chảo dầu sôi, lên núi
đao, hoặc kiếm thụ .v.v. Do đó, người có tập khí sân hận phải sửa đổi, người chẳng
có sự nóng giận, thì đừng làm cho phát sinh. Học Phật có thể khiến cho con người
rõ thị phi, thấu rõ sự lý, minh bạch nhân quả rồi, thì chẳng có hành vi ngu si,
mà đắc được Bát nhã trí huệ. Người quá nhiều ngu si, thì tùy theo quả báo và
nghiệp lực của họ, mà đọa làm súc sinh. Lời nói hành vi của kẻ ngu si, là phỉ
báng Tam Bảo, bác vô nhân quả, chính mình không những không tin Phật, mà còn
xúi giục người khác cũng đừng tin Phật, tự cho rằng mình rất thông minh, ương ngạnh
nói học Phật là việc rất ngu rất mê tín, kết quả bị quả báo làm súc sinh.
Cho nên trong sáu nẻo luân hồi, trồng nhân lành thì được quả lành, trồng nhân
ác thì được quả ác. Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Trồng nhân thành
Phật thì sẽ thành Phật, nhưng nếu trồng xuống nhân địa ngục, thì sẽ rơi vào địa
ngục. Do đó, muốn thăng đi lên hoặc muốn đọa đi xuống, đều do mình lựa chọn. Đủ
thứ tướng mạo của chúng sinh trong sáu nẻo, đều hiện ra ở trong luồng hào quang
trắng của Đức Phật. Đoạn nầy là sáu điềm lành của thế giới khác :
1. Điềm lành sáu nẻo.
2. Điềm lành thấy chư Phật.
3. Điềm lành nghe thuyết pháp.
4. Điềm lành thấy chúng đắc đạo (điềm chứng quả).
5. Điềm lành thấy Bồ Tát hạnh.
6. Điềm lành thấy chư Phật vào Niết Bàn.
Hào quang trắng, là biểu thị trung đạo liễu nghĩa, chẳng lệch bên trái, chẳng lệch
bên phải, mà ở chính giữa chân mày, cũng biểu thị đạo lý pháp môn viên đốn,
trung đạo thật tướng của Kinh Pháp Hoa.
Luồng hào quang trắng có thể co dãn, gần có thể chiếu xa giống như lưu ly,
quang minh chiếu khắp. Tình hình nầy, cũng giống như trong bóng tối đột nhiên
bậc đèn pin hoặc đèn pha, thì một luồng ánh sáng chiếu thẳng về trước phá tan
bóng tối, có thể chiếu được xa. Mà luồng hào quang trắng nầy, chiếu khắp vũ trụ
hư không, tùy ý chiếu phương nào cũng được, sở chiếu hiện tại là phương đông
một vạn tám ngàn cõi. Trước kia, Đức Phật chẳng thị hiện phóng luồng hào quang
trắng ở giữa chân mày, chỉ có trong hội Pháp Hoa mới hiện tướng điềm lành nầy.
Trong pháp hội Kinh Lăng Nghiêm, khi Đức Phật thuyết pháp, thì từ trong nhục kế
vọt ra trăm luồng quang minh báu, trong quang minh vọt ra hoa sen báu ngàn
cánh. Ý nghĩa của hai thứ quang minh nầy đều khác nhau. Người chỉ cần nghe được
một câu, một bài kệ trong Kinh Pháp Hoa, thì đã trồng xuống nhân thành Phật. Song,
phải bao lâu ? không nhất định. Người nghe được Kinh Pháp Hoa thì đều có căn
lành nhân duyên. Cho nên Phật pháp và chúng ta có quan hện trọng đại. Có những
người nghi ngờ, còn nói tôi không tin tôi có thể sẽ thành Phật. Thật tế, Phật
pháp là tận hư không khắp pháp giới, chẳng có gì mà không dung nạp. Chúng sinh
khắp pháp giời đều bao hàm ở trong Phật giáo. Dù hiện tại họ không tin nhưng
tương lai họ sẽ tin, cũng có thể thành Phật, đó là chỗ vi diệu của Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa.
Lại thấy chư Phật đang ở các cõi đó.
Đây là điềm lành thấy chư Phật, là Thánh và phàm tương đối. Thánh là Phật, phàm
là người. Trong luồng hào quang trắng hiện ra cõi nước của chư Phật, và các Đức
Phật đang giáo hóa chúng sinh. Dùng luồng hào quang trắng là có hai nghĩa :
1. Ứng cơ đầu giáo (theo căn cơ mà thuyết pháp).
2. Đoạn hoặc trừ nghi.
Giống như đức Phật A Di Đà, cũng có tướng luồng hào quang trắng, như bài kệ tán
Phật A Di Đà rằng : "A Di Đà Phật thân kim sắc, tướng hảo quang minh vô
đẳng luân." Biểu thị ba mươi hai tướng tốt, tám mươi hai vẻ đẹp, quang
minh không thể sánh được. "Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di." Giữa chân
mày phóng ra luồng hào quang trắng, chuyển động như rồng múa không ngừng, luồng
quang minh rộng cỡ năm hòn núi Tu Di. "Hám mục trừng thanh tứ đại
hải." Mắt trong suốt sáng ngời như nước bốn biển. "Quang trung hóa
Phật vô số ức." Trong luồng quang minh trắng của Phật A Di Đà lại có hóa
Phật vô số ức. "Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên." Có hóa Bồ Tát vô
lượng vô biên. "Tứ thập bát nguyện độ chúng sinh." Mỗi lời nguyện đếu
khiến cho chúng sinh thành Phật. "Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn."
Người có thể phân làm : thượng, trung và hạ phẩm, trong ba phẩm lại phân làm
chín phẩm. Do đó, chín phẩm hoa sen tức là thượng thượng phẩm, thượng trung
phẩm, thượng hạ phẩm ; trung thượng phẩm, trung trung phẩm, trung hạ phẩm ; hạ
thượng phẩm, hạ trung phẩm và hạ hạ phẩm. Chín phẩm chúng sinh nầy, khi Đức
Phật A Di Đà gia bị đều lên bờ Niết Bàn bên kia.
Luồng hào quang trắng của Phật Thích Ca, cũng lớn như năm hòn núi Tu Di. Ở
trong Kinh Quán Phật Tam Muội Hải có nói rằng : Khi Đức Phật Thích Ca ra đời,
thì luồng hào quang trắng là năm thước, tu khổ hạnh thì mười bốn thước, thành
Phật thì mười lăm thước. Ở trong không gian tướng luồng hào quang trắng, sắc
trắng như lưu ly, biểu thị : thường, lạc, ngã, tịnh, tức là Niết Bàn bốn đức,
trong không gian đại biểu trung đạo, cũng có nghĩa là thường, tướng nhu nhuyến
là biểu thị lạc, thư thái tự tại, tùy ý có thể dài hoặc ngắn là đại biểu chân
ngã, màu trắng là thanh tịnh, cũng dụ cho Niết Bàn bốn đức : Thường đức, lạc
đức, ngã đức, tịnh đức, là trung đạo bảo ấn thật tướng, ở trong luồng hào quang
trắng lại thấy chư Phật ở các cõi đó, mà Đức Phật Thích Ca từ khi đản sinh cho
đến nhập Niết Bàn, tu tất cả khổ hạnh, đủ thứ tướng mạo và công đức cũng hiển ở
trong đó.
Và nghe chư Phật giảng Kinh thuyết pháp, cũng thấy các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni,
cư sĩ nam, cư sĩ nữ, các vị tu hành đắc đạo. Lại thấy các vị đại Bồ Tát, đủ thứ
nhân duyên, đủ thứ tin hiểu, đủ thứ tướng mạo, hành Bồ Tát đạo. Lại thấy chư
Phật vào Niết Bàn, sau khi chư Phật vào Niết Nàn, đều đem xá lợi của Phật, đựng
thờ trong tháp bằng bảy báu.
Đây là điềm lành nghe thuyết pháp. Chư Phật đều ở tại mỗi cõi thuyết pháp giáo hóa
bốn chúng đệ tử (Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ), khiến cho họ y pháp
tu hành mà chứng đắc A La Hán, hoặc thành Bồ Tát, hoặc đắc quả vị Phật. Đây là
điềm lành về chứng quả, là người và pháp tương đối, tức cũng là điềm lành nghe
pháp và chứng quả. "Lại thấy các vị đại Bồ Tát" : Lại thấy các vị Bố
Tát và đại Bồ Tát. "Đủ thứ nhân duyên" : Dùng đủ thứ nhân duyên để tu
đủ thứ pháp môn và giáo hóa đủ thứ chúng sinh. "Đủ thứ tin hiểu" : Là
chỉ pháp bốn Diệu Đế, mười hai Nhân Duyên, lục độ Vạn Hạnh .v.v., đủ thứ sự tin
hiểu. "Đủ thứ tướng mạo" : Dùng đủ thứ hạnh môn tu đủ thứ pháp.
"Hành Bồ Tát đạo" : Luồng hào quang trắng của Đức Phật từ cõi nầy
phóng đến cõi kia, là biểu thị tự giác, giác tha, tự lợi, lợi tha, tức hành Bồ
Tát đạo.
"Lại thấy chư Phật nhập Niết Bàn", "sau khi chư Phật nhập Niết
Bàn" : Niết Bàn là không sinh không diệt, nghĩa là viên tịch. Công viên
đức tịnh, công đức viên mãn. Đó là thị hiện việc chư Phật giáo hóa chúng sinh
đã hoàn mãn, thu vô lượng pháp trở về một pháp, thị hiện chấm dứt việc giáo
hóa. Sau đó xây tháp mà làm Phật sự, là biểu thị ban đầu ra đời, cuối cùng là
tượng pháp. "Đều đem Phật xá lợi mà dựng thờ trong tháp bằng bảy
báu." Xá lợi là linh cốt, sau khi Phật vào Niết Bàn rồi, dùng lửa thiêu,
nhặt được xá lợi rất nhiều, cho nên xây tháp mà cúng dường. Tháp có hai nghĩa :
1. Phương mộ. 2. Cao hiển. Tháp bảy báu cúng dường xá lợi, là biểu thị pháp
thân của Phật sở tại, đó là điềm Phật thị hiện Niết Bàn. Những gì ở trên vừa
giảng đều là điềm cõi nước phương khác.
Niết Bàn có bốn :
1. Tự tính thanh tịnh Niết Bàn.
2. Hữu dư Niết Bàn.
3. Vô dư Niết Bàn.
4. Vô trụ xứ Niết Bàn.
Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc khởi ý nghĩ như vầy : Nay Đức Thế Tôn hiện tướng thần
thông biến hóa, vì nhân duyên gì mà hiện điềm lành nầy ? Nay Đức Phật Thế Tôn
đang nhập tam muội, là việc ít có không thể nghĩ bàn. Bây giờ nên hỏi ai, ai là
người đáp được ? Lại nghĩ thế nầy : Ngài Văn Thù Sư Lợi là con của đấng Pháp
Vương, đã từng gần gũi cúng dường vô lượng chư Phật trong quá khứ, chắc đã thấy
tướng ít có nầy, nay tôi nên hỏi Ngài.
Bồ Tát Di Lặc là Phật sẽ hạ sinh trong tương lai, là Bồ Tát bổ xứ. Di Lặc dịch
là "Từ Thị", lại có tên là A Dật Đa, nghĩa là Vô Năng Thắng. Ngài
dùng mắt từ bi bình đẳng trông tất cả chúng sinh, mà chẳng khởi tâm phân biệt.
Hiện tại Ngài không minh bạch Đức Phật vì sao phải dùng tướng luồng hào quang trắng
hiện tướng thần biến, do đó khiến cho Ngài khởi ba ý niệm. Tại sao Đức Phật
phải hiện tướng sáu điềm lành ? Nay Đức Thế Tôn đang nhập tam muội, là việc ít
có không thể nghĩ bàn, nên hỏi ai ? Có thể hỏi Bồ Tát Văn Thù, Ngài là con của
Đấng Pháp Vương, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật trong quá khứ, tự nhiên
sẽ biết rõ việc ít có điềm lành nầy, ta nên đi hỏi Ngài. Văn Thù Sư Lợi nghĩa
là diệu cực hoặc diệu lạc. Vì sao Bồ Tát Di Lặc khởi nghi vấn ? Vì Bồ Tát sơ
địa chẳng biết Bồ Tát nhị địa, Bồ Tát cửu địa chẳng biết Bồ Tát thập địa, thập
địa Bồ Tát chẳng biết cảnh giới của đẳng giác Bồ Tát, hà huống là cảnh giới của
Phật ? Do đó, người ngu chẳng biết người trí, người ngu si chẳng biết cảnh giới
của người có trí huệ, chẳng phải quá thì bất cập ; người phóng tâm chẳng biết
người định tâm. Tóm lại, tâm thần không yên, lo trước lo sau, tâm căn tán loạn,
chẳng hiểu rõ cảnh giới nhập định, cho nên phàm phu chẳng biết Thánh nhân, tiểu
thừa chẳng biết đại thừa. Xá Lợi Phất là bậc đại trí huệ ở trong tiểu thừa A La
Hán, nhưng Xá Lợi Phất không hiểu rõ cảnh giới của Bồ Tát. Một số Bồ Tát cũng
không hiểu cảnh giới của Bồ Tát bổ xứ. Bổ xứ là tương lai thay thế Phật vị của
Đức Phật Thích Ca. Bồ Tát Di Lặc là Bồ Tát nhất sinh bổ xứ, mà Bồ Tát bổ xứ lại
không biết Phật quả , Bồ Tát tôn kính cùng cực, cho nên Ngài mới khởi ý niệm
nghi vấn.
Khi đó, các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ và các vị trời, rồng, quỷ
thần .v.v… đều khởi nghĩ như thế nầy : Tướng quang minh thần thông của Đức
Phật, nay nên hỏi ai ?
Không những Bồ Tát Di Lặc, mà cho đến bốn chúng và trời, rồng, quỷ thần .v.v… cũng
khởi ý niệm hoài nghi, tại sao Đức Phật phải hiện tướng thần thông quang minh ?
Kỳ thật, Bồ Tát Di Lặc chẳng phải không biết nhân duyên Đức Phật hiện điềm lành.
Ngài cũng đã từng cúng dường vô số chư Phật trong quá khứ. Ngài chỉ là vì thỉnh
pháp, vì thế đại chúng giải mối nghi, mới hiện tướng hoài nghi mà hỏi Bồ Tát
Văn Thù.
Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc muốn giải quyết tâm nghi của mình, lại quán sát tâm của
bốn chúng : Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ và các chúng hội trời,
rồng, quỷ thần .v.v… mà hỏi Bồ Tát Văn Thù, vì nhân duyên gì mà có điềm lành
nầy ? Tướng thần thông phóng đại quang minh, chiếu phương đông một vạn tám ngàn
cõi, đều thấy cõi nước của chư Phật đó trang nghiêm. Do đó, Bồ Tát Di Lặc muốn
tuyên lại nghĩa nầy bèn dùng kệ để hỏi.
Lúc đó, Bồ Tát Di Lặc muốn cầu khai thị nghi vấn, lại thấy bốn chúng đệ tử và trời,
rồng, quỷ thần .v.v… sinh tâm nghi ngờ, do đó mới hỏi Bồ Tát Văn Thù.
Quỷ phân ra : ngạ quỷ (quỷ đói) và bảo quỷ (quỷ no). Quỷ nghĩa là
"quy", là trở về. Ai ai cũng có Phật tánh, đều có thể trở về cội nguồn
cứu kính thành Phật, nhưng vì vô minh phiền não mà tạo nghiệp, chết rồi do nghiệp
lực dẫn vào địa ngục, đưa đẩy vào đường ngạ quỷ. Vì lúc sống, chẳng biết lợi dụng
thân người nầy để tu thiện, sau khi chết rồi mới biết dụng tâm sai lầm, đi sai
đường, cho đến bỏ giác hợp trần, mà trôi nổi ở trong biển khổ, khổ không thể
tả. Song, nếu kịp thời hồi đầu, biết mê trở về giác, thì Đức Phật cũng khiến
cho lên bờ bên kia, cuối cùng sẽ thành Phật.
Thần nghĩa là "thiên tâm", có thần thông và cảm ứng tự nhiên. Bồ Tát
Di Lặc nói với Bồ Tát Văn Thù : "Xin Ngài từ bi nói cho chúng tôi biết, vì
nhân duyên gì mà đức Phật phải hiện tướng thần thông ít có nầy, phóng đại quang
minh chiếu phương đông một vạn tám ngàn thế giới ? Đồng thời lại thấy vô số ức cõi
nước chư Phật và điềm lành Phật diễn thuyết pháp." Hiện tại trước mắt giới
khoa học phát triển tiến bộ nhất, cho rằng lên cung trăng hoặc phóng vệ tinh
nhân tạo, đến tinh cầu khác là việc giỏi nhất, song, hai ngàn năm về trước, Đức
Phật dùng tướng luồng hào quang trắng, sớm đã biết đã thấy tất cả bí mật ở
trong vũ trụ không gian, hiển hiện ở trong tướng luồng hào quang trắng một vạn tám
ngàn thế giới, thấy tất cả chúng sinh và chư Phật đều rõ ràng mỹ lệ lại trang
nghiêm. Vì muốn cho chúng sinh minh bạch ý của Phật, cho nên Bồ Tát Di Lặc lại
dùng kệ để hỏi.
Ngài Văn Thù Sư Lợi !
Đấng Đạo Sư cớ chi ?
Phóng quang trắng giữa mày
Quang minh chiếu hết thảy.
Trời mưa hoa Mạn đà
Và hoa Mạn thù sa
Gió thơm hương chiên đàn
Khiến vừa lòng đại chúng.
Do nhân duyên như vậy
Cõi nước đều nghiêm tịnh
Mà ở thế giới nầy
Có sáu thứ chấn động.
Lúc nầy bốn bộ chúng
Thảy đều rất vui mừng
Thân tâm đều an lạc
Đắc được chưa từng có.
Bồ Tát Văn Thù ! Đấng Đạo Sư của chúng ta, vì cớ gì phóng luồng hào quang trắng
giữa chặng mày, chiếu khắp hết thảy ?
Đạo Sư tức là Đức Phật Thích Ca. Ngài dẫn đường chúng ta từ con đường đen tối đến
con đường sáng, trở về ngôi nhà xưa, là ngôi nhà nào ? Là cõi Thường Tịch Quang
Tịnh Độ. Lúc đó, trời mưa xuống hoa Mạn đà la và hoa Mạn thù sa màu trắng và
màu đỏ, không những xinh đẹp mềm mại, mà còn tỏa ra mùi hương chiên đàn, chu vi
khoảng bốn mươi dặm. Cho nên chúng sinh đều hoan hỉ vui mừng, mặt đất đều trang
nghiêm thanh tịnh. Ở thế giới nầy, lại phát sinh sáu thứ chấn động, bốn chúng
đều vì thấy điềm lành, mà thân tâm đều sung sướng vui thích, đó là việc ít có
từ trước chưa từng có.
Quang minh giữa chân mày
Chiếu thẳng về phương đông
Một vạn tám ngàn cõi
Thảy đều như sắc vàng.
Dưới chiếu ngục A tỳ
Trên chiếu trời Hữu đỉnh
Trong tất cả thế giới
Các chúng sinh sáu đường.
Sinh tử chỗ họ đến
Nghiệp duyên thiện và ác
Thọ báo tốt và xấu
Thảy đều thấy rõ hết.
Luồng hào quang trắng trung đạo của Đức Phật, trước hết chiếu phương đông, chiếu
khắp một vạn tám ngàn cõi, cho đến khắp cả hư không đều thành màu hoàng kim. Dưới
chiếu đến ngục A Tỳ, trên chiếu đến cõi trời Hữu Đỉnh, trong tất cả thế giới.
Hữu là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Hữu đỉnh tức là trời Phi Tưởng Phi
Phi Tưởng cao nhất trong tam giới. Cõi trời nầy thuộc về vô sắc giới, chẳng có
hình sắc cho nên không thể thấy, nhưng ở trong luồng hào quang trắng, nương hào
quang mà thấy được. Chúng sinh ở trong sáu nẻo luân hồi, sinh sinh tử tử, tử tử
sinh sinh, chuyển đi chuyển lại, khó thoát ra được. Sinh tử, tức là sự trở lại của
năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng là chỉ tinh thần và thân thể). "Nghiệp
duyên thiện và ác" : Là nhân đến, tốt xấu là quả đến. Chính là hai con
đường thiện và ác, tu thì tu, tạo thì tạo, xem bạn đi con đường nào mà thôi. Tu
là tu nghiệp thiện, tạo là tạo nghiệp ác, muốn thăng đi lên hoặc đọa lạc, hoàn
toàn do mình nắm trong tay. Thân người khó được, nếu không sớm tu năm giới mười
điều lành, mà làm điều ác, thì kiếp sau không dễ gì được làm người nữa.
"Thọ báo tốt và xấu, thảy đều thấy rõ hết." Đây là nói ở tại nhân
địa, người tu thiện thì được quả báo tốt, nếu tạo ác thì được quả báo xấu. Tất
cả đều thuận tâm tính, thuận nghiệp lực mà đến. Cho nên chúng sinh ở trong sáu
nẻo hổ tương tạo nghiệp, hổ tương thọ báo, lưu chuyển trong luân hồi, chẳng có
thời kỳ chấm dứt. Tất cả nghiệp duyên quả báo nầy, đều thấy hết ở trong luồng
hào quang trắng.
Lại thấy các đức Phật
Đấng Thánh chúa sư tử
Đang diễn nói Kinh điển
Tối vi diệu bậc nhất.
Âm thanh rất thanh tịnh
Thốt ra lời êm diệu
Giáo hóa các Bồ Tát
Vô số ngàn ức vạn.
Tiếng phạm âm thâm diệu
Khiến người ưa thích nghe
Đức Phật ở mỗi cõi
Đều diễn nói chánh pháp.
Lại thấy chư Phật. Phật là chúa trong bậc Thánh, như sư tử. Âm thanh của Phật rất
thanh tịnh vô cùng, lời nói rất lưu loát viên mãn, giọng điệu rất êm diệu, ai cũng
đều ưa thích nghe. Phật dùng âm thanh nầy để thuyết pháp, giáo hóa vô số ức vạn
Bồ Tát. "Tiếng phạm âm thâm diệu." Thứ âm thanh thanh tịnh nầy thâm
diệu vô cùng, khiến cho tất cả chúng sinh hoan hỉ tin thọ, mà tin sâu thắng trí
của Phật. Đồng thời, mỗi vị Phật ở thế giới kia cũng đều đang diễn nói chánh
pháp.
Dùng đủ thứ nhân duyên
Và vô lượng thí dụ
Chiếu rõ các Phật pháp
Để khai ngộ chúng sinh.
Nếu người gặp sự khổ
Chán sinh già bệnh chết
Vì họ nói Niết bàn
Dứt hết thảy các khổ.
Nếu người có phước báo
Từng cúng dường chư Phật
Chí cầu pháp thù thắng
Vì họ nói Duyên Giác.
Nếu có những Phật tử
Tu đủ thứ hạnh môn
Để cầu huệ vô thượng
Vì họ nói tịnh đạo.
Nầy Bồ Tát Văn Thù !
Tôi ở tại nơi đây
Thấy nghe như vậy đó
Và ngàn ức thứ việc.
Như thế nhiều vô số
Nay sẽ lược nói ra
Tôi thấy cõi nước kia
Có Hằng sa Bồ Tát.
Tu đủ thứ nhân duyên
Để cầu chứng Phật đạo
Hoặc có vị bố thí
Vàng bạc và san hô.
Chân châu ngọc ma ni
Sa cừ và mã não
Kim cương đồ quý báu
Tôi tớ và xe cộ.
Trang sức và xe kiệu
Đều hoan hỉ bố thí
Hồi hướng quả vị Phật
Nguyện đắc được thừa ấy
Bậc nhất trong ba cõi
Chư Phật thường khen ngợi.
"Dùng đủ thứ nhân duyên." : Vì người có đủ loại căn cơ và đủ thứ tập
khí mao bệnh, cho nên phải dùng vô lượng thí dụ, để vì chúng sinh thuyết pháp,
khiến cho họ hiểu thấu được Phật pháp chân chánh, y theo đó mà hành trì.
"Chiếu rõ các Phật pháp." : Dùng trí huệ quang minh để thấu hiểu tất
cả Phật pháp. "Để khai ngộ chúng sinh." : Khiến cho trí huệ và bồ đề
của chúng sinh tăng trưởng, y như mỏ vàng, nếu không khai quậc, thì chẳng bao
giờ được vàng thật, đây cũng là ví dụ. Con người vốn đầy đủ Phật tánh, nhưng đang
tiếc chẳng nhận thức mặt thật của mình. Song, nếu gặp bậc thiện tri thức chỉ điểm
cho họ, theo đó mà làm theo thì được trở về cội nguồn. Do đó :
Phá vỡ tâm niệm một chút nghi,
Mười phương nơi đâu chẳng gia trì,
Phật nhãn tròn sáng thường chiếu nhau,
Chỉ tại mỗi người không tự biết.
"Nếu người gặp sự khổ." : Phàm phu tuy thân tâm đều thọ khổ mà chẳng
biết, ngược lại còn cho khổ là vui, do đó khổ lại thêm khổ, càng thọ khổ thì
càng muốn tạo khổ. Vô minh phiền não vốn là khổ, nhưng con người cứ chấp trước
mà chẳng muốn xả bỏ, cho nên không thể thoát khỏi biển khổ, ngược lại đọa vào
địa ngục, vĩnh viễn trầm luân thọ khổ mà không thể tự cứu. Ngoại đạo cũng vì
muốn dứt khổ, mà tìm cầu lối thoát, song chẳng tìm được, cuối cùng quay lưng
với đạo mà theo đuổi đọa vào trong đường ngạ quỷ.
Con người có thế trí biện thông, tuy nhiên có chút thông minh, cũng thông đạt pháp
thế gian mà chẳng minh bạch pháp xuất thế gian. Do đó, khi khổ nạn xảy đến thì
chẳng biết ứng phó như thế nào, muốn dứt khổ nhưng ngược lại tạo khổ. Khi người
rơi vào nghịch cảnh nghèo cùng bệnh hoạn bức bách, nếu hiểu được thọ khổ tức
hết khổ, biết được đây là những nghiệp đã tạo ra trong quá khứ nên chiêu lại
quả báo, đời nầy phải an phận làm người. Nhưng nếu kháng cự nhân gây ra trong quá
khứ chẳng chịu trả, tự tạo nghiệp mà mình chẳng thừa nhận, ngược lại còn oán
trời trách người, thậm chí còn lợi dụng sự thông minh đi trộm cướp lường gạt.
Thật là lên được tới núi lại gặp cọp. Mánh khoé gạt người cuối cùng sẽ bị người
bắt được. Khi mưu kế bại lộ thì bị cảnh sát bắt, đưa đến quả báo ngồi tù, hoặc
lâu hoặc mau do tội nặng hay nhẹ mà quyết định. Thứ quả báo nầy, chỉ thân thể
thọ khổ mà thôi, quan trọng nhất là chẳng tránh khỏi ác nghiệp nầy, đưa đến
tương lai sẽ đắc được quả báo súc sinh. Sở dĩ con người gặp sự khổ, đều vì
chính mình đã tạo ra đủ thứ nghiệp ác. Nếu còn không tỉnh ngộ thì sẽ không được
làm người nữa mà đọa vào ba đường ác.
"Chán sinh, già, bệnh, chết." Khổ có ba thứ :
1. Khổ khổ : Khổ trong sự khổ.
2. Hoại khổ : Vốn chẳng có khổ, nhưng vì sung sướng rất ngắn ngủi, sự vui chẳng
bao lâu, nên gọi là hoại khổ.
3. Hành khổ : Con người từ nhỏ lớn dần lên, trưởng thành rồi già, già rồi chết đi,
niệm niệm sinh diệt không ngừng ; như sóng biển, sóng trước diệt, sóng sau lại
sinh, sóng sau diệt, sóng sau nữa lại sinh, liên tục không ngừng. Do đó, hành
khổ chẳng có ai tránh khỏi được.
Ngoài ra còn có tám thứ khổ :
1. Sinh khổ : Khi đứa bé mới lọt lòng mẹ thì khóc : Khổ a ! Khổ a ! Có thể thấy
thế gian có lắm sự khổ, nhưng ở tại thế giới kham nhẫn nầy (thế giới Ta Bà) lâu
rồi, lại lấy khổ làm vui, quên mất đường về. Ở trong thai mẹ, nếu người mẹ ăn
đồ nóng, thì thai nhi cảm thấy như ở trong núi lửa. Nếu người mẹ ăn đồ ăn lạnh,
thì thai nhi có cảm giác lạnh như ở trong địa ngục hàn băng. Trách sao được,
khi thân ở trong thai mẹ chỉ phải chịu khổ mà không thể mở lời than oán. Lúc
lọt lòng mẹ thì giống như hai quả núi đè ép, sinh ra rồi gặp gió thổi thì thân thể
lại giống như bị dao cắt, đau thấu tim gan. Song, đối với sự khổ nầy, hầu hết mọi
người quá ba tuổi thì cũng từ từ quên mất.
2. Già khổ : Lớn tuổi thì sức khoẻ cũng suy giảm, mắt mờ tai điết, răng rụng, ngũ
quan chẳng còn linh hoạt ; tóm lại chẳng có ai tránh khỏi sự già nua, đó chẳng
phải là khổ chăng ?
3. Bệnh khổ : Sự khổ nầy càng chẳng ai tránh khỏi, dù bạn là ông vua, tổng
thống, hoặc đại thần, .v.v… đều khuất phục dưới con ma bệnh, già, chết. Bệnh có
nhiều thứ, bệnh hoạn mang đến sự khổ đau cũng đếm không xuể.
4. Chết khổ : Khổ nhất là khổ về chết và khổ về sinh. Khi sinh ra thì như rùa
lột mu, chết thì như bò sống lột da. Vậy mục đích học Phật là gì ? Tức là chấm
dứt sinh tử, thoát khỏi luân hồi.
5. Thương lìa nhau khổ : Thế tục tham nhiều về tình ái, khó phân ly khó xả bỏ.
Nhưng càng thương yêu bao nhiêu, đến lúc sinh ly tử biệt, thì càng đau khổ bấy
nhiêu. Ái tình là nhân trầm luân trong biển khổ. Nếu khử trừ sạch tâm dâm dục,
thì đoạn sạch mầm mống sinh tử, cũng chẳng còn thọ luân hồi, bằng không vẫn lưu
chuyển ở trong biển khổ, không khi nào dứt được.
6. Ghét gặp nhau khổ : Người nầy tôi ghét nhất ! Tôi chẳng muốn thấy y ! Nhưng nếu
đối với vợ của mình, cũng khởi tâm chán ghét, mà y thị luôn luôn quấn quít
không lìa, đó thật là ghét thấy nhau như chẳng thấy, hoặc là mình ghét người
nào đó mà phải tránh né y, nhưng đôi khi lại gặp y ! Đó đều là khổ về ghét gặp
nhau. Nếu tâm tự tại thì tất cả đều tự tại, tâm như ý thì tất cả đều như ý. Nếu
trong tâm có quá nhiều chán ghét oán hận, thì tất cả những gì thấy nghe cũng khiến
cho mình chẳng được như ý. Đó là tự mình làm khổ mình.
7. Cầu không được khổ : Mong cầu chẳng được cũng khổ. Nếu muốn thăng quan phát tài,
hoặc bạn trai muốn có người vợ đẹp, còn bạn gái muốn được người chồng tốt,
nhưng đều chẳng thành công, thì phiền não sẽ phát sinh, đêm ngủ chẳng yên, ăn
chẳng biết ngon, tinh thần hoảng hốt, tinh thần bất định, đó đều là khổ !
8. Năm ấm thiêu đốt khổ : Thân thể vốn là khổ, là vô thường. Cho nên, tám thứ khổ
nầy luôn luôn bức bách chúng ta, chi phối chúng ta, cho nên Đức Phật mới nói
pháp Niết Bàn. Niết là không sinh, Bàn là không diệt. Nếu chẳng chấp trước thân
giả tạm nầy, mà cầu đạo vô thượng, thì sẽ được Niết Bàn, cũng là : thường, lạc,
ngã, tịnh, bốn đức Niết Bàn. Do đó, dứt hết các sự khổ, tất cả mọi sự khổ đều
dứt sạch.
Ai muốn chấm dứt đau khổ, thì phải rộng trồng ruộng phước, cung kính lễ bái và
cúng dường Tam Bảo, đừng làm điều ác, hãy làm các điều lành, đủ thứ công đức.
Nhưng đừng chấp trước mình từng bỏ ra bao nhiêu tiền, hãy dùng tâm chân thật để
làm bố thí, tu phước đức và huệ đức, tức là phước huệ song tu. Làm công đức là
tu phước, nghe Kinh và nghiên cứu Phật pháp thì sẽ khai mở trí huệ, đó gọi là
tu huệ. Do đó, nếu người có phước báo, từng cúng dường chư Phật. "Chí cầu
pháp thù thắng". Lập chí muốn cầu pháp thù thắng. "Vì họ nói Duyên
Giác". Pháp mười hai Nhân Duyên, khiến cho họ quán thế duyên, giác ngộ pháp
tính. Mười hai Nhân Duyên là : Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ,
ái, thủ, hữu, sinh, lão tử. Đây là pháp của người nhị thừa tu. "Nếu có
những Phật tử, tu đủ thứ hạnh môn, cầu chứng huệ vô thượng, vì họ nói tịnh
đạo." Nếu có đệ tử của Phật muốn cầu đạo vô thượng, tu tập lục độ vạn hạnh,
thì Đức Phật vì họ mà nói Phật đạo thanh tịnh, tức là lục độ Ba la mật.
"Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ! Tôi ở tại thế giới Ta Bà nầy. Thấy nghe như vậy
đó", mắt thấy cảnh Phật, tai nghe tiếng của Phật, đều như vậy đó. "Và
ngàn ức thứ việc" : Còn có rất nhiều thứ việc khác. "Như thế nhiều vô
số" : Là chỉ sự thấy và nghe quá nhiều. Nay sẽ lược nói ra : Bây giờ tôi
phải lược nói với Bồ Tát Văn Thù. "Tôi thấy cõi nước kia, có Hằng sa Bồ Tát,
tu đủ thứ nhân duyên, mà cầu chứng Phật đạo" : Tôi thấy được cõi nước kia,
Bồ Tát nhiều như số cát sông Hằng, dùng đủ thứ nhân duyên tu hành. Nếu ai muốn
cầu Phật đạo thì phải làm công đức, tất sẽ đắc được trí huệ, còn phải hạ thủ
một phen khổ công phu ! Bồ Tát nhiều như số cát sông Hằng còn phải dùng đủ thứ
nhân duyên để tu phước huệ, để cầu quả vị Phật, hà huống là phàm phu ! "Hoặc
có người bố thí." : Có người dùng bảy báu để bố thí, vì muốn cầu Phật đạo.
Bảy báu là : vàng bạc và san hô, trong biển có báu do tụ khí kết thành, màu sắc
nhuận đỏ, hình như cây gọi là san hô. "Chân châu ngọc ma ni" : Châu ma
ni gọi là châu như ý. "Xà cừ và mã não" : Con sò lớn ở trong biển,
tức là ốc biển lớn. Mã não là tụ khí trong đá, màu sắc nhuận đỏ như não ngựa.
"Kim cương đồ quý báu" : Kim cương tức là toàn thạch, là một thứ đá
rất quý, rất cứng dùng để chạm ngọc và thủy tinh. "Tôi tớ và xe cộ" :
Người nầy thậm chí đem tôi tớ, xe cộ ra bố thí. "Trang sức và xe
kiệu" : Xe kiệu là một thứ xe nạm châu báu, thời xưa hoàng đế thường dùng xe
kiệu nầy đi lại. Quân lính khiên đi cho nên gọi là xe kiệu. "Đều hoan hỉ
bố thí, hồi hướng quả vị Phật" : Đây là người rất vui thích dùng bảy báu
làm bố thí. Ngược lại, nhân sĩ người thời nay chỉ bỏ ra vỏn vẹn năm đồng, mười
đồng thì cho rằng đã nhiều lắm rồi, mà còn ghi nhớ trong tâm, chẳng biết công
đức chánh bố thí, ngoại trừ đem bảy báu ra bố thí nhưng tâm chẳng có tơ hào hối
tiết và cũng đừng khởi tâm chấp trước mới khế hợp Phật đạo. "Nguyện đắc
được thừa ấy" : Nguyện đắc được Phật thừa. "Bậc nhất trong tam giới"
: Thành Phật ở trong dục giới, sắc giới và vô sắc giới, cho nên là bậc nhất trong
tam giới. "Chư Phật thường khen ngợi" : Thành Phật rồi, được chư Phật
trong mười phương tán thán ca ngợi.
Hoặc có những Bồ Tát
Dùng xe báu bốn ngựa
Lan can và lọng hoa
Trang sức đem bố thí.
Lại thấy các Bồ Tát
Đem thân thịt tay chân
Và vợ con bố thí
Để cầu vô thượng đạo.
Lại thấy có Bồ Tát
Dùng đầu mắt thân thể
Vui thích đem bố thí
Để cầu Phật trí huệ.
Ngài Văn Thù Sư Lợi !
Tôi thấy các ông vua
Đều đi đến chốn Phật
Hỏi pháp vô thượng đạo.
Bèn vui vẻ bỏ nước
Và cung điện thần thiếp
Cạo bỏ râu và tóc
Mà mặc y pháp phục.
Hoặc thấy có Bồ Tát
Xuất gia làm Tỳ kheo
Một mình ở chỗ vắng
Thích đọc tụng Kinh điển.
Lại thấy có Bồ Tát
Rất tinh tấn dũng mãnh
Vào ở trong rừng sâu
Suy gẫm cầu Phật đạo.
Bồ Tát Di Lặc nói với Ngài Văn Thù : Tôi thấy ở trong luồng hào quang trắng của
Đức Thế Tôn có những vị Bồ Tát hành bố thí. "Ngài dùng xe báu tứ mã"
: Xe ngựa bốn con, dùng các báu trang sức. "Lan can và lọng hoa" :
Ngang gọi là lan, dọc gọi là can, là một loại xe báu trên đỉnh có trang trí
lọng hoa. "Trang sức đem bố thí" : Dùng đồ trang nghiêm tối thắng nầy
đem đi bố thí. "Lại thấy các Bồ Tát, đem thân thịt tay chân" : Lại
thấy có những vị Bồ Tát, không những đem tất cả châu báu tài vật, mà còn đem
thân thịt, tay chân, vợ con của họ ra bố thí. Đó chẳng phải là khó làm mà làm
được chăng ? Đáng cười phàm phu chúng ta, làm được một chút việc thiện hoặc bố
thí được chút ít thì đắc chí lắm, hí hửng mừng rỡ, cho rằng nhiều quá lắm rồi
đó ! Một vị Bồ Tát vốn ôm ấp từ bi tinh thần cứu đời, không những xả bỏ tất cả
vật ngoài thân, mà thậm chí thân thịt cho đến tay chân của mình hoặc vợ con,
khi chúng sinh cần thì đều vui vẻ bố thí cho người. Bồ Tát bố thí thân thể như
thế nào ? Ví như, có người gặp tai nạn xe cộ mất đi cánh tay, thì Bồ Tát chẳng
do dự, đem cánh tay của mình bố thí, cho đến tim gan phổi thận, bố thí cho bệnh
nhân cần, cứu bệnh khổ của tất cả chúng sinh, mà khiến cho họ thoát khỏi kinh
sợ và tai nạn, đó là bố thí nội tài. "Và vợ con bố thí" : Đây là bố thí
ngoại tài. Nhân gian cũng có Bồ Tát, chỉ cần người nào đó phát được tâm đại từ
bi, vì chúng sinh mà hành bố thí, khó xả bỏ mà xả bỏ được thì gọi là Bồ Tát. Vì
trong thế gian, việc khó xả bỏ nhất là tình cảm vợ chồng, các Ngài buông xả
được mọi tình cảm khó xả bỏ được, đủ thấy tâm của các Ngài kiên định và tự tại
cho nên xưng là Bồ Tát.
Ở trong Thủy Kính Hồi Thiên Lục có một đoạn ghi về Ngài Hòa Thượng Thường Nhân,
trước khi chưa xuất gia, từng vì tu đạo mà bố thí vợ của mình cho người khác.
Sau khi cha mẹ của Ngài qua đời, Ngài vì muốn báo hiếu cho cha mẹ mà thủ hiếu ở
mộ ba năm. Do đó, vợ của Ngài chẳng khác nào là "thủ hoạt quả", vì
không thể chịu đựng cảnh vắng vẻ, cho nên đôi ba phen khuyên Ngài trở về nhà sống
với nhau, nhưng tâm tu đạo của Ngài đã kiên quyết. Rõ là người càng muốn hướng thượng
thì càng gặp ma thử thách. Do đó :
"Đạo cao một thước, ma cao một trượng,
Đạo cao một trượng, ma ở trên đầu".
Đại Sư Thường Nhân càng muốn chuyên tâm tu đạo, thì càng bị vợ quấy nhiễu, cuối
cùng dẫn lại một người đàn ông đến mộ để uy hiếp chồng, nếu Đại Sư không chịu
trở về nhà, thì y thị sẽ kết hôn với người đàn ông nầy. Song, Đại Sư Thường
Nhân chẳng có chút nóng giận gì, ngược lại còn khoan hồng đại lượng tán thán sự
sống chung của hai người, đủ thấy công phu tu hành của Ngài rất thâm sâu. Đó là
:
Khó làm mà làm được,
Khó xả bỏ mà xả bỏ đặng.
Tâm chẳng còn tham trước, thì không bị cảnh trần ô nhiễm lay chuyển ; đoạn được
tâm dâm dục thì không còn tiếp tục sinh tử, mà ra khỏi được tam giới, cho nên
chỉ có Bồ Tát mới đem vợ con bố thí, để cầu vô thượng đạo.
"Lại thấy các Bồ Tát, dùng đầu mắt thân thể." Những vị Bồ Tát nầy,
không những xả bỏ được nội tài và ngoại tài, thậm chí đầu, mắt, thân thể, cũng
đều vui vẻ bố thí. Đây là vô úy thí, Ngài dùng thân tâm tính mạng bố thí cho
người, vì cầu vô thượng đạo, cho nên được liễu sinh thoát tử. Nếu người xan tham
không xả bỏ, cũng chẳng bố thí, thì vĩnh viễn không thể chấm dứt sinh tử. Mà bố
thí ở đây phải vui vẻ thí xả, hoàn toàn chẳng có ý đấu tranh. Có những người chẳng
phải dùng chân tâm để bố thí, nếu thấy người bỏ ra một trăm ngàn, thì họ phải
bỏ ra hai trăm ngàn, nếu người bỏ ra hai trăm ngàn, thì họ chẳng bỏ ra ba trăm
ngàn thì không được, nhất định phải hơn người mới được, đó chẳng phải là bố thí
như pháp, cũng chẳng hoàn toàn thành tâm hành thiện. Đoạn nầy nói về bố thí độ
ở trong lục độ.
"Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ! Tôi lại thấy các quốc vương, đều đi đến chốn
Phật, hỏi pháp vô thượng đạo". Đến trước chư Phật thỉnh hỏi pháp vô thượng
đạo, thì Phật khai thị đạo lý : khổ, không, vô thường, vô ngã, bốn niệm xứ .v.v.
Có bài thơ Tây Giang Nguyệt, đồn rằng do Trang Tử sáng tác, cũng nói lên đạo lý
: khổ, không, vô thường, vô ngã. Thơ rằng :
"Phú quý năm canh xuân mộng,
Công danh một đám mây trôi,
Trước mắt cốt nhục đã chẳng thật,
Ân ái trở thành cừu hận,
Đừng mang gông vàng vào cổ,
Chớ đeo vòng ngọc trói thân,
Thanh tâm quả dục thoát hồng trần,
Khoái lạc tiêu dao tự tại."
Các vị quốc vương nghe nói về bốn Niệm Xứ, bèn vui vẻ bỏ nước, chẳng có tơ hào do
dự, xả bỏ hết sự hưởng thụ năm dục, cũng đem cung điện thần thiếp xả bỏ, để cạo
bỏ râu và tóc, mà mặc y pháp phục, mặc lên y Cà sa của người xuất gia. Đoạn văn
nầy nói về giới độ ở trong lục độ.
"Hoặc thấy có Bồ Tát, xuất gia làm Tỳ Kheo, một mình ở chỗ vắng, thích tụng
đọc Kinh điển." Đoạn nầy dụ cho nhẫn nhục Ba la mật.
Một vị Tỳ Kheo một mình ở trong động núi khó tránh khỏi người ác đánh chưởi
hoặc rắn độc thú dữ xâm hại, nhưng họ đều nhẫn thọ mà chẳng sinh tâm kinh sợ,
đó là sinh nhẫn, tự tiết thủ chí là khổ hạnh nhẫn, tụng Kinh cầu Phật là nhẫn
đệ nhất nghĩa.
"Lại thấy có Bồ Tát, rất tinh tấn dũng mãnh, vào ở trong rừng sâu, tư duy
cầu Phật đạo." Đây là độ thứ tư trong lục độ Ba la mật. Đây là biểu hiện
tinh thần quên ăn bỏ ngủ để cầu Phật đạo. Các vị ấy vào trong rừng sâu núi thẳm,
tư duy cầu Phật đạo, chánh niệm tư duy sở hành của Phật tức là quán chiếu thiền.
Lại thấy người lìa dục
Thường ở chỗ thanh nhàn
Chuyên tu tập thiền định
Đắc được năm thần thông.
Lại thấy có Bồ Tát
Chắp tay trụ thiền định
Dùng ngàn vạn bài kệ
Khen ngợi các Pháp Vương.
Bồ Tát Di Lặc lại nói : Tôi lại thấy người tu hành lìa dục, chẳng tham : tài, sắc,
danh, ăn và ngủ. Ở chỗ thanh nhàn ngày đêm tu thiền, chẳng có gián đoạn. Nếu ai
chân chánh tu hành thì phải nỗ lực, ngày ngày tu tập thiền định, chẳng có ngày
giờ nào nghỉ. Nếu lười biếng giải đãi, thì vĩnh viễn chẳng thành tựu. Tu thiền
sẽ đắc được năm thần thông : Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông,
túc mạng thông và thần túc thông, nhưng chưa đắc được lậu tận thông. Chỉ có tứ
quả A La Hán và bậc Bồ Tát trở lên mới có thần thông nầy. Ngoài tu thiền ra, nếu
chuyên tâm niệm Phật hoặc tụng Kinh trì Chú, cũng sẽ đắc được năm thần thông.
Như Ngài Trí Giả Đại Sư chuyên trì tụng Kinh Pháp Hoa mà khai ngộ. Khi Ngài
tụng đến phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự : "Đốt thân cúng Phật là chân tinh
tấn, gọi là chân pháp cúng dường Như Lai", thì nhập vào cảnh giới tam muội.
Ở trong định thấy pháp hội Linh Sơn vẫn còn chưa tan, thấy Đức Phật vẫn còn
đang thuyết pháp. Cho nên trì tụnh Kinh điển cũng có thể khai ngộ, nhưng phải
chuyên tâm nhất chí, chứ chẳng phải khi thì niệm Phật, khi thì khởi vọng tưởng.
Nếu đang niệm Phật, mà còn bàn tính chuyện làm sao để kiếm tiền, thì nhất định
chẳng thể khai ngộ, vì đó là niệm tiền chứ chẳng phải niệm Phật.
Lại thấy có Bồ Tát, chắp tay an trụ trong thiền định, dùng ngàn vạn bài kệ để
tán thán chư Phật.
Lại thấy có Bồ Tát
Trí sâu chí kiên cố
Tham vấn các đức Phật
Nghe rồi đều thọ trì.
Lại thấy có Phật tử
Định huệ đều đầy đủ
Dùng vô lượng thí dụ
Vì chúng diễn nói pháp.
Vui thích nói các pháp
Giáo hóa các Bồ Tát
Phá trừ chúng binh ma
Mà đánh vang trống pháp.
Lại thấy có Bồ Tát
Yên lặng ngồi bất động
Trời rồng đều cung kính
Chẳng vì thế vui mừng.
Lại thấy có Bồ Tát
Tại rừng phóng quang minh
Cứu khổ dưới địa ngục
Khiến họ vào Phật đạo.
Lại thấy có Phật tử
Chưa từng có ngủ nghỉ
Kinh hành ở trong rừng
Siêng cầu chứng Phật đạo.
Lại thấy bậc giới đức
Oai nghi chẳng thiếu khuyết
Thanh tịnh như châu báu
Để cầu chứng Phật đạo.
Lại thấy có những vị Bồ Tát, có trí huệ thâm sâu và chí khí kiên cố. "Tham
vấn các Đức Phật." : Khéo hỏi pháp. "Nghe rồi đều thọ trì." :
Nghe pháp thì y theo pháp mà tu hành. "Lại thấy có Phật tử, định huệ đều
đầy đủ". Định dùng để nhiếp giáo, huệ dùng để phá mê. Định huệ đều trì thì
gọi là đầy đủ. Bồ Tát nầy dùng vô lượng phương tiện khéo léo, để ví dụ vì chúng
sinh mà thuyết pháp. "Phá trừ chúng binh ma" : Chúng đều giả danh làm
Phật tử, nhưng chẳng hành chánh đạo, mà còn dùng kẻ mù dẫn người đui, nên gọi
là binh ma. Cho nên dùng chánh pháp nhãn phá trừ quân tà, nên gọi là phá ma
vậy. Đoạn nầy là Bát nhã độ.
"Lại thấy có Bồ Tát, lặng yên ngồi bất động." Lại thấy có những Bồ
Tát ngồi kiết già. Vì có công phu thiền định, cho nên trời rồng đều cung kính
lễ bái, nhưng các Ngài chẳng vì thế mà sinh tâm vui mừng. Do định mà sinh huệ,
cho nên tâm chẳng bị cảnh chuyển, cũng chẳng động niệm. Nếu chẳng có vọng niệm
thì không sinh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm, cho nên
chẳng trái chẳng phải, chẳng thiện chẳng ác, tức là tự tính thanh tịnh, đắc được
chân như diệu tính. Nhưng chẳng thế nói tôi đã vô niệm (chẳng còn niệm gì nữa),
vì nói vô niệm thì đã có niệm. Người biết vô niệm, thì hàng phục được tâm của
họ, người biết mình vô niệm, khi phá trừ chúng binh ma, thì dùng vô niệm là
diệu nhất ! Nó bao hàm cả nhẫn nhục và sinh nhẫn, tức chẳng bị lời hay tiếng ngọt
làm động, cũng không vì nghịch cảnh mà khởi tâm kinh sợ hoặc sân hận.
Trước khi Tổ Đạt Ma đến Trung Quốc, thì phái hai vị đệ tử Di Phật Đà và Già Xá đến
Trung Quốc hoằng pháp trước. Sư đồ họ đều là người Ấn Độ. Hai vị khoái chí
giảng về thiền, bất lập văn tự, kiến tánh thành Phật. Lúc đó, ở Trung Quốc cũng
có một vị sư tiểu thừa từ Ấn Độ đến là Bồ Đề Lưu Chi, thấy hai vị thiền sư đại
thừa mới đến, bèn liên hợp với tất cả những người xuất gia bôi nhọ họ, khiến
cho họ từ Trường An phải chạy đến Lư Sơn. Hai vị sư Di Phật Đà và Già Xá thấy
đại sư Viễn Công, mới thuật lại tình hình trên cho đại sư nghe. Lúc đó, đại sư
hỏi họ truyền pháp gì ? Hai vị duỗi cánh tay ra, sau đó lại co vào, bèn hỏi duỗi
ra co vào có nhanh chăng ? Đại sư đáp : "Phải." Hải vị thiền sự giải thích
phiền não và bồ đề và sự biến hoá rất nhanh của nó cũng lại như thế. Ví như
duỗi ra co vào đều cùng một cánh tay, mà có sự khác biệt về lòng bàn tay và mu
bàn tay. Cũng thế ấy, phiền não tức bồ đề, bồ đề tức phiền não, cả hai thật
chẳng lìa nhau, là hai mà chẳng hai, tức tâm tức Phật, minh tâm kiến tánh, cho
nên sinh tử tức Niết Bàn, Niết Bàn tức sinh tử. Vô niệm tức Niết Bàn, có niệm
tức có sinh tử. Duy có một niệm không sinh toàn thể hiện, Phật tính vốn có hiện
tiền, thì dù ma quỷ cũng phải cung kính. Nếu vô niệm thì sẽ trở về nguồn cội, đây
là bổn địa phong quang vậy. "Trời rồng đều cung kính, chẳng vì thế vui mừng."
Cho nên trời rồng cung kính cũng là bổn hữu, chẳng vì thế mà vui mừng, liền xả thiền.
"Lại thấy có Bồ Tát, tại rừng phóng quang minh, cứu khổ dưới địa ngục,
khiến họ vào Phật đạo." Lại thấy có những vị Bồ Tát tu thiền ở trong rừng
tức là tự lợi, đồng thời phóng ra quang minh thanh tịnh chiếu chúng sinh trong
địa ngục, tức là lợi tha. Dùng tâm đại bi cứu vớt chúng sinh thọ khổ trong địa
ngục, đây là bi thiền.
"Lại thấy có Bồ Tát, chưa từng có ngủ nghỉ, kinh hành ở trong rừng, siêng
cầu chứng Phật đạo." Những vị nầy, ở trong rừng, hoặc ở trong nhà, tu khổ
hạnh thường đi không ngồi, không nằm. Pháp môn nầy gọi là "bát chu tam muội",
cũng là Phật lực tam muội, trong chín mươi ngày thường đi, không ngồi, không
nằm, vì muốn trừ con ma ngủ mà siêng cầu Phật đạo.
"Thấy bậc đủ giới đức, oai nghi chẳng thiếu khuyết, thanh tịnh như châu
báu, để cầu chứng Phật đạo." Lại thấy có những vị Bồ Tát thọ trì mười đại
giới thanh tịnh như châu báu. Giới cấm thân, miệng gọi là oai nghi, tự tịnh tâm
ý tức chẳng khuyết phạm.
1. Giới chẳng khuyết : Nghĩa là chẳng phạm trọng tội, nếu phạm thập ác, ngũ nghịch
trọng tội, thì như túi nổi khuyết thất.
2. Chẳng phá giới : Nghĩa là chẳng phạm trọng tội, nếu phạm trọng tội thì như
túi nổi tàn phá.
3. Giới chẳng thủng : Nghĩa là chẳng phạm tiểu tội, nếu phạm tiểu tội, thì như túi
nổi thủng lỗ. Đó là nhiếp luật nghi.
4. Giới chẳng tạp nhạp : Nghĩa là chẳng khởi niệm ác, nếu khởi niệm ác, thì tuy
thân miệng thanh tịnh, nhưng ý tạp nhạp phiền não, đây gọi là định cộng giới.
5. Giới tùy đạo : Như bậc sơ quả đi trên đất, thì cách côn trùng bốn tất.
6. Chẳng chấp trước giới : Như A La Hán nơi tam quả lục trần, vĩnh viễn chẳng
tham trước.
7. Giới được bậc trí ca ngợi : Nghĩa là dùng pháp quyền xảo phương tiện để
hoằng pháp lợi sinh, cho nên được bậc trí tán thán.
8. Giới tự tại : Nghĩa là, du hí thần thông thị hiện nghịch thuận, nhưng chẳng phạm
giới tính (nếu sinh một niệm tà tức phạm giới, đây là vô hình) và giá giới
(thân miệng chẳng được phạm đây là hữu hình). Vì có tự tại thần thông, giả thị
hiện dùng tạo tội và sát sinh để giáo hóa người, đó thì chẳng phạm tính và giá
hai giới.
Ví như trong Kinh Lăng Nghiêm, Hộ Pháp đập nát đầu quỷ vương. Và nữa, khi Vua
Lương Võ Đế còn làm vua, thì có một vị thiền sư Bảo Chí, mỗi bữa ăn đều ăn hai
con chim bồ câu, ăn hết cả xương cả đầu cũng chẳng chừa. Một ngày nọ, người nấu
bếp ăn lén cái cánh của một con bồ câu, cho rằng đã chặt vụn ra tưởng đâu có
thể nói gạt đặng, không ngờ Ngài Chí Công nhìn qua rồi nói : "Ông ăn lén bồ
câu." Người nấu bếp tuy kinh sợ, nhưng vẫn chối không nhận. Lúc đó, Ngài
Chí Công cũng chẳng tranh biện làm chi, bèn ăn hết hai con bồ câu. Chuyện kỳ lạ
cũng phát sinh ! Ngài Chí Công ăn hết thịt chim bồ câu rồi, thì lại phun ra hai
con bồ câu sống, trong đó có một con bồ câu thiếu mất cái cánh. Cho nên Ngài
Chí Công là một người không tầm thường. Nếu ai ăn bồ câu chín mà phun ra bồ câu
sống, hoặc ăn thịt bò mà phun ra bò sống, thì mới tính là chẳng phạm giới sát sinh.
Nếu chẳng có bản lãnh như thế, mà cứ tùy tiện ăn thịt chúng sinh, thì tương lai
phải trả quả báo và đọa địa ngục. Giới nầy gọi là giới tục đế.
9. Giới tùy định : Đi, đứng, nằm, ngồi, cử chỉ, hành động, nói năng, đều ở trong
định, đều có oai nghi.
10. Giới cụ túc : Nghĩa là giới Ba la mật tất kính viên mãn, lại gọi là đế giới
trung đạo đệ nhất nghĩa.
Lại thấy có Phật tử
Trụ vào sức nhẫn nhục
Bị kẻ tăng thượng mạn
Mắng chưởi và đánh đập.
Thảy đều nhẫn thọ được
Để cầu chứng Phật đạo !
Lại thấy có Bồ Tát
Lìa bỏ sự giỡn cười.
Và quyến thuộc ngu si
Gần gũi bậc trí huệ
Nhất tâm trừ tạp loạn
Nhiếp niệm ở núi rừng.
Trải ức ngàn vạn năm
Để cầu chứng Phật đạo !
Hoặc thấy có Bồ Tát
Đồ ăn uống thượng hạng.
Và trăm thứ thuốc thang
Đem cúng Phật và Tăng
Y tốt quần áo đẹp
Trị giá ngàn vạn tiền.
Hoặc là y vô giá
Đem cúng Phật và Tăng.
Dùng ngàn vạn ức thứ
Nhà báu bằng chiên đàn
Các giường nệm tốt đẹp
Dâng cúng Phật và Tăng.
Vườn rừng rất thanh tịnh
Hoa quả đều sum sê
Có suối chảy ao tắm
Cúng dường Phật và Tăng.
Như thế đều bố thí
Đủ thứ đồ tốt đẹp
Vui vẻ chẳng nhàm chán
Để cầu vô thượng đạo.
Lại thấy có đệ tử của Phật, chuyên tâm nhất chí tu pháp môn nhẫn nhục. Nhẫn
nhục đối trị được sân hận, cho nên nhẫn thọ được tất cả chưởi mắng đánh đập,
cho đến quán tất cả cảnh thuận nghịch cũng đều an nhiên tự tại. Nhưng người tu
hành đừng tìm tòi sự nhẫn nhục của người khác sâu hay cạn, mà phóng túng sự tu
hành của mình.
"Bị kẻ tăng thượng mạn." Là chỉ những người kiêu ngạo trong tầm mắt
chẳng thấy có ai. Kẻ kiêu ngạo không những sẽ bị bại, mà cũng là hành vi ngu si
nhất. Vì sao ? Đức Phật là bậc Đại giác, Ngài dùng hiếu thuận, bình đẳng và từ
bi, để đối đãi với tất cả chúng sinh, vì Ngài đều thấy đều biết tất cả chúng sinh,
đều có thể thành Phật, đều làm cha mẹ của mình trong quá khứ.
Bậc đại giác ngộ còn chẳng kiêu ngạo, hà huống là phàm phu chúng ta ! Cho nên chỉ
có người ngu mới khởi tâm kiêu mạn mà khinh khi người khác.
Lại thấy người chẳng cười nói cẩu thả, và xa lìa quyến thuộc ngu si : Tâm sân
là vô minh chẳng hiểu nhân quả. Sư nóng giận có hại cho thần nhất, cũng khiến
cho người mất đi lý trí, mà phạm đủ thứ lỗi lầm, và rất nhiều tội ác phát sinh,
cho đến giết người, đều do một niệm sân khởi lên, cho nên sân là đáng sợ nhất,
khiến cho người tạo ra những hành vi ngu si, và mười điều ác, năm tội ngũ nghịch,
đủ thứ tội mà gieo xuống nhân địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. "Gần gũi bậc
trí huệ." : Nếu cải ác hướng thiện, gần gũi thiện tri thức, thì từ từ sẽ
thay đổi trong sự ẩn tàng, trừ khử tập khí ác, bỏ tà theo chánh, đó là gần mực
thì đen, gần đèn thì sáng. Như hiện nay tại Vạn Phật Thành, mỗi ngày đều có
pháp hội, đó tức là gần gũi bậc trí huệ, vì nghe nhiều Phật pháp, thì khiến cho
trí huệ của con người tăng trưởng.
Nếu nhất tâm trừ loạn, thì trừ khử được tham cái. Không tham thì tự nhiên chẳng
phạm ngũ giới thập thiện. Tham sẽ khiến cho người đụng việc thì hôn mê, ràng
buộc tâm mà chướng ngại đạo nghiệp. Rõ là người thế gian nhiều tham dục, vì lợi
mà quên mình, suốt ngày vì kiếm tiền mà bất chấp thủ đoạn, chẳng nhận lục thân
quyến thuộc, tổn người lợi mình. Những nghiệp ác nầy chẳng những hại người,
cũng thương hại đến tự tánh của chính mình, làm cho trí huệ vốn có bị che lấp,
mà gây tạo ra biết bao tội lỗi. Cho nên, chỉ có đoạn trừ tâm tham dục, thì mới khiến
cho tự tính quang minh hiển hiện.
"Nhiếp niệm ở núi rừng." : Mười pháp giới không lìa một tâm niệm.
Thiên đường, địa ngục hoặc nhân gian, chẳng lìa niệm hiện tại nầy. Cho nên muốn
thành Phật, Bồ Tát, A La Hán, đều do một niệm nầy sinh ra. Một niệm của con
người, tuy đạt được một vạn tám ngàn dặm, nhưng hoàn toàn chẳng có quang minh, chỉ
có tướng luồng hào quang trắng của đức Phật, thông đạt được một vạn tám ngàn
dặm, và còn thấy biết hết vạn sự vạn vật tận hư không viên dung vô ngại. Nhiếp
niệm tức là thu hồi tâm tán loạn lại, mà an trụ tại một niệm, đó là pháp môn
lấy độc trị độc. Buông xả vạn duyên, chỉ tồn tại một niệm, tốt nhất là đạt được
cảnh giới vô niệm, thì đại giác Phật tính viên minh tự nhiên sẽ hiện tiền. Cho
nên, nhiếp niệm ở núi rừng, là trừ khử thùy cái (ngủ). Thùy cái là chướng ngại
cho người tu hành, vì ở trong mộng chẳng dễ gì trì giới, tự nhiên sẽ bị cảnh
mộng lay chuyển, mà ma vương thích nhất là nhiễu loạn định lực của người tu
hành ở trong mộng, khiến cho họ phạm giới mà khởi tâm niệm tham, sân, si, mà
che lấp tự tánh. Do đó, Bồ Tát nầy xả bỏ được ba độc, và ngũ dục vô minh phiền
não, mà yên tâm tu đạo, vĩnh viễn không thối chuyển.
Lại thấy Bồ Tát dùng thức ăn thượng hạng, y áo, giường nệm và thuốc thang, hoặc
nhà báu bằng gỗ chiên đàn, vườn rừng thanh tịnh, hoa quả sum sê, suối chảy ao
tắm .v.v… hàng ngàn vạn thứ, đem bố thí cúng dường Phật Pháp Tăng.
Lại thấy có Bồ Tát
Đang nói pháp tịch diệt
Đủ thứ sự giáo hóa
Độ vô số chúng sinh.
Hoặc thấy có Bồ Tát
Quán sát các pháp tánh
Đều chẳng có hai tướng
Giống như là hư không.
Lại thấy có Phật tử
Tâm chẳng có chấp trước
Lấy đó làm diệu huệ
Cầu chứng vô thượng đạo.
Hoặc thấy Bồ Tát đang nói pháp tịch diệt. Pháp tịch diệt vốn không thể nói ra,
nhưng vì lòng từ bi, dùng đủ thứ pháp phương tiện để giáo hóa vô số chúng sinh.
Hoặc thấy có Bồ Tát, dùng trí huệ quán sát, thể tính của các pháp, không hình
không tướng, chẳng dài ngắn vuông tròn, cũng chẳng xanh vàng đỏ trắng đen .v.v…
giống như hư không, gì cũng chẳng có, nhưng tất cả hình tướng lại chẳng lìa
khỏi hư không mà có. Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Nếu đào đất ra
một thước, thì có một thước hư không, nếu đào một trượng thì có một trượng hư
không. Nhưng trước khi chưa đào cũng có một thước hư không như thế, chưa từng
có tăng giảm. Do đó, tuy có hình tướng nhưng hình tướng chẳng thể bao hàm hư
không, mà hư không bao hàm hết tất cả hình tướng. Do đó có câu :
"Tự tánh như hư không,
Chân vọng đều trong đó."
Chân không chẳng ngại diệu hữu, diệu hữu chẳng ngại chân không. Trong Chứng Đạo
Ca của Đại sư Vĩnh Gia có nói :
"Chân bất lập, vọng bổn không,
Hữu vô câu di bất không không."
Các pháp vốn chẳng phân biệt thật giả, sự phân biệt nầy dựa trên danh tướng, chỉ
bất quá tâm chúng sinh phân biệt đang tác quái. Cho nên tự tánh vốn không, tức
cũng là thật tướng của các pháp. Song, nếu nói như thế thì có những người chẳng
minh bạch ! Gì cũng đều chẳng có, vậy tôi chẳng phải là không chăng ? Gì cũng
đều chẳng có mới là thật có. Nếu chẳng có quái ngại, chẳng chấp trước thì tất
cả sơn hà đại đîa, cho đến sâm la vạn tượng, chẳng có một vật nào mà chẳng bao
hàm ở trong tự tánh của bạn. Nhưng nếu còn tồn tại một tơ hào chấp trước quái
ngại, thì không thể thừa thọ pháp vi diệu thù thắng nầy, bằng không bạn sẽ là
một pháp tài vĩ sĩ, tận hư không khắp pháp giới, đều bao hàm ở trong tự tánh.
Cho nên, ngộ triệt bổn lai thể, một thông tất cả đều thông, ba thân, bốn trí,
năm nhãn, sáu thông, đều là của báu trong nhà vốn có, hà tất tìm cầu bên ngoài
? Do đó, hiện tại tôi nói pháp mà chẳng có một pháp để nói, mà bạn cũng chẳng
có một pháp để nghe, đó mới là Bát nhã diệu huệ chân chánh !
Lại thấy có Phật tử, con của đấng Pháp Vương, tâm nơi các duyên mà chẳng chấp trước,
cho nên trí huệ và tự tính quang minh hiển hiện. Nếu chẳng buông xả được bất cứ
vật gì, xả bỏ chẳng sạch, thì đừng nói đến thành Phật, dù diệu huệ cũng chẳng
có. Do đó, người tu hành chân chính, nhất là đệ tử xuất gia, nên đừng chấp trước
vào bất cứ vật gì, tức là :
"Lạnh chết chẳng van xin,
Đói chết chẳng cầu xin,
Nghèo chết chẳng cầu cạnh,
Tùy duyên chẳng thay đổi,
Chẳng thay đổi mà tùy duyên,
Xả thân làm Phật sự,
Tạo mạng là việc chánh,
Nuôi mạng chân chánh, làm việc Tăng,
Thấu việc rõ lý, rõ lý thấu việc.
Dùng Bát nhã diệu huệ nầy, hoằng pháp lợi sinh, thắp nối đèn sáng Phật pháp, đừng
để cho mạt pháp tồn tại, chỉ để cho chánh pháp tồn tại lâu dài, bằng không thì người
xuất gia chỉ làm những chuyện viễn vông mà chẳng tu hành, chẳng làm việc Tăng,
hoặc thân tâm nhiễm trước công danh lợi dưỡng. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói
rằng : "Thế nào là kẻ tặc, là kẻ giả y phục của ta, làm bại hoại Như Lai,
tạo ra đủ thứ nghiệp, đều nói lời Phật pháp, mà chẳng phải xuất gia, đầy đủ giới
Tỳ Kheo, mà vì đạo tiểu thừa, là do nghi ngờ lầm lẫn, vô lượng chúng sinh, đọa vào
ngục vô gián." Người xuất gia, nếu chẳng tinh tấn tu tập thiền định, tụng
Kinh trì Chú, giữ gìn giới luật, mà nương vào Phật ăn cơm mặc áo, tất sẽ đọa
vào tam đồ. Người xưa nói rằng :
"Hột gạo thí chủ cho,
Nặng như núi Tu Di,
Ăn xong chẳng tu đạo,
Mang sừng đội lông trả."
Những người tu hành, phải quý trọng giới luật. Trong Kinh Phạm Võng nói rằng : "Nếu
Phật tử tín tâm xuất gia, thọ chánh giới của Phật, nếu khởi tâm phạm giới, thì không
được thọ tất cả sự cúng dường của tín thí, cũng chẳng được đi trên đất của quốc
vương, chẳng được uống nước của quốc vương, năm ngàn đại quỷ thường che ở trước
họ nói là đại tặc. Nếu vào trong phòng xá thành ấp, thì quỷ lại quét dấu chân
của họ, tất cả người thế tục đều mắng rằng : ‘Tặc ở trong Phật pháp’ ! Tất cả
chúng sinh đều chẳng muốn nhìn. Người phạm giới giống như súc sinh chẳng khác,
như khúc gỗ chẳng khác. Nếu người cố ý phạm giới, thì phạm khinh cấu tội."
Đoạn văn nầy nói về giới nầy, đủ mượn làm gương cho chúng ta.
Tông chỉ của tôi lập ra là :
Dù rét chết chẳng van xin,
Dù đói chết chẳng cầu xin,
Dù nghèo chết chẳng cầu cạnh.
Cho nên năm đầu tiên tôi đến Hương Cảng, do Quách Khoang Bồ giới thiệu ở trong động
Quan Âm núi Phù Dung. Ở trong đó, ngoài bốn vách tường ra, chẳng có cái gì hết,
mà còn rất ẩm ước, tôi ngồi thiền ở trên mặt tấm đá bằng trơn. Ba ngày sau đôi
chân bắt đầu tê dại, khó chịu đựng vô cùng, tưởng đâu sẽ thối tâm, nhưng nghĩ
lại, thà tu hành mà chết, chứ chẳng trộm đồ của họ mà sống, huống gì họ có ý
tốt giới thiệu, sao lại bỏ dở giữa chừng ? Do đó, nán ở lại nửa tháng nữa, đôi chân
đã khôi phục lại bình thường. Mỗi ngày đều xuống núi, đến Trúc Lâm Thiền Tự khất
thực. Vì trong động đá quá ẩm ước, trở ngại cho sự tu hành. Một năm sau tôi làm
túp lều tranh nhỏ ở ngoài động, khiến cho vị sư ở gần đó đố kị. Ông ta cứ bóp
méo sự thật, nói tôi có khả năng làm lều tranh, thì cũng có khả năng lo việc ăn
uống. Do đó, ông ta xúi giục vị trụ trì Trúc Lâm Thiền Tự đừng cho tôi thức ăn
nữa. Chẳng có cơm ăn càng tốt ! Tôi bế quan dụng công ngồi thiền cả mấy ngày chưa
cảm thấy đói, thì có nữ cư sĩ Quỳnh Khoang Thắng, vì chân của bà ta bị chó dữ cắn
bị thương, đã lâu mà chẳng lành, thuốc men đã hết cách, cầu đảo cũng chẳng
linh. Trong lúc bàng hoàng lo lắng cả mấy ngày, thì một đêm nọ bà nằm mộng thấy
Bồ Tát Vi Đà nói với bà rằng : "Nếu muốn hết bệnh thì hãy cúng dường vị
pháp sư An Từ ở tại động Quan Âm, và hiện tướng mạo ra cho ba ta thấy". Bà
ta hoan hỉ vô cùng, bèn chuẩn bị đồ cúng dường mang đến động Quan Âm. Ai biết vị
sư ở gần đó, thấy trai chủ họ đến thì đi trước ra nghinh tiếp, và tự xưng là
trụ trì, muốn những đồ vật của thí chủ. Nhưng bà Quỳnh Khoan Thắng nói :
"Chẳng phải là người mà bà ta gặp ở trong mộng, kiên quyết không
cho". Do đó, hai người khởi sự tranh chấp ồn ào. Tôi bèn ra khỏi động, bà
ta liền thấy tôi, thì lập tức nhận ra và nói vị nầy mới là pháp sư An Từ, rồi
đem toàn bộ thực phẩm đưa cho tôi. Tôi bèn chia ra một nửa đưa cho vị sư kia,
song ông ta chẳng vừa lòng, phẫn nộ nói với bà ta rằng : "Lần sau bà đến
đây, thì phải đưa hết thực phẩm cúng dường cho tôi !" Bà Quỳnh Khoan Thắng
chân bỗng nhiên hết bệnh, thì tin tức truyền đi, có rất nhiều trai chủ đến, mỗi
lần tôi cũng đều chia một nửa cho vị sư kia, nhưng vẫn chẳng giảm bớt việc ông
ta coi tôi như kẻ thù, và đủ thứ phá hoại phỉ báng tôi.
Chẳng bao lâu, tôi dọn đến vùng đất hoang ở hòn đảo Lan Tao, thành lập chùa Tây
Lạc Viên rồi, thì bỗng nhiên có mạch nước tự đến, còn tụ thành ao nước, chẳng
bao giờ khô cạn. Và nghe nói mạch nước ở động Quan Âm mà tôi đã từng ở qua, đột
nhiên khô cạn. Cho nên rất nhiều người cho rằng đó là chuyện lạ và còn cho rằng
tôi dời mạch nước đó đi.
Người xuất gia nếu chẳng cầu danh văn lợi dưỡng, tùy duyên chẳng đổi, chẳng thay
đổi mà tùy duyên, thọ trì giới Phật, thành tựu oai nghi, nghiêm tịnh Tỳ ni,
hoằng phạm tam giới, thì tự nhiên trời, rồng, loài người đều cung kính cúng
dường, mười phương chư Phật Bồ Tát đều hộ trì, hoan hỉ tán thán, đó mới là hành
vi đại trượng phu đầu đội trời chân đạp đất, chẳng mất bổn sắc của Tăng Bảo vậy.
Ngài Văn Thù Sư Lợi !
Lại thấy có Bồ Tát
Khi Phật diệt độ rồi
Cúng dường Phật xá lợi.
Lại thấy có Phật tử
Tạo dựng các chùa tháp
Nhiều vô số Hằng sa
Nghiêm sức khắp cõi nước.
Bảo tháp rất cao đẹp
Đến năm ngàn do tuần
Bề ngang rộng đồng nhau
Dài hai ngàn do tuần.
Tại mỗi mỗi chùa tháp
Đều có ngàn tràng phan
Màn châu xen thòng xuống
Linh báu đều hòa reo.
Hết thảy trời rồng thần
Người và chẳng phải người
Hương hoa và âm nhạc
Thường mang đến cúng dường.
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tôi lại thấy những vị Bồ Tát, sau khi Phật diệt độ
rồi, cúng dường xá lợi của Phật. Cúng dường xá lợi cũng đồng như cúng dường Tam
Bảo, đồng như cúng dường Phật không khác. Nhưng phải dùng chân tâm, chứ chẳng
phải dùng tâm ô nhiễm để cúng dường. Tâm mà có sở cầu, có sự mong muốn thì tâm
chẳng được thanh tịnh. Hãy coi sự cúng dường bố thí là trọng trách của mình, đó
gọi là báo ân Phật Pháp Tăng Tam Bảo. Nếu chẳng có Tam Bảo thành trì chánh pháp
tồn tại, thì ma vương sẽ hiện ra đời, tức cũng là ngày thế giới hủy diệt. Do
đó, mỗi ngày trước khi ăn cơm hãy quán như thế nầy, nếu chẳng cúng dường Tam
Bảo thì cơm ăn khó tiêu. Nói là pháp, tu là đạo, nên phước huệ song tu. Bây giờ
chẳng cúng dường Tam Bảo, tương lai thành A La Hán rồi, cũng ôm bát không,
chẳng có ai cúng dường. Cúng dường Tam Bảo là tu phước, ấn tống Kinh điển,
tuyên dương Phật pháp là tu huệ.
Lại thấy có Phật tử tạo vô số chùa tháp nhiều như số cát sông Hằng nghiêm sức
khắp cõi nước. Tháp để cúng dường xá lợi, chùa cúng dường tượng Phật.
Có câu chuyện nầy quan hệ tới bảo tháp : Khi Đức Phật còn tại thế, thì có một người
tướng rất quái dị. Một số người cao khoảng hơn năm thước, vai thì rộng hai
thước, nhưng ông ta thì ngược lại, thân cao hai thước rưỡi, mà vai rộng năm
thước. Tuy ông ta thân hình quái dị như cái nồi đen, nhưng lại có giọng ca
tiếng trong trẻo như tiếng khánh, tiếng đại hồng chung. Do người nầy quả báo đặc
thù, đưa đến đồ chúng nghi hoặc mà thưa hỏi Đức Phật. Đức Phật bèn cười nói : người
nầy trong quá khứ vô lượng kiếp về trước, đã từng làm đệ tử của Phật, thấy
người muốn tạo bảo tháp cao đẹp, nên tâm có ý ghen mà phê bình nói : "Hà
tất phải làm cao như thế ! Cao quá thì đỉnh tháp đâu có thấy được ! Bất quá,
tôi có cái chuông nhỏ (cái linh) treo ở đỉnh tháp, thì tôi bố thí cái đó
!" Chỉ vì tâm có ác ý nói một câu : "Đừng làm cao quá..." Do đó,
ông ta đời đời kiếp kiếp đều cao chẳng quá ba thước. Nhưng vì ông ta có tâm
thiện bố thí cái linh, cho nên được quả báo âm thanh như đại hồng chung. Do đó
phiền não chỉ vì nói nhiều những lời vô ích.
Muốn biết đời trước mình làm gì, hãy xem đời nầy mình có được những gì, muốn
biết đời sau ra sao, hãy xem đời nầy mình làm những gì. Trồng nhân gì thì kết
quả đó. Nếu phát được đại bồ đề tâm, tu bố thí công đức, thì tương lai phước đức
cũng vô lượng vô biên.
Tạo dựng bảo tháp cao đẹp trang nghiêm cõi nước, mỗi bảo tháp treo ngàn tràng
báu phan báu, dùng châu làm màng lưới bảo tháp. Gió thổi động linh báu vang ra
âm thanh hoà nhã vi diệu, đều là đồ trang nghiêm cúng Phật tối thắng. Các vị
trời, rồng, thần, người, chẳng phải người, thường mang hương hoa âm nhạc đến
cúng dường.
Ngài Văn Thù Sư Lợi !
Các vị Phật tử kia
Vì cúng dường xá lợi
Trang nghiêm đẹp chùa tháp.
Khắp cõi nước tự nhiên
Đẹp đẽ tốt lạ thường
Như cây Thiên thụ vương
Hoa nở khắp hết thảy.
Phật phóng luồng hào quang
Tôi và cả chúng hội
Thấy khắp cõi nước đó
Đủ thứ sự thù diệu.
Sức thần thông chư Phật
Trí huệ rất hi hữu
Phóng một luồng tịnh quang
Chiếu khắp vô lượng cõi.
Chúng ta thấy như vậy
Thật là chưa từng có
Mong Phật tử Văn Thù
Giải quyết nghi của chúng.
Bốn chúng đều trông mong
Nhìn Ngài và nhìn tôi
Thế Tôn vì cớ gì ?
Phóng luồng quang minh nầy !
Phật tử hãy giải đáp
Dứt nghi cho chúng mừng
Có những lợi ích gì ?
Về việc quang minh đó !
Phật ngồi tại đạo tràng
Đắc được pháp thâm diệu
Vì muốn nói pháp đó
Hay là sẽ thọ ký !
Hiện bày các cõi Phật
Các báu đều nghiêm tịnh
Và thấy các đức Phật
Đây chẳng phải duyên nhỏ.
Ngài Văn Thù nên biết !
Bốn chúng trời, rồng, thần
Thảy đều nhìn trông Ngài
Vì sẽ nói những gì ?
Ngài Bồ Tát Văn Thù, các vị Phật tử kia tạo chùa tháp để cúng dường xá lợi và tượng
Phật, trang nghiêm xứ sở, khiến cho cảnh giới đẹp của nước nầy, tự nhiên trở
thành thù thắng tốt đẹp. Cây Thiên thụ vương tức là cây Ba Lợi Chất Đa, mọc ở
trong vườn của trời Đế Thích, nhánh lá che khắp năm mươi do tuần. Đây là dụ cho
sự nghiêm sức tháp chùa, như hoa của cây nầy nở.
Đức Phật phóng ra luồng hào quang trắng, khiến cho chúng ta thấy được trí huệ và
thần thông hi hữu của chư Phật, trong một vạn tám ngàn cõi. Cảnh giới thù thắng
nầy, thật là ít thấy, do đó chắc có nhân duyên lớn, cho nên Đức Phật thị hiện
tướng điềm tốt nầy, là muốn vì đại chúng nói diệu pháp vô thượng, hay là vì đại
chúng thọ ký bồ đề ? Tôi và bốn chúng : Thiên Long bát bộ .v.v., đều mong cầu
Bồ Tát Văn Thù vì chúng tôi mà giải trừ lòng nghi ngờ. Đại chúng đều nhìn Ngài và
nhìn tôi đều muốn biết Phật sẽ nói những gì ?
Bấy giờ, Ngài Văn Thù Sư Lợi nói với đại Bồ Tát Di Lặc và các
Đại sĩ. Các thiện nam tử ! Theo sự nghĩ của tôi, nay Đức Phật Thế Tôn muốn nói
pháp lớn, đánh trống pháp lớn, diễn nói pháp nghĩa lớn.
Các thiện nam tử ! Tôi ở chỗ chư Phật trong quá khứ, đã từng thấy điềm lành
nầy, sau khi đức Phật phóng quang minh rồi sẽ nói pháp lớn.
Đương lúc đó, Bồ Tát Văn Thù nghe lời nầy xong, thì vì Bồ Tát Di Lặc và các đại
chúng nói : Theo Kinh nghiệm của tôi trong quá khứ, phàm là Phật phóng thứ
quang minh nầy, tức sẽ nói pháp đại thừa, như mưa lớn thấm nhuần chúng sinh,
thổi pháp loa lớn, để hiệu triệu tất cả chúng sinh, đánh trống pháp lớn, để
thức tỉnh mê mộng.
Do đó, sẽ biết chắc hôm nay Đức Phật, hiện quang minh cũng lại như thế, muốn khiến
cho chúng sinh đều được nghe biết pháp, mà tất cả thế gian rất khó tin, cho nên
thị hiện tướng điềm lành.
Các thiện nam tử ! Vào thuở quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư nghì A tăng kỳ
kiếp, lúc đó có đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai, ứng cúng, chánh
biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng
phu, thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn.
Cho nên, hiện nay Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hiện ra quang minh cũng lại như thế.
Đức Phật trước nói tam tạng giáo lý, Kinh điển tiểu thừa, nông cạn dễ hiểu, sau
thị hiện tướng quang minh điềm lành, khiến cho chúng sinh thật hiểu biết pháp
môn viên đốn mà tất cả thế gian, tam giới đều khó tin, sau đó mà vì đại chúng
giải nói diệu nghĩa, khiến cho nhập vào trí huệ của Phật.
Các thiện nam tử ! Ví như : Trong quá khứ bất khả tư nghì vô lượng kiếp, có một
vị cổ Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai. Nhật là biểu thị huệ quang
phá đêm dài của trời, người, chiếu sáng sự tối tăm của vũ trụ. Nguyệt là biểu
thị định lực. Đăng là biểu thị giới trí. Cho nên giới, định, huệ viên mãn đầy
đủ.
Tất cả chư Phật đều có tên chung và tên riêng. Nhật Nguyệt Đăng Minh là tên
riêng. Như Lai cho đến Thế Tôn mười danh hiệu nầy, là tên chung của chư Phật.
Danh hiệu của mỗi một vị Phật vốn có một vạn, biểu thị vạn đức trang nghiêm,
nhưng sức trí nhớ của con người hạn hẹp, căn cơ ám độn, cho nên bớt đi còn năm
ngàn, rồi còn một ngàn, một trăm, cuối cùng thì cố định mười danh hiệu, làm thông
hiệu cho chư Phật, nay lược giải như sau.
Như Lai : Tức là Phật. Như là bất biến, tĩnh. Lai là tùy duyên, động. Động tĩnh
nhất như, hổ tương vô ngại. Kinh Bát Nhã nói rằng : Chẳng từ đâu đến, cũng
chẳng đi về đâu, đây tức là pháp thân Như Lai không sinh không diệt. Trong
Thành Thật Luận nói rằng : Thừa như thật đạo, lai thành chánh giác, đây tức có
sinh có diệt, ứng thân Như Lai vậy.
Ứng Cúng : Như Lai Thế Tôn đầy đủ vạn đức, đáng thọ nhận trời, người cúng dường.
Chánh Biến Tri : Biết một niệm hiện tiền, sinh ra vạn pháp, gọi là chánh tri. Biết vạn pháp chẳng lìa một tâm niệm là biến tri. Cho nên gọi là Chánh biến tri.
Minh Hạnh Túc : Phước đức, trí huệ cả hai đều đầy đủ.
Thiện Thệ : Đi đến chỗ tốt nhất, tức từ chỗ mê mà đến nơi trí địa.
Thế Gian Giải : Khéo hiểu pháp thế gian và xuất thế gian.
Vô Thượng Sĩ : Chư Bồ Tát chưa sạch vô minh thì còn có Phật ở trên, gọi là hữu thượng sĩ, chứng tột Như Lai gọi là Vô Thượng Sĩ.
Điều Ngự Trượng Phu : Điều là có uy đức cho nên chúng sinh cung kính mà điều phục được. Ngự là dùng pháp thiện xảo phương tiện nhiếp thọ tất cả chúng sinh. Phật là đại trượng phu điều ngự được tất cả chúng sinh.
Thiên Nhân Sư : Đạo Sư của trời và người.
Phật : Nói đủ là Phật Đà Gia, nghĩa là tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Phàm phu bị vây hãm ở trong lò lửa tam giới, kham nhẫn biển khổ, chẳng muốn lìa khỏi, nên gọi là không giác. A La Hán biết được sự nóng bức, mà muốn thoát khỏi tam giới tự giác được, còn Bồ Tát không những tự giác mà cũng giác tha, độ thoát chúng sinh tội khổ nhưng chưa giác ngộ viên mãn, chỉ có Đức Phật đã tự giác, giác tha và giác hạnh cũng viên mãn. Cho nên Phật là bậc đại giác viên mãn nhất.
Thế Tôn : Là bậc được trời, người, Thánh Hiền của thế gian
và xuất thế gian tôn kính.
Diễn nói chánh pháp, ban đầu, giữa, sau cùng đều lành, nghĩa lý rất thâm sâu,
lời lẽ khéo léo vi diệu, thuần nhất chẳng hỗn tạp, đầy đủ tướng phạm hạnh thanh
tịnh.
"Diễn nói chánh pháp" : Pháp quyền xảo phương tiện, vì người thí
giáo, cho nên chẳng nhất định. Với người căn tính sâu dày, thì nói pháp tự tính
bổn thể ; vì người căn cơ bậc trung, thì nói pháp luân lý cho đến khoa học luân
hồi ; còn đối với người chẳng hiểu biết, thì nói pháp nghiệp lực luật nhân quả.
Diễn nói Phật pháp ngoài sự khế cơ khế lý, cũng phải dung khai và hợp. Khai được
mà chẳng hợp thì có bắt đầu chẳng có kết thúc ; hợp được mà chẳng khai được,
thì có kết thúc chẳng có bắt đầu, cũng phải tùy cơ ứng biến.
Từ khi Đức Phật bắt đầu phát tâm, xuất gia tu đạo bồ đề gọi là sơ thiện (ban đầu
lành), tu khổ hạnh, bố thí nội tài, bố thí ngoại tài ; ngoại tài là : ngôi vua,
vợ con ; nội tài là : đầu, mắt, tủy, não, thậm chí vì chúng sinh mà xả bỏ tính
mạng, tức gọi là trung thiện (giữ lành). Đức Phật thuyết pháp giáo hóa chúng
sinh bốn mươi chín năm, giảng Kinh hơn ba trăm hội, cho đến nhập Niết Bàn, là
hậu thiện (sau cùng lành). Đức Phật ở trong ba đại A Tăng Kỳ kiếp tu hành. Kiếp
thứ nhất tu công đức là sơ thiện, kiếp thứ hai tu công đức là trung thiện, kiếp
thứ ba tu công đức là hậu thiện. Sơ, trung, hậu, là quá trình tu hành, có bổn
có tế. Bổn (gốc) tức là lúc ban đầu phát bồ đề tâm ; tế là thị hiện đủ thứ pháp
môn sở tu. Nghĩa lý của pháp từ đầu đến cuối rất sâu xa, lời lẽ khéo léo vi
diệu, thuần một pháp môn viên đốn, khiến cho người thích nghe, đầy đủ tướng thanh
tịnh. Đầy đủ nghĩa là chẳng thiếu chẳng thừa. Thuần nhất chẳng hỗn tạp, là nhất
thừa thuần tịnh, chẳng hai, chẳng ba.
Vì người cầu Thanh Văn thì nói pháp bốn Diệu Đế, độ : sinh, già, bệnh, chết,
đắc được cứu kính Niết Bàn. Vì người cầu Bích Chi Phật, thì nói pháp mười hai
Nhân Duyên.
Thanh Văn, Duyên Giác là pháp tiểu thừa, tức là bậc sơ học của Phật giáo. Thanh
Văn tức là nghe âm thanh của Phật mà ngộ đạo. Sau khi Phật thành đạo rồi, đầu
tiên độ năm vị Tỳ Kheo, nói về pháp bốn Thánh Đế thì có thể độ : sinh, già,
bệnh, chết, đắc được cứu kính Niết Bàn, thường, lạc, ngã, tịnh, cứu kính thoát
khỏi khổ quả trong tam giới. Đức Phật vì hàng Thanh Văn đệ tử nói pháp bốn Diệu
Đế, Phương Đẳng cho đến Kinh Niết Bàn, từ cạn vào sâu, từ nhỏ đến lớn, thứ tự
nhập vào pháp môn đại thừa diệu nghĩa.
Mười hai Nhân Duyên lại gọi là mười hai chi, tức cũng bao hàm nghĩa lý bốn
Thánh Đế.
Vô minh, hành là chi năng dẫn;
Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ là chi sơ dẫn;
Ái, thủ, hữu là chi năng sinh ;
Sinh, lão tử là chi sở sinh.
Sở dẫn, sở sinh tức khổ đế,
Năng dẫn, năng sinh tức tập đế,
Vô minh diệt rồi, đến lão tử diệt là diệt đế,
Quán nhân duyên trí thức là đạo đế.
Thanh Văn căn cơ chậm lụt, cho nên tổng tướng nói pháp bốn Đế, còn Bích Chi Phật
căn cơ lanh lợi hơn, cho nên nói pháp Nhân Duyên. Người tu Bích Chi Phật sinh
vào lúc có Đức Phật tại thế, thì gọi là Duyên Giác. Nếu người tu hành vào lúc
chẳng có Phật tại thế, quán mười hai Nhân Duyên mà ngộ đạo gọi là Độc Giác. Do
đó :
Vạn vật tĩnh quán giai tự đắc,
Tứ thời giai khánh dữ nhân đồng.
Những ngưới nầy tu hành ở trong thâm sơn cùng cốc, tĩnh tâm quán sát, thấy mùa
xuân vạn vật đều tươi tốt, biết thế sự vô thường, một ngày trôi qua mạng cũng
giảm dần, cho nên càng tinh tấn, như cứu đầu lửa cháy. Do khéo tư duy pháp mười
hai Nhân Duyên, khoát nhiên khai ngộ, biết thân thể nầy là chín lỗ thường chảy
ra vật nhơ nhớp, cuối cùng quy về lão hủ, lúc đó ngộ :
Các hành vô thường,
Là pháp sinh diệt,
Sinh diệt rồi,
Tịch diệt là vui !
Vì các Bồ Tát thì nói sáu Ba la mật, khiến cho đắc được Vô thượng chánh đẳng
chánh giác, thành Nhất thiết chủng trí.
Hành Bồ Tát đạo tức tự lợi lợi tha, xả mình vì người. Vì cứu độ giáo hóa chúng
sinh, mà nguyện vào địa ngục, khiến cho chúng sinh tội khổ, phát bồ đề tâm mà
thoát khỏi tam đồ. Chúng sinh khó độ, cho nên Bồ Tát luôn luôn lặn lội bôn ba,
không từ khổ nhọc ứng thân vô lượng, cứu độ tất cả chúng sinh khó điều khó
phục, từ biển khổ sinh tử đến bờ bồ đề Niết Bàn. Hành lục độ hạnh môn nầy, lập công
lập đức, như cứu tự tánh chúng sinh, do đó :"Chúng sinh độ tận mới chứng
bồ đề". "Thành nhất thiết chủng trí" : Nói về trí có ba : Nhất
thiết trí, là không trí vậy ; Đạo chủng trí, là giả trí vậy ; Nhất thiết chủng trí,
là không giả chẳng hai, trung đạo liễu nghĩa, ba trí viên dung. Sáu Ba La Mật
nghĩa là đến bờ kia, tức là tu : bố thí, trí giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định và trí huệ, sáu phạm hạnh.
Lại có vị Phật cũng hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Lại có vị Phật nữa cũng hiệu
là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Như thế gồm có hai vạn vị Phật đều đồng hiệu là Nhật Nguyệt
Đăng Minh và đồng một họ là Phả La Đọa.
Vị Phật đầu tiên cho đến hai vạn vị Phật đều đồng danh hiệu là Nhật Nguyệt Đăng
Minh Như Lai, họ là Phả La Đọa, nghĩa là "tiệp tập", "lợi
căn" hoặc "mãn ngữ" ba nghĩa. 1. Tiệp tập : rất mau thành Phật.
2. Lợi căn : có đại trí huệ vì tu đủ thứ hạnh môn, học tập Kinh điển, đọc tụng
pháp đại thừa. 3. Mãn ngữ : pháp nói ra đều viên mãn vô ngại.
Ngài Di Lặc nên biết ! Đức Phật đầu tiên, Đức Phật sau cùng đều đồng danh
hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, đầy đủ mười hiệu, pháp nói ra trước giữa sau đều
lành. Vị Phật cuối cùng khi chưa xuất gia, có tám vị vương tử. Vị thứ nhất tên
là Hữu Ý, vị thứ hai tên là Thiện Ý, vị thứ ba tên là Vô Lượng Ý, vị thứ tư tên
là Bảo Ý, vị thứ năm tên là Tăng Ý, vị thứ sáu tên là Trừ Nghi Ý, vị thứ bảy
tên là Tưởng Ý, vị thứ tám tên là Pháp Ý. Tám vị vương tử nầy đều có oai đức tự
tại, mỗi vị đều thống lãnh bốn thiên hạ. Khi nghe vua cha xuất gia đắc được Vô
thượng chánh đẳng chánh giác, thảy đều xả bỏ ngôi vua cũng theo xuất gia, phát
tâm đại thừa, thường tu phạm hạnh, đều làm pháp sư, đều đã trồng gốc căn lành
nơi ngàn vạn vị Phật.
Bồ Tát Văn Thù nói với Bồ Tát Vô Năng Thắng, hai vạn vị Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh
nầy, diễn nói pháp trước giữa sau đều lành. Vị Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cuối
cùng khi chưa xuất gia đã từng làm vua, có tám vị vương tử. 1. Tên Hữu Ý :
nghĩa là có tư tưởng đại thừa. 2. Tên Thiện Ý : khéo phát tâm bồ đề đại đạo. 3.
Tên Vô Lượng Ý : có đại trí huệ, hiểu vô lượng nghĩa. 4. Tên Bảo Ý : thật phát
tính minh, cầu của báu bên trong vốn có. 5. Tên Tăng Ý : tăng tu vô thượng bồ
đề đại đạo. 6. Tên Trừ Nghi Ý : người tu đạo chớ nghi ngờ, nếu khởi tâm nghi ngờ
thì sẽ mê đồ, do đó trừ nghi hoặc thì khiến cho trí huệ tăng thắng. 7. Tên Tưởng
Ý : tu pháp đại thừa biết pháp tính không, như không cốc dùng truyền thanh. 8.
Tên Pháp Ý : hiểu pháp vi diệu thâm sâu vô thượng.
Tám vị vương tử nầy đều có oai nghi đức hạnh, mỗi vị thống lãnh bốn thiên hạ,
khi nghe tin vua cha bỏ ngôi đi xuất gia, đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh
giác, thì cũng bỏ nước, bỏ vợ con xuất gia làm pháp sư đại thừa, phát bồ đề
tâm, tu tập đủ thứ hạnh môn. Đây là nhân duyên căn lành đã từng cúng dường ngàn
vạn vị Phật trong quá khứ. Phật thuở xưa có tám người con, hiện tại Phật Thích
Ca có một người con, số tuy khác, nhưng đều có con, một người con là biểu thị một
đạo thanh tịnh, tám người con là biểu thị Bát Chánh Đạo vậy.
Lúc đó, Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, nói Kinh đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa,
pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm. Nói Kinh nầy rồi, liền ngồi kiết già,
ở trong đại chúng nhập vào Tam muội Vô lượng nghĩa xứ, thân tâm đều bất động.
Lúc đó, trời mưa hoa Mạn đà la, hoa Ma ha mạn đà la, hoa Mạn thù sa, hoa Ma ha mạn
thù sa, rải khắp ở trên đức Phật và các đại chúng. Khắp các thế giới của chư Phật
đều có sáu thứ chấn động.
Lúc đó, ở trong chúng hội, hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trời,
rồng, Dạ xoa, Càn thác bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người,
chẳng phải người, và các ông vua nhỏ, Chuyển luân thánh vương .v.v., các đại
chúng đều được chưa từng có, vui mừng chắp tay một lòng nhìn Phật.
Bấy giờ, đức Như Lai phóng tướng luồng hào quang trắng, giữa chặn mày chiếu khắp
phương đông, một vạn tám ngàn cõi Phật, như những gì nay thấy là các cõi nước
của chư Phật.
Thuở xưa Phật cũng có bốn chúng, trời, rồng, tám bộ chúng, người, chẳng phải người,
các ông vua nhỏ, Chuyển luân thánh vương .v.v… nói pháp đại thừa Bồ Tát vô
lượng nghĩa. Nói Kinh xong rồi bèn ngồi kiết già, nhập vào Tam muội Vô lượng
nghĩa xứ, hiện sáu tướng điềm lành nói pháp:
1. Điềm lành nói pháp.
2. Điềm lành nhập định.
3. Điềm lành mưa hoa.
4. Điềm lành chấn động.
5. Điềm lành chúng vui mừng.
6. Điềm lành phóng quang.
Đại Chúng thấy tướng điềm lành nầy đều đắc được chưa từng có, cho nên đều vui mừng,
chắp tay lại một lòng chiêm ngưỡng Đức Phật.
Ngài Di Lặc nên biết ! Lúc đó, trong chúng hội có hai mươi ức vị Bồ Tát
thích muốn nghe pháp. Các vị Bồ Tát đó, thấy luồng quang minh chiếu khắp các
cõi Phật, được chưa từng có, đều muốn biết quang minh đó, do nhân duyên gì, thì
có vị Bồ Tát tên là Diệu Quang, có tám trăm vị đệ tử.
Lúc đó, Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh từ tam muội dậy, vì Bồ Tát Diệu Quang mà
nói Kinh đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ
niệm.
Bồ Tát Văn Thù nói với Bồ Tát Di Lặc : Vào thời Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh,
trong hội vô lượng nghĩa có hai mươi ức vị Bồ Tát, thấy luồng hào quang trắng
của Phật cũng khởi nghi vấn, muốn biết nguyên nhân luồng quang minh nầy, cho
nên cũng có vấn đáp, thì có Bồ Tát Diệu Quang, tức là tiền thân của Bồ Tát Văn
Thù, có tám trăm vị đệ tử. Thuở xưa, Đức Phật xuất định rồi vì Bồ Tát Diệu Quang
mà nói Kinh đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, được Phật hộ niệm. Nay Đức Phật
xuất định rồi, pháp bất cô khởi. Khởi tất sẽ vì người, cho nên cũng vì Xá Lợi Phất
mà nói Kinh nầy.
Trải qua sáu mươi tiểu kiếp, không rời khỏi chỗ ngồi, những người ở trong hội
nghe pháp cũng ngồi một chỗ, trải qua sáu mươi tiểu kiếp, thân tâm đều chẳng
động, nghe đức Phật nói pháp như bữa ăn trong chốc lát. Lúc đó, trong đại chúng
chẳng có một người nào hoặc là thân hoặc là tâm sinh lười mỏi.
Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trải qua sáu mươi tiểu
kiếp. Thuở xưa Phật nói pháp ở trong định, cho nên khiến cho người nghe cũng
nhập định chuyên tâm, vì pháp mà chẳng cảm thấy thời gian dài, lúc đó sáu mươi
tiểu kiếp tựa như thời gian khoảng một bữa ăn mà thôi. Sáu mươi tiểu kiếp dài
bao lâu ? Nói dài mà chẳng dài, nói ngắn mà chẳng ngắn. Một kiếp là mười ba vạn
chín ngàn sáu trăm năm. Một ngàn kiếp cộng lại làm một tiểu kiếp. Rõ là một niệm
làm vạn kiếp, vạn kiếp tức là một niệm ; vạn kiếp không lìa một niệm tâm, thời
gian dài ngắn đều phân biệt tại tâm. Ở cõi trời Tứ Thiên Vương chỉ một ngày một
đêm mà tại nhân gian là năm mươi năm ! Ở cõi trời Đao Lợi một ngày một đêm thì
ở nhân gian là một trăm năm. Đồng lý ấy ! Nếu người tu tập thiền định, chẳng
khởi vọng tưởng, thì dù ngồi một ngày cũng chỉ cảm giác khoảng vài giây đồng
hồ. Song, nếu người ngồi thiền mà cứ khởi vọng tưởng lăn xăn, thì dù ngồi mấy giây
cũng cảm giác là đã lâu lắm, ở đó cứ khởi vọng tưởng. Cũng như người nghe Kinh,
nếu chuyên tâm thì sẽ thâm nhập hiểu rõ nghĩa Kinh, được pháp hỷ sung mãn, còn
có quan niệm về thời gian chăng ? Ngược lại, nếu người không thể tạm thời buông
xả công việc hoặc gia đình, để chuyên tâm nghe Kinh nghe pháp, thì chẳng đắc
được pháp ích, do đó chuyên nhất thì linh, phân chia thì tán.
Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh trải qua hai mươi tiểu kiếp nói Kinh xong rồi,
bèn ở trong đại chúng : Phạm, ma, Sa môn, Bà la môn và trời, người, A tu la, mà
tuyên bố rằng : Vào nửa đêm nay Như Lai sẽ vào Vô Dư Niết Bàn.
Lúc đó, có vị Bồ Tát tên là Đức Tạng, được đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thọ
ký cho Ngài, nói với các Tỳ kheo rằng : Bồ Tát Đức Tạng kế tiếp sẽ thành Phật,
hiệu là Tịnh Thân Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri. Đức Phật thọ ký xong, vào
lúc nửa đêm, bèn vào Vô dư niết bàn. Đức Phật diệt độ rồi, Bồ Tát Diệu Quang
trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trải qua hai mươi tiểu kiếp, mới vì mọi người mà diễn
nói. Tám người con của đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, đều là đệ tử của Ngài
Diệu Quang. Ngài Diệu Quang đều giáo hóa, khiến cho các vị đó kiên cố nơi đạo
Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh dùng sáu mươi tiểu kiếp để nói Kinh Pháp Hoa, cả
đại chúng đều yên lặng ngồi nghe. Nói Kinh xong rồi, thì ở trong đại chúng :
Phạm (Phạm thiên vương), ma (ma vương), Sa Môn (người xuất gia) và trời, người,
A tu la .v.v… mà tuyên bố rằng : Như Lai sẽ vào Vô Dư Niết Bàn. Ngoài bốn thứ
Niết Bàn nói ở trong Duy Thức Luận, còn có ba thứ Niết Bàn, đó là :
1. Tính Tịnh Niết Bàn : Phàm Thánh bình đẳng, tức pháp thân đức, không sinh
không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm.
2. Viên Tịnh Niết Bàn : Xuất chướng viên minh, tức Bát nhã đức, đây là ba đức
bí tàng của Như Lai.
3. Phương Tiện Tịnh Niết Bàn : Vì chúng sinh, từ không ra giả, chẳng sinh mà thị
hiện sinh, chẳng diệt mà thị hiện diệt, tức là giải thoát đức.
Ở trong sáu nẻo chẳng nhiễm chút trần, xuất Niết Bàn mà thường lạc, chỗ làm đều
là phương tiện Niết Bàn. Chư Phật đều sinh ra ban ngày (dương), nhập Niết Bàn
ban đêm (âm). Ban ngày, là biểu thị quang minh, ban đêm là biểu thị đen tối. Ở
trong Duy Thức Kinh có bốn Niết Bàn :
1. Tự Tính Thanh Tịnh Niết Bàn : Phật và chúng sinh bình đẳng đều có.
2. Hữu Dư Y Niết Bàn : Vì có sắc thân, dùng giả làm thật, nhận tặc làm con, hướng
ngoại truy cầu, khởi tham, sân, si, tâm ô nhiễm mà vướng mắc các phiền não
nghiệp chướng, cho nên gọi là dư y khổ chưa diệt, chỉ khi nào đạt được ngã
không pháp không, phá ngã pháp hai chấp thì mới được nhập vào Vô dư.
3. Vô Dư Y Niết Bàn : Nghĩa là phiền não đã hết sạch, khổ y cũng diệt, phạm
hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, chẳng còn thọ thân sau nữa.
4. Vô Trụ Xứ Niết Bàn : Vào nơi tịch diệt, trong Kinh Đại Bi Bát Nhã có nói : chẳng
trụ sinh tử, chẳng trụ Niết Bàn, suốt thuở vị lai, tịch mà thường chiếu, lợi
ích chúng sinh.
Hợp ba thứ Niết Bàn ở trước và bốn Niết Bàn ở sau lại, có thể hiểu là tự tính thanh
tịnh tức là tính tịnh, hữu dư vô dư, xuất phiền não chướng. Vô trụ, xuất sở tri
chướng tức là viên tịnh. Từ thể khởi dụng, thị hiện sinh, thị hiện diệt mà thật
chẳng sinh chẳng diệt, tức phương tiện tịnh (phương tiện Niết Bàn). Tất cả
chúng sinh vốn tính tịnh (Phật tính), nhị thừa vô học có đủ ba thứ Niết Bàn ở
trước, duy chỉ có Đức Phật đã viên nhập bốn thứ Niết Bàn.
Các vị vương tử đó, cúng dường vô lượng trăm ngàn vạn ức đức Phật rồi, đều
thành Phật đạo. Vị thành Phật cuối cùng hiệu là Nhiên Đăng.
Trong tám trăm vị đệ tử, có một người tên là Cầu Danh, tham trước danh lợi, tuy
cũng đọc tụng Kinh điển, mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất, cho nên gọi
là Cầu Danh. Do người nầy cũng có gieo trồng các căn lành, nên được gặp vô
lượng trăm ngàn ức các đức Phật, cung kính cúng dường, tôn trọng tán thán.
Ngài Di Lặc nên biết ! Lúc đó Bồ Tát Diệu Quang đâu phải là người nào khác,
chính là ta đây, còn Bồ Tát Cầu Danh chính là Ngài đấy. Nay thấy tướng điềm
lành nầy, cùng với xưa kia không khác. Cho nên xét nghĩ, hôm nay đức Như Lai sẽ
nói Kinh đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ
niệm.
Lúc đó, Ngài Văn Thù Sư Lợi ở trong đại chúng, muốn tuyên lại nghĩa nầy, bèn dùng
kệ để nói.
Tám vị vương tử, từ vô lượng kiếp đến nay, đã từng cung kính cúng dường trăm ngàn
vạn ức vị Phật, xuất gia rồi tu nhân Phật, cho nên đều thành Phật, vương tử
Pháp Ý là vị vương tử thành Phật cuối cùng, trong số tám vị vương tử, hiệu là
Nhiên Đăng. Phật Nhiên Đăng là thầy của Phật Thích Ca Mâu Ni, mà Bồ Tát Văn Thù
là thầy của Phật Nhiên Đăng. Nếu nói về vai vế thì Bồ Tát Văn Thù là sư tổ của
Phật Thích Ca, nhưng Phật pháp bình đẳng, chẳng phân cao thấp, viên dung vô ngại.
Chư Phật Bồ Tát vì cứu độ chúng sinh mà thị hiện sinh, thị hiện diệt, giống như
hiện ra đủ thứ màn cảnh trên sân khấu, khi biểu diễn xong thì cũng trở về bổn vị,
mà nhập diệt.
Tôi nhớ đời quá khứ
Vô lượng vô số kiếp
Có Phật Nhân trung tôn
Hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh.
Thế Tôn diễn nói pháp
Độ vô lượng chúng sinh
Vô số ức Bồ Tát
Khiến vào trí của Phật.
Trước khi Phật xuất gia
Cũng theo tu phạm hạnh.
Phật nói Kinh đại thừa
Tên là Vô Lượng Nghĩa
Ở trong các đại chúng
Mà rộng vì phân biệt.
Phật nói Kinh nầy rồi
Bèn ở trên pháp tòa
Ngồi kiết già nhập định
Tên Vô lượng nghĩa xứ.
Hiện sáu thứ điềm lành để nói pháp, trống trời trong hư không tự vang lên,
Thiên Long bát bộ đều cung kính cúng dường đấng Nhân Trung Tôn, tức là Phật
Nhật Nguyệt Đăng Minh. Ở trong quang minh của Phật, thấy có sinh tử nghiệp báo
và dùng lưu ly pha lê và các thứ báu để trang nghiêm cõi nước chư Phật.
Và thấy các trời người
Chúng rồng, thần, Dạ xoa
Càn thát, Khẩn na la
Đều cúng dường đức Phật.
Lại thấy các Như Lai
Tự nhiên thành Phật đạo
Sắc thân như núi vàng
Đoan nghiêm rất đẹp đẽ.
Như trong lưu ly sạch
Hiện ra tựa vàng thật
Thế Tôn trong đại chúng
Diễn nói pháp thâm sâu.
Mỗi mỗi các cõi Phật
Vô số chúng Thanh Văn
Vì Phật quang chiếu đến
Nên thấy đại chúng kia.
Hoặc thấy các Tỳ kheo
Ở trong nơi rừng núi
Tinh tấn giữ tịnh giới
Như giữ gìn minh châu.
Trời mưa hoa Mạn đà
Trống trời tự nhiên kêu
Các trời, rồng, quỷ, thần
Cúng dường Nhân trung tôn.
Tất cả các cõi Phật
Tức thời đều chấn động
Phật phóng quang giữa mày
Hiện nhiều việc hiếm có.
Quang nầy chiếu phương đông
Một vạn tám ngàn cõi
Hiện sinh tử nghiệp báo
Của tất cả chúng sinh.
Lại thấy các cõi Phật
Dùng các báu trang nghiêm
Màu lưu ly pha lê
Đều do Phật quang chiếu.
Trong quá khứ vô lượng kiếp, có một vị cổ Phật, hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh Thế
Tôn, từng độ thoát vô lượng chúng sinh, thành tựu đạo nghiệp vô số các Bồ Tát.
Trước khi Phật chưa xuất gia, có tám vị vương tử cũng theo cha tu phạm hạnh.
Lúc đó, Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, vì các đại chúng rộng phân biệt diễn
nói vô lượng nghĩa rồi bèn ngồi kiết già nhập định vô lượng nghĩa. Lúc đó, ở trong
quang minh của Phật thấy có trời rồng tám bộ chúng, đều cúng dường Đức Phật ở
nước của mình. Lại thấy các Như Lai diễn nói pháp, nghĩa lý rất sâu xa, trước, giữa,
sau đều lành. Tự nhiên thành Phật đạo, pháp là như thế, vốn chẳng tạo tác, Phật
đạo thanh tịnh, khế lý ngộ chân tức chứng chánh giác, cho nên gọi tự nhiên
thành. Ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Phật, tử kim quang tụ thân,
thắng diệu tịnh minh, màu sắc như lưu ly trong sạch, trong ngoài đều trong
suốt. Hiện ra tựa vàng thật : thân giống như vàng, tính như lưu ly. Sắc thân vi
diệu, hiện ở trong tính.
Lại thấy chư Phật ở cõi nước kia, ở trong chúng hội vô số Thanh Văn diễn nói
pháp vi diệu thâm sâu. Lại thấy chúng Tỳ Kheo nhị thừa ở nơi thâm sơn cùng cốc,
tinh tấn giữ giới thanh tịnh, như giữ gìn hạt minh châu. Họ ngày đêm sáu thời
đều tự nghiêm giữ giới luật. Ban ngày, trước, giữa, sau, phân ra ba thời ; đêm,
trước, giữa, sau phân ra ba thời. Giữ được một phần giới luật, thì có một phần
quang minh, hà huống là giữ gìn giới luật thanh tịnh như thế, thì tự tính quang
minh tự nhiên sẽ hiển hiện, cho đến sẽ thành Phật. Cho nên, trong giáo nghĩa
của chư Phật lấy giới luật làm thầy, nhất là người xuất gia tâm phải ngay
thẳng, chân thật, giữ giới thanh tịnh thì sẽ có định, huệ mới có thể thành tựu vô
thượng bồ đề.
Năm giới mười điều lành là điều kiện căn bản làm người, giữ gìn luôn luôn thì
sẽ tịnh hóa thân tâm. Làm bậc Sa Môn mỗi ngày nên niệm câu kệ nầy :
Giữ miệng, nhiếp thân, tâm chớ phạm,
Đừng hại tất cả hữu tình,
Khổ hạnh vô ích hãy xa lià,
Như vậy hành giả đáng nhập thế.
Nghĩa là, người xuất gia cần phải tự giữ gìn giới luật, thân, khẩu, ý ba nghiệp
thanh tịnh, muốn thành tựu tất cả chúng sinh, thì đừng chướng ngại kẻ khác, cho
đến một con vật cũng đừng gây phiền não cho họ. Không những thân đừng phạm lỗi
lầm, gây hại kẻ khác, dù ý niệm hại người cũng đừng khởi lên. Đã sinh khởi niệm
ác thì hãy diệt trừ, niệm thiện chưa sinh, thì khiến cho sinh ra, niệm thiện đã
sinh thì khiến cho tăng trưởng.
Lại thấy các Bồ Tát
Bố thí và nhẫn nhục
Số lượng như Hằng sa
Đều do Phật quang chiếu.
Lại thấy các Bồ Tát
Vào sâu các thiền định
Thân tâm lặng chẳng động
Để cầu vô thượng đạo.
Lại thấy các Bồ Tát
Biết pháp tướng tịch diệt
Đều ở cõi nước kia
Nói pháp cầu Phật đạo.
Lúc đó bốn bộ chúng
Thấy Phật Nhật Nguyệt Đăng
Hiện sức đại thần thông
Tâm họ đều vui mừng.
Thảy đều tự hỏi nhau :
Việc nầy nhân duyên gì ?
Thế Tôn của trời người
Vừa mới ra khỏi định
Khen Bồ Tát Diệu Quang
Ông là mắt thế gian
Nơi tin của tất cả
Phụng trì được pháp tạng.
Như pháp của ta nói
Chỉ ông chứng biết được
Đức Thế Tôn khen ngợi
Khiến Diệu Quang vui mừng.
Bèn nói Kinh Pháp Hoa
Trọn sáu mươi tiểu kiếp
Chẳng rời khỏi toà ngồi
Pháp nói ra thâm diệu.
Ngài pháp sư Diệu Quang
Thảy đều thọ trì được.
Lại thấy Bồ Tát nhiều như số cát sông Hằng tu sáu độ, tức là : Bố thí, trì giới,
nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Bố thí có ba là : Tài thí, pháp thí
và vô úy thí. Nhẫn nhục cũng có ba là : Sinh nhẫn, pháp nhẫn và vô sinh pháp
nhẫn.
Lại thấy các Bồ Tát vào sâu các thiền định, ngày đêm sáu thời đều an trụ ở
trong thiền định. Thân tâm lặng chẳng động, trong ngoài tĩnh lặng, thân tâm
chẳng động vào sâu trong định để cầu vô thượng đạo.
Lại thấy các Bồ Tát, đã biết tướng tịch diệt của các pháp, mà ở tại nước của
mình nói pháp cầu Phật đạo. Những gì thấy ở trong quang minh của Phật, đều
khiến cho bốn chúng vui mừng mà háo kỳ, cùng nhau tự hỏi vì sao Phật hiện sức
đại thần thông nầy ? Phật là đấng tôn kính nhất của trời người, Phật Nhật Nguyệt
Đăng Minh từ tam muội dậy, bèn tán thán Bồ Tát Diệu Quang là một vị minh nhãn thiện
tri thức, phụng trì được và chứng biết tạng pháp của Như Lai, là đạo sư nơi
nương tựa tin cậy của tất cả trời người. Đức Thế Tôn khen ngợi, khiến cho Bồ
Tát Diệu Quang vui mừng, sau đó bèn diễn nói Kinh Pháp Hoa, trải qua sáu mươi
tiểu kiếp, chẳng lìa khỏi toà ngồi. Nói pháp vi diệu thâm sâu vô thượng, khiến
cho pháp sư Diệu Quang tin hiểu thọ trì.
Phật nói Kinh Pháp Hoa
Khiến chúng vui mừng rồi.
Tức cũng trong ngày đó
Nói với chúng trời người
Nghĩa thật tướng các pháp
Đã vì các ông nói.
Ta nay trong đêm nay
Sẽ vào cõi Niết bàn
Các ông hãy tinh tấn
Nên xa lìa phóng dật.
Chư Phật rất khó gặp
Ức kiếp gặp một lần
Hết thảy con của Phật
Nghe Phật vào Niết bàn.
Ai nấy đều buồn khổ
Sao Phật diệt sớm thế ?
Đấng Pháp Vương Thánh Chúa
An ủi vô lượng chúng.
Nếu lúc ta diệt độ
Các ông chớ lo sợ
Vị Bồ Tát Đức Tạng
Nơi vô lậu thật tướng.
Tâm đã đượt thông đạt
Kế đây sẽ thành Phật
Hiệu là Phật Tịnh Thân
Cũng độ vô lượng chúng.
Đêm nay Phật diệt độ
Như củi hết lửa tắt
Phân chia các xá lợi
Mà xây vô lượng tháp.
Tỳ kheo Tỳ kheo ni
Số đông như Hằng sa
Lại càng thêm tinh tấn
Để cầu vô thượng đạo.
Phật nói Kinh Pháp Hoa nầy, khiến cho đại chúng hoan hỉ tin mà thọ trì, trong
ngày đó vì trời, rồng, tám bộ quỷ thần khai thị diệu nghĩa thật tướng của các
pháp. Các pháp tức tất cả pháp, tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn tuy nhiều,
chỉ cần hiểu biết một pháp môn, tức là biết một biết tất cả, rõ một rõ tất cả,
nghe một biết mười, một tức vô lượng. Có người hỏi tôi, trong tám vạn bốn ngàn
pháp môn, pháp môn nào là đệ nhất ? Đây là vấn đề nhưng cũng chẳng phải vấn đề,
vì sao. Chẳng thấu rõ thì là vấn đề, minh bạch rồi thì chẳng thành vấn đề. Tôi
đáp rằng : Tám vạn bốn ngàn pháp môn đều là đệ nhất. Những pháp môn nầy đâu
chẳng phải là dùng để đối trị tập khí mao bệnh của chúng ta, chỉ cần theo bệnh
cho thuốc, khế hợp với căn cơ của chúng ta, tức là pháp môn vô thượng. Thật
tướng, vô tướng, cũng vô sở bất tướng, nếu có tướng thì chẳng phải là thật tướng.
Tất cả tướng đều do thật tướng sinh ra, nhưng bổn thể của nó là vô tướng, vì bổn
thể là vô tướng, mới sinh ra tất cả tướng. Kinh Kim Cang nói rằng :
Phàm tất cả tướng đều không thật,
Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng,
Tức thấy Như Lai.
Cho nên các pháp là một pháp, Kinh Pháp Hoa tức là pháp thật tướng.
Đức Phật nói, ta đã vì các ông diễn nói các pháp thật tướng, vì thế trong đêm nay
ta sẽ nhập diệt, từ nay về sau các ông hãy tự nỗ lực, nhất tâm tinh tấn, xa lìa
giải đãi phóng dật. Phật thị hiện nhập Niết Bàn, cũng là phương pháp giáo hóa
chúng sinh, ví nếu Phật sống mãi ở đời, thì chúng sinh sẽ sinh tâm ỷ lại và
phóng dật. Người xuất gia chẳng tu hành, giống như suốt ngày đếm tiền bạc cho
họ, mà mình chẳng có đồng xu nào, nơi pháp chẳng tu hành, lỗi mình cũng như
thế. Nên biết Phật pháp khó nghe, Thánh Tăng khó cầu, Phật Bảo trải qua trăm
ngàn vạn kiếp khó gặp được ! Như hiện tại tôi ngày ngày thuyết pháp, nhưng các
bạn vì ỷ lại có thầy mà chẳng phát tâm nỗ lực, một khi ngày nào tôi lìa các
bạn, thì ngược lại khiến cho các bạn sinh ra sức tự lập mà hăng hái vươn lên. Nên
nhớ, người tu hành phải nương sức của mình, phấn chấn tinh thần, dũng mãnh tinh
tấn.
Khi tám vị vương tử và các đại chúng nghe tin Phật muốn vào Niết Bàn, thì ai nấy
cũng đều buồn rầu khổ não. Sư đồ tình như cha con, chẳng có ai mà không nói :
sao đức Phật nhập diệt quá sớm ! Lúc đó, đấng Thánh Chúa, vua của các pháp,
thấy đại chúng bi ai, thì thương xót an ủi đại chúng nói : "Các con đừng
quá bi thương lo sợ, tuy ta bỏ các con mà đi, còn có Bồ Tát Đức Tạng, kế đây sẽ
thành Phật hiệu là Tịnh Thân Như Lai. Vị đó đã thông đạt pháp vô lậu thật
tướng, sẽ thay thế ta tiếp tục giáo hóa chúng sinh." Phật thọ ký truyền
pháp rồi, trong đêm ấy vào Niết Bàn, như củi hết lửa tắt.
Di thể của Phật hỏa thiêu rồi, phân chia xá lợi, xây vô lượng bảo tháp để cúng dường.
Phật nhập diệt rồi, thì hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni đông như số cát sông Hằng đều
tôn kính di chúc của Phật mà càng tinh tấn tu đạo. Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni có ba
nghĩa :
1. Khất thực.
2. Bố ma.
3. Phá ác.
Phá vô minh phiền não thì trí huệ sẽ tăng trưởng. Khi một vị Sa Di thụ giới Cụ
túc, thì có tam sư thất chứng, hợp lại là mười vị Tỳ Kheo, đại biểu chư Phật
cho thọ giới. Khi đăng đàn truyền giới, thì đắc giới Hòa Thượng hỏi y
:"Ông có phải đại trượng phu chăng ?" Đáp :"Phải". Lại hỏi
:"Ông đã phát bồ đề tâm chưa ?" Đáp :"Đã phát bồ đề tâm !" Lời
nầy vừa nói ra thì thiên ma ngoại đạo kinh hãi dựng lông, vì quyến thuộc của ma
vương bớt đi một người, còn đệ tử của Phật lại thêm một người.
Vị pháp sư Diệu Quang
Phụng trì tạng Phật pháp
Trong tám mươi tiểu kiếp
Rộng nói Kinh Pháp Hoa.
Tám vị Vương tử đó
Được Diệu Quang giáo hoá
Kiên cố đạo vô thượng
Thấy được vô số Phật.
Cúng dường chư Phật rồi
Cũng theo tu đại đạo
Liên tiếp đều thành Phật
Thứ tự mà thọ ký.
Thiên Trung Thiên cuối cùng
Hiệu là Phật Nhiên Đăng
Là đạo sư trời người
Độ thoát vô lượng chúng.
Vị pháp sư Diệu Quang
Có một vị đệ tử
Tâm thường hay giải đãi
Tham trước về danh lợi.
Cầu danh lợi không chán
Thường đến nhà giàu sang
Bỏ bê đọc tụng Kinh
Quên mất chẳng thông thuộc.
Vì bởi nhân duyên đó
Nên gọi là Cầu Danh
Cũng tu các nghiệp thiện
Được thấy vô số Phật.
Cúng dường các đức Phật
Theo tu hành đại đạo
Đủ sáu Ba la mật
Nay gặp Phật Thích Ca.
Sau nầy sẽ thành Phật
Hiệu là Phật Di Lặc
Rộng độ các chúng sinh
Số đông nhiều vô lượng.
Pháp sư Diệu Quang là đệ tử hộ pháp của Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, trải qua
tám mươi tiểu kiếp để diễn nói Kinh Pháp Hoa, phụng trì Pháp của Phật Nhật
Nguyệt Đăng Minh, và giáo hóa các vị vương tử kiên cố hành trì pháp đại thừa
viên đốn, tức vô thượng đạo. Vì thấy được vô lượng chư Phật và cúng dường chư
Phật, thuận theo chư Phật tu hành vô thượng đạo. Lại thứ tự tiếp tục thành Phật
đạo, thứ lớp thọ ký nhau, trong tám vị vương tử, vị thành Phật cuối cùng hiệu
là Phật Nhiên Đăng, là bậc đạo sư của trời người, độ thoát vô lượng chúng sinh.
Phật là Thiên Trung Thiên, Thánh Trung Thánh.
Pháp sư Diệu Quang có một vị đệ tử, tham cầu danh lợi chẳng giữ giới luật, ít dụng
công tu hành, thường đi đến nhà người tại gia giàu có, để mong cầu lợi dưỡng.
Tuy Ngài tham cầu danh lợi, bỏ bê đạo nghiệp, nhưng bên cạnh đó Ngài tu căn
lành rộng lớn, có cơ hội được gặp Phật và cúng dường chư Phật. Nối tiếp mà
thuận theo chư Phật, trừ khử các các tập khí mao bệnh xấu mà tu bố thí, trì giới,
nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và bát-nhã, sáu độ vạn hạnh. Do sự nghiêm tịnh tu
trì trải qua vô lượng kiếp, tích tụ công đức đã thành tựu và phước huệ đều tròn
đầy, cho nên hôm nay được gặp Phật Thích Ca Mâu Ni, mà được thọ ký tương lai sẽ
thành Phật, thay thế Đức Phật Thích Ca hiệu là Phật Di Lặc. Phật Di Lặc sẽ ở
dưới cội Long Hoa, thuyết pháp ba hội, độ vô lượng vô biên chúng sinh.
Kỳ thật, Bồ Tát Cầu Danh chẳng phải thật tham cầu danh lợi, chỉ vì chúng sinh
điên đảo ngu si, mà Ngài dùng tâm đại từ bi, lợi dụng pháp quyền xảo phương
tiện, giả bộ ở trong đời thế tục, tùy loại mà hóa độ tất cả chúng sinh điên đảo
mê các trần lao. Bồ Tát hiện tướng thuận nghịch để khai thị chúng sinh, đâu
chẳng phải là phá sự tham trước và giải đãi của chúng sinh. Song, chúng sinh chẳng
hiểu sự khổ tâm của Ngài, không ngại gian khổ để cứu độ chúng sinh, ngược lại
vì hình tướng bề ngoài của Ngài, như kẻ ăn mày mà khinh khi Ngài, thậm chí còn
mắng chưởi và đánh đập Ngài. Nhưng đối với sự thành bại vinh nhục, Ngài đã hoàn
toàn chẳng còn bận lòng. Trong Chứng Đạo Ca của Ngài Vĩnh Gia có nói :
"Bao lần sinh, bao lần chết,
Sinh tử đăng đẳng chẳng định ngừng,
Từ khi đốn ngộ liễu vô sinh,
Đối với vinh nhục hà tất buồn vui."
Nghĩa là, thân tâm của Ngài như hư không, rộng khắp pháp giới, những gì Ngài làm
đều như ánh sáng mặt trời mặt trăng tỏa muôn phương, khen chê Ngài đều chẳng
bận lòng.
Dưới đây là bài kệ của Bồ Tát Di Lặc ý vị và nghĩa lý thâm trường :
"Lão quê mặc áo vá,
Cơm hẩm no đầy bụng,
Áo rách che rét lạnh,
Vạn sự hãy tùy duyên.
Có ai mắng lão quê,
Lão quê chỉ nói tốt,
Có ai đánh lão quê,
Lão quê nằm lăn ra,
Khạc nhổ vào mặt lão,
Để nó tự khô lấy,
Ta cũng chẳng tốn sức,
Người cũng chẳng phiền não,
Đó là Ba La Mật,
Cũng là báu vô giá,
Nếu làm được như thế,
Lo gì đạo không thành."
Lão quê không những mặc áo vá, mà uống trà cũng đơn giản, ăn cơm đạm bạc, chẳng
ăn muối, chẳng ăn dầu, càng chẳng tham cầu thức ăn ngon. Ngài chẳng sợ lạnh đói
khác, vạn sự đều tùy duyên, tức tùy duyên không đổi, không đổi mà tùy duyên.
Đến đi tự như, do đó tiêu giao thế giới mặc đông tây. Cho nên các sự vinh nhục
hà tất phải buồn vui, đối với sự nhục mạ đánh đập của người khác, không những
chẳng sân hận mà ngược lại càng sinh tâm cảm kích công đức. Vì những lới ác
đánh đập đó, đâu chẳng phải là thiện tri thức thành tựu nhẫn nhục Ba La Mật của
Bồ Tát. Nếu chẳng có đại hùng, đại lực, đại từ, đại nguyện, đại hạnh của Bồ
Tát, thì không thể có định lực nhẫn nhục tinh tấn vô thượng nầy. Nhẫn nhục Ba
La Mật biết dễ mà hành khó. Người ban đầu phát tâm tu đạo phải dùng : kiên,
thành, hằng ba tâm trợ đạo. Đời người ngắn ngủi, các hành vô thường, sinh tử là
việc lớn, nếu không kịp thời tu hành, thì tương lai hối hận đã quá muộn. Bồ Tát
khéo biết :"Thời gian giảm dần, thì mạng sống cũng giảm", cho nên
dùng thân người nầy, mà thanh tịnh trang nghiêm lũy kiếp tu. Tu đạo chẳng việc
gì khó, chỉ cần cước đạp thật địa, đừng sợ gian nan khốn khổ, dũng mãnh tinh
tấn, tất sẽ thành tựu.
Phật kia diệt độ rồi
Người giải đãi là Ngài
Còn pháp sư Diệu Quang
Nay chính là thân ta.
Tôi thấy Phật Đăng Minh
Điềm lành xưa như vậy
Cho nên biết Phật nay
Muốn nói Kinh Pháp Hoa.
Tướng nay như điềm xưa
Là phương tiện chư Phật
Nay Phật phóng quang minh
Giúp bày nghĩa thật tướng.
Các người nay nên biết
Chắp tay một lòng chờ
Phật sẽ rưới mưa pháp
Đầy đủ người cầu đạo.
Những người cầu ba thừa
Nếu có chỗ nghi hối
Phật sẽ dứt trừ cho
Khiến hết chẳng còn thừa.
Đức Phật Đăng Minh nhập diệt rồi, người giải đãi đó là Ngài, còn tôi tức là
Pháp sư Diệu Quang.
Kinh nghiệm quá khứ của tôi biết Phật Thích Ca Mâu Ni, trước hết hiện sáu điềm
lành, chắc chắn là muốn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Chư Phật hiện tướng điềm lành để nói pháp, là pháp thiện xảo phương tiện. Hiện nay
Phật Thích Ca Mâu Ni phóng đại quang minh, là trợ giúp hiển bày nghĩa thật
tướng, cho nên đại chúng ở trong hội nên cung kính chắp tay yên lặng chờ Phật
nói pháp yếu. Chúng sinh nghĩ đến pháp như khát nghĩ đến nước. Cho nên Như Lai
mưa pháp vũ, thấm nhuần khắp tất cả tâm chúng sinh. Đây dụ cho tất cả chúng
sinh như : hoa cỏ thụ mộc tùng lâm, trận mưa lớn tưới xuống khắp, tùy theo sự
thu hút của cây lớn nhỏ mà được sinh trưởng. Phật khéo léo quán căn cơ để thí
giáo, cho nên phổ độ hết thảy ba căn (thượng, trung, hạ) và thu nhiếp hết chúng
sinh lợi, độn căn, mà phân biệt diễn nói pháp đại thừa, tiểu thừa và nhân thiên
thừa. Ba thừa ở đây tức là : Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác và nhân thiên thừa. Phật
nói pháp yếu độ hết tất cả người ba thừa, khiến chẳng còn xót thừa nào.
Người xưa nói rằng :
"Đạo thì phải hành,
Chẳng hành sao có đạo.
Đức là do tu,
Không tu sao có đức ?"
Quy về cuối cùng nhất của nhân loại là : Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, cứu kính Niết
Bàn. Do đó, trước hết phải y pháp tu hành, cung hành thực tiễn. Thế mà, có
những người trước khi chưa tin Phật, trước khi chưa phát nguyện, còn bình an vô
sự, nhưng khi tin Phật rồi, phát nguyện rồi thì đủ thứ chướng ngaị phát sinh.
Đó là nguyên nhân gì ? Vì từ vô lượng kiếp đến nay, do vô minh mà cứ tạo nghiệp
: giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối .v.v… đủ thứ ác nghiệp, chẳng ra khỏi
trần lao, mà theo sinh tử không ngừng. Vô số ác nghiệp đã gây ra, đều là nghiệp
đời quá khứ tích tụ lần lược trổ ra, nếu giác ngộ được hôm nay đúng, hôm qua
sai, tinh tấn tu hành, thì những nghiệp chướng phiền não, đã tạo ra trong quá
khứ sẽ hiện tiền. Những ma khảo nầy đâu chẳng là một thứ ma luyện đối với người
tu hành, do đó :"Ma là ma chân đạo, chân đạo tức có ma." Nếu tùy
duyên tiêu nghiệp cũ, dùng tâm nhẫn nại để ứng đối, đừng tạo thêm nghiệp mới,
giữ gìn giới luật thanh tịnh, thì sẽ trả nợ cũ ra khỏi tam giới.