- Giải Thích Tên Kinh
- Phẩm Tựa Thứ Nhất
- Phẩm Phương Tiện Thứ Hai
- Phẩm Thí Dụ Thứ Ba
- Phẩm Tin Hiểu Thứ Tư
- Phẩm Dược Thảo Dụ Thứ Năm
- Phẩm Thọ Ký Thứ Sáu
- Phẩm Hóa Thành Dụ Thứ Bảy
- Phẩm Thọ Ký Cho Năm Trăm Vị Đệ Tử Thứ Tám
- Phẩm Thọ Ký Cho Bậc Hữu Học Và Vô Học Thứ Chín
- Phẩm Pháp Sư Thứ Mười
- Phẩm Thấy Bảo Tháp Thứ Mười Một
- Phẩm Đề Bà Đạt Đa Thứ Mười Hai
- Phẩm Khuyên Trì Thứ Mười Ba
- Phẩm An Lạc Hạnh Thứ Mười Bốn
- Phẩm Từ Dưới Đất Vọt Lên Thứ Mười Lăm
- Phẩm Thọ Lượng Của Như Lai Thứ Mười Sáu
- Phẩm Phân Biệt Công Đức Thứ Mười Bảy
- Phẩm Tùy Hỷ Công Đức Thứ Mười Tám
- Phẩm Công Đức Pháp Sư Thứ Mười Chín
- Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh Thứ Hai Mươi
- Phẩm Thần Lực Của Như Lai Thứ Hai Mươi Mốt
- Phẩm Chúc Lũy Thứ Hai Mươi Hai
- Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Dược Vương Thứ Hai Mươi Ba
- Phẩm Bồ Tát Diệu Âm Thứ Hai Mươi Bốn
- Phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm Thứ Hai Mươi Lăm
- Phẩm Đà La Ni Thứ Hai Mươi Sáu
- Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Vua Diệu Trang Nghiêm Thứ Hai Mươi Bảy
- Phẩm Khuyến Phát Của Bồ Tát Phổ Hiền Thứ Hai Mươi Tám
Giảng Giải: Hoà Thượng Tuyên Hoá
Hán dịch: Ngài Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
PHẨM PHƯƠNG TIỆN THỨ HAI
Bấy giờ, Đức Thế Tôn từ tam muội an tường mà dậy, nói với Ngài
Xá Lợi Phất : Trí huệ của chư Phật thâm sâu vô lượng, môn trí huệ đó khó hiểu
khó vào. Tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật không thể biết được. Vì sao ? Phật đã
từng gần gũi trăm ngàn vạn ức vô số chư Phật, thực hành hết vô lượng đạo pháp
của chư Phật, dũng mãnh tinh tấn, danh xưng đồn khắp, thành tựu pháp thâm sâu
chưa từng có, tùy nghi mà nói, ý nghĩa khó hiểu.
Kinh trường hàng và kệ ở trên là phẩm tự của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Tự tức là
tự thuật nhân duyên của bộ Kinh nầy. Nhân duyên của bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
nầy đã tự thuật rõ ràng, tiếp theo dưới đây giảng về phẩm thứ hai, phẩm Phương
Tiện. Phương tức là phương pháp, tiện tức là tiện lợi. Đây là quyền pháp chẳng phải
là thật pháp, cho nên gọi là phương tiện, do đó quyền xảo phương tiện. Quyền,
chẳng phải pháp của Kinh bình thường, chỉ là tạm thời chọn dùng mà thôi. Thật,
là vĩnh viễn không biến đỗi, vĩnh viễn tồn tại. Song, một số người mới bắt đầu
học Phật, chẳng dễ gì hiểu rõ thật pháp, vì quán cơ thí giáo, mười phương chư
Phật khéo bày pháp môn quyền xảo phương tiện, sau đó mới khai quyền hiển thật,
vì thật thí quyền. Cho nên tuyên nói thứ lớp nào là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát thừa, mà cứu kính chỉ quy về Phật thừa. Phật thừa tức là thật, Thanh Văn,
Duyên Giác là quyền, trước hết nói pháp tiểu thừa, sau đó mới dẫn đường chúng
sinh quy vào đại thừa Phật quả, đây gọi là vì thật thí quyền, khai quyền hiển thật.
Khai tức là khai mở. Đức Phật ban đầu nói tam tạng giáo lý, là vì khích lệ tâm
tu đạo của người tiểu thừa, cho nên nói đây là pháp tối thắng. Song, người tiểu
thừa được ít cho là đủ, cho rằng chứng được : sơ, nhị, tam, tứ quả tức là cứu
kính mà chẳng cầu tiến thêm nữa, do đó mà dừng lại ở hóa thành.Vì độ bậc Thanh
Văn, Duyên Giác căn cơ thiển cạn, cho nên đùc Phật dẫn dụ hóa thành ở phẩm thứ
bảy, lại vì năm trăm đệ tử thọ ký.
"Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn từ tam muội an tường mà dậy." Đương lúc đó,
bậc tôn kính của trời người từ tam muội vô lượng nghĩa xứ, an tường tự tại mà
dậy. Nghĩa là Đức Phật tự tại xuất định, ngược lại quán sát chúng sinh mới ngồi
chẳng bao lâu, thì cảm thấy lưng ê chân đau, do đó dũi chân ra, thẳng lưng lên,
đó đều là biểu hiện chẳng tự tại.
Con người tất phải tu đạo, không tu thì chẳng có đạo, phải tu mới có đạo. Song,
bạn không tu đạo thì vấn đề gì cũng chẳng có. Một khi bạn bắt đầu tu đạo, thì
vấn đề sẽ xảy đến. Tại sao có vấn đề ? Đó đều do tiền kiếp đã tạo ra, có đủ thứ
nhân duyên khác nhau, trong đó những nợ nần đầy dẫy hỗn tạp chẳng rõ ràng. Vì
những nhân duyên ràng buộc, cho nên đời nay mới phát tâm tu đạo, thì ma vương
đến đòi nợ, tạo các nghịch cảnh khiến cho bạn sinh phiền não mà thối bồ đề tâm.
Người vào thời đại mạt pháp, tâm sân rất nặng cho nên thường sinh tâm phiền não
đối với người chẳng có phiền não, đối với vật dễ khởi phiền não, không những
đối với súc sinh, quỷ thần sinh phiền não, mà thậm chí đối với Bồ Tát với Phật
cũng nóng giận, cuối cùng đối với chính mình cũng nóng giận ! Đó là vì quá khứ
tại nhân địa vô minh quá nhiều, phiền não quá nặng, tạo những nghiệp chướng hồ
đồ, đời nay mới có đủ thứ phiền não chướng ngại hiện tiền.
Nói với Ngài Xá Lợi Phất. Xá Lợi Phất là bậc trí huệ đệ nhất trong hàng Thanh Văn.
Chỉ trong tám ngày Ngài thông đạt hết tất cả pháp tạng. Ngài Xá Lợi Phất khi
còn ở trong bụng mẹ, đã là biện tài vô ngại, luận bại cậu của Ngài, vì Ngài có
đại trí huệ, hay tin sâu tất cả các pháp, cho nên trong phẩm nầy đức Phật dùng
Ngài làm người đương cơ. Bồ Tát Văn Thù là trí huệ đệ nhất trong chúng Bồ Tát.
Ngài Xá Lợi Phất chỉ là trí huệ đệ nhất về quyền giáo, tóm lại là người trí huệ
đệ nhất ở trong hàng tiểu thừa.
"Trí huệ của chư Phật thâm sâu vô lượng". Trí huệ của Phật cao sâu
không thể dò được, thâm áo khó hiểu, cho nên nói môn trí huệ đó, người nhị thừa
khó hiểu khó vào, không dễ thấy được. Người nhị thừa tức là Thanh Văn, Duyên
Giác. Bậc Duyên Giác khi sinh vào lúc Phật ra đời, thì tu mười hai nhân duyên
mà ngộ đạo, cho nên gọi là Duyên Giác. Nếu sinh vào thời chẳng có Phật ra đời
thì tự mình tu hành, mùa xuân quán hoa nở, mùa thu quán lá vàng rơi, hiểu rõ
đạo lý sinh diệt vô thường của vạn vật mà ngộ đạo, cho nên gọi là Độc Giác,
chứng quả rồi còn gọi là Bích Chi Phật.
Sở dĩ mà đức Phật thành Phật, là vì Phật đã từng gần gũi trăm ngàn vạn ức vô số
chư Phật, cung kíng cúng dường, khéo gặp trăm ngàn vạn ức các Đức Phật, là một
pháp môn vô lượng công đức, mà ở trong Phật giáo có vô lượng vô biên pháp môn.
Đáng cười cho chúng ta, học được một chút công phu ngoài da, thì tự cho rằng đã
được hết toàn bộ Phật pháp, đó chẳng khác nào ngồi đáy giếng mà nhìn trời ! Hoặc
chỉ xem mấy quyển sách Phật giáo thì nói : Tôi đã hiểu Phật pháp. Đó thật là chẳng
tự lượng sức mình ! Xem thường Phật giáo quá đơn giản, quá bình thường. Nhất là
những người nầy vốn chẳng cung hành thực tiễn, mà dám lên đài giảng Kinh, đó chẳng
khác nào chưởi người, tức chẳng lợi mình cũng chẳng lợi người, cứ nói đạo lý hồ
đồ, chỉ nai là ngựa, lấy quỷ làm người, người làm quỷ, lấy đen làm trắng, chẳng
biết thị phi. Nếu có người hoài nghi hỏi thì họ tránh né nói : Tôi cũng chưa
xem qua sách nầy, cũng chẳng hiểu đạo lý của nó, bạn hãy tự khảo lấy !
"Thực hành hết vô lượng đạo pháp của chư Phật, dũng mãnh tinh tấn".
Dũng, tức là chẳng sợ sinh tử, chẳng sợ bất cứ mọi sự gian khổ. Mãnh, là mãnh
lợi. Tinh tấn nghĩa là chẳng giải đãi. "Danh xưng đồn khắp". Khi chư
Phật tu đạo, thì dũng mãnh tinh tấn, vang danh khắp hết thảy, cho nên không cầu
danh mà danh tự đến. Thành tựu pháp thâm sâu chưa từng có. Pháp vi diệu thâm
sâu nầy trước kia chưa từng có. "Tùy nghi mà nói, ý nghĩa khó hiểu".
Tuy Đức Phật khéo về pháp quyền xảo phương tiện, vì người mà thí giáo, theo
bệnh cho thuốc, song người căn cơ quá ám độn vẫn chẳng hiểu được nghĩa lý.
Xá Lợi Phất ! Từ khi ta thành Phật đến nay, dùng đủ thứ nhân duyên, đủ thứ thí
dụ để rộng nói, dùng vô số phương tiện để dìu dắt giáo hóa chúng sinh, khiến
cho chúng sinh lìa các sự chấp trước. Vì sao ? Vì phương tiện tri kiến Ba la
mật của Như Lai đều đã đầy đủ.
Xá Lợi Phất ! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, vô lượng vô ngại, lực vô sở
úy, thiền định giải thoát tam muội vào sâu chẳng có bờ mé, thành tựu tất cả các
pháp chưa từng có.
Đoạn Kinh văn ở trước : Ý nghĩa khó hiểu, pháp của Phật nói thì : Người trí thì
thấy trí, người nhân thì thấy nhân, người trí sâu thì thấy sâu, người trí cạn
thì thấy cạn, do đó :
"Một âm diễn nói pháp,
Theo loài đều hiểu được".
Tuy đức Phật chỉ dùng một âm thanh diễn nói pháp, mà khiến cho hết thảy chúng sinh
đều hiểu được. Bất cứ quỷ, thần, người, Bồ Tát, Duyên Giác .v.v., đều tùy theo
căn cơ mà đẳc được pháp ích. Song, vẫn chưa hoàn toàn hiểu hết ý nghĩa của
Phật, vì cảnh giới của Phật quá thâm áo vi diệu khó tin khó thấy được. Mỗi đạo
lý của Phật nói đều hàm chứa bao la vạn hữu, nhưng căn tính của chúng sinh rất cạn,
không thể nghe một biết mười, không thể thấy biết triệt để.
"Xá Lợi Phất ! Từ khi ta thành Phật đến nay, dùng đủ thứ nhân duyên, vì
người độn căn nói đủ thứ nhân duyên thiện ác trong quá khứ hiện tại và vị lai.
Lại dùng đủ thứ ví dụ, vì người trung căn rộng nói diễn bày, dùng vô số phương
pháp xảo diệu dạy bảo, dẫn dắt giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh xa lìa
mọi sự chấp trước". Do đó : Thiện xảo phương tiện độ chúng sinh, ở nơi trần
lao làm Phật sự. Tất cả pháp thế gian đều là trần lao. Bởi vậy, dùng đại nguyện
lực của Phật, khiến cho chúng sinh sinh nơi trần lao mà xuất trần, tại thế gian
mà ra khỏi thế gian. Đó tức là Phật lực tiếp dẫn.
"Xá Lợi Phất ! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, chẳng có số lượng,
tánh vốn không tịch, cho nên vô quái ngại". Do đó, lớn mà chẳng ở ngoài,
nhỏ mà chẳng ở trong. "Lực vô sở úy", tức là mười lực và bốn vô sở úy
của Như Lai. Định tức là tam muội. Thiền là tiếng Phạn, nói đủ là thiền na,
dịch là "tư duy tu", hoặc là "tĩnh lự". Nếu vọng niệm mà ngưng
bặc tức có định lực. Tu định chẳng phải chỉ có ngồi kiết già, mà bất cứ nhặt củi
gánh nước tiếp khách, những việc tầm thường hằng ngày đều tu định lực được.
Vị thiền sư Nhất Như Vĩnh Minh Thọ, mỗi ngày niệm mười vạn hồng danh Nam Mô A
Di Đà Phật. Phải chăng ngoài sự niệm Phật Ngài chẳng làm gì hết ? Chẳng phải.
Ngài vừa làm vừa niệm, trong sự sinh hoạt hằng ngày đều ở trong niệm Phật tam
muội, cho nên mỗi một câu niệm danh hiệu Phật của Ngài, thì có một vị Phật từ
trong miệng của Ngài hiện ra. Song, tướng điềm lành nầy chỉ có người khai ngũ nhãn
mới thấy được, chẳng phải mắt thịt của phàm phu thấy được. Do đó, thiền sư Vĩnh
Minh Thọ được mọi người coi như là hóa thân của Phật A Di Đà. Cho nên bất cứ
chúng ta làm gì, nếu giữ gìn tâm : kiên, thành, hằng thì sẽ đắc được định lực.
Xá Lợi Phất ! Như Lai dùng đủ thứ sự khác biệt, khéo léo nói các pháp, lời
lẽ êm diệu, khiến cho vừa lòng đại chúng. Xá Lợi Phất ! Nói tóm lại những pháp
chính yếu có vô lượng vô biên chưa từng có, Phật đều đã thành tựu.
Xá Lợi Phất ! Phật dùng đủ thứ trí, rộng phân biệt diễn nói, những gì nói ra hợp
cơ gọi là khéo, pháp nghĩa chẳng phải một nên gọi là khác, lời lẽ êm diệu cho
nên lợi lạc tất cả các chúng sinh. Khéo nói các pháp đối với các pháp, khéo
phân biệt, khéo nói thật tướng của các pháp. Pháp là phương pháp, nếu khéo léo
nói pháp, thì khiến cho mọi người hoan hỉ tin thọ, đó là khéo nói các pháp.
Lục Tổ Huệ Năng tuy chẳng biết chữ, nhưng khéo nói các pháp. Một lần nọ, có hai
vị Tăng tranh chấp về việc gió thổi lá phướng động. Một ông nói : "Tôi nói
đó là gió động." Ông kia nói : "Chẳng phải, đó là phướng động." Hai
người tranh luận không ngừng, đều chẳng chịu thua, lúc đó Ngài Huệ Năng vừa đến
đó, bèn giải thích cho họ nghe :"Chẳng phải gió động, cũng chẳng phải
phướng động, chính là tâm của hai vị động !" Trong tâm của bạn cảm thấy
động thì nó động, nếu tâm không động thì tất cả chẳng động. Đó cũng là khéo nói
các pháp. Nếu ai hiểu được sự tu đạo, thì làm gì cũng đều là tu đạo, đều ở trong
định.
Lục Tổ Huệ Năng khai ngộ như thế nào ? Khi Ngài chưa xuất gia làm nghề đốn củi,
tuy nhiên đời sống vất vả nhưng Ngài không quên việc hiếu thảo với mẹ già. Sau
đó, Ngài đến chỗ Ngũ Tổ, Ngũ Tổ bảo làm công việc giã gạo. Ngài sớm tối giã gạo
chẳng ngừng nghỉ, tức chẳng có dịp ngồi thiền, cũng chẳng có thời giờ nghiên
cứu Kinh điển, càng chẳng niệm câu Chú nào. Song, Ngài cánh nhiên khai ngộ ! Đó
là nguyên nhân gì ? Vì bất cứ Ngài làm gì, cũng chuyên tâm nhất chí, thanh tịnh
vọng niệm. Trong Kinh Lăng Nghiêm nói rằng :
"Cuồng tâm hết sạch, tức là bồ đề."
Tức cũng là thiền định giải thoát tam muội. Do đó, nếu ngộ được ý bên trong,
thì suốt ngày làm việc bình thường sẽ có thể lãnh hội.
"Khéo nói các pháp, lời lẽ êm diệu". Pháp của Phật nói, đều khiến cho
tâm của chúng sinh an lạc vui vẻ.
Đức Phật lại nói : Xá Lợi Phất ! Nói tóm lại những pháp vi diệu chính yếu có vô
lượng vô biên chưa từng có, ta đã hoàn toàn thành tựu chứng hết.
Thôi, Xá Lợi Phất ! Đừng nói nữa. Vì sao ? Vì pháp của Phật thành tựu ít có,
khó hiểu bậc nhất. Chỉ có Phật với Phật, mới thấu triệt được thật tướng của các
pháp. Đó là : tướng của các pháp như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như
vậy, làm như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, gốc
ngọn cứu kính như vậy .v.v.
Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, mà nói ra bài kệ.
Thôi là ngừng lại chẳng nói nữa. Tại sao Đức Phật không muốn nói nữa ? Vì Kinh nầy
vi diệu thâm áo, chẳng phải một số người hiểu được, nói ra sợ làm cho chúng
sinh sinh ra tâm nghi ngờ phỉ báng mà tạo các nghiệp ác. Cho nên đức Phật yên
lặng lâu, chẳng nói pháp ít có, khó tin bậc nhất nầy.
Pháp đệ nhất nghĩa, tức là pháp môn không hai, cho nên gọi là đệ nhất. Pháp môn
không hai, tức là không có hai không có ba, là tuyệt đối đãi, độc nhất vô nhị.
Ít có là chưa từng nghe. Khó hiểu tức là lý sâu pháp diệu, ý nghĩa thâm sâu,
cho nên khó hiểu. Pháp ít có nầy, khó thấy khó tin, chỉ có Phật với chư Phật, mới
thấu triệt được thật tướng của các pháp là vô tướng mà vô sở bất tướng.
1. Pháp giới của Phật.
2. Pháp giới của Bồ Tát.
3. Pháp giới của Duyên Giác.
4. Pháp giới của Thanh Văn.
5. Pháp giới của chư Thiên.
6. Pháp giới của loài người.
7. Pháp giới của A Tu La.
8. Pháp giới của súc sinh.
9. Pháp giới của ngạ quỷ.
10. Pháp giới của địa ngục.
Bốn pháp giới trước là pháp giới của bậc Thánh, sáu pháp giới sau là pháp giới
của phàm phu, cộng lại là mười pháp giới. Trong mười pháp giới, mỗi một giới
lại có mười như vậy, cộng lại thành trăm giới. Mà trong trăm giới, mỗi một giới
lại có mười như vậy, do đó gọi là ngàn như vậy.
Bây giờ, lược giảng về mười như vậy.
Tướng hư vọng ra sao ? Tức là tướng chẳng chân thật, tức là vô minh, có sinh diệt,
có tăng giảm, có dơ sạch. Vô minh nầy chẳng có thật thể, chỉ là một giả danh mà
thôi. Như trong Kinh nầy có nói : Thấy các chúng sinh vì sinh, già, bệnh, chết
ưu bi khổ não, giống như ở trong nước sâu lửa nóng, chịu đựng mọi sự thiêu đốt
bức bách khó chịu.
Tánh như vậy, ở đây có một ví dụ, giống như gỗ, bên trong đều có tánh lửa,
nhưng nếu bỏ tánh lửa nầy không dùng, thì vĩnh viễn không thể sinh ra lửa, phải
mượn một nhân duyên khác thì nó mới sinh ra lửa. Ví như xưa kia loài người chưa
phát hiện được lửa, thì vật gì cũng đều ăn sống, khi phát hiện lấy lửa được ở
cây, thì sau nầy mới dùng lửa để nấu chín đồ ăn. Từ đó về sau con người mới
hiểu cách thức dùng gỗ để dẫn ra tánh lửa.
Lúc đó Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa lý đã nói, mới dùng kệ để nói :
Đấng Thế Hùng khó lường
Chư thiên và nhân loại
Tất cả loài chúng sinh
Chẳng ai hiểu biết Phật.
Phật lực vô sở úy
Giải thoát các tam muội
Các pháp khác của Phật
Chẳng ai đo lường được.
Vốn từ vô số Phật
Đầy đủ hạnh các đạo
Pháp thâm sâu nhiệm mầu
Khó thấy khó biết được.
Trong vô lượng ức kiếp
Hành các đạo đó rồi
Đạo tràng được chứng quả
Ta đều đã thấy biết.
Quả báo lớn như vậy
Đủ thứ tánh tướng nghĩa
Ta và mười phương Phật
Mới biết rõ việc đó.
Đấng Thế Hùng là Đấng đại anh hùng, tức cũng là một vị Thánh nhân duy nhất của thế
gian và xuất thế gian của thế giới chúng ta, là đại hùng đại lực đại từ bi, cho
nên nói : Đấng Thế Hùng khó lường.
"Chư thiên và nhân loại" : Tất cả chư thiên ở trên trời và tất cả
loài người trên thế gian. "Tất cả loài chúng sinh. Chẳng ai hiểu biết
Phật" : Chẳng có một Chúng sinh nào hiểu biết được cảnh giới của Phật. "Phật
lực vô sở úy" : Phật có mười lực, bốn vô sở úy. Mười lực là mười trí lực :
1. Trí lực biết xứ phi xứ.
2. Trí lực biết nghiệp báo ba đời.
3. Trí lực biết các thiền giải thoát tam muội.
4. Trí lực biết các căn thắng liệt.
5. Trí lực biết đủ thứ giải.
6. Trí lực biết đủ thứ giới.
7. Trí lực biết tất cả chí xứ đạo.
8. Trí lực biết thiên nhãn vô ngại.
9. Trí lực biết túc mạng vô lậu.
10. Trí lực biết vĩnh đoạn tập khí.
Phật lại có bốn vô sở úy :
1. Nhất thiết trí vô sở úy.
2. Lậu tận vô sở úy.
3. Nói chướng đạo vô sở úy.
4. Nói đạo dứt khổ vô sở úy.
"Giải thoát các tam muội" : là chỉ người giải thoát và các thiền tam
muội. "Các pháp khác của Phật" : những diệu hạnh diệu pháp khác, đức
Phật thực hành đều chẳng cách chi đo lường được. "Vốn từ vô số Phật, đầy
đủ hạnh các đạo". Từ vô lượng vô biên ở nhiều nơi các Đức Phật các Ngài
đều đầy đủ hạnh môn. "Pháp thâm sâu vi diệu nầy khó thấy khó hiểu
được". Chẳng dễ gì thấy được cũng chẳng dễ gì minh bạch được. "Trong
vô lượng ức kiếp" : Đức Phật Thích Ca và mười phương các Đức Phật khác,
đều ở trong vô lượng ức kiếp về trước hành các đại hoằng nguyện, viên mãn Bảy
bồ đề phần, Tám chánh đạo, Năm căn, Năm lực, Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn
như ý túc, cộng thành ba mươi bảy đạo phẩm. "Hành các đạo đó rồi" :
Đã tu hành ba mươi bảy đạo phẩm, bốn Diệu Đế, mười hai Nhân Duyên, lục độ vạn
hạnh .v.v. "Đạo tràng được chứng quả". Vì tu rất nhiều pháp môn, cho
nên đạo tràng thành tựu, Phật quả cũng thành tựu. "Ta đều đã thấy
biết". Quả báo lớn như thế. Quả báo lớn giống như mười như vậy. "Đủ
thứ tánh tướng nghĩa". Mười như vậy là đạo lý tướng và đủ thứ pháp môn, đủ
thứ tu hành, ta đều hoàn toàn minh bạch. "Ta và mười phương Phật, mới biết
rõ việc đó". Ta và mười phương chư Phật, mới minh bạch đủ thứ sự việc đó,
còn những chúng sinh khác chẳng dễ gì minh bạch được.
Pháp đó chẳng thể bày
Lời lẽ tướng tịch diệt
Những loài chúng sinh khác
Chẳng ai hiểu biết được.
Trừ các chúng Bồ Tát
Bậc sức tin kiên cố
Chúng đệ tử chư Phật
Từng cúng dường chư Phật.
Tất cả bậc sạch lậu
Trụ ở thân cuối cùng
Những hạng người như vậy
Sức họ chẳng kham được.
Nếu như đầy thế gian
Đều như Xá Lợi Phất
Suy nghĩ và độ lượng
Chẳng dò được Phật trí.
"Pháp đó chẳng thể bày". Diệu pháp nầy không thể tùy tiện nói cho
người nghe. Tại sao ? Vì lời lẽ tướng tịch diệt. Đây là pháp môn cứu kính thật
tướng, đường ngôn ngữ đã dứt, dùng lời lẽ cũng chẳng cách chi giải thích được ;
chỗ tâm hành đã diệt, dùng tâm suy nghĩ tưởng tượng cũng chẳng cách chi nghĩ
ra. Do đó :
"Khẩu dục ngôn nhi từ tán,
Tâm dục duyên nhi lự vong".
Nghĩa là : miệng muốn nói mà lời tan mất, tâm nghĩ muốn phan duyên mà niệm lự tư
tưởng đều chẳng còn. Lời lẽ tướng tịch diệt tức là chẳng có gì để nói. Diệu
pháp chân chánh thì không thể nói, không thể nói là nói chẳng ra, nó phát huy ở
trong tự tánh chứ chẳng phải từ bên ngoài đến được. "Những loài Chúng sinh
khác chẳng ai hiểu biết được". Chẳng có bất cứ chúng sinh nào có thể minh bạch
được diệu pháp nầy. "Trừ các chúng Bồ Tát". Trừ những bậc đại Bồ Tát
mới minh bạch đạo lý thật tướng nầy. "Bậc sức tin kiên cố". Vì tâm
của các vị ấy kiên cố, giống như Bồ Tát Văn Thù mới minh bạch được pháp nầy,
tin được pháp nầy, ngoài ra những chúng sinh khác hoàn toàn chẳng minh bạch. "Chúng
đệ tử chư Phật, từng cúng dường chư Phật". Tất cả chúng đệ tử của hết thảy
chư Phật, ở trong ba đời quá khứ đã từng cúng dường tất cả chư Phật. "Tất
cả bậc sạch lậu" : Các bậc đã đắc được vô lậu, chứng được quả vô lậu Bích
Chi Phật. "Trụ ở thân cuối cùng". Hiện tại là báo thân cuối cùng,
chẳng còn thọ thân sau, đã vĩnh viễn dứt sinh tử. "Những hạng người như
vậy", giống như những Bồ Tát và Bích Chi Phật. "Sức họ chẳng kham
được". Các vị ấy cũng đều không thể minh bạch được diệu pháp nầy.
"Nếu như đầy thế gian, đều như Xá Lợi Phất". Giả sử người đầy khắp
thế giới đều có trí huệ như Ngài Xá Lợi Phất. "Suy nghĩ và độ lượng".
Dùng hết sự suy nghĩ và trí thức để dò trí huệ của Phật. "Không dò được
Phật trí". Cũng chẳng cách chi đo lường được trí huệ của Phật.
Giả sử đầy mười phương
Đều như Xá Lợi Phất
Và các đệ tử khác
Cũng đầy mười phương cõi.
Cùng nghĩ và độ lượng
Cũng chẳng hiểu biết được
Bích Chi Phật lợi trí
Vô lậu thân cuối cùng.
Cũng đầy khắp mười phương
Số đông như rừng tre
Thảy đều chung một lòng
Trong vô lượng ức kiếp.
Muốn lường Phật thật trí
Chẳng biết được ít phần
Bồ Tát mới phát tâm
Cúng dường vô số Phật.
Thấu rõ các nghĩa thú
Lại hay khéo nói pháp
Như lúa mè tre lau
Đầy khắp mười phương cõi.
Nhất tâm dùng diệu trí
Trải Hằng sa số kiếp
Cùng chung nhau suy lường
Chẳng biết được Phật trí.
Phật đầy đủ viên mãn quyền thật hai trí. Quyền trí là tùy cơ thuyết pháp, phương
tiện độ sinh ; thật trí là chuyên giảng về trí huệ thật tướng, trí huệ chân
thật. Cho nên Ngài nói : "Giả sử đầy mười phương, đều như Xá Lợi
Phất". Ở trước chỉ nói đầy một thế giới, bây giờ nói mười phương thế giới,
tức cũng là ba ngàn đại thiên thế giới, vô lượng vô biên chúng sinh trong cõi
nước mười phương thế giới, đều có trí huệ như Ngài Xá Lợi Phất, song, Xá Lợi
Phất tuy có trí huệ, nhưng chỉ là quyền trí mà chẳng phải thật trí của Phật.
"Và các đệ tử khác". Và các đệ tử khác của chư Phật. "Cũng đầy
mười phương cõi". Cũng đầy khắp mười phương thế giới. "Cũng nghĩ và
độ lượng". Cùng nhau suy nghĩ và độ lượng, dò trí huệ của Phật. "Cũng
chẳng hiểu biết được". Cũng không thể nào hiểu biết được trí huệ chân thật
của Phật, đó là chỉ đệ tử Thanh Văn tiểu thừa.
"Bích Chi Phật lợi trí". Bích Chi Phật là trung thừa, trí huệ của các
Ngài cao sâu hơn Thanh Văn. "Vô lậu thân cuối cùng". Các bậc ấy đã
đắc được vô lậu, tức là lậu tận thông. Chứng quả Bích Chi Phật rồi cũng chẳng
còn thọ báo thân nữa, cho nên đây là báo thân cuối cùng. "Cũng đầy khắp
mười phương". Bích Chi Phật cũng đầy khắp mười phương thế giới. "Số
đông như rừng tre". Hết thảy đều nhất tâm. Nếu như Bích Chi Phật nhiều như
thế cùng nhất tâm. "Trải vô lượng ức kiếp". Trải qua vô lượng vô số
đại kiếp. "Muốn lường Phật thật trí" : Muốn đo lường thật trí của Phật.
"Chẳng thể biết ít phần". Đừng nói biết hết toàn bộ, dù một phần nhỏ
chút ít cũng chẳng cách chi biết được.
"Bồ Tát mới phát tâm, cúng dường vô số Phật". Bồ Tát mới phát tâm đã
từng cúng dường vô số các đức Phật. "Thấu rõ các nghĩa thú". Đối với
đạo lý tông thú của Phật pháp, đều thông đạt vô ngại. "Lại hay khéo nói
pháp". Các Ngài không những thông đạt tất cả nghĩa thú của các pháp, mà còn
khéo thuyết pháp biện tài vô ngại. "Như lúa mè tre lau". Các vị Bồ Tát
mới phát tâm nhiều như lúa, mè, tre, cỏ lau. "Đầy khắp mười phương
cõi". Đầy khắp cõi nước trong mười phương thế giới. "Nhất tâm dùng
diệu trí". Mọi người đều nhất tâm dùng diệu trí huệ. "Trải Hằng sa số
kiếp". Trải qua đại kiếp nhiều như số cát sông Hằng. "Cùng chung nhau
suy lường". Cùng nhau suy lường trí huệ của Phật. "Chẳng biết được Phật
trí". Cũng chẳng thể biết được trí huệ của Phật.
Các Bồ Tát bất thối
Số đông như Hằng sa
Đều nhất tâm suy cầu
Cũng chẳng thể biết được.
Lại nữa Xá Lợi Phất !
Vô lậu chẳng nghĩ bàn
Pháp thâm sâu nhiệm mầu
Ta nay đã được đủ
Chỉ ta biết tướng đó
Mười phương Phật cũng thế.
Xá Lợi Phất nên biết !
Lời chư Phật không khác
Pháp của Phật nói ra
Nên sinh sức tin lớn
Pháp Thế Tôn lâu sau
Cần phải nói chân thật.
Nầy các chúng Thanh Văn !
Và người cầu Duyên Giác
Ta khiến cho thoát khổ
Sớm đắc được Niết bàn.
Phật dùng sức phương tiện
Mở bày ba thừa giáo
Chúng sinh nơi nơi chấp
Dẫn dắt họ ra khỏi.
Các Bồ Tát bất thối, số đông như Hằng sa : Có khi Bồ Tát mới phát tâm cũng thối
thất bồ đề tâm, vì chưa có định lực chân chánh. Những vị Bồ Tát nầy đã chứng
được ba bất thối :
1. Vị bất thối : Quả vị của những Bồ Tát nầy, ở đại thừa khổng thể thối về nhị thừa.
2. Hạnh bất thối : Các Ngài tu hành tinh tấn, chẳng giải đãi.
3. Niệm bất thối : Các Ngài chẳng bao giờ khởi tâm niệm thối chuyển.
Những Bồ Tát nầy nhiều như số cát sông Hằng. "Đều nhất tâm suy cầu".
Đều chuyên tâm nhất chí cùng nghiên cứu trí huệ chân thật của Phật. "Cũng
chẳng thể biết được" : Bồ Tát bất thối vị tuy là bất thối, nhưng vẫn chẳng
đắc được trí huệ chân thật. Các Ngài chỉ có quyền trí, còn trí huệ chân thật
của Phật thì các Ngài không thể biết được.
Phật Thích Ca nói : "Lại nữa Xá Lợi Phất ! Vô lậu chẳng nghĩ bàn, pháp
thâm sâu vi diệu, ta nay đã được đủ". Đây là các pháp thật tướng, trí huệ
chân thật, ta Phật Thích Ca Mâu Ni đã hoàn toàn đắc được, đầy đủ chẳng thiếu
chẳng thừa. Chỉ ta biết tướng đó, mười phương Phật cũng thế.
"Xá Lợi Phất nên biết" ! Đức Phật lại gọi Xá Lợi Phất phải biết.
"Lời chư Phật không khác" : Lời của chư Phật nói đều là dị khẩu đồng âm
nói lời chân thật. Lời của Như Lai là chân, là thật, là như, chẳng hư vọng,
chẳng khác. Cho nên pháp của mỗi vị Phật nói đều như nhau. Trí huệ chân thật
của Phật, chẳng có ai biết được, chỉ có Phật với Phật minh bạch được pháp nầy.
"Pháp của Phật nói ra, nên sinh sức tin lớn". Bạn nên sinh đại tín tâm.
Niềm tin lớn tức là chẳng có tâm nghi hoặc, chỉ có tín tâm, sức tin nầy lớn vô cùng.
Tại sao gọi là sức tin ? Vì Phật pháp như biển cả, bạn muốn vào được chỉ có
niềm tin. Nếu bạn chẳng có sức tin, thì không thể minh bạch đạo lý Phật pháp,
cho nên nói : "Tin là nguồn đạo mẹ công đức". Tin là nguồn gốc của
đạo lý, là mẹ của tất cả công đức. "Nuôi lớn tất cả mầm căn lành",
bạn có niềm tin mới nuôi lớn căn lành được, nếu chẳng có niềm tin, thì căn lành
không thể lớn lên được. Cho nên niềm tin là quan trọng nhất. "Pháp Thế Tôn
lâu sau" : Ta Thế Tôn, lúc ban đầu thành Phật, thì nói Tam Tạng giáo, đây
là bán tự giáo, dùng để giáo hóa Thanh Văn chúng sinh, thế nhưng khi ta nói
pháp, nói đến lúc cuối cùng, thì cần phải nói chân thật. Ta phải nói ra hết tất
cả pháp chân thật giáo hóa Bồ Tát thật trí, chẳng giống như lúc trước nói pháp
phương tiện, bây giờ nói pháp chân thật. Ví như lúc trước bạn có chút mao bệnh,
có thể từ từ trừ, chẳng quan trọng. Bây giờ thì thề nào ? Phải chân thật mà tu
hành, một chút mao bệnh cũng không thể tồn tại. Bạn phải thật thà mà dụng công
tu hành, phát tâm Bồ Tát đại thừa, đừng giống như lúc trước kéo dài ngày giờ.
Kéo dài là gì ? Hôm nay thì đợi ngày mai mới tu hành, ngày mai lại chẳng tu
hành, đợi đến ngày mốt mới tu. Giống như Tôn Giả A Nan, tự cho rằng mình là em
chú bác với Đức Phật, thì Phật sẽ ban cho tam muội, đó là tư tưởng sai lầm. Tu đạo
thì sinh tử của mình tự mình lo, ai ăn người đó no. Sinh tử của bạn chắc chắn
phải tự mìng dụng công tu hành, người khác chẳng cách chi trợ giúp bạn. Phật
nói trợ giúp bạn, đó chỉ là pháp phương tiện, khiến cho chính bạn phát tâm tu
hành. Nếu chính bạn chẳng tu hành, thì cũng giống như người khác ăn cơm bạn
không thể no được. Cho nên phải tự mình cung hành thực tiễn.
"Nầy các chúng Thanh Văn và người cầu Duyên Giác" : Ta nói pháp môn
bốn Diệu Đế, bảo tất cả chúng Thanh Văn. Lại nói pháp mười hai Nhân Duyên, để
giáo hóa đệ tử Duyên Giác thừa. "Ta khiến cho thoát khổ". Tâm từ bi của
Phật, muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều lìa khổ được vui, liễu sinh thoát
tử. Vì vô thường mau chóng, nếu bạn chẳng tu hành thì quỷ vô thường chẳng nể vì,
đợi đến khi nó đến mời bạn đi chầu vua Diêm Vương, thì nó sẽ chẳng nể nang chút
nào. Dù bạn dùng bao nhiêu tiền để mua chuộc quỷ vô thường, kêu nó hoãn lại một
thời gian, để cho bạn sống thêm mấy năm cũng không thể nào được. Quỷ vô thường
chẳng ăn hối lộ, chẳng giống như người nhân gian chúng ta tham quan ô sử, thấy
tiền thì sáng mắt ra, việc gì cũng có thể làm được. Do đó, tiền là thần thông,
bạn có tiền thì việc làm không được cũng làm được ; bạn phạm pháp, cầm tiền đến
thì pháp cũng chẳng phạm. Song, quỷ vô thường chẳng có tâm tham như thế, chúng
chẳng tham tiền. "Sớm đắc được Niết Bàn". Phật dùng sức phương tiện,
mở bày ba thừa giáo : Phật vì một Phật thừa mà mở bày ba thừa. Ba thừa là Thanh
Văn thừa, Duyên Giác thừa và Bồ Tát thừa ; mục đích cuối cùng của ba thừa là Phật
thừa. Mà hiện tại đến lúc cuối cùng ta phải nói Phật thừa pháp chân thật nầy.
"Chúng sinh nơi nơi chấp, dẫn dắt họ ra khỏi" : Một số chúng sinh bất
cứ đến hoàn cảnh nào, thì họ chấp trước vào địa vị đó, mà chẳng di động ; thậm
chí ở trong địa ngục, thì có sự chấp trước về địa ngục ; ở trong súc sinh, thì
có sự chấp trước về súc sinh ; ở trong nhân loại, thì có sự chấp trước về nhân
loại ; ở trong ngạ quỷ, thì có sự chấp trước về ngạ quỷ. Cho nên nói nơi nơi
đều chấp. Nơi nơi tức là bất cứ ở hoàn cảnh nào. Ngũ luân ở gia đình : Anh, em,
cha, mẹ, tổ, ai cũng đều có sự chấp trước ; trong cơ quan chính phủ quốc gia,
mỗi bộ môn, mỗi cấp bậc cũng có chấp trước của họ. Pháp của Phật nói là vì phá
chấp trước của chúng sinh. Tại sao có Phật pháp ? Vì Chúng ta có chấp trước.
Nếu chẳng có chấp trước thì đâu có dùng pháp phá chấp trước.
Bấy giờ, ở trong đại chúng có các vị Thanh Văn A La Hán đã sạch các lậu,
Ngài A Nhã Kiều Trần Như .v.v. , một ngàn hai trăm người và các vị Tỳ kheo, Tỳ
kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, phát tâm cầu Thanh Văn và Bích Chi Phật, ai nấy
đều nghĩ rằng : Hôm nay Đức Thế Tôn vì cớ gì, mà ân cần khen ngợi pháp phương
tiện mà nói như vầy : Pháp của Phật đắc được thâm sâu khó hiểu, lời lẽ nói ra ý
thú khó biết, tất cả Thanh Văn Bích Chi Phật, không thể hiểu biết được. Đức
Phật nói một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng được pháp nầy, đến nơi Niết bàn,
mà nay chẳng biết nghĩa đó như thế nào ?
"Lúc bấy giờ, ở trong đại chúng" : Sau khi Đức Phật nói kệ xong. Đây
là đoạn văn do Ngài A Nan nói khi kết tập Kinh điển, ở trong đại chúng có các
vị Thanh Văn, là những vị tu pháp bốn Diệu đế mà ngộ đạo, thuộc về Thanh Văn
thừa, và vì nghe âm thanh của Phật mà ngộ đạo, cho nên gọi là Thanh Văn thừa. A
La Hán đã sạch các lậu, các lậu đã sạch, tức đắc được lậu tận thông, chẳng còn
ở trong sinh tử nữa, chẳng còn vô minh, phiền não, cũng chẳng còn tất cả tập
khí mao bệnh, tức cũng là vô lậu. Vậy hữu lậu thì thế nào ? Giống như cái bình
lủng lỗ, khi rót nước vào thì chảy ra hết, cũng giống như thân thể chúng ta,
cũng có rất nhiều lỗ, cho nên thân phàm phu gọi là hữu lậu. A La Hán là tiếng
Phạn, dịch là "Ứng cúng", "sát tặc", "vô sinh".
Trong các vị A La Hán, có vị trưởng lão Kiều Trần Như, cũng là tiếng Phạn, dịch
là "Tối sơ giải". Vì sau khi Đức Phật thành đạo, thì trước hết đi đến
vườn Lộc Uyển độ Kiều Trần Như, tiền thân của vị nầy là Vua Ca Lợi ở trong Kinh
Kim Cang. Vì Đức Phật tại nhân địa phát nguyện rằng : "Thành Phật rồi, thì
trước hết độ vua Ca Lợi đã chặt thân thể của Ngài". Cho nên, Ngài thành Phật
rồi, trước hết đi đến vườn Lộc Uyển độ năm vị Tỳ Kheo mà A Nhã Kiều Trần Như là
vị chứng quả A La Hán đầu tiên, cho nên gọi là Tối sơ giải ; và vì Ngài minh
bạch căn tánh bổn lai của Ngài, do đó lại gọi là Giải bổn tế. Một ngàn hai trăm
người. Chúng A La Hán gồm có một ngàn hai trăm người.
"Và các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cận sự nam, cận sự nữ phát tâm Thanh Văn
và Bích Chi Phật". Tỳ Kheo có ba nghĩa : Khất sĩ, bố ma, phá ác. Tỳ Kheo
Ni tức là nữ chúng xuất gia. Cư sĩ nam, cư sĩ nữ tức là những vị ưu bà tắc, ưu
bà di, tại gia gần gũi Tam Bảo, đều phát tâm cầu Thanh Văn và Duyên Giác. Ai
nấy đều nghĩ thế nầy : Bây giờ Đức Thế Tôn vì cớ gì mà khen ngợi pháp phương
tiện ? Ân cần tức là rất hoan hỉ, nói đi rồi nói lại. Ở trước, Phật dùng trường
hàng để tán thán, tiếp theo lại dùng kệ để tán thán, cho nên gọi là ân cần, tức
cũng rất trịnh trọng đại đạo lý sẽ được nói ra, tơ hào chẳng cẩu thả, dùng mỗi
phương thức để nói lại. Mà nói như vầy : "Pháp của Phật đắc được thâm sâu
khó hiểu, lới lẽ nói ra, ý thú khó biết". Lúc đó, các chúng đệ tử vừa nói
ở trên đều nói như vầy : Pháp của Phật đắc được vi diệu không thể nghĩ bàn,
pháp của Phật diễn nói ý nghĩa, lý thể cũng rất khó hiểu. "Tất cả Thanh
Văn, Bích Chi Phật không thể hiểu biết được". Tất cả hàng Thanh Văn và
Bích Chi Phật đều không thể minh bạch đạo lý nầy. "Phật nói một nghĩa giải
thoát" : Trước kia Phật nói giáo nghĩa giải thoát bậc nhất. "Chúng ta
cũng được pháp đó" : Chúng ta hàng Thanh Văn cũng hoàn toàn đắc được đạo
lý nghĩa giải thoát nầy. "Đến nơi Niết Bàn" : Nếu y pháp tu hành thì
tương lai sẽ đắc được quả vị Niết Bàn. "Mà chẳng biết nghĩa đó như thế nào
?" Thế nhưng hiện tại Phật lại nói, lúc trước pháp nói ra chẳng cứu kính,
chẳng triệt để, pháp nói lúc trước là quyền pháp, chẳng phải là thật pháp ;
pháp nói lúc trước là quyền trí mà chẳng phải là thật trí. Bây giờ Phật nói như
thế, khiến cho chúng ta chẳng biết nghĩa lý đó cứu kính đáo để là gì ? Bây giờ chúng
ta đều sinh ra nghi hoặc. Lẽ nào pháp của Phật nói trước kia là sai chăng ?
Pháp nói bây giờ là đúng chăng ? Dù là sai, chúng ta cũng đều đã đắc được sơ
quả, nhị quả, tam quả và tứ quả. Bây giờ lại nói pháp của Phật nói trước kia không
đúng, vậy quả vị đã chứng lẽ nào cũng đều là giả chăng ? Bốn chúng đều có nghi
vấn lớn như thế !
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất biết tâm nghi của bốn chúng, chính mình cũng chưa rõ,
mới bạch Đức Phật rằng : Đức Thế Tôn ! Vì nhân duyên gì, mà ân cần khen ngợi
pháp phương tiện bậc nhất của chư Phật, thâm sâu nhiệm mầu khó hiểu ? Con từ
xưa đến nay, chưa từng nghe Đức Phật nói như thế. Nay bốn chúng thảy đều có tâm
nghi, ngưỡng mong đức Thế Tôn diễn nói việc đó. Vì sao đức Thế Tôn ân cần ngợi
khen, pháp thâm sâu nhiệm mầu khó hiểu ?
Khi đó, Ngài Xá Lợi Phất muốn thuật lại nghĩa nầy mà nói ra bài kệ.
Ở trong hàng Thanh Văn, người có trí huệ bậc nhất là Ngài Xá Lợi Phất. Ngài
biết bốn chúng có tâm nghi, khi đức Phật hiển hiện những cảnh giới nầy, chính
Ngài cũng chưa rõ. Mới bạch Phật rằng : "Đức Thế Tôn ! Vì nhân duyên gì mà
ân cần khen ngợi pháp phương tiện bậc nhất của chư Phật thâm sâu vi diệu khó
hiểu" ? Đức Thế Tôn ! Vì nhân duyên gì mà Ngài nay lại tán thán pháp thâm
sâu vi diệu của chư Phật ba đời ? Ba đời chư Phật là quá khứ, hiện tại và vị
lai. "Con từ xưa đến nay" : Con Xá Lợi Phất đã theo Phật hơn bốn mươi
năm.
Từ chữ xưa nầy, có thể biết Ngài Xá Lợi Phất thường theo Đức Phật nghe pháp
nghe Kinh thời khắc chẳng lìa. "Chưa từng nghe Đức Phật nói như thế"
: Con chưa từng nghe Đức Phật nói thận trọng như thế, khen ngợi lại khen ngợi,
tán thán lại tán thán, trân trọng ân cần nói pháp như thế. "Nay bốn chúng
thảy đều có tâm nghi" : Bây giờ bốn chúng đệ tử đều có tâm nghi hoặc,
chẳng biết y vào pháp môn nào mà tu trì. "Ngưỡng mong Đức Thế Tôn diễn nói
việc đó". Mong Đức Thế Tôn phân tích nói tỉ mỉ, khiến cho chúng con đừng
đi vào con đường rẽ. Vì sao Đức Thế Tôn ân cần ngợi khen pháp thâm sâu vi diệu
khó hiểu. "Khi đó, Ngài Xá Lợi Phất muốn thuật lại nghĩa nầy mà nói bài
kệ". Lúc đó, Ngài Xá Lợi Phất lại dùng kệ để thưa hỏi Đức Thế Tôn Thích Ca
Mâu Ni.
Đấng Huệ Nhật Đại Thánh
Lâu mới nói pháp nầy
Tự nói được như thế
Lực vô úy tam muội.
Thiền định giải thoát thảy
Pháp không thể nghĩ bàn
Pháp chứng nơi đạo tràng
Chẳng ai có thể hỏi.
Tâm con khó dò được
Cũng chẳng ai hỏi được
Chẳng hỏi mà tự nói
Khen ngợi đạo mình hành.
Trí huệ sâu vi diệu
Chỗ đắc của chư Phật
Các La Hán vô lậu
Và người cầu Niết bàn.
Nay đều sa lưới nghi
Vì sao Phật nói thế ?
Những người cầu Duyên Giác
Tỳ kheo Tỳ kheo ni.
Các trời rồng quỷ thần
Và Càn thát bà thảy
Nhìn nhau ôm lòng nghi
Chiêm ngưỡng Đấng Lưỡng Túc.
Việc đó như thế nào ?
Xin Phật hãy giải nói.
"Đấng Huệ Nhật Đại Thánh, lâu mới nói pháp nầy". Huệ là trí huệ, nhật
là mặt trời, ví dụ trí huệ của đức Phật như ánh sáng mặt trời. Là Thiên Trung
Thiên, Thánh Trung Thánh, cho nên gọi là Đấng Đại Thánh. Trước kia khi Phật
chưa ra đời, thì thế giới chẳng có Phật pháp, giống như chẳng có ánh sáng mặt
trời, Chúng sinh đều ở trong đen tối. Khi Phật ra đời, thì giống như mặt trời
mọc cao ở trong hư không, chiếu phá tất cả đen tối. Vì khi Phật chưa ra đời,
thì người thế gian chẳng rõ chân lý. Chẳng phải chẳng có chân lý, mà là chẳng
có ai minh bạch chân lý. Chân lý vốn chẳng đến cũng chẳng đi, chỉ vì chúng sinh
đã trầm mê quá lâu, lại chẳng có bậc trí đến chỉ bày, cho nên chẳng biết chân lý
sở tại. Thế thì chúng sinh trầm mê vào đâu ? Tức là trầm mê ở trong năm dục :
Sắc, thanh, hương, vị, xúc, gọi là năm trần, còn gọi là năm dục.
Sắc trần : Phàm là vật có hình tướng đều gọi là sắc. Như một số người tham trước sắc đẹp, nhìn chẳng thủng sắc trần, cho nên say đắm ở trong sắc trần.
Thanh trần : Thích nghe âm nhạc, thích nghe ca hát, hoặc thích nghe tiếng chim hót, hoặc thích nghe lời mềm mại dịu dàng ngon ngọt, đó đều là đắm say ở trong thanh trần.
Hương trần : Cũng là một thứ dục vọng của con người, ăn vật nầy thì cảm thấy chẳng có hương thơm của vật kia, ăn đồ béo xong thì muốn thay đổi khẩu vị khác, ăn xong khẩu vị nầy, lại muốn đổi khẩu vị khác, thay đổi không ngừng, chẳng khi nào ngừng sự tham trước. Tóm lại, chúng sinh cũng say đắm trong hương trần chẳng tỉnh, giống như uống rượu say không khác.
Vị trần : Tức là mùi vị. Hôm nay muốn ăn cá, mai muốn ăn gà, mốt muốn ăn vịt, ăn xong thịt bò, thì cảm thấy thèm ăn thịt dê, ăn xong thịt dê, thì thèm ăn thịt heo, ăn thứ gì lâu ngày thì sẽ sinh chán, không thể đầy đủ. Đó đều là do tham dục mà sinh ra thực dục, khiến cho chúng sinh trầm mê ở trong vị trần, mà chẳng cách chi tự cứu.
Xúc trần : Tức là thích tiếp xúc vật trơn nhẵn lán mịn, thậm chí giữa nam nữ đều hổ tương tham trước xúc trần, như hãm vào bùn lầy sâu thẳm, càng hãm càng sâu, chẳng cách chi tự cứu.
Năm dục chẳng dễ gì phá được, cho nên kẻ ngoại đạo thuận
theo năm dục để thuyết pháp, chẳng thể khiến cho chúng sinh tỉnh ngộ. Chúng
sinh chẳng khác nào đi vào con đường chết đen tối, chẳng cách chi ra khỏi, cũng
chẳng biết lối ra. Đến khi Phật ra đời, thì mới giống như mặt trời chiếu phá
đen tối, cho nên Ngài Xá Lợi Phất nói : "Đấng Huệ Nhật Đại Thánh".
"Lâu mới nói pháp nầy". Phật từ lâu xa chẳng nói pháp nầy. Trước kia
nói pháp đều là quyền pháp, quyền trí, mà chẳng nói thật trí. Bây giờ mới nói
trí huệ chân thật cho mọi người nghe.
"Tự nói được như thế, lực vô úy tam muội, thiền định giải thoán thảy, pháp
không thể nghĩ bàn". Đức Phật diễn nói thật trí nầy, thì trước hết nói
chính Ngài đã chứng được pháp như vậy, tức mười trí lực, bốn vô sở úy và đủ thứ
thần thông tam muội, còn có bốn thiền, tám định, tám giải thoát .v.v., pháp không
thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời luận bàn. "Pháp chứng nơi đạo
tràng, chẳng ai có thể hỏi". Phật tu đạo đắc được pháp vi diệu đó là thật
trí, chẳng phải là quyền trí, cho nên Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát quyền
thừa, đều chẳng minh bạch thật trí, cũng chẳng có ai có thể hỏi được. "Tâm
con khó dò được" : Pháp nầy chỉ có Đức Phật mới minh bạch được, thâm sâu
không thể dò lường được, cho nên cũng chẳng ai hỏi được. "Chẳng hỏi mà tự
nói" : Chẳng có ai hỏi, mà Đức Thế Tôn tự nói pháp nầy. "Khen ngợi
đạo mình hành" : Tán thán khen ngợi đạo của Phật thực hành. "Trí huệ
sâu vi diệu" : Trí huệ chân thật của Phật thâm sâu vi diệu. "Chỗ đắc
của chư Phật" : Chỉ có mười phương chư Phật và Phật Thích Ca mới minh bạch
được trí huệ nầy. "Các La Hán vô lậu" : Tuy nhiên các bậc Thanh Văn
La Hán đắc được vô lậu, và người cầu Niết Bàn, và quyền thừa Bồ Tát cầu được
Niết Bàn, hoặc Bích Chi Phật .v.v. "Nay đều sa lưới nghi". Bây giờ
mọi người đều sinh nghi hoặc, thì có chướng ngại cho sự tu đạo, do đó người tu
đạo chớ có nghi, nếu khởi tâm nghi tức rơi vào đường mê. "Vì sao Phật nói
thế, những người cầu Duyên Giác, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, các trời, rồng, quỷ thần và
Càn Thát Bà thảy, nhìn nhau ôm lòng nghi. Tại sao Phật nói pháp nầy" ?
Chẳng những một số người hồ nghi không tin, mà thậm chí các bậc Duyên Giác, hai
chúng xuất gia, tất cả trời, rồng hộ pháp, tám bộ quỷ thần .v.v… đều nhìn nhau
ôm lòng nghi. Bạn nhìn tôi, tôi nhìn bạn, ai nấy đều chẳng minh bạch.
"Chiêm ngưỡng Đấng Lưỡng Túc" : Bây giờ mọi người đều chiêm ngưỡng
Đức Phật mắt chẳng tạm rời. Đấng Lưỡng Túc, Lưỡng Túc là gì ? Lưỡng là hai, là
chỉ phước và huệ. Túc là đầy đủ, tức là phước huệ đầy đủ viên mãn, cho nên gọi
là Lưỡng Túc Tôn. Đức Phật Thích Ca tam kỳ tu phước huệ. Trải qua thời gian ba
đại A Tăng Kỳ kiếp tu phước tu huệ. Bách kiếp chủng tướng hảo. Trong một trăm đại
kiếp về trước tu ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp. A Tăng Kỳ là gì ? Tức
là vô lượng số, không thể tính ra được số mục. Đoạn thời gian dài nầy Phật tu
phước tu huệ. Tu phước thì cúng dường Tam Bảo, gần gũi chư Phật, cúng dường
Phật, Pháp, Tăng, cúng dường Bồ Tát, cúng dường Bích Chi Phật, cúng dường A La
Hán. Chẳng những cúng dường một vị, mà là cúng dường vô lượng vô số Phật, Pháp,
Tăng .v.v. Tu huệ thì trước phải giữ giới. Tại sao ? Vì trước hết giữ giới, mới
do giới mà sinh định, do định mà phát huệ. Định lực tức là chẳng bị cảnh giới chuyển,
đối với cảnh thiện, ác đều chẳng động tâm. Cảnh thiện tức là thuận cảnh, cảnh ác
tức là nghịch cảnh. Thuận nghịch, khen chê, đều chẳng động tâm, đó tức là có
định lực, có định lực mới có huệ lực, cho nên Đức Phật vừa tu phước vừa tu huệ.
Tu huệ thì phải học Kinh điển, nếu chẳng học Kinh điển thì trí huệ không thể
tăng trưởng. Học Kinh, Luật, Luận ba tạng thì sẽ sinh huệ. Nếu chỉ tu phước mà
chẳng tu huệ, thì tương lai được kết quả gì ? Tu phước chẳng tu huệ, thân voi
mang chuỗi anh lạc. Tương lai làm voi vừa cao vừa to lớn, lại có sức mạnh, thân
mang châu báu, chẳng có trí huệ. Tu huệ chẳng tu phước, La Hán ôm bát không. Cứ
học Kinh điển nhưng chẳng làm việc thiện, chẳng trồng căn lành. Làm việc thiện
tức là không làm các điều ác, hãy làm các việc lành. Nếu bạn nói : Tôi nghiên
cứu Kinh điển là tốt rồi, tại sao phải làm việc thiện, phải giúp đỡ người ? Thế
thì tương lai bạn chứng quả A La Hán, đi hóa duyên chẳng có ai cúng dường. Tại
sao ? Vì tại nhân địa chẳng tu phước, thì tại quả địa chẳng có phước. Tôi thường
nói :
"Chịu khổ thì hết khổ,
Hưởng phước thì hết phước.
Tại sao bạn phải chịu khổ ? Vì quá khứ bạn chẳng tu phước, cho nên phải chịu khổ.
Khổ nầy nếu bạn chịu được nó thì mới dứt được. Nếu bạn chẳng chịu khổ, thì khổ
nầy vẫn tồn tại. Nếu bạn có một chút phước báo, nhưng suốt ngày đến tối cứ nói
việc hưởng thụ, ở nhà tốt, ăn vật ngon, mua quần áo đẹp, chạy xe mới, thậm chí
đi du lịch bằng máy bay, đó đều là đang tiêu mòn phước báo, bạn hưởng hết phước
thì chẳng còn phước, thì phải chịu khổ. Vậy Đức Phật thì sao ? Ngài vừa tu phước
vừ tu huệ, phước huệ đều tròn đầy, cho nên gọi là phước huệ Lưỡng Túc Tôn. "Việc
đó như thế nào ? Xin Phật hãy giải nói" : Mọi người đều khẩn cầu đức Phật
nói ra ý nghĩa đó.
Trong hàng chúng Thanh Văn
Phật nói con hạng nhất.
Nay con nương trí mình
Nghi hoặc chẳng hiểu được
Đâu là pháp cứu kính
Đâu là đạo Phật hành ?
Con từ miệng Phật sinh !
Chắp tay chiêm ngưỡng chờ
Xin nói pháp vi diệu
Liền vì nói như thật.
Các trời rồng thần thảy
Số đông như Hằng sa
Các Bồ Tát cầu Phật
Số nhiều đến tám vạn.
Và vạn ức cõi nước
Chuyển luân thánh vương đến
Chắp tay lòng cung kính
Muốn nghe đạo đầy đủ.
"Trong hàng chúng Thanh Văn, Phật nói con hạng nhất" : Ở trong hàng
chúng Thanh Văn, Phật nói con Xá Lợi Phất, là người có trí huệ đệ nhất.
"Nay con nương trí mình, nghi hoặc chẳng hiểu được". Tuy con là trí
huệ đệ nhất, nhưng cũng nghi hoặc chẳng hiểu ? "Đâu là pháp cứu kính"
: Cứu kính thì pháp nào là pháp cứu kính ? Là vì pháp cứu kính vi diệu thâm
sâu. "Đâu là đạo Phật hành" : Và đâu mới là đạo bồ đề viên mãn của
Như Lai tu ? "Con từ miệng Phật sinh" : Tất cả Bồ Tát là chân tử của
Phật, từ miệng Phật sinh ra. "Chắp tay chiêm ngưỡng chờ" : Đều chắp
tay lại, chiêm ngưỡng đức Phật mắt chẳng tạm rời, đợi Phật nói pháp thâm sâu vi
diệu, trí huệ chân thật. "Xin nói pháp vi diệu, liền vì nói như thật".
Bây giờ mọi người đều mong đợi Đức Thế Tôn ban pháp âm vi diệu, đạo lý chân thật.
"Các trời, rồng, thần thảy, số đông như Hằng sa, các Bồ Tát cầu Phật, số nhiều
đến tám vạn" : Thiên, Long bát bộ số đông như số cát sông Hằng, còn có các
vị Bồ Tát cầu Phật đạo, đông nhiều đến tám vạn. "Và vạn ức cõi nước,
Chuyển luân thánh vương đến" : Và tất cả hàng vạn ức cõi nước khác, có các
vị Chuyển luân thánh vương đều đến. Chuyển luân thánh vương lại phân ra Kim luân
vương, Ngân luân vương, Đồng luân vương, Thiết luân vương. "Chắp tay lòng
cung kính, muốn nghe đạo đầy đủ". Mọi người đều chắp tay lại, cung kính
muốn nghe Đức Thế Tôn diễn nói nghĩa lý chân thật đầy đủ viên mãn vô thượng bồ
đề đại đạo của đức Phật tu.
Bấy giờ, Đức Phật bảo Xá Lợi Phất : Thôi đi ! Thôi đi ! Đừng nói nữa. Nếu
nói việc đó, thì tất cả trời, người thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ.
Xá Lợi Phất lại bạch Phật rằng : Đức Thế Tôn ! Cúi xin nói cho, cúi xin nói cho
! Vì sao ? Vì vô số trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ chúng sinh, đã từng gặp các đức
Phật, các căn đều lanh lợi, trí huệ sáng suốt, nghe đức Phật nói chắc sẽ cung
kính tin nhận.
"Lúc bấy giờ, Phật bảo Xá Lợi Phất : Thôi đi ! Thôi đi ! Đừng nói
nữa" : Đây là pháp không thể nói, không cần nói. "Vì sao ? Nếu nói
việc đó, thì tất cả trời, người thế gian, đều sẽ kinh sợ nghi ngờ" : Người
ở trên trời và người ở nhân gian đều sẽ kinh sợ hoài nghi. Tại sao ? Nếu bạn
nói pháp phương tiện quyền xảo, thì họ tin sâu chẳng nghi hoặc, nếu bạn nói
pháp chân thật thì họ chẳng tin. Ví như bạn kêu họ đừng có tâm dâm dục thì họ nói
: chẳng có tâm dâm dục thì còn có ý nghĩa gì ? Mọi người đều sinh ra tâm nghi hoặc,
vì họ cho rằng thứ hành vi đó là khoái lạc nhất. "Xá Lợi Phất lại bạch
Phật rằng" : Đức Phật vốn chẳng muốn nói pháp nầy, chẳng nói bộ Kinh Pháp
Hoa nầy, nhưng Ngài Xá Lợi Phất nài nỉ khẩn cầu Đức Phật nhất định phải nói,
đây gọi là thỉnh pháp. Giảng Kinh vốn phải có người thỉnh pháp mới giảng, bất
quá ở những nơi chẳng hiểu Phật pháp, nếu phải đợi người thỉnh, thì dù đợi đến
năm sáu năm, cũng chẳng có người thỉnh.
"Đức Thế Tôn ! Cúi xin nói cho, cúi xin nói cho" : Ngài Xá Lợi Phất
lại gọi Đức Thế Tôn hãy nói cho. "Xin vì đại chúng mà diễn nói diệu pháp !
Xin vì đại Chúng mà nói diệu pháp" ! Do đó, thỉnh pháp tổng cộng có ba lần,
đó là biểu thị khẩn thiết chí thành, nhất tâm cầu pháp. Vì sao ? Tại sao phải
ba lần thỉnh Phật nói pháp nầy ? Vì vô số trăm ngàn vạn ức A Tăng Kỳ chúng
sinh. "Trong pháp hội nầy có vô lượng vô số chúng sinh. Đã từng gặp các Đức
Phật" : Trong quá khứ họ đã từng gặp các Đức Phật, bây giờ cũng gặp được
Đức Thế Tôn. "Các căn lanh lợi" : Căn tính của họ đều lanh lẹ thông
minh phi thường. "Trí huệ sáng suốt" : cũng đều có trí huệ. Nghe pháp
của Phật nói, chắc sẽ cung kính tin nhận. Nếu Phật nói ra chắc chắn họ đều sinh
tín tâm, thỉnh Phật từ bi diễn nói pháp thâm sâu vi diệu nầy.
Khi đó, Ngài Xá Lợi Phất muốn thuật lại nghĩa nầy, mà nói ra bài kệ :
Đấng Pháp Vương vô thượng
Xin nói chớ do dự
Vô lượng chúng trong hội
Có người sẽ kính tin.
Lúc đó, Ngài Xá Lợi Phất vì biểu thị sự khẩn thiết chí thành thỉnh pháp của
Ngài, mới dùng kệ thuật lại ý nghĩa trường hàng ở trên. "Đấng Pháp Vương
Vô Thượng" : Chỉ có Phật là bậc tôn kính nhất của thế gian và xuất thế gian.
"Xin nói chớ do dự" : Hy vọng Đức Thế Tôn nói pháp nầy, đừng do dự.
"Vô lượng chúng trong hội, có người sẽ kính tin". Vì ở trong đại hội
nầy, tất có người có thể tiếp nhận cung kính thọ trì.
Đức Phật lại bảo Xá Lợi Phất : Thôi đi ! Nếu nói việc đó, thì tất cả thế
gian trời, người, A tu la đều sẽ kinh sợ nghi hoặc, Tỳ kheo tăng thượng mạn sẽ
sa vào hầm lớn.
Lúc đó, Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Thôi thôi đừng nên nói
Pháp ta diệu khó nghĩ
Những kẻ tăng thượng mạn
Nghe tất chẳng kính tin.
Ở trước Phật đã hai phen bảo Ngài Xá Lợi Phất : Thôi đi ! Lần nầy là lần thứ ba.
Tại sao nói thôi đi ? "Nếu nói việc đó thì tất cả thế gian trời, người, A
Tu La đều sẽ kinh sợ nghi hoặc ; không những trời, người .v.v., đều sẽ kinh sợ
nghi hoặc, Tỳ Kheo tăng thượng mạn sẽ sa vào hầm lớn" : Ở trong hội có
những Tỳ Kheo cống cao ngã mạn, tự cho rằng họ đệ nhất, họ sẽ đọa vào hầm lớn. Đó
là bệnh thông thường của con người, ỷ có chút thông minh, chẳng phải là trí huệ
cứu kính, khua môi múa mỏ đi khắp nơi khoe khoang mình là đệ nhất. Người thật
có trí huệ thì họ giữ kín chẳng để cho người biết. Thế thì đó chẳng phải là tâm
tham chăng ? Chẳng phải, sáng lạng mà chẳng lộ ra bên ngoài, là vì phòng ngừa
tâm cống cao ngã mạn. Cống cao tức là tự xem mình hơn người, cảm thấy ưu tú hơn
bất cứ ai. Ví như : Người da vàng thì cho người da vàng ưu tú, người da trắng
thì cho rằng người da trắng ưu tú, người da đen thì cho rằng người da đen ưu
tú, đó là một thứ biểu hiện cống cao ngã mạn. Lời xưa có nói : "Mãn chiêu
tổn, khiêm thọ ích". Một khi mình khởi tâm kiêu ngạo, thì sẽ có chướng
ngại trên đường học vấn, vì không thể nào tiếp thọ học được những gì hay của
người khác, người chưa học Phật pháp, thì chẳng thông đạt Phật lý, càng không
nên không nên có tâm cống cao.
Có những người thiên tài xuất chúng, thông minh hơn người, bất cứ xem Kinh, tụng
Kinh đều nhanh chóng hơn người khác, nhưng y rất dễ sinh ra tâm tự mãn, cho
rằng mình thành Phật cũng sẽ nhanh hơn người. Loại người nầy nên nhớ đừng có
tâm kiêu ngạo.
Hiện tại Đức Phật nói : "Tỳ Kheo tăng thượng mạn". Họ cho rằng pháp
gì họ cũng đều hiểu hết, song hậu quả của họ không thể tưởng tượng được.
"Sẽ xa vào hầm lớn" : Hầm lớn tức là ba đường ác : súc sinh, ngạ quỷ,
địa ngục.
"Lúc đó, Đức Phật lại dùng kệ để trả lời Ngài Xá Lợi Phất" : Thôi
thôi đừng nên nói, pháp ta diệu khó lường, những người tăng thượng mạn nghe tất
chẳng kính tin. Pháp thâm sâu vi diệu nầy của ta nói ra, rất khó có người tin
nhận, nhất là những người tăng thượng mạn càng chẳng cung kính tin nhận.
Khi đó, Ngài Xá Lợi Phất lại bạch Phật rằng : Đức Thế Tôn ! Cúi xin nói cho,
cúi xin nói cho, nay trong hội nầy, những người như con, có hàng trăm ngàn vạn
ức, các vị đó đời đời kiếp kiếp, đã từng tiếp thọ sự giáo hóa của Phật. Những
người nầy tất sẽ cung kính tin nhận, lâu dài sẽ an ổn, sẽ đắc được nhiều lợi
ích.
Lúc đó, Ngài Xá Lợi Phất muốn
thuật lại nghĩa nầy, bèn nói ra bài kệ :
Đấng Vô Thượng Lưỡng Túc
Xin nói pháp bậc nhất
Con là trưởng tử Phật
Cúi xin phân biệt nói.
Vô lượng chúng hội nầy
Sẽ kính tin pháp nầy
Phật đời đời đã từng
Giáo hóa chúng như thế.
Đều một lòng chấp tay
Muốn nghe lời Phật nói
Chúng con ngàn hai trăm
Và người cầu Phật kia.
Xin vì đại chúng nầy
Cúi xin phân biệt nói
Chúng con nghe pháp nầy
Chắc sinh vui mừng lớn.
Lúc đó, Ngài Xá Lợi Phất lại ba lần hai lược khẩn cầu Đức Phật nói :"Đức
Thế Tôn ! Cúi xin nói cho, cúi xin nói cho. Nay trong hội nầy người như con có
hàng trăm ngàn vạn ức, các vị đó đời đời kiếp kiếp đã từng tiếp thọ sự giáo hóa
của Phật. Những người nầy tất sẽ kính tin." Trong pháp hội nầy, những người
như con, tức là những Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ .v.v., đã từng trải
qua trăm vạn kiếp, đời đời kiếp kiếp, đều tiếp thọ sư giáo hóa của Phật. Nhiều
đời nhiều kiếp, Phật đã độ các hữu tình, họ cũng phát nguyện, đời đời kiếp kiếp
thường theo học Phật. Phật làm Tỳ Kheo thì những người nầy đã quy y Phật, làm
đệ tử của Phật. Khi Phật chứng đắc sơ quả A La Hán, thì họ đều nương theo Phật xuất
gia, khi Phật chứng nhị quả thì họ phát nguyện theo Phật tu hành, Phật dùng tâm
từ bi để nhiếp hóa họ. Đến khi Phật thành Phật rồi thì những đệ tử nầy đều
chứng đắc quả vị A La Hán, đời đời kiếp kiếp theo bên trái bên phải của Phật.
"Những đệ tử nầy chắc chắn sẽ kính tin pháp vi diệu của Phật nói. Lâu dài sẽ
an ổn, sẽ được nhiều lợi ích". Nếu nghe được Phật nói pháp nầy, thì lâu
dần sẽ chẳng sợ sệt, thâm tâm yên ổn đắc được rất nhiều lợi ích.
Khi tôi ở tại Đông Bắc Trung Quốc, và Hương Cảng, có những đệ tử đối với tôi niềm
tin rất thâm sâu, bất cứ tôi nói gì họ cũng đều tin sâu chẳng nghi ngờ, khiến
cho những người đời nầy quy y lần đầu tiên, hoặc đã quy y hai đời, ba đời, bốn
đời, năm đời, thì tín tâm càng vững vàng. Nếu người nào đã quy y nhiều đời thì tín
tâm của họ kiên cố kiền thành, đối với Phật pháp tin sâu chẳng nghi ngờ.
Tuy Ngài Xá Lợi Phất nói trong hội có người tất sẽ kính tin, nhưng khi Phật
đang muốn nói diệu pháp nầy thì trong đại chúng có năm ngàn người bỏ đi, đó
giống như đãi gạo, bỏ hết trấu chỉ còn lại gạo. "Lúc đó, Ngài Xá Lợi Phất
muốn thuật lại nghĩa nầy mà nói kệ : Đấng Vô Thượng Lưỡng Túc, xin nói pháp bậc
nhất." Muốn thỉnh Đức Thế Tôn đấng phước huệ đều viên mãn diễn nói diệu
pháp độc nhất không hai nầy. "Con là trưởng tử của Phật, cúi xin phân biệt
nói". Con Xá Lợi Phất là đại đệ tử ThanhVăn của Phật, nay cung thỉnh Đức
Thế Tôn phân biệt giải nói tỉ mỉ. "Vô lượng Chúng hội nầy, sẽ kính tin
pháp nầy, Phật đời đời đã từng, giáo hóa chúng như thế". Các vị ấy đã
nhiều đời nhiều kiếp, đã chịu ơn của Phật pháp, cho nên nhất định sẽ tin nhận.
"Đều một lòng chắp tay, muốn nghe lời Phật nói, chúng con ngàn hai trăm,
và người cầu Phật pháp, xin vì đại chúng nầy, cúi xin phân biệt nói". Một
ngàn hai trăm vị Thanh Văn ở trong đại hội nầy, và Bích Chi Phật, Bồ Tát quyền thừa
đều khát ngưỡng Đức Thế Tôn diễn nói diệu pháp nầy. "Chúng con nghe pháp
nầy, chắc sinh vui mừng lớn". Nếu Chúng con nghe diệu pháp nầy, thì chắc
chắn vui mừng nhảy nhót.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Ngài Xá Lợi Phất : Ông đã ân cần ba phen thỉnh cầu,
lẽ nào không nói, ông hãy lóng nghe và khéo suy xét. Ta sẽ vì ông phân biệt
giải nói.
Đức Phật vừa nói lời nầy xong, thì trong hội có các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư
sĩ nam, cư sĩ nữ, cả thảy năm ngàn người, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật rồi
đi. Vì sao ? Vì những người nầy tội căn sâu nặng, và những người tăng thượng
mạn, chưa được mà nói đã được, chưa chứng mà nói đã chứng, có lỗi như thế, cho
nên chẳng ở lại. Đức Thế Tôn yên lặng chẳng ngăn cản họ.
Lúc đó, Đức Phật nói với Ngài Xá Lợi Phất : Nay chúng của ta đây chẳng còn cành
lá, chỉ thuần có chân thật. Xá Lợi Phất ! Những người tăng thượng mạn như thế,
đi về cũng tốt. Nay ông hãy khéo lóng nghe, ta sẽ vì ông mà nói.
Ngài Xá Lợi Phất nói : Thưa vâng, Đức Thế Tôn, con thích muốn được nghe.
Lúc đó, Đức Thế Tôn bị Ngài Xá Lợi Phất thành tâm khẩn thiết thỉnh cầu mà cảm
động, cho nên nói :"Con đã ân cần ba phen thỉnh cầu, lẽ nào chẳng
nói." Ta làm sao mà chẳng nói ? Con hãy lắng nghe và khéo suy xét. Ta sẽ
vì con mà phân biệt giải nói. Con phải chuyên tâm nhất chí, lóng nghe, bây giờ
ta sẽ vì các con mà giải nói cặn kẽ.
"Nói lời nầy xong, thì trong hội có các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư
sĩ nữ, cả thảy năm ngàn người, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật mà lui
đi". Lúc đó có năm ngàn người lui về. "Vì sao ? Vì những người đó tội
căn sâu nặng và những kẻ tăng thượng mạn chưa được mà nói đã được, chưa chứng
mà nói đã chứng, có lỗi như thế, cho nên chẳng ở lại". Tại sao họ phải lui
đi ? Vì tội chướng của họ quá nặng, phước mỏng huệ cạn, cho nên không thể ở lại
trong hội nầy, để nghe diệu pháp vô thượng. Mao bệnh của những người nầy là tăng
thượng mạn, tự mình chưa đắc pháp mà nói đã đắc được pháp, tự mình chưa chứng
quả vị A La Hán mà nói đã chứng được, tự mình chưa chứng được trí huệ chân
thật, mà nói đã chứng được, do đó những người nầy chẳng có duyên nghe được Kinh
Pháp Hoa.
"Đức Thế Tôn yên lặng mà chẳng ngăn cản họ" : Phật cũng chẳng ngăn
cản họ, kêu họ đừng đi. "Lúc đó, Đức Phật nói với Ngài Xá Lợi Phất : Nay
Chúng của ta đây chẳng còn cành lá, chỉ thuần có chân thật". Phật nói
những người vừa mới lui đi, là cành lá tạp nhạp, cũng là vỏ bẹ bên ngoài. Bây
giờ những người còn lại toàn là những người có căn lành, có phước huệ, có thuần
chân tín tâm thanh tịnh. Năm ngàn người lui đi là vì tâm của họ chẳng thành. Ví
như, tôi có hai vị đệ tử, sau lần thọ giới thì chạy đi mất, tình hình cũng giống
như năm ngàn người lui đi. Sau đó, anh em hai người đó đi khắp nơi nói dối
người đời, nói chúng đã khai ngộ. Đó thật là tự lừa dối người.
"Xá Lợi Phất ! Những kẻ tăng thượng mạn tự bỏ đi cũng là tốt." Họ bỏ
đi cũng tốt, tránh sự ảnh hưởng đến người khác, khiến cho người khác xấu theo.
"Nay ông hãy lóng nghe, ta sẽ vì ông mà nói" : Bây giờ ông hãy nghe
cho kỹ, ta sẽ vì ông mà nói pháp. Xá Lợi Phất nói : "Thưa vâng, Đức Thế
Tôn ! Con rất thích muốn nghe". Ngài Xá Lợi Phất và đại chúng đều vui mừng
chờ đợi Phật nói pháp.
Đức Phật bảo Xá Lợi Phất ! Diệu pháp như thế, khi đúng thời thì chư Phật Như
Lai mới nói. Như hoa Ưu đàm bát, đúng thời mới hiện. Xá Lợi Phất ! Các ông nên
tin lời của Phật nói, chẳng có hư vọng. Xá Lợi Phất ! Chư Phật tùy nghi nói
pháp ý thú khó hiểu. Vì sao ? Ta dùng vô số phương tiện, đủ thứ nhân duyên lời
lẽ thí dụ, để diễn nói các pháp, pháp đó chẳng phải suy lường phân biệt mà hiểu
được, chỉ có chư Phật mới biết được. Vì sao ? Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại
sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời.
Phật bảo Xá Lợi Phất ! Diệu pháp như thế, khi đúng thời thì chư Phật Như Lai mới
nói : Diệu pháp nầy chẳng phải bất cứ lúc nào cũng nghe được, phải đợi đến khi
nhân duyên chín mùi thì mới nói. Diệu pháp nầy có một ví dụ. Ví dụ gì ? Ví dụ
hoa Ưu Đàm Bát đúng thời mới hiện. Thứ hoa nầy chỉ nở trong thời gian rất ngắn
thì tàn, cho nên rất trân quý ít có. Hiện tại thứ hoa nầy và diệu pháp nầy đều
ít có như nhau. "Xá Lợi Phất ! Các ông nên tin lời của chư Phật nói chẳng
có hư vọng." Lời lẽ của Phật nói đều chân thật chẳng hư. "Xá Lợi Phất
! Chư Phật tuỳ nghi nói pháp." Tuy nhiên là diệu pháp khai quyền hiển
thật, song, Phật vì pháp chân thật mà thí quyền xảo phương tiện tùy nghi nói
pháp, quán căn cơ mà nói pháp, vì người mà mưa pháp vũ. "Ý thú khó hiểu"
: Đạo lý bên trong chẳng dễ gì minh bạch được. "Vì sao" ? Vì sao mà
chẳng dễ gì minh bạch ? "Ta dùng vô số phương tiện, đủ thứ nhân duyên"
: Phật dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, và nhân duyên để giáo hóa chúng sinh.
"Ví dụ lời lẽ" : Lại đưa ra lời lẽ ví dụ để diễn nói các pháp.
"Pháp đó chẳng phải suy lường phân biệt mà hiểu được". Pháp nầy chẳng
phải dùng tâm thức để phân biệt suy lường mà minh bạch được, đừng dùng thức thứ
sáu và thức thứ bảy, để dò pháp của Phật nói. "Chỉ có chư Phật mới biết
được" : Chỉ có Phật với Phật mới biết được pháp nầy. "Vì sao" ?
Đây là đạo lý gì ? "Chư Phật Thế Tôn, chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất
hiện ra đời". Đại sự nhân duyên gì ? Chúng ta mỗi người hãy nghĩ xem, đó
là đại sự gì ? Đức Phật vì một đại sư nhân duyên, đại sự nầy cứu kính là đại sự
gì ? Đại sự nầy chẳng phải việc nhỏ, nếu việc nhỏ thì chẳng nói là đại sự. Câu
trả lời rất là đơn giản, và còn có một câu trả lời rất thâm sâu, các bạn hãy tự
nghĩ lại. Đó thật là diệu vô cùng, diệu đến cỡ nào ? Diệu đến mức chẳng thể
tưởng tượng được, tức cũng là không thể nghĩ bàn. Ở trên đã giảng qua, nói là
không thể suy lường phân biệt mà hiểu được. Chẳng phân biệt, chẳng suy lường,
đó tức là diệu pháp. Tôi kêu các bạn trả lời vấn đề nầy, kỳ thật vấn đề nầy
chẳng cần phải trả lời, vì nó chẳng có trả lời. Chỗ nầy giảng quá lạ lùng, vốn
phải có trả lời, sao lại nói chẳng có trả lời ? Vì hiện tại Đức Phật sắp muốn vào
Niết Bàn, câu trả lời nầy chỉ có Đức Phật mới phán đoán được. Hiện tại tôi chưa
đủ tư cách phán đoán vấn đề nầy, cho nên chúng ta mọi người tốt nhất là hãy
quên đi vấn đề nầy, đừng tưởng đến nó. Song, tuy nói tốt nhất là hãy quên đi,
nhưng tôi tin rằng các bạn nhất định chẳng quên được, tại sao ? Vì là đại sự nhân
duyên, chẳng phải là nhân duyên nhỏ, là đại sự nhân duyên, làm sao mà có thể quên
được chăng ? Quên chẳng được. Quên chẳng được vậy biết làm sao ? Chỉ có cách
minh bạch nó, nói đi nói lại, đại sự nhân duyên nầy tôi vẫn chưa nói ra, bây
giờ tôi phải nói ra. Đại sự nhân duyên nầy, giống như hiện tại trong bàn tay
của tôi cầm vật gì. Bạn nhìn thấy vật gì ? Đó là đại sự nhân duyên, bạn biết được
tức là đại sự nhân duyên. Bạn nói có vật gì ? Bạn chẳng biết ? Đó cũng là đại
sự nhân duyên. Bạn hãy xem có gì ? Gì cũng chẳng có ! Đại sự nhân duyên nầy
cũng như thế. Đại sự nhân duyên tức là chẳng có việc, Đức Phật muốn tìm chút
việc để làm, tức cũng muốn nói Kinh Pháp Hoa. Nói Kinh Pháp Hoa tức là đại sự nhân
duyên. Vậy Kinh Pháp Hoa nói gì ? Là nói diệu pháp của Kinh Pháp Hoa. Thứ diệu pháp
nầy là gì ? Là không thể nghĩ, khi bạn nghĩ thì chẳng phải là diệu pháp, một
khi bạn hỏi thì chẳng còn diệu. Vậy, chúng ta nghe Kinh để làm gì ? Chúng ta
chẳng nghe Kinh càng chẳng diệu sao. Ai kêu bạn đến ? Bạn có thể không nghe !
Xá Lợi Phất ! Vì sao lại nói chư Phật Thế Tôn, chỉ vì một đại
sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời ? Vì chư Phật Thế Tôn muốn khiến cho chúng
sinh, khai mở tri kiến của Phật, để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời, muốn mở
bày cho chúng sinh tri kiến của Phật mà hiện ra nơi đời, muốn khiến cho chúng
sinh ngộ tri kiến của Phật mà hiện ra nơi đời, muốn cho chúng sinh vào được tri
kiến của Phật mà hiện ra nơi đời.
Đức Phật gọi Ngài Xá Lợi Phất, nói : Gì là chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự
nhân duyên mà hiện ra nơi đời ? Chư Phật vì việc sinh tử của chúng sinh, đủ thứ
nghiệp báo nhân duyên mới xuất hiện ra đời. Chư Phật Thế Tôn muốn khiến cho
chúng sinh khai mở tri kiến của chư Phật. Chư Phật Thế Tôn muốn khiến cho chúng
sinh đắc được tri kiến của Phật, khai mở tri kiến của Phật. Khai mở tri kiến
của Phật, tức là đối với chúng sinh khép kín tri kiến của Phật mà nói. Chúng sinh
đã khép kín tri kiến của Phật khi nào ? Là vì vô minh sinh ra, cho nên khép kín
tri kiến của Phật lại, bây giờ lại khai mở nó ra. Trí của Phật là gì ? Tức là
tâm mà chúng ta tất cả chúng sinh đều có. Tâm nầy đầy đủ trí huệ của Phật, cho
nên còn gọi là tâm Phật. Phật kiến là gì ? Tức là Phật nhãn. Bạn khai mở Phật
nhãn, thì sau đó bạn sẽ thấy rõ thật tướng của tất cả các pháp, chứng được quả
vị thanh tịnh. Chúng ta chẳng khai mở Phật nhãn, là vì chẳng thanh tịnh sở chí,
tức cũng là vô minh, phiền não, thô hoặc, tế hoặc, khiến cho tánh chẳng thanh
tịnh. Tự tánh vốn thanh tịnh, tại sao bây giờ chẳng thanh tịnh ? Vì chẳng khai
mở tri kiến của Phật, cho nên Đức Phật vì khiến cho tất cả chúng sinh trở về nguồn
cội, khai mở tri kiến của Phật, cho nên xuất hiện ra đời, hiện tám tướng thành đạo
giáo hóa chúng sinh.
"Muốn khiến cho chúng sinh ngộ tri kiến của Phật" : Nói về lý thì tức
nhiên minh bạch, nhưng chính mình cũng phải giác ngộ. Mình chẳng giác ngộ, chỉ
cầu nghe thì trong tâm chẳng lãnh thọ chân chánh. Phật muốn khiến cho tất cả
chúng sinh giác ngộ tri kiến Phật mà mình vốn có, cho nên hiện ra nơi đời.
"Muốn khiến cho chúng sinh vào tri kiến của Phật" : Tức nhiên có
người chỉ thị rõ ràng, mình cũng chân chánh giác ngộ, nhưng chưa chứng đắc cho
nên hiện tại Phật khiến cho tất cả chúng sinh vào tri kiến của Phật. Vào tức là
chứng quả, chứng được cảnh giới của Phật, do đó đại sự nhân duyên của Phật, tức
là muốn khiến cho chúng sinh : khai, thị, ngộ, nhập, tri kiến của Phật, liễu
sinh thoát tử, một khi liễu sinh tử, thì đại sự sẽ hoàn tất. Đại sự hoàn tất,
thì chẳng còn việc làm, cho nên Phật nói đạo lý nầy xong rồi thì muốn vào Niết
Bàn.
Xá Lợi Phất ! Đó là chư Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời. Đức
Phật bảo Xá Lợi Phất ! Đức Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, làm tất cả những
gì, thường vì một việc, đó là : mở bày cho chúng sinh ngộ được tri kiến của
Phật.
Xá Lợi Phất ! Như Lai chỉ dùng một Phật thừa mà vì chúng sinh thuyết pháp,
chẳng có hai hoặc ba thừa nào khác. Xá Lợi Phất ! Hết thảy mười phương chư Phật
cũng lại như thế.
Xá Lợi Phất ! Chư Phật quá khứ dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ thứ nhân
duyên lời lẽ thí dụ, mà vì chúng sinh diễn nói các pháp, pháp đó đều vì một
Phật thừa, các chúng sinh đó theo chư Phật nghe pháp, cứu kính đều đắc được
Nhất thiết chủng trí.
Xá Lợi Phất ! Khai, thị, ngộ, nhập, Phật tri kiến mà ta nói ở trước, khiến cho
chúng sinh liễu sinh thoát tử, lìa khổ được vui. Đó tức là chư Phật vì một đại
sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời. Đức Phật nói với Xá Lợi Phất : "Chư
Phật Như Lai chỉ giáo hóa các Bồ Tát, làm tốt cả những gì thường vì một việc"
: Thường thường chỉ vì một đại sự nhân duyên, tức là mở bày cho chúng sinh ngộ được
tri kiến của Phật. "Xá Lợi Phất ! Như Lai chỉ dùng một Phật thừa, mà vì
chúng sinh thuyết pháp, chẳng có hai hoặc ba thừa nào khác" : Mười phương
chư Phật Như Lai chỉ dùng một Phật thừa duy nhất, để giáo hóa chúng sinh, vì
chúng sinh mà nói pháp, chẳng có đại thừa hoặc tiểu thừa. Hai hoặc ba tức là đại
thừa, tiểu thừa ; Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Bồ Tát thừa, chẳng có các
thừa ấy, cũng chẳng có thừa nào khác. Chẳng có đại thừa, chẳng có tiểu thừa,
cũng chẳng có Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát thừa vậy. Vậy đó là thừa nào ? Tức
là duy nhất một Phật thừa. "Xá Lợi Phất, pháp của tất cả mười phương chư
Phật cũng như thế" : Tất cả hết thảy mười phương chư Phật thuyết pháp, thì
cũng chỉ nói duy nhất một Phật thừa, chẳng có thừa nào khác. "Xá Lợi Phất
! Chư Phật quá khứ dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ thứ nhân duyên". Những
nhân duyên gì ? Tức là bạn trồng nhân lành thì được quả lành, trồng nhân ác thì
được quả ác. Thiện có thiện báo, ác có ác báo, đủ thứ nhân duyên quả báo.
"Lời lẽ ví dụ" : Lại dùng đủ thứ ví dụ, đủ thứ lời lẽ tốt đẹp để giáo
hóa chúng sinh. "Mà vì chúng sinh diễn nói các pháp, pháp đó đều vì một Phật
thừa" : Tuy nhiên nói là có tiểu thừa, đại thừa ; hoặc Thanh Văn, Duyên Giác,
Bồ Tát thừa, song, bổn hoài cứu kính của Phật chỉ vì nói Phật thừa để tiếp dẫn
chúng sinh sớm thành Phật đạo. "Các chúng sinh đó, theo chư Phật nghe
pháp, cứu kính đều đắc được Nhất thiết chủng trí". Tất cả chúng sinh bắt đầu
theo chư Phật nghe pháp, cứu kính đều đắc được Nhất thiết chủng trí. Trí gồm có
:
1. Nhất thiết trí.
2. Đạo chủng trí.
3. Nhất thiết chủng trí.
Nhất thiết trí là thuộc về không, là sở chứng đắc về lý không của hàng nhị thừa.
Đạo chủng trí là lý chứng đắc của quyền thừa Bồ Tát, cũng gọi là có (hữu), còn
gọi là giả. Có nầy là giả có, chẳng phải thật. Cho nên Nhất thiết chủng trí tức
là trung đạo, chẳng rơi về có cũng chẳng rơi về không, đó là trí huệ trung đạo
của chư Phật chứng đắc.
Xá Lợi Phất ! Chư Phật vị lai sẽ xuất hiện ra đời, cũng dùng vô lượng vô số
phương tiện, đủ thứ nhân duyên lời lẽ thí dụ, mà vì chúng sinh diễn nói các
pháp. Pháp đó đều vì một Phật thừa, các chúng sinh đó theo Phật nghe pháp, cứu
kính đều đắc được Nhất thiết chủng trí.
Xá Lợi Phất ! Hiện tại chư Phật Thế Tôn, trong mười phương vô lượng trăm ngàn vạn
ức các cõi Phật, làm lợi ích an lạc chúng sinh, chư Phật đó cũng dùng vô lượng
vô số phương tiện, đủ thứ nhân duyên lời lẽ thí dụ, mà vì chúng sinh diễn nói
các pháp. Pháp đó đều vì một Phật thừa. Các chúng sinh đó theo Phật nghe pháp,
cứu kính đều đắc được Nhất thiết chủng trí.
Xá Lợi Phất ! Chư Phật đó chỉ giáo hóa Bồ Tát, vì muốn chỉ bày cho chúng sinh tri
kiến của Phật, muốn cho chúng sinh ngộ được tri kiến của Phật, muốn cho chúng
sinh vào được tri kiến của Phật.
Xá Lợi Phất ! Chư Phật quá khứ vì chúng sinh thuyết pháp như thế. Còn chư Phật
vị lai ? cũng như thế. Khi chư Phật xuất hiện ra đời, thì cũng dùng vô lượng vô
số phương tiện, đủ thứ nhân duyên, lời lẽ ví dụ mà vì chúng sinh diễn nói các pháp.
Pháp đó đều vì một Phật thừa. Pháp của chư Phật nói đều vì duy nhất một Phật
thừa, chẳng có thừa nào khác. Các chúng sinh đó, theo Phật nghe pháp, cứu kính
đều đắc được Nhất thiết chủng trí. Phật nói các pháp mục đích cuối cùng là khiến
cho tất cả chúng sinh đắc được Nhất thiết chủng trí. "Xá Lợi Phất ! Hiện
tại chư Phật Thế Tôn trong mười phương vô lượng trăm ngàn vạn ức các cõi Phật,
làm lợi ích an lạc chúng sinh" : Hiện tại hết thảy cõi nước trong mười
phương, cũng đều thấm nhuần lợi ích tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều được yên
ổn và khoái lạc. Chư Phật đó cũng dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ thứ nhân duyên,
lời lẽ ví dụ mà vì chúng sinh diễn nói các pháp. Pháp đó đều vì một Phật thừa.
Các chúng sinh đó theo Phật nghe pháp, cứu kính đều đắc được nhất thiết chủng
trí. Phật nói các pháp, mục đích duy nhất là khiến cho chúng sinh đắc được nhất
thiết chủng trí, viên mãn bồ đề, quy vô sở đắc. "Xá Lợi Phất ! Chư Phật đó,
tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai, chỉ giáo hóa Bồ Tát" : Mục
đích của các Ngài là giáo hóa khiến cho phát tâm Bồ Tát, thành Phật đạo.
"Vì muốn chỉ bày cho chúng sinh tri kiến của Phật, vì muốn cho chúng sinh
ngộ được tri kiến của Phật, vì muốn cho chúng sinh vào được tri kiến của
Phật" : Hết thảy chư Phật trong mười phương ba đời, đều vì duy nhất một
Phật thừa, mà trước hết nói pháp môn thiện xảo phương tiện, mục đích cuối cùng
là khiến cho tất cả chúng sinh đắc được tri kiến của Phật, đắc được trí huệ của
Phật, đắc được quả vị Phật.
Xá Lợi Phất ! Ta nay cũng lại như thế, biết các chúng sinh có đủ thứ dục niệm,
chấp trước nơi thâm tâm, tuỳ theo bản tánh của họ, ta dùng đủ thứ nhân duyên,
lời lẽ thí dụ sức phương tiện, để vì họ nói pháp.
"Xá Lợi Phất ! Ta nay cũng lại như thế" : Ta hiện tại giáo hóa chúng
sinh, cũng dùng đủ thứ nhân duyên lời lẽ ví dụ mà vì chúng sinh nói pháp.
"Biết các chúng sinh có đủ thứ dục niệm" : Ta biết hết thảy chúng
sinh, mỗi chúng sinh đều có vô lượng vô biên dục niệm. "Chấp trước nơi
thâm tâm" : Những dục niệm nầy chẳng phải một đời một kiếp, hoặc mấy kiếp
tích tập nên, mà là từ vô lượng kiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp tập nhiễm mà
ra. Những dục niệm nầy, tích tập thâm sâu ở trong tám thức của chúng sinh, do
đó chẳng thể nào xả bỏ được, sức tập nhiễm nầy lớn vô cùng, do tâm chấp trước
nên chẳng dễ gì đắc được giải thoát. Vì nhân duyên đó, cho nên ta tùy theo bổn
tính của họ, dùng đủ thứ nhân duyên, lời lẽ ví dụ, sức phương tiện mà vì họ nói
pháp.
Xá Lợi Phất ! Như thế đều vì đắc được một Phật thừa Nhất thiết chủng trí. Xá
Lợi Phất ! Ở trong mười phương thế giới còn chẳng có hai thừa, hà huống có ba.
Xá Lợi Phất ! Chư phật xuất hiện ra đời ác năm trược : Kiếp trược, phiền não
trược, chúng sinh trược, kiến trược, mạng trược. Như thế Xá Lợi Phất ! Vào thời
kiếp trược loạn thì chúng sinh cấu nặng, xan tham, đố kị, thành tựu các căn chẳng
lành. Chư Phật dùng sức phương tiện nơi một Phật thừa mà phân biệt nói ba.
Xá Lợi Phất ! Nếu đệ tử của ta, tự cho mình là bậc A La Hán, Bích Chi Phật, mà chẳng
nghe chẳng biết việc chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, những người đó chẳng
phải đệ tử của Phật, chẳng phải A La Hán, chẳng phải Bích Chi Phật.
"Xá Lợi Phất ! Như thế đều vì đắc được một Phật thừa Nhất thiết chủng
trí" : Như ở trước có nói, chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai nói pháp
đều giống nhau, đều vì đắc được một Phật thừa, Nhất thiết trí, Đạo chủng trí,
Nhất thiết chủng trí. "Xá Lợi Phất ! Ở trong mười phương thế giới còn chẳng
có hai thừa, hà huống có ba" : Ở trong mười phương thế giới của chư Phật, còn
chẳng có hai thừa, hà huống có ba ? Hai thừa có thể nói là đại thừa và tiểu
thừa ; lại có thể nói là tạng giáo và thông giáo. Ba thừa tức là chỉ biệt giáo.
Kinh Hoa Nghiêm là đốn giáo, là pháp giáo hóa Bồ Tát, song cũng bao quát bất
định giáo. Tạng giáo và thông giáo là pháp giáo hóa A La Hán và Duyên Giác. Biệt
giáo là đối với Thanh Văn và Duyên Giác, sẽ phải hồi tiểu hướng đại, phải hồi hướng
đến viên giáo. "Hà huống có ba" : Ba ở đây cũng có thể nói là tạng,
thông và biệt giáo. Vì Kinh Pháp Hoa là thuần viên độc diệu. Thuần viên, tức là
chỉ nói về viên giáo ; độc diệu tức là chỉ có Kinh Pháp Hoa mới là diệu nhất,
ngoài ra tạng, thông, biệt giáo đều chẳng sánh bằng. Do đó, duy chỉ một Phật thừa,
tức cũng là nói viên giáo. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát thừa đều là quyền
giáo.
Kiếp trược : Kiếp tức là thời gian. Bổn lai thời gian chẳng tồn tại, nhưng vì ở
tại phần của chúng sinh, sinh ra tâm phân biệt mới có quá khứ, hiện tại và vị
lai ba đời, cho nên gọi là kiếp. Kiếp là tiếng Phạn, nếu nói đủ là Kiếp ba,
dịch là "thời phần". Vào thời đại tội ác đầy dẫy nầy, cho đến thời
gian cũng ô nhiễm.
Phiền não trược, tức là có năm độn sử : Tham, sân, si, mạn, nghi. Đó là gốc rễ
của phiền não.
Kiến trược, tức là năm lợi sử : Thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ
kiến, tà kiến. Độn, là vì nó đến chậm ; lợi là vì nó đến nhanh.
Chúng sinh trược : Chúng sinh có đủ thứ nhân duyên thiện ác xen tạp, mỗi chúng sinh
đều có nghiệp ác đặc biệt của họ, cho nên chúng sinh cũng ô trược.
Bây giờ kể về chuyện tham cho mọi người nghe. Có một người nọ, sau khi chết rồi
thì đến chỗ Vua Diêm Vương, Vua Diêm Vương hỏi y :"Ông là người thông
minh, khi ông còn sống thì cũng chẳng thiệt thòi gì. Ông kiếp sau làm người,
thì muốn ăn của người khác hay ăn của chính mình ?" Ông ta nghĩ :"Ăn
đồ của mình thì hao tốn, còn ăn đồ của người thì chẳng tốn hao gì của mình."
Bèn nói với Vua Diêm Vương :"Tôi thích ăn của người, chẳng thích ăn của
mình." Vua Diêm Vương nói :"Tốt, vậy ông đi làm heo, heo thì chuyên
môn ăn của người, chẳng ăn của mình." Do đó, người tâm tham nầy mới biết
ăn của người khác là sai lầm, nhưng đã yêu cầu với Vua Diêm Vương, chẳng thể
nào thay đổi được nữa, do đó bèn đi làm heo. Heo thì suốt ngày đến tối ăn đồ của
người, tức là vì tâm tham mà phải gánh chịu. Đố kị, đố tức là đố hiền, nghĩa là
thấy bất cứ người nào, nếu tốt hơn mình thì chẳng vui ; kị, là kị năng, nếu người
nào mà giỏi hơn mình, thì sinh tâm ganh tị, cho nên hợp lại gọi là đố kị, tức
là ghen ghét người hay, người giỏi hơn mình. Người có tâm ghen ghét thì tương
lai sẽ đọa lạc, kiếp sau hoặc làm súc sinh vì tâm sân hận quá nặng !
Lại nữa, Xá Lợi Phất ! Các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni đó, tự cho mình đã chứng A la
hán, là thân cuối cùng, cứu kính Niết bàn, chẳng còn có chí cầu quả vị Vô
thượng chánh đẳng chánh giác. Nên biết, những người đó đều là những kẻ tăng
thượng mạn. Vì sao ? Nếu có Tỳ kheo thật chứng được A la hán, nếu không tin pháp
nầy, thì chẳng có lý vậy, trừ khi Phật diệt độ rồi, hiện tiền chẳng có Phật. Vì
sao ? Sau khi Phật diệt độ rồi, người thọ trì đọc tụng, hiểu nghĩa những Kinh
như vầy, thật là khó có được. Nếu gặp đức Phật khác, ở trong pháp nầy thì sẽ
hiểu rõ.
Xá Lợi Phất ! Các ông nên một lòng tin hiểu, thọ trì lời của Phật nói. Lời của chư
Phật Như Lai chẳng có hư vọng, chẳng có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa.
Đức Phật lại nói : "Xá Lợi Phất ! Các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni đó, tự cho mình
đã chứng A La Hán" : Những vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni đó, nói họ đã chứng được
quả vị A La Hán. "Là thân cuối cùng" : Báo thân nầy là báo thân cuối
cùng, sau nầy chẳng còn thọ thân khác nữa. "Cứu kính Niết Bàn" : Họ
nói đã đắc được cứu kính Niết Bàn, thường, lạc, ngã, tịnh. "Chẳng còn có
chí cầu quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác" : Chẳng còn hướng thượng
phát nguyện cầu quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. "Nên biết những
người đó, đều là những kẻ tăng thượng mạn" : Những loại người nầy đều
thông minh, ngược lại bị thông minh lầm lẫn, cống cao ngã mạn, là những kẻ tăng
thượng mạn. "Vì sao ? Nếu có Tỳ Kheo thật chứng được A La Hán, nếu không tin
pháp nầy thì chẳng có lý vậy" : Là nguyên nhân gì ? Nếu như họ đã chứng quả
A La Hán, mà họ chẳng tin Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nầy, thì chẳng có lý.
"Trừ khi Phật diệt độ rồi" : Trừ khi Phật đã nhập diệt rồi.
"Hiện tiền chẳng có Phật" : Hiện tại chẳng có Phật. "Vì
sao" ? Là nguyên nhân gì ? "Khi Phật diệt độ rồi" : Sau khi Đức
Phật diệt độ. "Những Kinh như vầy" : Giống như Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa nầy. "Người thọ trì đọc tụng hiểu nghĩa" : Người hay thọ trì, hay
đọc tụng minh bạch đạo lý nầy. "Thật là khó có được" : Chẳng dễ gì
tìm được người giảng giải Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, vì chẳng có người minh bạch
cho nên chúng sinh chẳng tin. "Nếu gặp Đức Phật khác" : Hoặc là gặp
Phật ở thế giới khác. "Ở trong pháp nầy thì sẽ hiểu rõ" : Đối với đạo
lý khai quyền hiển thật trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, họ có thể minh bạch hiểu
rõ. "Xá Lợi Phất ! Các ông nên nhất tâm tin hiểu, thọ trì lời của Phật
nói" : Các ông tất cả chúng Thanh Văn và chúng Bồ Tát, nên chuyên tâm nhất
chí tin hiểu thọ trì pháp của Phật nói. "Lời của chư Phật Như Lai chẳng có
hư vọng" : Pháp của chư Phật nói chẳng giả, đều là chân thật không hư.
"Chẳng có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa" : Chẳng có ba thừa
pháp nào khác, chỉ duy nhất một Phật thừa, cho nên đừng sinh tâm hoài nghi.
Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa trên, mà nói ra bài kệ.
"Lúc đó, Đức Thế Tôn" : Khi đó, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni.
"Muốn thuật lại nghĩa trên" : Muốn tuyên lại nghĩa vừa nói ở trên.
"Mà nói ra bài kệ" : Bèn nói kệ rằng.
Tỳ kheo Tỳ kheo ni
Ôm lòng tăng thượng mạn
Cư sĩ nam ngã mạn
Cư sĩ nữ chẳng tin.
Hàng bốn chúng như thế
Số đông năm ngàn người.
Đức Phật đang muốn nói Kinh Pháp Hoa, thì trong đại hội có năm ngàn Tỳ Kheo, Tỳ
Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, bốn chúng đệ tử đều lui về. Tại sao ? Vì họ có
tăng thượng mạn, hoặc là hoài nghi chẳng tin.
Chẳng thấy rõ lỗi mình
Nơi giới có thiếu lủng.
Tiếc giữ lầm lỗi mình
Người trí nhỏ đã ra
Bọn tấm cám trong chúng
Đi vì oai đức Phật.
Họ cũng chẳng biết lỗi lầm mao bệnh của mình, bởi vì giới đức chẳng đầy đủ, có
sự thiếu khuyết mà còn khư khư giữ mao bệnh của mình. Lỗi lầm tức là mao bệnh.
Phàm là người đã thọ giới thì phải giữ giới. Bất cứ là giới Bồ Tát, giới Bát
quan trai, giới Sa Di đều phải giữ gìn giới luật cho tinh nghiêm, nếu không thì
cũng như đáy bình có lỗ lủng, chẳng đựng được nước, đó là hữu lậu. "Tiếc giữ
lầm lỗi mình" : Lầm lỗi cũng như ngọc có tì vết, chẳng được tốt đẹp, chẳng
được viên mãn, đây là chỉ phẩm đức của người có mao bệnh, giới đức có khuyết
lủng. "Bọn tấm cám trong chúng" : Họ giống như tấm cám, sau khi xay
lúa xong lấy gạo ra, thì còn lại tấm cám, cũng có thể nói là, người làm rượu xong,
thì còn lại cặn rượu, chẳng còn dùng nữa. Tại sao họ phải bỏ đi ? Bởi vì oai
đức của Phật. Vì đức hạnh của mình chẳng đủ, đợi chẳng được, cho nên lui về.
Những người đó phước mỏng
Chẳng kham thọ pháp nầy
Chúng nay không cành lá
Chỉ toàn là chân thật.
Xá Lợi Phất khéo nghe !
Pháp của chư Phật được
Vô lượng sức phương tiện
Mà vì chúng sinh nói.
Tâm chúng sinh nghĩ gì
Làm đủ thứ các việc
Bao nhiêu các tính dục
Nghiệp thiện ác đời trước.
Phật đều biết vậy rồi
Dùng các duyên thí dụ
Lời lẽ sức phương tiện
Khiến tất cả vui mừng.
Hoặc nói những khế Kinh
Cô khởi và Bổn sự
Bổn sinh Vị tằng hữu
Cũng nói các Nhân duyên.
Thí dụ và Trùng tụng
Và Kinh luận nghị thảy
Độn căn thích pháp nhỏ
Tham trước trong sinh tử.
Vô lượng chỗ chư Phật
Chẳng hành sâu diệu đạo
Bị khổ làm não loạn
Vì họ nói Niết bàn.
Ta bày phương tiện đó
Khiến vào được Phật huệ
Chưa từng nói các ông
Sẽ đắc được Phật đạo.
Sở dĩ chưa từng nói
Vì thời nói chưa đến
Nay chính là phải thời
Quyết định nói đại thừa.
Chín bộ pháp ta đây
Thuận theo chúng sinh nói
Vào đại thừa làm gốc
Vì vậy nói Kinh nầy.
Có Phật tử tâm tịnh
Êm diệu cũng lợi căn
Vô lượng chỗ chư Phật
Mà hành sâu diệu đạo.
Vì các Phật tử đó
Nói Kinh đại thừa nầy
Ta thọ ký người đó
Tương lai sẽ thành Phật.
Vì giữ gìn tịnh giới
Người nầy nghe thành Phật
Mừng rỡ khắp toàn thân
Phật biết tâm người đó.
Cho nên nói đại thừa
Nếu Thanh Văn Bồ Tát
Nghe pháp của ta nói.
Cho đến một bài kệ
Đều thành Phật chẳng nghi.
"Những người đó phước mỏng, chẳng kham thọ pháp nầy" : Những người
nầy phước thì mỏng, căn tính thì hạ liệt, chẳng đủ tư cách thọ trì diệu pháp
nầy. "Chúng nay không cành lá, chỉ toàn là chân thật" : Hiện tại, người
còn ở lại ở trong pháp hội đều là Bồ Tát và A La Hán, chẳng có cành lá hỗn tạp,
chẳng có cặn bã, chỉ còn lại chân thật người căn khí đại thừa. "Xá Lợi
Phất khéo nghe, pháp của chư Phật được, vô lượng sức phương tiện, mà vì chúng
sinh nói" : Phật dùng vô số pháp môn thiện xảo phương tiện để dẫn dắt
chúng sinh hồi tiểu hướng đại, phát tâm bồ đề thành Phật đạo. "Chúng sinh
tâm nghĩ gì, làm đủ thứ các việc, bao nhiêu các tính dục, nghiệp thiện ác đời
trước, Phật đều biết vậy rồi" : Trong tâm của mỗi chúng sinh nghĩ gì, làm
gì, đủ thứ căn tính đều chẳng giống nhau. Người nhiều nghiệp thiện thì dục niệm
nhẹ, người nhiều nghiệp ác thì dục niệm nặng. Từ chỗ nầy các bạn có thể tự suy
ra, tự hỏi mình : Dục niệm của mình nhẹ hay nặng ? Nếu nhẹ thì căn lành của
mình sâu dày. Nếu nặng thì căn lành của mình mỏng manh. Thật ra, dục niệm tức
là một tên khác của phiền não, tức cũng là vô minh. Phàm là bạn nhìn chẳng
xuyên thủng, buông chẳng đặng đều là dục niệm, phiền não. Tất cả hết thảy những
thứ nầy Phật đều biết vậy rồi. Bao nhiêu thứ tính của chúng sinh, Như Lai đều
biết. "Dùng các duyên ví dụ, lời lẽ sức phương tiện, khiến tất cả vui
mừng, hoặc nói những khế Kinh" : Do đó, Phật dùng đủ thứ vị dụ, lời lẽ tốt
đẹp khéo léo nói Phật pháp, để khiến cho tất cả chúng sinh pháp hỉ sung mãn.
Khế Kinh tức là trên thì khế với lý thể của chư Phật, dưới thì khế với căn cơ
của chúng sinh. Cũng có thể nói trên thì đồng nhất với Phật tính, dưới thì hợp
với nhân duyên của chúng sinh.
"Cô khởi và Bổn sự" : Cô khởi, là nghĩa của Già Đà (tiếng Phạn) dịch
là "tụng", tức chẳng có quan hệ gì với Kinh trường hàng ở trước hoặc
sau. Ví như trong Kinh Kim Cang có một bài Già Đà (cô khởi) :
"Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng huyễn bọt bóng,
Như sương cũng như điện,
Hãy quán sát như vậy."
Thông thường, Già Đà là dùng để biểu thị ý chính trong Kinh, như Kinh Kim Cang
còn có một bài kệ rằng :
"Nếu dùng sắc thấy ta,
Dùng âm thanh cầu ta,
Người đó hành tà đạo,
Không thấy được Như Lai."
Bổn sự, là tường thuật lại chuyện quá khứ của chư Phật. "Bổn sinh Vị tằng
hữu" : Bổn sinh là một bộ trong mười bộ Kinh, chuyên thuật lại chuyện của
các đại đệ tử và các đại Bồ Tát trong quá khứ. Vị tằng hữu là trước kia chưa
từng nói qua, nghe những gì chưa nghe, thấy những gì chưa thấy.
"Cũng nói các nhân duyên, thí dụ và trùng tụng" : Nhân duyên tức là
nói đủ thứ việc nhân duyên quả báo. Thí dụ là Phật dùng đủ thứ thí dụ để xiển
minh đạo lý thâm áo ở trong Kinh. Trùng tụng là nghĩa của chữ Kì Dạ (tiếng
Phạn), tường thuật lại những gì nói ở trường hàng phía trên, như đoạn văn đang
giảng nầy là Kì Dạ (trùng tụng).
"Và Kinh luận nghị thảy" : Luận nghị là nghĩa của Ưu Ba Đề Xá (tiếng
Phạn). Chỗ nầy Đức Phật đề ra tên của chín bộ Kinh trong mười hai bộ Kinh. Tại
sao ? Dưới đây Phật có giải thích nói. "Độn căn thích pháp nhỏ, tham trước
trong sinh tử" : Người độn căn thì thích pháp tiểu thừa, chẳng thích pháp đại
thừa, cũng tham luyến sinh tử luân hồi. "Vô lượng chỗ chư Phật, chẳng hành
sâu diệu đạo" : Ở trước vô lượng chư Phật trong quá khứ, họ chưa từng tu
hành Phật đạo thâm sâu vô thượng. "Bị khổ làm não loạn" : Suốt ngày chịu
đựng ba thứ khổ, tám thứ khổ và vô lượng thứ khổ bức bách. "Vì họ nói Niết
Bàn, ta bày phương tiện đó, khiến vào được Phật huệ" : Vì những người căn
tính nông cạn mà Phật nói Niết Bàn, pháp môn : thường, lạc, ngã, tịnh, khéo bày
đủ thứ pháp môn phương tiện để dẫn dắt họ nhập vào trí huệ của Phật.
Song, chưa từng nói các ông sẽ đắc được Phật đạo. "Sở dĩ chưa từng nói, vì
thời nói chưa đến" : Phật chưa nói với người tiểu thừa rằng : các ông
tương lai đều sẽ thành Phật. Tại sao không nói ? Vì thời cơ chưa đến, vì nhân
duyên chưa thành thục. "Nay chính là phải thời, quyết định nói đại
thừa" : Phật nói pháp thì trước hết quán sát căn cơ vì người thuyết pháp,
nay chính là phải thời, nên nói diệu pháp đại thừa nầy. "Chín bộ pháp ta
đây" : Chín bộ Kinh nói ở trên, đều thuận theo chúng sinh mà nói.
"Vào đại thừa làm gốc" : Mục đích cuối cùng, là khiến cho người tiểu
thừa vào gốc rễ đại thừa. "Vì vậy nói Kinh nầy" :Vì nhân duyên đó,
cho nên nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
"Có Phật tử tâm tịnh, êm dịu cũng lợi căn" : Có đệ tử của Phật, tâm
của họ thanh tịn, tâm ý êm dịu cũng thông minh có trí huệ, đó là căn cơ đại
thừa. "Vô lượng chỗ chư Phật, mà hành sâu diệu đạo" : Vì những vị đệ tử
của Phật đó, đã ở chỗ vô lượng chư Phật thực hành sâu diệu đạo. "Vì các
Phật tử đó, nói Kinh đại thừa nầy" : Phật vì tất cả đệ tử của Phật, mà nói
Kinh đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa. "Ta thọ ký người đó, tương lai sẽ thành
Phật" : Hiện tại Phật thọ ký cho những đệ tử đó, tương lai họ nhất định sẽ
thành Phật. "Dùng thâm tâm niệm Phật, vì giữ gìn tịnh giới" : Vì họ
dùng thâm tâm, tức là tâm đại thừa để tu Phật pháp, giữ gìn giới thanh tịnh.
"Người nầy nghe thành Phật, mừng rỡ khắp toàn thân" : Những người nầy
mà nghe được mình sẽ thành Phật, thì toàn thân của họ mừng rỡ vô cùng.
"Phật biết tâm người đó, cho nên nói đại thừa" : Phật biết tư tưởng và
sự tu hành của họ, cho nên vì họ mà nói pháp đại thừa. "Nếu Thanh Văn, Bồ
Tát" : Hoặc là Thanh Văn thừa, hoặc là Bồ Tát thừa. "Nghe pháp của ta
nói, cho đến một bài kệ" : Nghe được diệu pháp của Phật nói, dù chỉ một bài
kệ. "Đều thành Phật chẳng nghi" : Tương lai đều có thể thành Phật,
chẳng có tơ hào hoài nghi.
Trong mười phương cõi Phật
Chỉ có một thừa pháp.
Chẳng hai cũng chẳng ba
Trừ Phật phương tiện nói
Chỉ dùng tên giả danh
Dẫn dắt các chúng sinh.
Nói trí huệ của Phật
Chư Phật hiện ra đời
Chỉ thật một việc nầy
Nếu hai chẳng phải chân.
Quyết chẳng dùng tiểu thừa
Tế độ các chúng sinh
Phật tự trụ đại thừa
Như pháp của mình được.
Định huệ lực trang nghiêm
Dùng để độ chúng sinh
Tự chứng đạo vô thượng
Pháp đại thừa bình đẳng.
Nếu giáo hóa tiểu thừa
Cho đến chỉ một người
Thì ta đọa xan tham
Việc nầy không thể có.
"Trong mười phương cõi Phật, chỉ có một thừa pháp, chẳng hai cũng chẳng
ba, trừ Phật phương tiện nói" : Trong mười tất cả các cõi Phật, Phật vì
giáo hóa chúng sinh, mà nói đủ thứ pháp môn phương tiện, cho nên vừa nói tiểu
thừa, đại thừa, lại nói Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa. "Chỉ
dùng tên giả danh, dẫn dắt các chúng sinh, nói trí huệ của Phật" : Chẳng
qua là dùng những tên giả danh nầy, để khiến cho chúng sinh cũng đắc được trí
huệ của Phật.
"Chư Phật hiện ra đời, chỉ thật một việc nầy" : Chỉ có một việc nầy
là chân thật nhất. "Nếu hai chẳng phải chân" : Nếu như hai hoặc ba thừa
nào khác, thì chẳng phải chân, đều là pháp môn quyền xảo phượng thiện. "Quyết
chẳng dùng tiểu thừa, tế độ các chúng sinh" : Song, chư Phật tuyệt đối
chẳng dùng giáo lý tiểu thừa để giáo hóa, cứu độ chúng sinh. "Phật tự trụ
đại thừa, như pháp của mình được" : Phật trụ ở trong pháp đại thừa và pháp
Ngài đắc được ở tại Đạo tràng là chân thật. "Định huệ lực trang
nghiêm" : Phật dùng sức định huệ, huệ lực để tự trang nghiêm cho mình. Lực
là mười thứ trí lực, ở trước đã giải thích rõ. Phật có mười thứ trí huệ, cho
nên gọi là định huệ lực trang nghiêm. "Dùng để độ chúng sinh" : Dùng
những lực nầy để giáo hóa chúng sinh, độ thoát chúng sinh. "Tự chứng đạo
vô thượng" : Mình đã chứng được đại đạo vô thượng, tức là "pháp đại
thừa bình đẳng". "Nếu giáo hóa tiểu thừa, cho dù chỉ một người, thì
ta đọa xan tham, việc nầy chẳng thể có" : Phật nói : Nếu ta không dùng
pháp đại thừa giáo hóa chúng sinh, chỉ nói pháp tiểu thừa dù đối với một người,
giấu pháp lớn mà nói pháp nhỏ, tức là rơi vào tâm tham, keo kiệt pháp, việc nầy
tuyệt đối không thể có.
Nếu người tin quy Phật
Như Lai chẳng dối gạt.
Cũng không tham ghen ghét
Dứt ác trong các pháp
Nên Phật trong mười phương
Chẳng có gì sợ hãi.
Ta dùng tướng nghiêm thân
Quang minh chiếu thế gian
Vô lượng chúng tôn kính
Vì nói ấn thật tướng .
Xá Lợi Phất nên biết !
Ta vốn lập thệ nguyện
Muốn khiến tất cả chúng
Đồng như ta không khác.
Nguyện xưa kia của ta
Nay đã đầy đủ rồi
Độ tất cả chúng sinh
Đều khiến vào Phật đạo.
Nếu như có người tin Phật pháp, quy y Phật đạo, thì Như Lai quyết chẳng dối gạt,
cũng chẳng có ý tham lam đố kị. "Dứt ác trong ác pháp" : Mục đích học
Phật pháp, là muốn thấu sự rõ lý, minh bạch nhân quả, thực hành những gì Phật
thực hành, giác ngộ những gì Phật giác ngộ. Đối với pháp lành, thì phải nghe
theo hành theo, mới có thể trừ khử bớt, tập khí xấu tham sân si từng chút từng
chút, tức là dứt ác trong các pháp. Tại sao có người ngu si ? Vì thấy người có
trí huệ thì sinh tâm đố kị, cho nên đời nầy ngu si. Đồng lý ấy, đời nầy thông
minh có trí huệ, là vì đời trước không những chẳng đố kị với người khác, ngược
lại sinh ra tâm tùy hỉ ca ngợi người khác. Người chân chánh tu đạo, thì không sợ
người khác giỏi hơn mình, mà mong muốn mọi người đều hơn mình, mọi người đều thành
Phật, sau đó mình mới thành Phật. Bạn hãy xem, ôm ấp chí khí nầy ở trong lòng
thật là vĩ đại. Bồ Tát Điạ Tạng Vương pháp nguyện :
"Địa ngục chưa trống không,
Thệ không thành Phật.
Chúng sinh độ hết
Mới chứng bồ đề".
Chúng sinh ở trong địa ngục, ác tập khí quá nặng, khó điều khó phục, luân hồi ở
trong sáu nẻo, nhưng Bồ Tát chẳng than mệt nhọc, luôn luôn cứu độ, khiến cho họ
sớm được giải thoát.
Có người hỏi, có thể nào cùng năm tháng ngày giờ, đều độ hết chúng sinh trong
sáu nẻo thành Phật chăng ? Không, không thể được, chỉ có thân người mới có thể
thành Phật đặng, nguyện lực nầy mới viên mãn. Còn năm nẻo kia là trời, A Tu La,
súc sinh, ngạ quỷ, điạ ngục, nếu muốn thành Phật thì trước hết phải làm thân
người, chứ không thể ở trong năm nẻo kia mà thành Phật đặng. Trong lời nguyện của
Bồ Tát Địa Tạng phát ra là trước hết độ tất cả chúng sinh ác liệt nhất, cho nên
đời ác năm trược, thệ vào trước để cứu độ tất cả chúng sinh tội khổ đọa lạc
trong ba đường ác.
Phật nói pháp thiện xảo phương tiện, làm hài lòng tâm của đại chúng. Song, tại sao
ở trong hội Pháp Hoa, còn có năm ngàn người lui về ? Thật ra chẳng phải họ
không muốn nghe, mà vì nghiệp chướng của họ quá sâu nặng, đức hạnh chẳng đủ,
cho nên chiêu lại ma lực ở trong thân, khiến cho họ lui khỏi pháp hội.
"Xá Lợi Phất nên biết, ta vốn lập đại thệ nguyện, muốn khiến cho tất cả
chúng sinh đồng như Phật, Thế Tôn không khác". Như ta đã pháp thệ nguyện
xưa kia, nay đã mãn nguyện được thành Phật đạo và khéo dẫn dụ tất cả chúng sinh
si mê, đều khiến cho họ nhập vào trong chánh đạo của Phật.
Nếu ta gặp chúng sinh
Dùng Phật đạo dạy hết
Kẻ vô trí lầm lẫn
Mê hoặc chẳng nghe lời.
"Ta" ở đây là chỉ bản thân của Phật. Phật có tám đại tự tại ngã (ta).
Tự tại ngã thứ nhất là : Dùng một thân mà ứng vô lượng thân để độ thoát chúng
sinh.
Thứ hai là : Dùng một thân đầy khắp đại thiên thế giới, sao lại có thể dùng một
thân mà đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới ? Vì tự tại.
Thứ ba là : Thân Phật có thể khinh cử viễn đạo. "Khinh cử" tức là nhẹ
như khí cầu, một chút trọng lượng cũng chẳng có, có thể tùy ý bay nổi, đó gọi
là khinh cử. "Khinh cử viễn đạo", nghĩa là thần thông của Phật tự tại
diệu dụng.
Thứ tư là : Phật có thể ở trong cùng một cõi nước, mà hiện đủ thứ thân hình.
Thứ năm là : Sáu căn dụng với nhau, như mắt có thể ăn được vật ăn, tai có thể
nói ; tóm lại, mỗi một căn đầy đủ năng lực của năm căn kia.
Thứ sáu là : Đắc các pháp tướng vào vô pháp tướng. Tuy chứng đắc các pháp tướng
vào vô pháp. Tuy chứng đắc tất cả các pháp, mà chẳng có các pháp tướng, pháp
cũng không.
Thứ bảy là : Diễn nói kệ tụng, vĩnh viễn chẳng dừng cảnh.
Thứ tám là : Thân đầy các nơi, khắp mười phương cõi, chẳng có nơi nào mà không
có. Pháp giới làm thể, hư không làm dụng. Hư không vô tướng mà vô sở bất tướng.
Chúng ta đều sống ở trong pháp thân của Phật. Chúng sinh sống ở trong pháp
thân, cũng giống như sống ở trong gió, nhưng bản thân ngưới chẳng biết gió ra
làm sao. Đồng lý ấy, chúng ta tuy sống ở trong pháp thân của Phật mà chẳng biết
Phật là thế nào. Do đó :
"Chẳng biết mặt mũi thật núi Lư Sơn,
Chỉ nương thân ở trên núi ấy."
Núi Lư Sơn là danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Trung Quốc, nếu ở tại núi Lư
Sơn thì tự nhiên chẳng thấy được mặt mũi thật của núi Lư Sơn, chỉ ở ngoài núi
mới trông thấy được. Thế thì làm sao thấy được pháp thân của Phật ? Chẳng có
cách nào khác, chỉ cần siêng tu Phật đạo, thành tựu quả vị Phật, với Phật không
hai không khác, thì tự nhiên ngộ được ý bên trong.
Phật dùng tám đại tự tại ngã nầy, toại tâm như ý giáo hóa chúng sinh, giáo hóa hết
Phật đạo. Song, người chẳng rõ thị phi, chẳng phân trắng đen, vô trí lầm lẫn,
cho nên hoặc chẳng nghe lời. Nếu người luôn luôn tự mình kiểm thảo, hồi quang
phản chiếu, thì giống như ở trước gương soi, sẽ chiếu rõ ràng mặt mũi của mình.
Nếu tâm thường từ bi, đồng thể đại bi, thì kiếp trước đã từng tu thiện dứt làm
ác, chẳng tạo nghiệp giết hại. Nếu người tâm sân hận quá nặng, giết hại nhiều
sinh linh, thì đời nầy nóng giận bạo phát, hỏa khí rất lớn. Do đó, có thể suy
ra :
"Muốn biết nhân trồng trong quá khứ,
Hãy xem mình đang hưởng thụ đời nầy ;
Muốn biết quả sẽ thọ trong tương lai,
Hãy xem mình đang làm gì trong đời nầy."
Xưa kia, có người từng hỏi tôi : "Người sẽ đọa làm súc sinh chăng ?"
Tôi đáp : "Bạn làm việc súc sinh tức là súc sinh, làm việc người tức là người,
làm việc quỷ tức là quỷ. Nếu thọ Bồ Tát giới hành Bồ Tát đạo, tức là Bồ Tát sơ
phát tâm, làm việc Phật tức là Phật. Tóm lại, mười pháp giới chẳng lìa một tâm
niệm, vạn pháp do tâm tạo ra." Hiện tại đại chúng thường đến pháp hội nầy
nghe Kinh, đều do kiếp trước đã từng gieo trồng căn lành, niềm tin chẳng thối
lùi, cho nên đời nầy mới gặp được pháp duyên nầy.
Ta biết chúng sinh đó
Chưa từng tu gốc lành
Chấp cứng nơi năm dục
Vì si ái sinh phiền.
Do nhân duyên ác dục
Đọa vào ba đường ác
Luân hồi trong sáu nẻo
Chịu đủ các khổ độc.
Thọ thai hình hài nhỏ
Đời đời thường lớn dần
Người đức mỏng phước ít
Bị các khổ bức bách.
Vào rừng rậm tà kiến
Chấp có hoặc chấp không
Nương tựa các kiến này
Đầy đủ sáu mươi hai.
Chấp sâu pháp hư vọng
Giữ chặt chẳng bỏ được
Ngã mạn tự khoe cao
Dua nịnh tâm chẳng thật.
Trong ngàn vạn ức kiếp
Chẳng nghe danh hiệu Phật
Cũng chẳng nghe chánh pháp
Người như thế khó độ.
Ta biết những chúng sinh mê hoặc nầy, chưa từng tu học gốc lành đại thừa, lại tham
chấp vào cảnh : sắc, thanh, hương, vị, xúc, năm dục, tức : tiền tài, sắc đẹp,
danh vọng, ăn và ngủ. Do đó, đọa địa ngục. Ví như :
1. Người tham tiền tài : Bất chấp mọi thủ đoạn để kiếm tiền bạc, chẳng cứ nhân nghĩa
đạo đức, cũng chẳng màng nguồn gốc tiền bạc có chánh đáng chăng, suốt ngày tâm vì
tiền bạc sai khiến, trồng xuống hạt giống địa ngục.
2. Sắc : Sắc đẹp là nhân luân hồi của chúng sinh, bất cứ nam nữ, một khi gặp
nhau thì ý niệm đầu tiên là, muốn nhìn xem thử đối phương có xinh đẹp chăng ?
Cứ khởi vọng tưởng, sự suy nghĩ nầy chẳng chân thật, cho nên có luân chuyển.
3. Danh lợi : Con người thường bị danh lợi trói buộc, do đó thích tự mình tuyên
truyền, ở trên tấm thiếp nhỏ in đầy ra, nào là giám đóc công ty nào đó, chủ
tịch gì đó..., đó phải chăng là vì háo danh.
4. Ăn : Có người chẳng thích tiền tài, chẳng háo sắc, cũng chẳng tham danh lợi
mà thích ăn !
5. Ngủ : Có những người chẳng tham mấy thứ ở trên mà chỉ thích ngủ ! Ngủ nhiều thì
đầu não hôm mê.
Ở tại Hương Cảng, Đài Loan thường nghe bệnh ngủ chết phát sinh, vì người quá tham
ngủ, ngủ chết rồi cảm thấy sung sướng, cho rằng đó là sự ra đi an nhàn, chẳng
chịu đựng cảnh chết đau đớn. Tóm lại, năm thứ dục lạc nầy là địa ngục năm căn,
khiến cho chúng sinh trầm luân sâu thẳm ở trong sáu nẻo luân hồi. Do đó, học
Phật tu đạo là khiến cho con người dứt làm ác mà làm điều lành, bỏ tà quy chánh,
chấm dứt sinh tử, chẳng còn luân hồi.
"Vì si ái sinh phiền" : Vì quá chấp trước năm dục, ngu si luyến ái,
chẳng xả bỏ được, cho nên sinh đủ thứ phiền não. Tham những ái dục nghiệp ác
nầy đều là nhân duyên của ba đường ác, nghiệp quả vay trả, như bánh xe lăn, lưu
chuyển trong sáu nẻo, đó gọi là sáu nẻo luân hồi. Chúng sinh luân hồi trong sáu
cõi, chịu đủ các khổ độc, thọ bào thai hình hài nhỏ, ra thai bò vào bụng ngựa,
khi thì họ Trương, khi thì họ Lý, luân chuyển trong lục đạo. Người hạ liệt đức
mỏng phước ít, thường bị các khổ bức bách. Khổ có ba thứ khổ, tám thứ khổ và vô
lượng thứ khổ.
"Vào rừng rậm tà kiến" : Tức là kiến trược. "Hoặc chấp có chấp
không" : Chấp có tức là chấp thường, chấp không tức là chấp đoạn, đủ các
thứ tà kiến. "Nương tựa các kiến nầy" : Nương vào có, không, hai thứ
kiến (thấy) bất chánh, thành sáu mươi hai kiến. Năm kiến là : thân kiến, biên
kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến.
"Đầy đủ sáu mươi hai" : Phàm phu và các ngoại đạo, nơi cảnh năm uẩn
(sắc, thọ, tưởng, hành, thức) khởi bốn thứ kiến ; hoặc là sắc lớn ngã nhỏ, ngã
ở trong sắc ; hoặc là sắc nhỏ ngã lớn, sắc ở trong ngã ; hoặc là sắc tức là ngã
; hoặc là lìa sắc là ngã. Đó là về sắc ấm, còn bốn ấm kia, thọ tưởng hành thức,
mỗi ấm cũng khởi bốn thứ kiến, cộng thành hai mươi thứ kiến. Quá khứ, hiện tại và
vị lai, mỗi thứ có hai mươi thứ kiến, cộng thành sáu mươi thứ kiến và kể cả
thường kiến và đoạn kiến (chấp không chấp có) cộng thành sáu mươi hai thứ tà kiến.
"Ngã mạn tự khoe cao" : Khoe khoang kiêu ngạo, trọng mình khinh
người. "Dua nịnh tâm chẳng thật" : Dua nịnh tức là a dua theo người
có quyền có thế, chẳng ngay thẳng, chẳng thật thà. Trong Kinh Lăng Nghiêm nói :
"Nhân mà không thật thì quả quanh co".
Nếu tại nhân địa mà chấp chặt vào pháp hư vọng, ngã mạn tự khoe cao, dua nịnh chẳng
thật, nhân địa chẳng thật, cho nên ngàn vạn ức kiếp, chẳng nghe được danh hiệu của
Phật, cũng chẳng đắc được chánh pháp của Phật, người như thế chẳng có duyên,
khó mà độ thoát được.
Tại San Francisco, mỗi buổi tối người đến tham gia pháp hội nầy, thật là lông phụng
sừng lân, tình hình nầy giống như có một lần Đức Phật cầm lên một ít đất hỏi
Ngài A Nan :"Con xem đất trong tay của ta nhiều, hay đất ngoài đại địa
nhiều ?" Ngài A Nan đáp :"Đương nhiên đất ngoài đại địa nhiều, đất
trong bàn tay của Như Lai ít." Phật lại nói : "Được thân người như
đất trong lòng bàn tay, mất đi thân người như đất ngoài đại địa." Nếu thân
người mất đi thì vạn kiếp khó được lại, đời sau chẳng làm ngạ quỷ thì làm súc
sinh hoặc đọa vào địa ngục. Do đó, có thể thấy, vào thời mạt pháp, người đến
đây học Phật nghe Kinh, hiếm có như vàng thật, còn những người chẳng nghe danh
hiệu Phật, chẳng học Phật như đất, khắp nơi đều có.
"Có mắt chẳng thấy Lô Xá Na,
Có tai chẳng nghe pháp viên đốn."
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, sau đó bị Long Vương thỉnh vào Long cung, nhân gian từ
đó mất đi bộ Kinh nầy, cho đến đời tổ thứ mười bốn Bồ Tát Long Thọ, cảm thấy
trên thế gian chẳng có gì để học, mới dùng thần thông đi xuống Long cung. Ngài
xem thấy ba bộ Kinh Hoa Nghiêm là : thượng, trung, và hạ. Quyển thượng số phẩm
nhiều như hạt bụi trong bốn thiên hạ, quyển trung có bốn mươi chín vạn tám ngàn
tám trăm bài kệ, một ngàn hai trăm phẩm. Quyển hạ có mười ngàn bài kệ, bốn mươi
tám phẩm. Vì quyển thượng và quyển trung quá dài, người thế gian chẳng lãnh thọ
được, cho nên Bố Tát Long Thọ chỉ dùng trí nhớ thuộc lòng quyển hạ, trở về nhân
gian rồi dùng bút chép ra hết toàn quyển Kinh. Cho nên, hiện nay có được bộ
Kinh Hoa Nghiêm là nhờ ân đức của Bồ Tát Long Thọ để lại cho đời sau. Nếu Chúng
ta hiểu rõ ba bộ Kinh nầy (Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm và Pháp Hoa) thì tất cả các
Kinh khác càng dễ minh bạch hơn.
Cho nên Xá Lợi Phất !
Ta vì bày phương tiện
Nói hết các khổ đạo
Mở bày đạo Niết bàn.
Tuy ta nói Niết bàn
Đó cũng chẳng thật diệt
Các pháp từ bổn lai
Tướng thường tự tịch diệt.
Phật tử hành đạo rồi
Đời sau được thành Phật
Ta có sức phương tiện
Mở bày pháp ba thừa.
Nay các đại chúng đây
Đều nên trừ nghi hoặc
Lời chư Phật không khác
Một chẳng có hai thừa.
Xá Lợi Phất ! Ta dùng pháp quyền xảo phương tiện, nói ba tạng giáo lý, muốn
giải thoát mọi sự khổ, cho nên nói : biết khổ, dứt tập, mộ diệt, tu đạo, tức là
pháp bốn Diệu đế. Ta đối với những người căn tính tiểu thừa, thì vì họ mà nói
Niết Bàn : Thường lạc ngã tịnh bốn đức. Tuy ta vì họ mà nói pháp tịch diệt, nhưng
đó là pháp quyền xảo phương tiện, chẳng phải là pháp cứu kính tịch diệt. Tất cả
pháp từ xưa đến nay, pháp tính vốn tự thanh tịnh tịch diệt, gọi là thật tướng.
Bổn thể của nó là tịch diệt, là như như ; như như là tịch diệt ; tịch diệt tức cũng
là như như. "Phật tử hành đạo rồi" : Đệ tử của Phật nghe theo lời
Phật dạy, trước hết tu tiểu thừa, sau đó rồi hồi tiểu hướng đại, hành Bồ Tát
đạo. Tu Bồ Tát đạo viên mãn, thì tương lai sẽ thành Phật. Ban đầu người nhị thừa
chẳng hiểu pháp đại thừa viên đốn, cho nên Phật dùng đủ thứ pháp quyền xảo phương
tiện, mở bày pháp ba thừa (Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát thừa).
Tất cả các Thế Tôn đều nói một thừa đạo. Chư Phật trước nói ba thừa, sau đó đem
ba quy về một, khai quyền hiển thật. Nay các đại chúng Bồ Tát, La Hán, Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, quỷ, thần, trời, rồng, tám bộ chúng đây đều
nên tin sâu giáo lý viên đốn, trừ nghi hoặc, đừng nên đa nghi không tin như hồ
ly. Mùa đông, nước trên mặt sông đóng băng, hồ ly đi qua sông thì mỗi bước đều dùng
tai lóng nghe, để biết chắt chắn là mặt sông đã đóng băng, nhưng nó vẫn chẳng
tin, do đó lóng nghe rồi lóng nghe nữa, cho nên gọi là hồ nghi.
Người chẳng có căn lành, thì nửa tin nửa ngờ đối với Phật pháp, tức cũng tồn
tâm hồ nghi. Tin chẳng chân thật tức là chẳng trừ lòng nghi, tức cũng là ngu si
vô minh. Nếu người có trí huệ Bát nhã, thì chẳng hoài nghi. Vì chẳng có trí huệ
Bát nhã, cho nên giảng pháp chân thật cho họ nghe, thì họ cho rằng là pháp giả,
đó tức là chẳng có trạch pháp nhãn (mắt chọn pháp). Mười phương chư Phật nói pháp
đếu giống nhau, tức là chỉ có một thừa Phật đạo, trí huệ chân thật, ngoài pháp
môn thật tướng chẳng có hai thừa, chẳng có đại thừa, tiểu thừa hoặc Bồ Tát
thừa.
Quá khứ vô số kiếp
Vô lượng Phật diệt độ
Trăm ngàn vạn ức Phật
Số đông không thể lường.
Các Thế Tôn như thế
Đủ thứ duyên thí dụ
Vô số sức phương tiện
Diễn nói tướng các pháp.
Các Thế Tôn đó thảy
Đều nói pháp một thừa
Độ vô lượng chúng sinh
Khiến vào được Phật đạo.
Kiếp, dịch ra nghĩa là "thời phần". Thời phần vốn chẳng có định
nghĩa, chỉ vì tâm niệm của chúng sinh phân biệt mới có quá khứ, hiện tại và vị
lai.
"Các Thế Tôn đó thảy, đều nói pháp một thừa" : Thuở xưa chư Phật nói
ba tạng giáo lý, đều là vì thật thí quyền, mục đích cứu kính là khai quyền hiển
thật, tức cũng là nói pháp một thừa Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. "Độ vô lượng
chúng sinh, khiến vào được Phật đạo" : Khiến cho tất cả chúng sinh đều
được khoái lạc : thường lạc ngã tịnh, bốn đức Niết Bàn.
Các Đấng Đại Thánh Chúa
Biết tất cả thế gian
Trời người loại quần sinh
Trong thâm tâm ưa muốn.
Bèn dùng phương tiện khác
Giúp bày nghĩa đệ nhất
Nếu có loại chúng sinh
Gặp chư Phật quá khứ.
Nếu nghe pháp bố thí
Hoặc trì giới nhẫn nhục
Tinh tấn thiền trí thảy
Tu đủ thứ phước huệ.
Tất cả những người đó
Đều đã thành Phật đạo.
"Các Đấng Đại Thánh Chúa" : Tức là các Đức Phật. Đại Thánh Chúa là
tên khác của Phật. "Biết tất cả thế gian" : Thế gian phân ra gồm có hữu
tình thế gian và khí thế gian. Hữu tình thế gian còn gọi là chánh báo, khí thế
gian còn gọi là y báo. Chánh, y hai báo Phật đều biết đều thấy. "Trời
người loại quần sinh" : Người trên trời và người nhân gian cùng tất cả
loại chúng sinh. "Trong thâm tâm ưa muốn" : Đủ thứ sự ưa muốn trong
thâm tâm của họ, chư Phật đều thấy biết rõ ràng. Do đó, "bèn dùng phương
tiện khác, giúp bày nghĩa đệ nhất" : Vì chư Phật biết sự ưa muốn của chúng
sinh, cho nên bày đủ thứ pháp môn quyền xảo phương tiện, để độ thoát chúng sinh.
Phương tiện ở đây tức là đại thừa, tiểu thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và
Bồ Tát Thừa, đó gọi là phương tiện khác, đều vì hiển lộ Phật thừa nghĩa đệ nhất
mà bày ra. "Nếu nghe pháp bố thí" : Bố thí gồm tài thí, pháp thí và
vô úy thí. "Hoặc trì giới nhẫn nhục" : Hoặc tu trì giới độ, hoặc nhẫn
nhục độ. Hành bố thí độ xan tham, trì giới độ hủy phạm, nhẫn nhục độ sân hận.
"Tinh tấn thiền trí thảy" : Tinh tấn độ giải đãi, thiền định độ tán
loạn, tán loạn tức là chẳng có định lực, trí huệ độ ngu si. "Tu đủ thứ
phước huệ" : Tu sáu độ vạn hạnh, tức cũng là tu phước huệ. "Tất cả
những người đó" : Hết thảy những người nầy. "Đều đã thành Phật
đạo" : Họ đều đã thành Phật đạo. Vì những người nầy ban đầu tu chút chút việc
thiện, ngày tháng tích lũy, từ chút chút mà biến thành nhiều, từ một việc phước
mà trở thành nhiều việc phước ; từ một việc huệ mà trở thành nhiều việc huệ ;
khi nào phước huệ tròn đầy thì Phật đạo cũng thành tựu. Bây giờ chúng ta bắt
đầu tu hành, không biết trong quá khứ bạn đã gieo trồng phước huệ chưa, thì đời
nầy chúng ta gặp được Phật pháp vô thượng, nhất định phải bắt đầu dũng mãnh
tinh tấn tu hành cho đến khi thành Phật.
Sau chư Phật diệt độ
Nếu người tâm tốt lành.
Những chúng sinh như thế
Đều đã thành Phật đạo
Chư Phật diệt độ rồi
Người cúng dường xá lợi.
Tạo vạn ức bảo tháp
Vàng bạc và pha lê
Xa cừ cùng mã não
Châu mai khôi lưu ly.
Thanh tịnh rộng nghiêm sức
Trang trí nơi các tháp
Hoặc dùng đá làm chùa
Chiên đàn và trầm thủy.
Gỗ mật và gỗ khác
Gạch ngói bùn đất thảy
Nếu ở nơi đồng hoang
Chứa đất thành chùa Phật.
Cho đến trẻ con chơi
Vun cát làm tháp Phật
Tất cả những người đó
Đều đã thành Phật đạo.
"Sau chư Phật diệt độ" : Sau khi chư Phật vào Niết Bàn. "Nếu
người tâm tốt lành" : Nếu người có tâm tốt lành hòa diệu, ban đầu xem ra
tuy chỉ có chút chút căn lành, nhưng lâu dần tích lũy được rất nhiều công đức.
"Các chúng sinh như thế, đều đã thành Phật đạo" : Như những chúng
sinh đó cũng đều đã thành Phật. "Chư Phật diệt độ rồi" : Sau khi chư Phật
diệt độ. "Người cúng dường xá lợi" : Tạo tháp cúng dường tất cả xá
lợi của Phật. Tạo tháp thí có từng cấp khác nhau, chỉ có tháp xá lợi của Phật
là mười ba từng, Bích Chi Phật thì năm từng, tứ quả A La Hán thì bốn từng, tam
quả A Na Hàm là ba từng, nhị quả Tư Đà Hàm là hai từng, sơ quả Tu Đà Hoàn là
một từng. "Tạo vạn ức bảo tháp" : Tạo dựng trăm ngàn vạn ức bảo tháp,
dùng gì để tạo ? "Vàng bạc và pha lê" : Hoặc dùng vàng, bạc hoặc pha
lê để tạo tháp. "Xa cừ cùng mã não" : Hoặc dùng đá xa cừ để tạo, hoặc
dùng đá mã não để tạo. "Châu mai khôi lưu ly" : Hoặc dùng đá mai
khôi, hoặc dùng đá lưu ly, hoặc dùng chân châu để tạo tháp. "Thanh tịnh rộng
nghiêm sức" : Dùng đồ thanh tịnh trang nghiêm, để nghiêm sức tháp xá lợi của
Phật. "Trang trí nơi các tháp" : Lại dùng các thứ đồ vật để trang trí
các tháp. "Hoặc dùng đá làm chùa, chiên đàn và trầm thủy" : Hoặc có người
dùng đá làm chùa, hoặc dùng gỗ chiên đàn và gỗ thơm trầm thủy để làm chùa, làm tượng
Phật. "Gỗ mật và gỗ khác, gạch ngói bùn đất thảy" : Gỗ mật tức là gỗ thơm,
hoặc dùng gạch ngói hoặc dùng bùn đất làm chùa. "Nếu ở nơi đồng hoang,
chứa đất thành chùa Phật" : Hoặc ở nơi hoang dã, tích chứa đất thành ngôi
chùa."Cho đến trẻ con chơi, vun cát làm tháp Phật" : Nhẫn đến trẻ con
chơi giỡn, vun một đống cát làm tháp Phật. "Tất cả những người đó, đều đã
thành Phật đạo" : Tất cả những người như thế, tích lũy công đức cũng đều
đã thành Phật.
Nếu như người vì Phật
Kiến tạo các hình tượng
Điêu khắc thành các tướng
Đều đã thành Phật đạo.
"Nếu như người vì Phật, kiến tạo các hình tượng, điêu khắc thành các
tướng" : Dùng đủ thứ vật chất khác nhau để làm tượng Phật, những người nầy
"đều đã thành Phật đạo".
Hoặc làm bằng bảy báu
Vàng thau đồng trắng đỏ
Nhôm chì và chất kẽm
Sắt gỗ cùng với bùn.
Hoặc dùng keo sơn vải
Nghiêm sức làm tượng Phật
Hết thảy những người đó
Đều đã thành Phật đạo.
"Hoặc làm bằng bảy báu" : Hoặc dùng bảy báu : vàng, bạc, lưu ly, pha
lê, xà cừ, xích châu, mã não, để tạo tượng Phật. "Vàng thau đồng trắng
đỏ" : Vàng thau giống như vàng thật, nhưng chẳng phải vàng thật, hoặc là đồng
trắng, đồng đỏ. "Nhôm chì và chất kẽm" : Hoặc dùng chất nhôm, chì,
kẽm để tạo tượng Phật. "Sắt gỗ cùng với bùn" : Hoặc dùng sắt, hoặc
dùng gỗ, hoặc dùng bùn để tạo tượng Phật. "Hoặc dùng keo sơn vải" :
Hoặc dùng keo, sơn, vải để tạo tượng Phật. "Nghiêm sức làm tượng
Phật" : Dùng để trang sức những tượng Phật, trông rất đẹp vô cùng.
Tạo tượng Phật có mười một thứ công đức :
1. Đời đời kiếp kiếp mắt sáng suốt thấy rõ. Tại sao có quả báo như thế ? Vì trong
đời quá khứ đã tạo tượng Phật cho nên mắt thấy rõ sáng suốt.
2. Sinh vào nơi chẳng có người ác, bất cứ chung quanh phải trái trước sau chỗ của
mình ở, họ hàng bạn bè đều là người tốt, chẳng gặp người ác, thú dữ hoặc các
hiểm nạn.
3. Sinh trưởng trong nhà giàu : sinh vào nhà giàu có, vừa có tiền vừa có địa
vị.
4. Thân thể màu hoàng kim. Tại sao thân thể của chúng ta chẳng phải màu hoàng
kim ? Vì trong quá khứ chẳng tạo tượng Phật.
5. Châu báu dồi dào. Nơi nào cũng đầy đủ châu báu.
6. Sinh vào nhà hiền lành. Sinh vào nhà người hiền lành.
7. Được sinh làm vua. Công đức tạo tượng Phật, đời sau được sinh làm vua. Bây giờ
có những nước chẳng có vua, nhưng làm tổng thống và vua đều giống nhau.
8. Được làm Chuyển luân vương. Làm chuyển luân vương càng trân quý hơn, Chuyển
luân vương một khi mà tu thì thành Phật.
9. Không những làm vua ở nhân gian mà còn có thể sinh về cõi trời, sinh về Phạm
thiên, thọ mạng lâu dài.
10. Chẳng đoạ vào đường ác. Người đã từng làm tượng Phật thì sẽ không đọa vào ba
đường ác.
11. Đời đời kiếp kiếp kính trọng Tam Bảo, quy y Tam Bảo, chẳng đọa lạc. Đó là mười
một thứ công đức tạo tượng Phật.
Người tạo tượng Phật tướng mạo rất viên mãn. Tại sao tướng mạo của Phật viên
mãn như thế ? Vì trải qua ba đại A Tăng Kỳ kiếp, chẳng biết Ngài đã tạo bao
nhiêu tượng Phật. Bạn thử tính xem, Ngài gặp bao nhiêu vị Phật ra đời ? A Tăng
Kỳ kiếp thứ nhất gặp hơn bảy vạn năm ngàn vị Phật, A Tăng Kỳ kiếp thứ hai gặp
hơn bảy vạn sáu ngàn vị Phật, A Tăng Kỳ kiếp thứ ba gặp hơn bảy vạn bảy ngàn vị
Phật. Gặp nhiều vị Phật như vậy thì tất nhiên Ngài tạo tượng Phật càng nhiều
hơn, nếu tính thì chẳng biết được số lượng, cho nên tướng mạo của Ngài viên mãn
phi thường. Tạo tượng Phật không những tướng mạo viên mãn, mà còn khiến cho
người sinh tâm ái kính tu phước tu huệ. "Hết thảy những người đó, đều đã thành
Phật đạo" : Những người tạo tượng Phật cũng đều đã thành Phật.
Vẽ hoạ làm tượng Phật
Trăm tướng phước trang nghiêm
Tự làm hoặc bảo người
Đều đã thành Phật đạo.
Cho đến trẻ con chơi
Dùng cỏ cây và bút
Hoặc là dùng móng tay
Mà vẽ họa tượng Phật.
Hết thảy những người đó
Từ từ tích công đức
Đầy đủ tâm đại bi
Đều đã thành Phật đạo.
Giáo hóa các Bồ Tát
Độ thoát vô lượng chúng.
Đoạn Kinh văn ở trên, tuy nói dùng keo sơn vải để tạo tượng Phật, nhưng ở trong
giới luật chẳng đề xướng dùng keo sơn vải để tạo tượng Phật. Vì keo sơn có một
thứ mùi hôi. Và giới luật cũng nói, nếu tượng Phật đứng thì chúng ta người học
Phật không thể ngồi ở trước tượng Phật. Nếu tượng Phật ngồi, thì chúng ta không
thể nằm ở trước tượng Phật, các vị nên biết những điều nhỏ nầy.
"Vẽ họa làm tượng Phật" : Vẽ họa thành tượng Phật. "Trăm tướng
phước trang nghiêm" : Vẽ họa tượng Phật rất trang nghiêm viên mãn.
"Tự làm hoặc bảo người" : Tự mình làm tượng hoặc bỏ tiền ra nhờ người
khác làm tượng Phật. "Đều đã thành Phật đạo" : Những hạng người nầy đều
đã thành Phật. "Cho đến trẻ con chơi" : Nhẫn đến trẻ con đùa giỡn.
"Dùng cỏ cây và bút" : Hoặc dùng cỏ, hoặc dùng cây tạo tượng Phật,
hoặc dùng bút vẽ tượng Phật. "Hoặc dùng đến móng tay" : Hoặc dùng
móng tay chấm mực. "Mà vẽ hoạ tượng Phật."
Thuở xưa, tại Tứ Xuyên có một người chuyên đọc Kinh Kim Cang và dùng tay biên
Kinh Kim Cang ở trong hư không. Mỗi ngày đều đứng tại chỗ đó biên. Về sau mỗi
khi trời mưa thì chung quanh chỗ ông ta biên Kinh Kim Cang mưa chẳng rớt xuống
đất, người đã khai mở ngũ nhãn mới thấy được. Tuy ông ta dùng tay biên Kinh Kim
Cang ở trong hư không, song, thiên long bát bộ cũng đều bảo hộ bộ Kinh Kim Cang
nầy, khiến cho nước mưa chẳng rớt vào chỗ nầy. Cho nên về sau cũng tại chỗ nầy tạo
dựng một ngôi chùa. Do đó, có thế thấy chỉ dùng tay biên ở trong hư không, mà
có cảm ứng lớn như thế. chuyện nầy ghi ở trong linh dị lục của Kinh Kim Cang,
là chuyện có thật.
"Hết thảy những người đó" : Những người nói ở trên là những người tạo
tượng Phật. "Từ từ tích công đức" : Tích lũy công đức dần dần. "Đầy
đủ tâm đại bi, đều đã thành Phật đạo" : Hiện tại đều đã thành Phật đạo.
"Giáo hóa các Bồ Tát" : Phật giáo hóa các Bồ Tát, khiến cho bậc Duyên
Giác, Thanh Văn đều hồi tiểu hướng đại tu pháp Bồ Tát, sau đó hồi hướng Phật
thừa. "Độ thoát vô lượng chúng" : Độ thoát vô lượng vô biên chúng sinh,
cũng đều cùng thành Phật đạo.
Nếu người nơi chùa tháp
Tượng báu và tượng vẽ.
Dùng hương hoa, phan, lọng
Cúng kính mà cúng dường
Hoặc khiến người tấu nhạc
Đánh trống thổi sừng ốc.
Tiêu, sáo, cầm, đờn sắt
Tì bà chụp chã đồng
Các tiếng hay như thế
Đem hết để cúng dường.
"Nếu người nơi chùa tháp" : Nếu có người ở nơi chùa hoặc tháp.
"Tượng báu và tượng vẽ" : Bất cứ đối với tượng báu hoặc tượng vẽ.
"Dùng hương hoa phan lọng". Dùng hương hoa, phan báu và lọng báu, tức
cũng bao gồm những dụng cụ khác như tràng chuỗi, y phục, thực phẩm, âm nhạc
.v.v. "Cung kính mà cúng dường" : Dùng tâm cung kính để cúng dường tượng
Phật. "Hoặc khiến người tấu nhạc" : Hoặc mời người hòa tấu âm nhạc.
"Đánh trống thổi sừng ốc" : Đánh trống hoặc thổi kèn sứng hoặc kèn
ốc. "Tiêu, sáo, cầm, đờn sắt" : Hoặc thổi ống tiêu, ống sáo, hoặc gảy
đàn cầm, đàn sắt. "Tì bà chập chã đồng" : Hoặc gảy đàn tì bà, hoặc
đánh chập chã. Dùng những thứ âm nhạc nầy để tán thán Phật, Pháp, Tăng. Ví như
đánh mõ, đánh chuông cũng là âm nhạc ; tụng Kinh, đọc Chú, ngâm nga kệ tán, đó
cũng đều là dùng âm nhạc để tán thán cúng dường Phật. "Các diệu âm như
thế" : Những âm thanh vi diệu như thế. "Đem hết để cúng dường" :
Dùng những âm thanh vi diệu trang nghiêm nầy để cúng dường Phật.
Hoặc dùng tâm vui mừng
Ca tụng công đức Phật.
Dù chỉ một vài lời
Họ đều đã thành Phật
Hoặc người tâm tán loạn
Cho đến dùng cành hoa.
Cúng dường trước tượng vẽ
Lần thấy vô số Phật
Hoặc có người lễ lạy
Hoặc là chỉ chắp tay.
Cho đến giơ một tay
Hoặc là hơi cúi đầu
Dùng để cúng dường tượng
Lần thấy vô lượng Phật.
Tự thành vô thượng đạo
Rộng độ vô số chúng
Vào Vô dư Niết bàn
Như củi hết lửa tắt.
"Hoặc dùng tâm vui mừng" : Hoặc có người dùng tâm vui mừng khen ngợi
Phật. "Ca tụng công đức Phật" : Tán khen ngợi đức hạnh của Phật.
"Cho đến một vài tiếng" : Dù chỉ ca ngợi tán thán đức hạnh của Phật
một vài tiếng. "Đều đã thành Phật đạo" : Những người đó cũng đều đã
thành Phật đạo, hà huống là người tán thán Phật rất nhiều, thì càng sớm thành
Phật đạo. "Nếu người tâm tán loạn" : Nếu có người tâm tán loạn chẳng
có định lực. "Cho đến dùng cành hoa" : Cho đến dùng một cành hoa để
cúng tượng Phật vẽ. "Lần thấy vô số Phật" : Vì họ tích lũy công đức
cúng dường tượng Phật vẽ, cho nên họ từ từ thấy được vô số Đức Phật. "Hoặc
có người lễ lạy" : Hoặc có người đảnh lễ Phật. "Hoặc chỉ là chấp
tay" : Hoặc có người chắp tay ở trước Phật. "Cho đến giơ một
tay" : Hoặc là giơ một tay lên trán (đây là chỉ hành động ít cung kính).
Hoặc là hơi cúi đầu xuống. "Dùng để cúng dường tượng" : Dùng tâm ít
cung kính nầy để cúng dường tượng vẽ, tượng báu. "Lần thấy vô lượng
Phật" : Do ý niệm phát tâm ban đầu nầy, sẽ lần lần gặp được vô lượng Đức Phật.
"Tự thành vô thượng đạo" : Vì mình tích công lũy đức mà được thành
tựu Phật đạo. "Rộng độ vô số chúng" : Chẳng những mình thành Phật
đạo, mà còn rộng độ vô lượng vô số chúng sinh. "Vào Vô dư Niết Bàn" :
Vào cõi Vô dư Niết Bàn. "Như củi hết lửa tắt" : Giống như củi cháy
hết thì lửa tắt. Cơ duyên của chúng sinh như củi, ứng hiện của Phật như lửa, cơ
củi của chúng sinh đã độ tận thì lửa cũng phải tắt.
Hoặc người tâm tán loạn
Vào đến trong chùa tháp
Miệng niệm Nam Mô Phật
Họ đều đã thành Phật.
"Nếu người tâm tán loạn" : Tâm tán loạn tức là tâm chẳng chuyên nhất,
chẳng có định lực, cũng giống như khách đến đây tham quan chùa, tham quan tượng
Phật, chứ chẳng vì lễ Phật, chỉ là đến tham quan, đó đều gọi là tâm tán loạn,
họ đều chẳng có tâm thành, tuy là đến chùa tham quan, nhưng vốn chẳng biết có
Phật, cho nên có thể nói là, tán loạn trong sự tán loạn. "Vào đến trong
chùa tháp" : Đến chùa hoặc vào tháp Phật. "Miệng niệm Nam Mô Phật, họ
đều đã thành Phật" : Ít nhất họ niệm được một tiếng Nam Mô Phật, do một
niệm ban đầu nầy, mà cứu kính họ đều có thể thành Phật. Tại sao ? Vì đi ngàn
dặm do khởi đầu bước thứ nhất ; vạn đức viên dung , nhờ một niệm ban đầu. Nhờ
trồng nhân Phật một tiếng niệm Phật ban đàu, mà tương lai đắc được quả vị Phật.
Chúng ta niệm Nam Mô Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Nam Mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Bạn thấy rất dễ niệm,
nhưng cơ hội nầy chẳng dễ gì gặp được. Bây giờ các bạn đều biết niệm danh hiệu Phật,
nhưng mọi người hãy nghĩ xem, trên thế giới nầy người không biết niệm Phật
nhiều hay là người biết niệm Phật nhiều ? Cũng có thể nói người chẳng biết niệm
Phật thì nhiều như sao trên bầu trời. Cho nên nói người biết niệm Phật, đều nhờ
căn lành của kiếp trước chín mùi, nên đời nầy mới gặp được pháp môn niệm Phật.
Do đó, các vị phải trân tiếc căn lành của mình, đừng có bỏ lỡ.
Khi Đức Phật còn tại thế, thì Đề Bà Đạt Đà (anh em chú bác với Đức Phật) luôn
luôn làm trái ngược với Đức Phật. Đức Phật dạy đệ tử ăn chay không ăn thịt, thì
Đề Bà Đạt Đa nói với Phật và đệ tử của Phật không những không ăn thịt mà muối
cũng không ăn, đó là muốn biểu thị ông ta cao hơn Đức Phật một bậc. Song, ông
ta chẳng chịu niệm Phật. Ông ta một đời tạo tội nghiệp, khi ông ta sắp hãm vào
địa ngục (tức là nhục thân sống nầy rơi vào địa ngục) thì ông ta đột nhiên nghĩ
muốn niệm Phật. Song, ông ta muốn niệm Phật mà niệm chẳng ra, chỉ niệm được hai
chữ "Nam Mô...", còn chữ Phật thì niệm chẳng ra, đó là vì nghiệp
chướng che đậy ông ta, cho nên niệm chẳng ra được chữ Phật. Đức Phật nói :"Người
nầy cũng rất đáng thương ! Các con đừng khinh thường ông ta, khi ông ta chịu hết
khổ dưới địa ngục, được ra khỏi địa ngục lại tu hành, lúc đó có thể sẽ chứng
Bích Chi Phật, danh hiệu của vị Bích Chi Phật đó là Nam Mô, vì ông ta lúc đó
niệm được hai chữ Nam Mô. Cho nên các bạn đừng coi thường niệm Phật quá dễ dàng
như thế, cho rằng lúc nào cũng có thể niệm Phật được. Hiện tại các bạn chẳng bị
nghiệp chướng che đậy, cho nên mới niệm được dễ dàng, một khi bị nghiệp chướng che
đậy thì bạn muốn niệm cũng niệm chẳng ra.
Và có câu chuyện nầy, cũng vào lúc Đức Phật còn tại thế, thì có một ông già rất
nghèo. Ông ta thấy Đức Phật mỗi ngày dẫn một ngàn hai trăm vị đệ tử ôm bát đi
khất thực, chẳng bận việc đời, rất thanh tịnh tự tại, do đó ông ta cũng muốn
xuất gia. Ông ta đến vườn Cấp Cô Độc để xin xuất gia, nhưng ngày đó Đức Phật đi
vắng. Đệ tử của Phật có những người khai mở ngũ nhãn, khai mở pháp nhãn, khai
mở huệ nhãn hoặc đã hoàn toàn chứng được ngũ nhãn lục thông, cũng có những
người chứng sơ quả, nhị quả, tam quả và tứ quả A La Hán. Khai mở Phật nhãn
chẳng phải là chứng quả, đó gọi là báo đắc thông. Vì rất nhiều người đời đã
từng tu 42 tay và mắt và Chú Lăng Nghiêm, đủ thứ pháp môn, cho nên đắc được quả
báo nầy. Bậc Thánh chứng được sơ quả đến tứ quả, thì có thể biết được nhân duyên
ở trong tám vạn đại kiếp. Ông già nầy muốn xuất gia, nên những vị đệ tử đại A
La Hán của Phật, bèn quán sát xem căn cơ của ông già nầy thế nào, có thể xuất
gia được chăng ? Sau khi quán sát thì thấy ông già nầy trong tám vạn đại kiếp
chẳng cúng dường Phật, cũng chẳng từng lễ Phật, cũng chẳng niệm Phật ; căn bản
chẳng có gieo trồng tơ hào căn lành nào, do đó cho rằng ông ta chẳng thể xuất
gia. Cho nên có câu : "Đừng cho rằng việc xuất gia là dễ". "Đều nhiều
kiếp trồng bồ đề" : Người xuất gia phải đời đời kiếp kiếp, gieo trồng
nhiều căn lành, phát bồ đề tâm, sau đó mới có thể xuất gia, chứ chẳng phải nói
tôi muốn xuất gia, thì có thể xuất gia. Nếu bạn chẳng có căn lành, thì dù muốn
xuất gia cũng có rất nhiều chướng ngại, tức là xuất gia rồi, qua một ngày, hai ngày
hoặc một tháng, hai tháng thì hoàn tục ; hoặc là xuất gia được một năm, hai năm
lại hoàn tục, thậm chí ba năm, năm năm, mười năm sau đều có thể hoàn tục. Cho
nên bạn đừng xem việc xuất gia quá dễ dàng.
Đệ tử của Đức Phật xem thấy ông già nầy, trong tám vạn đại kiếp chẳng có gieo trồng
căn lành, do đó bèn nói với ông ta : "Ông không thể xuất gia được, vì ông
đã lới tuổi, không thể tu hành được, ông nên trở về." Ông già nghe nói rất
buồn rầu, vừa đi vừa khóc tự nhủ :"Ta cho rằng xuất gia quá dễ dàng, không
ngờ đệ tử của Phật chẳng nhận ta, đại khái hiềm ta vừa già vừa nghèo, ta một
đời làm người cũng chẳng có ý nghĩa gì, chết đi cho xong !" Cho nên ông ta
vừa khóc vừa đi đến bờ biển. Lúc đó Đức Phật đến bên ông ta, hỏi ông ta
:"Nầy ông lão, tại sao ông muốn tự tử ?" Ông ta nói : "Tôi muốn
xuất gia, đến vườn Cấp Cô Độc, đức Phật đi vắng, đệ tử của Đức Phật chẳng nhận
tôi. Tôi nghĩ tôi chẳng còn muốn sống nữa, muốn chết đi cho rồi ! " Đức
Phật nói :"Ông muốn xuất gia phải chăng ? Chẳng có vấn đề gì hết ! Ông hãy
theo ta trở về, ta hứa cho ông xuất gia." Ông già theo đức Phật xuất gia
tu hành, chẳng bao lâu thì chứng được quả A La Hán.
Đệ tử của Phật chẳng minh bạch việc nầy, đều cảm thấy kì lạ : "Ông già nầy
chẳng có căn lành, sao lại chứng được quả A La Hán ? Trong tám vạn đại kiếp ông
ta cũng chẳng làm việc tốt, tại sao Phật cho ông xuất gia ?" Do đó, bèn
hỏi Đức Phật.
Đức Phật bèn giải thích : "Các con chỉ có thể thấy biết được nhân quả
trong tám vạn đại kiếp, còn việc ngoài tám vạn đại kiếp, các con chẳng biết
được. Ông già nầy trước tám vạn đại kiếp cũng rất nghèo, một ngày nọ, ông ta
vào rừng đốn củi, thì gặp con cọp muốn ăn thịt ông ta, ông ta leo lên cây trốn,
nhưng vẫn quá sợ hãi bèn niệm "Nam Mô Phật", vì niệm một tiếng
"Nam Mô Phật" thì cọp bỏ đi. Cho nên, đến bây giờ căn lành hạt giống ông
ta niệm "Nam Mô Phật" đã chín mùi, cho nên ông ta đến xuất gia và còn
chứng được quả A La Hán. Từ câu chuyện nầy xem ra, đủ thấy xuất gia chẳng phải
là việc dễ dàng.
Còn có câu chuyện nầy, tại Ấn Độ có một thứ ngoại đạo, họ chuyên cúng dường một
tượng thiên thần. Thân thể của tượng thiên thần nầy dùng bùn hoặc gỗ tạo thành,
còn cái đầu thì làm bằng vàng. Tin nầy bị kẻ trộm biết được, y muốn đi trộm cắp
đầu của thiên thần. Y đến nơi, vì oai đức của vị thiên thần bèn sinh tâm sợ
hãi, lúc đó y bèn khởi niệm "Nam Mô Phật", thì tâm sợ hãi chẳng còn nữa.
Do niệm một tiếng "Nam Mô Phật", mà khiến cho oai đức của thiên thần
chẳng còn linh hiển nữa, cho nên y bèn trộm cắp đầu vị thiên thần. Trộm cắp đi
rồi thì một số người nói : "Ê ! Bạn hãy xem kìa, vị thiên thần mà các vị
đều tin là vị thiên thần chẳng còn linh nữa, nếu Ngài linh thì sao lại bị mất
đầu ? Các vị tin vị thần nầy chẳng có ích gì." Vừa nói như vậy thì linh
tính của vị thiên thần lập tức hiển hiện. (Thần có khi có linh khí, linh khí mà
nhập vào ai, thì người đó bất tỉnh nhân sự.) Lúc đó, thiên thần nhập vào thân
người vừa nói bèn nói rằng : "Ta chẳng phải là không linh ! Kẻ trộm đó vốn
chẳng dám ăn cắp cái đầu của ta, nhưng y niệm Phật một tiếng "Nam mô
Phật", thì quang minh cuả Phật chiếu sáng, khiến cho mắt của ta nhắm lại
chẳng còn mở được, cho nên chẳng có cách chi giữ được đầu của ta, mà bị y ăn cắp
mất, chứ chẳng phải ta chẳng linh, mà là oai đức của Phật quá lớn so với ta,
cho nên ta chẳng cách chi giữ được đầu của ta."
Nói đến đây, có phải nói Phật giúp tên trộm ăn cắp đầu bằng vàng của vị Thiên thần,
kêu y đi tạo nghiệp chăng ? Chẳng phải, mà là công đức niệm Phật không thể nghĩ
bàn. Bất cứ người thiện niệm Phật hoặc người ác niệm Phật, đều có công lực đồng
nhau. Cho nên, tuy nhiên là tên trộm, nhưng y biết niệm "Nam Mô
Phật", cho nên y ăn cắp đầu bằng vàng của vị Thiên thần đi, đó chẳng phải Phật
giúp y trộm cắp, mà là Phật thành tựu căn lành của y. Tại sao nói y ăn cắp đồ,
mà còn có căn lành ? Trong Kinh Pháp Hoa nói : "Xưng được Nam Mô Phật, đều
cùng thành Phật đạo." Tuy lúc đó, y là tên trộm, nhưng y có căn lành niệm
Phật, tương lai nhất định sẽ thành Phật. Đây gọi là : "Thuận nghịch đều tinh
tấn". Do đó, mới nói chẳng phải Phật giúp y ăn cắp đầu vị Thiên thần, mà là
Phật đối đãi với chúng sinh đều bình đẳng. Bất cứ người thiện kẻ ác niệm Phật
đều có cảm ứng như nhau.
Nói đến đây, mọi người đừng hiểu lầm, niệm Phật thì có thể ăn cắp đầu bằng vàng
của vị Thiên thần, vậy tôi cũng niệm Phật đi ăn cắp đầu bằng bạc của vị Thiên
thần, như thế thì không được. Tên trộm nầy chẳng hiểu Phật pháp, chẳng qua nghe
họ nói niệm "Nam Mô Phật" là tốt, y bèn ghi nhớ. Đến lúc sợ sệt, thì
y niệm "Nam Mô Phật", song, y vốn chẳng học qua Phật pháp. Chúng ta
là người học Phật pháp, nên nhớ đừng ỷ vào oai đức niệm Phật, nương quang minh
của Phật mà đi trộm đồ, như thế thì chẳng được ! Vì bạn đã hiểu biết Phật pháp,
biết ăn cắp là phạm giới, bạn đã biết rõ mà cố phạm, thì tội lại thêm tội, về
điểm nầy, mỗi người đều phải nhận thức rõ ràng.
Tại sao phải nói về điểm nầy ? Vì xưa kia có vị Hòa Thượng, trước khi ông ta
xuất gia là một quân nhân, về sau học Phật pháp thì ông ta rất tin pháp môn
niệm Phật và còn luôn luôn hướng dẫn, một số người niệm Phật. Sau khi xuất gia
thọ giới cũng có tôi ở đó, khoảng năm, sáu năm sau thì ông ta đến Hương Cảng.
Hương Cảng tân giới, có một cơ sở của cơ đốc giáo gọi là "đạo phong
sơn", chuyên môn phá hoại Phật giáo, phá hoại người xuất gia. Dùng tiền và
nữ sắc để dụ hoặc khiến cho họ hoàn tục. Có những người xuất gia chẳng có tiền
dùng, hoặc muốn tìm nữ sắc thì đều đi đến đó. Vị Hòa Thượng nầy cũng đến đó và
làm việc nấu ăn. Người xuất gia đến đó đều ăn mặn, chẳng ăn chay, lại còn sát sinh,
giết gà, giết vịt. Vị Hòa Thượng nầy làm bếp, cho rằng niệm Phật thì có thể
siêu độ chúng sinh, cho nên khi ông ta giết gà giết vịt, thì vừa cầm dao giết
thì vừa niệm "Nam Mô A Di Đà Phật ! Nam Mô A Di Đà Phật !" Ông ta cho
rằng khi sát sinh niệm "Nam Mô A Di Đà Phật", thì có thể siêu độ
những con gà con vịt đó. Kết quả, ở chưa quá nửa năm, thì phát sinh bệnh thần
Kinh, chẳng bao lâu thì chết.
Do đó nên biết, biết rõ mà cố phạm thì tội tăng gầp ba. Không sai ! Niệm Phật có
thể siêu độ, nhưng đừng có cho rằng ta giết con vật, thì nó lập tức được vãng
sinh về thế giới Cực Lạc, khi bạn chưa có công phu, thì không thể tùy tiện sát
sinh, không thể nói ta giết nó, thì muốn nó vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Do
đó, chúng ta đừng hiểu lầm niệm Phật, thì có thể tùy tiện tạo nghiệp. Tình hình
vị Hòa Thượng đó chính tôi thấy được. Khi ông ta bệnh thần Kinh thì muốn đến gặp
tôi, nhưng chẳng gặp được tôi. Tên của ông ta là Hoành Huy, là đồ tôn của Lão
Hòa Thượng Hư Vân.
Nơi chư Phật quá khứ
Tại thế hoặc diệt độ
Người nghe được pháp nầy
Đều đã thành Phật đạo.
Các Thế Tôn vị lai
Số đông không thể lường
Các vị Như Lai đó
Cũng phương tiện nói pháp.
Tất cả các Như Lai
Dùng vô lượng phương tiện
Độ thoát các chúng sinh
Vào trí Phật vô lậu.
Nếu có người nghe pháp
Không ai chẳng thành Phật.
"Nơi chư Phật quá khứ" : Ở nơi tất cả chư Phật trong quá khứ.
"Tại thế hoặc diệt độ" : Bất cứ tại thế gian hoặc vào Niết Bàn rồi.
"Nếu nghe được pháp nầy" : Nếu ai nghe được Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
"Đều đã thành Phật đạo" : Tất cả những người trong quá khứ nghe được Kinh
Pháp Hoa, họ đều đã thành Phật. "Các Thế Tôn vị lai" : Tất cả chư
Phật vị lai. "Số đông không thể lường" : Số đông vô lượng vô biên không
thể lường. "Các đức Như Lai đó" : Tất cả các Như Lai Thế Tôn.
"Cũng phương tiện nói pháp" : Cũng dùng pháp môn phương tiện, trước
hết nói quyền giáo, sau mới nói thật giáo. "Tất cả các Như Lai, dùng vô lượng
phương tiện" : Mười phương tất cả chư Phật, dùng vô lượng vô biên pháp môn
phương tiện. "Độ thoát các chúng sinh, vào trí Phật vô lậu" : Khiến
cho tất cả chúng sinh, đều đắc được trí huệ vô lậu của Phật. "Nếu có người
nghe Pháp, không ai chẳng thành Phật" : Tất cả những người đã nghe Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa, chẳng có một người nào mà tương lai không thành Phật.
Cho nên hiện tại chúng ta nghe được Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì tương lai mỗi
người đều có cơ hội thành Phật, đừng xem thường chính mình, vì ba ngàn năm về
trước Đức Phật sớm đã vì người thọ ký.
Bạn đừng cho rằng niệm Phật là việc quá dễ dàng, hiện tại chúng ta niệm một câu
danh hiệu Phật, cảm thấy chẳng khó khăn gì, tại sao ? Vì chúng ta chẳng có
nghiệp chướng sâu nặng, nếu người có nghiệp chướng, nghĩ muốn niệm Phật cũng
niệm chẳng được. Như Đề Bà Đạt Đa đã nói ở trước, ông ta chỉ niệm được hai chữ
"Nam Mô ..." Tại sao ? Vì nghiệp chướng của ông ta quá nặng cho nên chữ
Phật niệm chẳng ra.
Tại Trung Quốc, có câu chuyện nầy cũng chứng minh người nghiệp chướng quá nặng
thì không thể niệm Phật được. Vào thời Nam Tống, có một vị thừa tướng tên là
Tần Cối. Ông ta vốn cũng có chút căn lành, cho nên đời nầy rất thông minh, thi
đỗ trạng nguyên. Song, sau khi ông ta làm quan, thì đố kị ghen ghét người tài
giỏi, nhất là đối với Nhạc Phi như cái đinh trong con mắt, do đó bày kế cho kẻ khác
giết chết, và còn tạo đủ thứ tội nghiệp rất nặng. Vì Bồ Tát Địa Tạng và ông ta
có duyên mới tìm cách để độ ông ta bèn nói : "Ta đến chỗ ông ta, sẽ tha
thứ tất cả tội nghiệp của ông ta." Do đó, Bồ Tát Địa Tạng bèn hóa thân
hiện làm Tỳ Kheo đến gặp Tần Cối. Lúc đó, Tần Cối là tể tướng, gặp Hòa Thượng
đến cũng tiếp đón. Hòa Thượng nói với ông ta : "Ông hãy nên niệm Phật, bây
giờ địa vị của ông đã cao..." Nhưng Tần Cối chẳng niệm, ông ta nói :
"Hà tất phải niệm ?" Ông ta vốn một chữ Phật cũng chẳng nói. Lúc đó, Bồ
Tát hiển thần thông dùng cây phất trần của Ngài, phất một cái thì thân của Tần
Cối quỳ xuống đất, muốn đứng dậy cũng chẳng đứng được. Do đó, Bồ Tát Địa Tạng
dũi tay ra nói : "Ông hãy xem đây ! Trong tay ta là chữ gì ?" Trong
tay Bồ Tát Địa Tạng vẽ chữ Phật, nhưng Tần Cối nhìn rồi bèn lớn tiến nói : "Ta
đi học từ nhỏ, đậu tú tài, đậu cử nhân, đậu tiến sĩ, đậu trạng nguyên. Hiện tại
văn thư của các nước, đều phải qua sự xét duyệt của ta trước, rồi mới quyết
định xử lý như thế nào. Nếu chữ nầy mà ta chẳng biết, thì làm sao mà làm thừa
tướng ? Chữ nầy chẳng phải ta chẳng biết, nhưng chỉ vì ta không niệm !" Bồ
Tát Địa Tạng thấy người nầy, thật là nghiệp chướng quá sâu nặng, chẳng cách chi
độ được ông ta, bèn bỏ đi, sau đó Tần Cối chết thì đọa vào địa ngục.
Do đó có thể thấy, niệm Phật chẳng phải là việc dễ dàng. Tại sao bình thường
chúng ta phải niệm Phật ? Bình thường niệm Phật là chuẩn bị cho lúc lâm chung.
Tại sao không đợi đến lúc lâm chung mới niệm ? Vì tập quán là do sự tích lũy
hằng ngày hằng tháng mà thành. Bình thường bạn chẳng có thói quen niệm Phật,
thì khi đến lúc lâm chung chẳng nghĩ đến niệm Phật, hoặc chẳng biết niệm Phật.
Do đó, bình thường phải học niệm Phật, tu pháp môn tịnh độ, đến lúc lâm chung
thì chẳng sợ hãi bối rối, mà được bình an vãng sinh về thế giới Cực Lạc.
Tại sao phải vãng sinh về thế giới Cực Lạc ? Vì khi Phật A Di Đà tại nhân địa
làm Tỳ Kheo Pháp Tạng, thì đã từng phát 48 đại nguyện. Trong đó có nói :
"Sau khi ta thành Phật, thì tất cả chúng sinh trong mười phương, nếu ai
niệm danh hiệu của ta, thì ta nhất định tiếp dẫn về thế giới của ta, tương lai
sẽ thành Phật. Ở trong thế giới của ta, chúng sinh đều từ hoa sen hóa sinh, nên
thân thể thanh tịnh không nhiễm". Vì Phật A Di Đà phát đại nguyện nầy, nên
tất cả chúng sinh đều nên tu pháp môn niệm Phật, đây là pháp môn tu rất dễ, rất
hợp căn cơ. Trong Kinh nói : "Thời mạt pháp, một ức ngưới tu thì ít có
người đắc đạo, chỉ có pháp môn niệm Phật thì được độ." Nhất là thời đại
mạt pháp hiện nay, pháp môn niệm Phật rất hợp với nhiều người.
Nhưng tại tây phương, hiện tại chẳng phải là thời đại mạt pháp, có thể nói là thời
đại chánh pháp. Tại sao nói là thời đại chánh pháp ? Vì Phật pháp mới truyền
vào nước phương tây, đang thịnh vượng. Cho nên hiện nay tại nước Mỹ, có rất
nhiều người thích tham thiền đả tọa, đó là biểu hiện chánh pháp. Thời kỳ chánh
pháp cũng có thể tu pháp môn niệm Phật ; thời kỳ mạt pháp cũng có thể tu pháp
môn niệm Phật. Pháp môn niệm Phật thời đại nào cũng có thể tu. Nếu ai chẳng hợp
với pháp môn khác, thì có thể tu pháp môn niệm Phật.
Đại sư Vĩnh Minh Thọ nói : "Có thiền có tịnh độ như cọp có thêm
cánh." Vừa tu thiền vừa niệm Phật giống như cọp có thêm cánh. "Đời nầy
làm nhân sư", đời hiện tại có thể làm sư biểu của người. "Tương lai làm
Phật tổ", tương lai có thể làm Phật làm tổ.
Cho nên người chân chánh tham thiền, tức là chân chánh niệm Phật ; người chân chánh
niệm Phật, tức là chân chánh tham thiền. Nói cao hơn một bậc là người chân
chánh trì giới, tức cũng chân chánh tham thiền, người chân chánh tham thiền,
tức cũng chân chánh trì giới. Người chân chánh giảng Kinh thuyết pháp, thì họ
vì giảng Kinh mà giảng Kinh, tức cũng là chân chánh tham thiền. Trong Chứng Đạo
Ca của Vĩnh Gia đại sư có nói :
"Tông cũng thông, lời cũng thông,
Định huệ viên minh chẳng trệ không."
Vừa biết tham thiền, vừa biết giảng Kinh, đó là tông và lời đều thông, tiến
thêm một bước nữa, người chân chánh trì Chú, người chân chánh tu mật tông, tức
cũng chân chánh tham thiền.
Thiền, giáo, luật, mật, tịnh, tuy nói là năm, nhưng quy về gốc chỉ là một, chẳng
có hai. Kỳ thật, nếu nói sâu thêm bước nữa, thì cho đến một cũng chẳng có, thì
làm gì mà có tới năm ? Người chân chánh học Phật pháp, thì tại điểm nầy nên
minh bạch. Cho nên, có người cho rằng pháp môn niệm Phật là tối cao, tham thiền
thì chẳng đúng ; hoặc có người nói tham thiền là tối cao, niệm Phật là sai lầm,
đó đều là những người chẳng hiểu Phật pháp. Người hiểu Phật pháp chân chính, thì
biết rõ tất cả đều là Phật pháp, đều bất khả đắc, tức vô pháp bất khả đắc, hà tất
đầu lại thêm đầu ? Hà tất chẳng có việc tìm việc làm ? Nếu bạn thật hiểu pháp
thì vô pháp khả đắc. Song, đối với những người chẳng hiểu pháp, dù bạn nói với
họ pháp căn bản gì cũng vô ích, sẽ thất vọng. Cho nên Phật thí quyền pháp, là
vì nói thật pháp ; nói quyền trí là vì thật trí. Thật trí là gì ? Thật trí là "quy
vô sở đắc". Thật tướng vô tướng, vô sở bất tướng, đó mới là trí huệ chân thật.
Chư Phật vốn thệ nguyện
Ta tu hành Phật đạo
Muốn hết thảy chúng sinh
Cũng đều được đạo nầy.
Chư Phật đời vị lai
Tuy nói trăm ngàn ức
Vô số các pháp môn
Thật tế vì một thừa.
Chư Phật Lưỡng Túc Tôn
Biết pháp thường vô tánh
Giống Phật từ duyên sinh
Vì thế nói một thừa.
Pháp đó trụ pháp vị
Tướng thế gian thường trụ
Biết rồi nơi đạo tràng
Đạo sư phương tiện nói.
Đoạn Kinh văn ở trước có nói : "Tất cả các Như Lai, dùng vô lượng phương
tiện, độ thoát các chúng sinh, vào trí Phật vô lậu, nếu có ai nghe pháp, chẳng
ai không thành Phật" : Đây là nhân dụ. Kinh Pháp Hoa vốn có "bổn môn
thập diệu, chi môn thập diệu". Song, sợ người không hiểu, cho nên cũng
chẳng nói tỉ mỉ. Bây giờ chỉ nói "nhân (người), hành, giáo, lý", đều
một dạng. Sáu câu vừa nói ở trên là nhân dụ, tất cả mọi người đều thành Phật
đạo. Tiếp theo là : "Chư Phật vốn thệ nguyện, ta tu hành Phật đạo, muốn hết
thảy chúng sinh, cũng đều được đạo nầy". Đây là hành dụ, chỉ sự tu hành
đều như nhau. Cho nên nói : "Chư Phật vốn thệ nguyện" : Mười phương
chư Phật vốn thệ nguyện. "Ta tu hành Phật đạo" : Pháp môn Phật đạo
của ta tu hành. "Muốn hết thảy chúng sinh" : Muốn khiến cho hết thảy
chúng sinh. "Cũng đều được đạo nầy" : Cũng tu hành đạo nầy, chứng được
đạo nầy.
Rõ là vô pháp không chỗ đắc được, sao lại nói được đạo nầy ? Đạo nầy chẳng phải
được từ bên ngoài, như "Vô thượng chánh đẳng cháng giác". Trong Kinh
Kim Cang nói : "Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Đăng, thật chẳng được pháp Vô
thượng chánh đẳng chánh giác". Vô thượng chánh đẳng chánh giác nầy, là tự
tính của chúng ta vốn đầy đủ, chẳng phải được từ bên ngoài. Cho nên nói là
"vô sở đắc", nhưng chúng ta chẳng biết. Ví như trong túi áo có hạt
minh châu, nhưng chúng ta chẳng biết có hạt minh châu. Hạt minh châu nầy như Phật
tánh vốn có của chúng ta, chẳng khác gì với Phật. Vậy tại sao chúng ta chẳng thành
Phật ? Vì chúng ta chẳng phát hiện được Phật tánh vốn có của chính mình. Cho
nên chẳng thành Phật. Thành Phật chỉ bất quá khôi phục lại của báu vốn có của
chúng ta mà thôi. "Cũng đều được đạo nầy" : Khiến cho tất cả chúng sinh,
cũng đều tu hành pháp môn nầy. Đây gọi là hành dụ, tu hành là như nhau. "Chư
Phật đời vị lai". Tất cả chư Phật đời vị lai. "Tuy nói trăm ngàn
ức" : Tuy diễn nói trăm ngàn vạn ức thứ. "Vô số các pháp môn" :
Vô số phương tiện pháp môn. "Thật tế vì một thừa" : Kỳ thật đều vì
nói một thừa pháp.
"Chư Phật Lưỡng Túc Tôn" : Mười phương chư Phật là đấng Lưỡng Túc Tôn
đầy đủ phước và huệ. "Biết pháp thường vô tánh" : Chư Phật biết các
pháp vốn chẳng có tự tánh. "Giống Phật từ duyên sinh" : Chẳng qua các
pháp môn của Phật, đều do duyên mà sinh ra. "Vì thế nói một thừa" :
Vì một thừa Phật giáo mới hiển nói tạng giáo, thông giáo và biệt giáo. Trên
thực tế thì, vì một Phật thừa, đây gọi là giáo dụ, giáo hóa là như nhau.
"Pháp đó trụ pháp vị" : Pháp đó tức là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
"Trụ pháp vị", pháp vị nầy, pháp đó tức là pháp vị. Pháp vị cũng tức
là pháp đó. "Pháp đó trụ pháp vị, tướng thế gian thường trụ" : Pháp
đó trụ pháp vị, trụ ở đâu ? Tức trụ vào tướng thế gian. Tướng thế gian thường
trụ, pháp thế gian tức là pháp xuất thế, pháp xuất thế tức là pháp thế gian. Do
đó, Lục Tổ nói :
"Phật pháp tại thế gian,
Chẳng lìa thế gian giác,
Lìa thế gian cầu bồ đề,
Ví như tìm sừng thỏ."
Giác ở tại thế gian, nếu lìa khỏi pháp thế gian, lại đi tìm sự giác của giác ngộ
nầy, ví như tìm sừng trên đầu con thỏ. "Nơi đạo tràng biết rồi" : Đức
Phật nói, ta ngồi tại Bồ Đề đạo tràng, thành Phật rồi thì biết rõ đạo lý bên
trong. "Đạo Sư phương tiện nói" : Cho nên Đạo Sư của trời người, dùng
đủ thứ phương tiện, để xiển minh diệu pháp nầy, mà lý tánh đắc được đều là một.
Chỗ trời người cúng dường
Hiện tại mười phương Phật
Số đông như Hằng sa
Xuất hiện nơi thế gian.
Vì yên ổn chúng sinh
Cũng nói pháp như thế
Biết tịch diệt bậc nhất
Vì dùng sức phương tiện.
Tuy bày nhiều thừa pháp
Thật tế vì Phật thừa
Biết các hạnh chúng sinh
Nghĩ tưởng trong thâm tâm.
Nghiệp nhiễm trong quá khứ
Tánh dục sức tinh tấn
Và các căn lợi độn
Dùng đủ thứ nhân duyên.
Thí dụ và lời lẽ
Tùy theo phương tiện nói.
"Chỗ trời người cúng dường" : Chỗ đáng cúng dường của trời người.
"Hiện tại mười phương Phật, số đông như Hằng sa". "Xuất hiện nơi
thế gian, vì yên ổn Chúng sinh" : Vì muốn khiến cho chúng sinh đều đắc
được an lạc. "Cũng nói pháp như thế" : Cũng nói bộ Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa nầy. "Biết tịch diệt bậc nhất" : Phật biết pháp thật tướng, là
tịch diệt bậc nhất. "Vì dùng sức phương tiện" : Nếu ban đầu mà Phật
nói diệu lý thật tướng, thì chẳng có ai hiểu, cho nên trước hết dùng đủ thứ sức
phương tiện khéo léo, vì thật thí quyền. "Tuy bày nhiều thừa pháp" :
Tuy khai thị đủ thứ pháp môn, đủ thứ đạo lý. "Thật tế vì Phật thừa" :
Mục đích cứu kính là vì nói Phật thừa, khiến cho chúng sinh đều đặng thành
Phật. "Biết các hạnh chúng sinh" : Phật cũng biết tất cả hạnh nghiệp của
chúng sinh. "Nghĩ tưởng trong thâm tâm" : Cũng minh bạch trong tâm
chúng sinh, nghĩ những gì tưởng những gì. "Nghiệp nhiễm trong quá khứ"
: Tất cả đều là nghiệp quả tập nhiễm của chúng sinh trong quá khứ. "Tánh dục
sức tinh tấn" : Sức dục niệm tinh tấn của họ. "Và các căn lợi
độn" : Còn có sự khác biệt về căn tánh của chúng sinh, có người lợi căn có
người độn căn, Phật đều biết đều thấy. "Dùng đủ thứ nhân duyên" :
Phật dùng đủ thứ nhân duyên. "Ví dụ và lời lẽ" : Ví dụ và lời lẽ.
"Tùy theo phương tiện nói" : Tùy thuận căn tánh của chúng sinh mà ứng
cơ thuyết pháp. Ví như : đối với chúng sinh cang cường khó điều phục, thì Phật
dùng pháp môn từ bi, để cảm hóa họ, đối với chúng sinh ngu si, thì nói Bát Nhã
khiến cho họ khai mở trí huệ, đối với chúng sinh tán loạn, thì dạy họ tu thiền
định, đối với chúng sinh giải đãi, thì kêu họ tu tinh tấn, đối với chúng sinh phạm
giới, thì bảo họ phải giữ giới, đối với chúng sinh tham lam, thì dạy họ tu bố
thí. Tóm lại, dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, để giáo hóa chúng sinh.
Nay ta cũng như thế
Vì yên ổn chúng sinh.
Dùng đủ thứ pháp môn
Mở bày nơi Phật đạo
Ta dùng sức trí huệ
Biết tính chúng sinh muốn.
Phương tiện nói các pháp
Đều khiến được vui mừng
Xá Lợi Phất nên biết !
Ta dùng mắt Phật xem.
Thấy sáu đường chúng sinh
Bần cùng chẳng phước huệ
Vào đường hiểm sinh tử
Khổ liên tục chẳng dứt.
Chấp sâu nơi năm dục
Như trâu mao mến đuôi
Bởi tham ái tự che
Đuôi mù chẳng thấy được.
Chẳng cầu thế của Phật
Và pháp diệt trừ khổ
Vào sâu các tà kiến
Lấy khổ muốn bỏ khổ.
Phật vì chúng sinh nầy
Mà sinh tâm đại bi.
"Nay ta cũng như thế" : Ta Thích Ca Mâu Ni nói pháp, cũng như chư
Phật ba đời quá khứ hiện tại và vị lai. "Vì yên ổn chúng sinh" : Muốn
khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được yên ổn khoái lạc. "Dùng đủ thứ
pháp môn, mở bày nơi Phật đạo". "Ta dùng sức trí huệ" : Ta dùng
sức trí huệ chân thật của Phật. "Biết tánh dục chúng sinh" : Đối với tánh
dục của tất cả chúng sinh rõ như chỉ bàn tay. "Phương tiện nói các
pháp" : Hay dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để giáo hóa chúng sinh.
"Đều khiến được vui mừng" : Khiến cho họ pháp hỷ sung mãn, đắc được
chân chánh khoái lạc.
"Xá Lợi Phất nên biết" : Xá Lợi Phất ông nên biết. "Ta dùng mắt
Phật xem, thấy sáu đường chúng sinh" : Thấy tất cả chúng sinh trong sáu
nẻo. "Bần cùng chẳng phước huệ" : Chúng sinh trong sáu nẻo, đều mê
hoặc chẳng giác ngộ, vì chẳng có trí huệ, chẳng có phước báu. Tại sao chẳng có
phước báu, chẳng có trí huệ ? Vì chẳng hiểu Phật pháp, cho nên bần cùng. Vậy
phước huệ từ đâu mà có ? Do tu đạo mà có. Sáu đường chúng sinh chẳng hiểu Phật
pháp, thật là đáng thương xót. "Vào đường hiểm sinh tử" : Một khi mà
vào trong đường hiểm ác sinh tử, tuần hoàn không ngừng, thì thật là nguy hiểm
vô cùng. Dó đó :
"Một khi mất thân người,
Vạn kiếp khó được lại".
Một lần nọ, Đức Phật bốc một ít đất bỏ vào trong lòng bàn tay, hỏi Ngài A Nan :
"Đất ở trong tay của ta nhiều, hay đất ngoài đại địa nhiều ?" Ngài A
Nan đáp : "Đất ngoài đại địa nhiều, đất ở trong tay của Phật ít." Đức
Phật nói : "Được thân người như đất trong lòng bàn tay, mất thân người như
đất ngoài đại địa." Có thể thấy, vào đường hiểm sinh tử thật là nguy hiểm
!
"Khổ liên tục không ngừng" : Liên tục tức là đời nầy nối tiếp đời
sau, thay đổi liên tiếp nhân khổ, quả khổ, báo khổ, chẳng gián đoạn. "Chấp
sâu nơi năm dục" : Vì sao khổ nầy chẳng gián đoạn ? Vì chúng sinh chấp trước
thâm sâu nơi năm dục : Tài, sắc, danh, ăn, ngủ, tức cũng là sắc, thanh, hương, vị,
xúc, năm thứ dục trần. "Như trâu mao mến đuôi, bởi tham ái tự che" :
Trâu mao là một giống trâu, bản tánh của nó rất thích cái đuôi của nó, cho nên
nó luôn luôn bảo vệ đuôi của nó, bởi thế nên có nhiều người sinh tâm tham muống
được nó, cuối cùng trâu mao vì bảo vệ đuôi của nó mà mất mạng. "Đuôi mù chẳng
thấy được" : Đuôi mù đen tối chẳng thấy được gì. "Chẳng cầu thế của
Phật" : Người chẳng có trí huệ, giống như kẻ mù. Nếu chẳng có thiện trí
thức dẫn dắt, thì giống như ở trong bóng tối, chẳng thấy được ánh sáng, chẳng biết
gì cả, họ cũng chẳng cầu Phật trợ giúp họ. Phật có thế lực rất lớn, hay cứu tất
cả khổ nạn của chúng sinh. "Và pháp diệt trừ khổ" : Hoặc là cầu Phật
chỉ bày phương pháp dứt khổ. "Vào sâu các tà kiến" : Vì họ chẳng cầu trí
huệ, tự cho rằng đúng, cho nên đui mù dẫn dắt bọn tùy tùng, lâu dần thì vào sâu
các tà kiến. Con người, có lúc rất kì lạ, bạn dạy họ chánh pháp, dạy đi dạy lại
họ học cũng chẳng vào. Nếu dạy họ tà pháp, thì chỉ dạy một lần thì họ lãnh hội.
Đó là nguyên nhân gì ? Vì đời đời kiếp kiếp đã chấp chặt vào tà kiến, cho nên
học pháp tà rất dễ dàng, còn chánh pháp thì chúng ta đã lìa nó quá xa, do đó dù
có học cũng chẳng dễ gì nhớ được. "Lấy khổ muốn bỏ khổ" : Muốn bỏ hết
các thứ khổ của mình đi, thật là việc chẳng dễ dàng. Trước hết, phải minh bạch gì
là gốc khổ của sự khổ ? Vô minh là gốc rễ của khổ. Do đó, "đủ thứ vô minh
là gốc khổ, gốc khổ trừ sạch tồn căn lành, bằng sức oai thần kiếm trí huệ, vượt
khỏi luân hồi trong sáu đường". Vô minh là gốc khổ, nếu bạn đoạn trừ sạch
vô minh, thì gốc khổ cũng dứt. Làm cách nào mới đoạn được vô minh ? Chỉ dùng
thanh kiếm trí huệ của chính bạn, nếu bạn biết dùng kiếm trí huệ, thì có thể
chặt đứt gốc rễ vô minh, chặt đứt gốc rễ vô minh, mới có thể vượt ra khỏi luân
hồi. "Phật vì chúng sinh nầy" : Phật vì những người đang trôi nổi ở
trong biển khổ, chúng sinh khổ nạn chẳng có ngày ra. "Mà sinh tâm đại
bi" : Phật sinh ra nguyện lực đại từ đại bi để cứu độ tất cả chúng sinh.
Xưa ta ngồi đạo tràng
Xem cây cũng kinh hành.
Trong hai mươi mốt ngày
Suy nghĩ việc như vầy :
Trí huệ mà ta được
Rất nhiệm mầu bậc nhất.
Các chúng sinh độn căn
Tham vui si làm mù
Những loại người như thế
Làm sao mà độ được !
Lúc đó, có Phạm Vương
Và các trời Đế Thích
Bốn Thiên Vương hộ đời
Cùng trời Đại Tự Tại.
Và các chúng trời khác
Quyến thuộc trăm ngàn vạn
Cung kính chắp tay lễ
Thỉnh ta chuyển pháp luân.
Ta liền tự suy nghĩ :
Nếu chỉ khen Phật thừa
Chúng sinh đắm nơi khổ
Không thể tin pháp nầy.
Vì phá pháp chẳng tin
Đọa trong ba đường ác
Ta thà không nói pháp
Mau vào cõi Niết bàn.
"Xưa ta ngồi đạo tràng" : Đức Phật nói : Ta ban đầu ngồi bốn mươi
chín ngày, dưới cội Bồ Đề đạo tràng thành Phật thì, "Xem cây cũng kinh
hành" : Ta thành Phật rồi, ngồi dưới cội bồ đề quán sát nhân duyên trong quá
khứ và trong tương lai, có lúc cũng đi kinh hành. Đi kinh hành là gì ? đi kinh hành
tức là đi chung quanh cây, để vận động và nhiếp tâm, khiến cho tâm chẳng tán
loạn. Tâm của Phật vốn chẳng tán loạn, cần gì phải đi kinh hành ? Sở dĩ Phật
làm như thế, là vì chúng sinh sau nầy cũng tu hành theo như thế. "Trong
hai mươi mốt ngày, tư duy việc như vầy" : Trong ba tuần lễ suy nghĩ việc
giáo hóa chúng sinh như thế nào. "Trí huệ mà ta được" : Trí huệ mà ta
đắc được. "Rất nhiệm mầu bậc nhất" : Là nhiệm mầu bậc nhất trong thiên
hạ. "Các chúng sinh độn căn" : Căn cơ của chúng sinh rất ngu si ám
độn. "Tham vui si làm mù" : Họ đam mê dục lạc mà biến thành ngu si.
"Những loại người như thế" : Loại chúng sinh chẳng có trí huệ giống như
người mù nầy. "Làm sao mà độ được" : Ta làm sao mà độ chúng được !
"Lúc đó, các Phạm Vương" : Lúc đó, Đại Phạm Thiên Vương của cõi trời
sắc giới. "Và các trời Đế Thích" : Và Thiên Chúa trời Đao Lợi (Đế
Thích Thiên Vương). "Tứ Thiên Vương hộ đời" : Và Tự Đại Thiên Vương
bảo hộ thế giới. "Và Đại Tự Tại Thiên" : Và Thiên Chúa Ma Hê Thủ La
(Đại Tự Tại Thiên Vương). "Và các Thiên chúng khác" : Và Thiên chúng
các cõi trời khác. "Quyến thuộc trăm ngàn vạn" : Mỗi vị Thiên Vương
suất lãnh trăm ngàn vạn quyến thuộc. "Cung kính chắp tay lễ" : Đều cung
kính chắp tay làm lễ ở trước Đức Phật. "Thỉnh ta chuyển pháp luân" :
Họ đều thỉnh cầu ta chuyển bánh xe pháp. "Ta liền tự suy nghĩ" : Vì
nhiều chúng sinh chư Thiên thỉnh cầu Đức Phật thuyết pháp, do đó Ngài lại phải một
phen suy nghĩ. "Nếu chỉ khen Phật thừa" : Nếu ta chỉ nói một Phật thừa,
không nói các pháp tiểu thừa khác. "Chúng sinh đắm nơi khổ" : Nếu
chúng sinh khổ biết Phật đạo lâu xa, khó khăn, phải trải qua ba đại A Tăng Kỳ
kiếp mới thành Phật, đều nhìn biển mà thở dài, sợ pháp quá cao sâu mà chẳng muốn
học. Ví như : Có người chưa nghe Kinh, thì chẳng sinh tâm hoan hỉ đối với Kinh,
một khi thấy bộ Kinh Pháp Hoa quá dày, biết khi nào nghe cho hết ? Làm sao có
nhiều thời gian để nghe ? Do đó, cũng chẳng nghe. Nếu bạn đắc được từ vị của
Phật pháp, thì sẽ thấy rằng Phật pháp, chiếm địa vị quan trọng thiết yếu trong
cuộc sống, thậm chí không ăn, không ngủ, cũng nhất định phải học Phật pháp.
Chiếu theo quy cụ Phật giáo, nếu trong khoảng bốn mươi dặm có người tụng Kinh thuyết
pháp, thì cư sĩ học Phật đều nên đi nghe Kinh. "Chúng sinh đắm nơi khổ, không
thể tin pháp nầy" : Vì chúng sinh căn cơ ngu độn, nếu Phật nói ra một thừa
pháp thì họ chẳng tin. "Vì phá pháp chẳng tin" : Chúng sinh chẳng
những không tin, mà còn có hành vi hủy báng pháp. Đối với diệu pháp nầy, một khi
sinh tâm hủy báng, thì tạo vô lượng vô biên tội lỗi. "Đọa trong ba đường
ác" : Tương lai sẽ đọa vào ba đường ác : địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
"Ta thà chẳng nói pháp" : Phật sợ chúng sinh hủy báng pháp chẳng tin,
mà đọa vào ba đường ác, cho nên thà chẳng nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. "Mau
vào cõi Niết Bàn" : Phải mau vào cõi Niết Bàn, không nên ở tại thế gian
chuyển pháp luân.
Liền nhớ Phật quá khứ
Thực hành sức phương tiện
Nay ta đắc được đạo
Cũng nên nói ba thừa.
Suy nghĩ như thế thì :
Mười phương Phật đều hiện
Tiếng Phạm an ủi ta
Lành thay Đức Thích Ca !
Đấng Đạo sư bậc nhất
Được pháp vô thượng nầy
Thuận theo tất cả Phật
Mà dùng sức phương tiện.
Chúng ta cũng đều được
Pháp tối diệu bậc nhất
Vì các loại chúng sinh
Phân biệt nói ba thừa.
Trí kém ưa pháp nhỏ
Chẳng tự tin thành Phật
Cho nên dùng phương tiện
Phân biệt nói các quả.
Tuy là nói các quả
Chỉ vì dạy Bồ Tát.
"Liền nhớ Phật quá khứ" : Tuy nghĩ như thế, nhưng Phật lại nghĩ nhớ
sâu xa, tất cả pháp của Phật quá khứ. "Thực hành sức phương tiện" :
Và sức phương tiện của chư Phật thực hành trong quá khứ. "Nay ta đắc được đạo"
: Hiện nay ta đắc được Phật đạo. "Cũng nên nói ba thừa" : Cũng nên vì
thật thí quyền, nói giáo lý ba thừa. "Suy nghĩ như thế thì" : Ta vừa
suy nghĩ như thế thì. "Mười phương Phật đều hiện" : Mười phương chư
Phật đều hiển hiện ở trước mắt của ta. "Tiếng Phạm an ủi ta" : Các
Ngài dùng tiếng phạm âm thanh tịnh của Phật, để an ủi ta và còn nói với ta :"Lành
thay Đức Thích Ca ! Đức Thích Ca Ngài tốt lắm". "Đấng Đạo Sư bậc
nhất" : Ngài thật là đấng Đạo Sư bậc nhất của thế gian. "Được pháp vô
thượng nầy" : Ngài đắc được diệu pháp vô thượng nầy. "Thuận theo tất cả
Phật" : Ngài tùy thuận tất cả chư Phật trong mười phương. "Mà dùng
sức phương tiện" : Cũng vận dụng sức quyền xảo phương tiện. "Chúng ta
cũng đều được" : Chúng ta mười phương chư Phật, cũng đều đắc được diệu
pháp như nhau. "Pháp tối diệu bậc nhất" : Đây là pháp tối vi diệu bậc
nhất. "Vì các loại chúng sinh" : Chúng ta vì quan hệ với chúng sinh.
"Phân biệt nói ba thừa" : Cho nên phân biệt nói Thanh Văn, Duyên Giác
và Bồ Tát ba thừa. "Trí kém ưa pháp nhỏ" : Người độn căn kém trí huệ
chỉ ưa thích pháp nhỏ, họ chẳng có căn tánh đối với pháp lớn, như trẻ nhỏ chỉ biết
chơi vật nhỏ, nếu bạn cho chúng vật lớn, thì chúng chẳng biết chơi. Cho nên đối
với người tiểu thừa, chỉ nói pháp tiểu thừa đối với họ, nếu nói pháp đại thừa, thì
họ hồ đồ chẳng hiểu được. "Chẳng tự tin thành Phật" : Sao họ muốn
nghe pháp mà chẳng nói pháp lớn cho họ nghe ? Vì họ chẳng tin mình sẽ thành
Phật. "Cho nên dùng phương tiện" : Do đó, trước hết dùng pháp môn
quyền xảo phương tiện. "Phân biệt nói các quả" : Phân biệt nói : sơ
quả, nhị quả, tam quả và tứ quả. "Tuy là nói ba thừa" : Tuy nhiên
phân biệt nói ba thừa. "Nhưng chỉ dạy Bồ Tát" : Song, thật tế thì chỉ
vì giáo hóa Bồ Tát, tu hành pháp môn Phật thừa.
Xá Lợi Phất nên biết !
Ta nghe tiếng của Phật.
Rất thanh tịnh nhiệm mầu
Xưng Nam Mô chư Phật !
Ta lại nghĩ như vầy :
Ta ra đời ác trược.
Như chư Phật đã nói
Ta cũng thuận làm theo
Suy nghĩ việc nầy rồi
Bèn đến vườn Lộc Uyển.
Các pháp tướng tịch diệt
Không thể dùng lời nói
Bèn dùng sức phương tiện
Vì năm Tỳ Kheo nói.
"Xá Lợi Phất nên biết" : Xá Lợi Phất ông nên biết. "Ta nghe
tiếng của Phật" : Ta nghe mười phương chư Phật khen ngợi ta, nói ta là đại
Đạo Sư bậc nhất. "Rất thanh tịnh nhiệm mầu" : Âm thanh của chư Phật
rất nhiệm mầu thanh tịnh. "Xưng Nam Mô chư Phật" : Mười phương chư
Phật cũng xưng Nam Mô chư Phật, ta cũng xưng Nam Mô chư Phật, Phật với Phật khen
ngợi với nhau. "Ta lại nghĩ như vầy" : Ta lại suy nghĩ như thế nầy.
"Ta ra đời ác trược" : Ta hiện ra thế giới Ta Bà đời ác năm trược.
"Như chư Phật đã nói, ta cũng thuận làm theo" : Ta cũng tùy thuận
theo phương thức giáo hóa, của mười phương chư Phật mà hành sự. "Suy nghĩ
việc nầy rồi" : Ta nghĩ sự việc đã qua rồi. "Bèn đến vườn Lộc
Uyển" : Vườn Lộc Uyển ở thành Ba La Nại, đức Phật lập tức đi đến vườn Lộc Uyển.
Vì sao mà có tên là "vườn Lộc Uyển" ? Thuở xưa, có hai con nai chúa,
một con là tiền thân của Đức Phật Thích Ca, nhiều đời nhiều kiếp về trước, là
một con nai chúa rất từ bi. Và một con là tiền thân của Đề Bà Đạt Đa. Lúc đó,
có một vị vua rất thích đi săn, thường thường mang quân lính vào vườn nai săn
bắn, mỗi lần đi đều săn được rất nhiều nai. Do đó, hai con nai chúa mới hội nghị,
nai chúa Thích Ca Mâu Ni nói : "Chúng ta hãy đi đến thỉnh nguyện với Đức
Vua !" Nai chúa Đề Bà Đạt Đa nói : "Chúng ta thỉnh nguyện như thế nào
?" Nai chúa Thích Ca Mâu Ni nói : "Chúng ta yêu cầu Đức Vua mỗi ngày
mình mang đến cho vua một con nai, để vua dùng, như thế thì lũ nai chúng ta mới
không tuyệt chủng, mà hằng ngày vua cũng có thịt nai mới dùng. Nếu vua mà đi
săn thì sẽ săn hết lũ nai chúng ta, mà mỗi ngày vua chẳng ăn bao nhiêu, còn lại
cũng bỏ đi. Tôi tin rằng vua sẽ đồng ý với chúng ta." Nai chúa Đề Bà Đạt Đa
nghe rồi nói : "Tốt lắm ! Vậy chúng ta hãy đi thỉnh cầu !"
Do đó, hai con nai chúa bèn đi đến thỉnh cầu với Đức Vua, vừa đến cửa cung
điện, thì quân lính thấy hai con nai to lớn, bèn cầm thương giáo muốn giết. Hai
con nai chúa nói : "Các ông đừng giết, hôm nay chúng tôi đến cầu kiến Đức
Vua." Quân lính thấy nai biết nói, rất lấy làm lạ, lập tức đi báo cho vua
biết, nói có hai con nai biết nói. Đức Vua rất ngạc nhiên, bàn truyền cho chúng
vào. Hai con nai chúa đem lời thỉnh cầu nói ra cho vua nghe. Vua thấy nai biết
nói, đã lấy làm lạ, lại nghe lời thỉnh cầu của họ rất hợp lý, do đó đồng ý nói
: "Được lắm ! Mỗi ngày các vị hãy mang một con nai đến !" Từ đó về sau,
mỗi ngày đều mang đến cho vua một con nai, vua mỗi ngày đều thưởng thức thịt
nai tươi.
Một ngày nọ, nai chúa Thích Ca Mâu Ni đột nhiên thân tự đến hiến cúng. Vua ngạc
nhiên hỏi : "Ngươi là nai chúa, sao lại có thể đến hiến thân, trừ khi
quyến thuộc của ngươi chẳng còn nữa ?" Nai chúa Thích Ca Mâu Ni nói :
"Quyến thuộc của ta chẳng những còn, mà càng ngày sinh sản càng nhiều.
Chúng tôi mỗi một nai chúa quản lý năm trăm con nai, mà mỗi ngày chỉ dâng một
con cho vua, nai mẹ còn lại lại sinh ra rất nhiều nai con, cho nên hiện tại lũ
nai của chúng tôi đã sinh sản phồn thịnh thêm nhiều, chẳng qua bây giờ có một
nguyên nhân, cho nên chính tôi tự đến đây hiến cúng. Đức Vua nói : "Nguyên
nhân gì ?" Nai chúa nói : "Hôm nay đến phiên của một con nai mẹ hiến
cúng, nhưng con nai mẹ đó đang mang thai một con nai con, chỉ còn ít hôm nữa
thì sẽ sinh ra nai con, do đó nai mẹ đi yêu cầu các con nai khác đổi phiên, đợi
khi nào sinh ra nai con thì sẽ đến để hiến cúng, nhưng chẳng có con nai nào chịu,
cho nên con nai mẹ đó đến thương lượng với tôi, chẳng còn cách nào khác, nên
hôm nay chính tôi tự đến để thế nai mẹ đó."
Đức Vua nghe xong, cảm thấy việc nầy rất kỳ lạ, vua minh bạch : "Nai cũng
đều là chúng sinh ! Tại sao ta hằng ngày phải ăn thịt nai ? Lúc đó, Đức Vua nói
bài kệ :
"Ngài làm nai đầu người,
Ta làm người đầu nai,
Từ nay trở về sau,
Chẳng ăn thịt chúng sinh."
Nghĩa là : Tuy ngươi làm thân nai, nhưng tâm của ngươi nhân từ phi thường, còn tốt
hơn so với con người. Tuy nhiên ta là người, nhưng tâm ta chẳng bằng tâm loài
nai. Từ nay về sau, bất cứ thịt gì, ta cũng không ăn nữa. Nai chúa làm cho Đức
Vua cảm động, từ đó vua bắt đầu ăn chay. Do quan hệ về câu chuyện nầy, cho nên
nơi đó có tên là vườn Lộc Uyển (vườn Nai).
Vườn Lộc Uyển là nơi non xanh nước biếc, có luồng linh khí, cho nên có rất
nhiều người tu hành đang tu hành tại đó.
Ban đàu, Đức Phật xuất gia tu đạo, thì có năm người hầu hạ cho Ngài. Trong năm người
nầy, bà con phía cha ba người, và hai người bà con phía mẹ. Sau nầy, họ đều lìa
bỏ Ngài. Vì sao ? Đức Phật tu tại núi tuyết, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, trong
đó có ba người chịu chẳng đặng bỏ đi trước, đến Vườn Lộc Uyển tu đạo. Còn lại
hai người tu với Đức Phật. Một lần nọ, thấy thiếu nữ chăn dê dâng cúng cho Đức
Phật bát sữa bò, lúc đó Đức Phật ốm gầy như cây củi. Phật thấy sữa bò cũng vui
mừng tiếp nhận sự cúng dường. Hai ngưới thấy Phật uống sữa bò, thì cho rằng Đức
Phật hết chịu nổi sự khổ hạnh, chẳng thể tu thành đạo mới nói : "Tu hành
phải tu khổ hạnh, bây giờ Ngài chẳng chịu được sự khổ hạnh, chúng tôi chẳng
muốn ở đây, hầu hạ một người chẳng thành tựu." Do đó, hai người nầy cũng
bỏ đi luôn, chỉ còn lại một mình Đức Phật tu ở đó, sau đó Đức Phật đến dưới cội
bồ đề, tĩnh tọa bốn mươi chín ngày, thấy sao mai mọc mà ngộ đạo.
Đức Phật ban đầu tu đạo rất gian nan khốn khổ, bây giờ chúng ta tu đạo, chịu một
chút khổ mà chịu chẳng được.
"Các pháp tướng tịch diệt" : Đức Phật biết tướng tịch diệt của tất cả
các pháp, nó chẳng có tướng mạo. "Không thể dùng lời nói" : Chỉ có
thể lý hội mà không thể nói ra, tức cũng là "ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ
diệt". "Bèn dùng sức phương tiện" : Cho nên Phật phải dùng
phương tiện khéo léo. "Vì năm Tỳ Kheo nói" : Đó là vì năm vị Tỳ Kheo
Kiều Trần Như nói pháp. Năm vị Tỳ Kheo là : Kiều Trần Như, Ngạch Tiên, Bạt Đề,
Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, tức cũng là năm người hầu nói ở đoạn trên.
Đức Phật thành Phật rồi, biết năm vị Tỳ Kheo đó, đang tu tại Vườn Lộc Uyển. Vừa
quán nhân duyên thì biết, trước hết độ năm Tỳ Kheo nầy, do đó Phật đến Vườn Lộc
Uyển, vì năm vị Tỳ Kheo ba lần nói diệu pháp bốn Đế.
Gọi là chuyển pháp luân
Bèn có tiếng Niết bàn
Cùng với A la hán
Tên Pháp, Tăng khác biệt.
Từ kiếp xưa đến nay
Khen ngợi pháp Niết bàn
Dứt hẳn khổ sinh tử
Ta thường nói như thế.
Xá Lợi Phất nên biết !
Ta thấy các Phật tử
Người chí cầu Phật đạo
Vô lượng ngàn vạn ức.
Đều dùng tâm cung kính
Đồng đến chỗ chư Phật
Từng theo nghe chư Phật
Dùng phương tiện nói pháp.
Ta liền nghĩ thế nầy :
Sở dĩ Phật ra đời
Đều vì nói Phật huệ
Nay đúng là phải thời.
Xá Lợi Phất nên biết !
Người độn căn trí nhỏ
Kẻ chấp tướng kiêu mạn
Chẳng thể tin pháp nầy.
Nay ta vui chẳng sợ
Ở trong chúng Bồ Tát
Ta bỏ ngay phương tiện
Chỉ nói đạo vô thượng.
Bồ Tát nghe pháp nầy
Lưới nghi đều đã trừ
Ngàn hai trăm La Hán
Thảy đều sẽ thành Phật.
"Gọi là chuyển pháp luân" : Phật vì năm vị Tỳ Kheo Kiều Trần Như,
chuyển bánh xe pháp bốn Diệu Đế. Chuyển bánh xe pháp bốn Diệu Đế là gì ? Ban
đàu, Phật độ năm vị Tỳ Kheo nói :
"Đây là khổ, tính bức bách.
Đây là tập, tính chiêu cảm.
Đây là diệt, tính có thể chứng.
Đây là đạo, tính có thể tu."
Đây gọi là chuyển lần thứ nhất. Sự khổ đối với con người có tính chất bức bách.
Tập, là chỉ phiền não kết tập, phiền não có tính chiêu cảm, do chiêu cảm mà
đến. Diệt, là tịch diệt Niết Bàn, thường lạc ngã tịnh, bốn đức Niết Bàn. Đạo,
đạo nầy nên tu hành, đây là chuyển lần thứ nhất.
Kế tiếp lại chuyển lần thứ hai :
"Đây là khổ, các ông nên biết".
"Đây là tập, các ông nên đoạn", phiền não chỉ là khách trần mà thôi,
chẳng phải là chủ nhân, do bên ngoài chiêu cảm mà đến, do đó các ông phải đoạn
trừ. Lại nói :
"Đây là diệt, các ông nên chứng". Niết Bàn thường lạc ngã tịnh khoái
lạc, các ông nên chứng đắc.
"Đây là đạo, các ông nên tu."
Sau đó, chuyển lần thứ ba nói :
"Đây là khổ, ta đã biết."
"Đây là tập, ta đã đoạn."
"Đây là diệt, ta đã chứng."
"Đây là đạo, ta đã tu."
Ta cũng đã tu ba mươi bảy đạo phẩm. Đây là chuyển lần thứ ba. Đức Phật vừa nói pháp
lần thứ ba xong, thì Kiều Trần Như một trong năm vị minh bạch được nguyên do
của khách trần mà chứng quả. Đây gọi là chuyển bánh xe pháp bốn Diệu Đế.
"Bèn có tiếng Niết Bàn" : Đức Phật chuyển bánh xe pháp bốn Diệu Đế,
có nói đến tịch diệt Niết Bàn khoái lạc, cho nên phát ra diệu âm Niết Bàn.
"Cùng với A La Hán" : Cùng với danh từ A La Hán, sơ quả, nhị quả, tam
quả và tứ quả A La Hán. "Tên Pháp, Tăng khác biệt" : Pháp là bốn Diệu
Đế : Khổ, tập, diệt, đạo. Tăng là A La Hán. Vì có Pháp, có Tăng nhiều danh từ
khác biệt. "Từ kiếp xưa đến nay" : Ta từ kiếp lâu xa, tu Phật đạo đến
nay. "Khen ngợi pháp Niết Bàn." "Dứt hẳn khổ sinh tử" : Nếu
ông chứng được diệu lý Niết Bàn, thì sẽ vĩnh viễn dứt khổ sinh tử. "Ta
thường nói như thế" : Từ kiếp lâu xa đến nay, ta vì các ông luôn luôn nói pháp
nầy.
"Xá Lợi Phất nên biết" : Xá Lợi Phất ông nên biết. "Ta thấy các
Phật tử" : Ta thấy tất cả Phật tử. "Người chí cầu Phật đạo" : Người
lập chí trên cầu Phật đạo. "Vô lượng ngàn vạn ức" : Số đông vô lượng
ngàn vạn ức. "Đều dùng tâm cung kính" : Hết thảy đều dùng tâm cung
kính. "Đồng đến chỗ chư Phật" : Thảy đều đến chỗ chư Phật. "Từng
theo nghe chư Phật" : Trong quá khứ, họ từng theo chư Phật để nghe Phật
pháp. "Dùng phương tiện nói pháp" : Chư Phật dùng phương tiện pháp
môn mà nói pháp. "Ta liền nghĩ thế nầy" : Ta lại suy nghĩ thế nầy.
"Sở dĩ Phật ra đời" : Sở dĩ mà Phật xuất hiện ra đời. "Đều vì
nói Phật huệ" : Đều vì nói trí huệ chân thật của Phật. "Nay đúng là
phải thời" : Bây giờ là lúc nên nói trí huệ chân thật của Phật. "Xá Lợi
Phất nên biết" : Xá Lợi Phất ông nên biết. "Người độn căn trí
nhỏ" : Người độn căn chỉ có chút chút trí huệ. "Kẻ chấp trướng kiêu
mạn" : Chẳng những họ chấp trước tất cả hình tướng, mà còn tự cho rằng
đúng, cho nên sinh ra tâm cống cao ngã mạn. "Không thể tin pháp nầy"
: Họ chẳng tin pháp đại thừa, cũng chẳng tin nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cho
nên mới có năm ngàn người lui về. "Nay ta vui chẳng sợ" : Bây giờ những
người chẳng có căn lành và những kẻ kiêu mạn đều đã lui về, cho nên ta chẳng
còn lo chẳng còn sợ. "Ở trong chúng Bồ Tát" : Ở trong các hàng Bồ
Tát. "Ta bỏ ngay phương tiện" : Ta bỏ ngay phương tiện nầy, chẳng
dùng pháp quyền xảo nữa. Bây giờ ta phải mở cửa để thấy núi, nói thẳng Phật huệ
chân thật. "Chỉ nói đạo vô thượng" : Chỉ nói pháp môn thành Phật.
"Bồ Tát nghe pháp nầy" : Tất cả Bồ Tát đều nghe được Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa nầy. "Lưới nghi đều đã trừ" : Lưới nghi của các Ngài đều
tiêu trừ. "Ngàn hai trăm La Hán" : Lúc đó, có một ngàn hai trăm năm mươi
vị A La Hán. "Thảy đều sẽ thành Phật" : Tương lai họ cũng đều sẽ
thành Phật. Đây là Phật thọ ký cho tất cả đệ tử sẽ thành Phật, phàm là người
nghe pháp ở trong hội Pháp Hoa, chẳng ai mà không thành Phật.
Như chư Phật ba đời
Nghi thức nói các pháp
Ta nay cũng như thế
Nói pháp không phân biệt.
Chư Phật hiện ra đời
Lâu xa khó gặp được
Gặp lúc Phật ra đời
Nói pháp nầy khó hơn.
Vô lượng vô số kiếp
Nghe pháp nầy cũng khó
Người nghe được pháp nầy
Người đó càng khó hơn.
Ví như hoa Ưu Đàm
Tất cả đều ưa thích
Ít có trong trời người
Đúng thời mới xuất hiện.
Nghe pháp vui mừng khen
Cho đến nói một lời
Tức là đã cúng dường
Tất cả Phật ba đời.
Người đó rất ít có
Hơn cả hoa Ưu Đàm.
"Như chư Phật ba đời, nghi thức nói các pháp" : Đức Phật nói, hiện
tại ta nói đạo lý Phật thừa thật trí, cũng như nghi thức thuyết pháp, của chư
Phật ba đời : quá khứ, hiện tại và vị lai. "Nay ta cũng như thế, nói pháp
không phân biệt" : Ta nay cũng chỉ nói một Phật thừa như nhau, chẳng có thừa
pháp vi diệu nào khác. Pháp không phân biệt nầy, chẳng phải một số người minh bạch
được. "Chư Phật hiện ra đời" : Mười phương chư Phật xuất hiện ra đời.
"Lâu xa khó gặp được" : Nếu gặp được chư Phật mười phương xuất hiện
ra đời, phải trải qua thời gian lâu dài. "Gặp lúc Phật ra đời, nói pháp nầy
khó hơn" : Tức gặp lúc bạn gặp Phật xuất hiện ra đời, mà nghe được Phật
nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, chẳng phải là việc dễ dàng. Đức Phật nói pháp bốn
mươi chín năm, ban đầu nói Tam Tạng giáo, Kinh A Hàm, sau đó nói Phương Đẳng và
Bát Nhã, cuối cùng mới nói Kinh Pháp Hoa, nhưng gặp được nói bộ Kinh nầy, cũng chẳng
dễ. "Vô lượng vô số kiếp" : Trải qua thời gian lâu dài vô lượng vô số
kiếp. "Nghe pháp nầy cũng khó" : Nghe được pháp nầy cũng chẳng dể
dàng. "Người nghe được pháp nầy" : Người đã nghe được Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa nầy. "Người đó càng khó hơn" : Người nầy chẳng dể gì tìm
được. "Ví như hoa Ưu Đàm" : Như hoa Ưu Đàm ít có. Hoa Ưu Đàm dịch là "tường
đoan". Hoa nầy ba ngàn năm mới nở một lần, mà một khi nở thì tàn, cho nên đặc
biệt ít có. "Tất cả đều ưa thích, ít có trong trời người" : Vì hoa Ưu
Đàm ít có, cho nên người trên trời, dưới nhân gian đều ưa thích hoa nầy.
"Đúng thời mới xuất hiện" : Nếu chưa đến thời, thì chẳng bao giời xuất
hiện ra đời. "Nghe pháp vui mừng khen" : Nếu nghe thấy Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, mà người đó sinh tâm vui mừng khen ngợi. "Cho đến nói một lời"
: Hoặc chỉ nói một câu để khen ngợi Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. "Tức là đã
cúng dường, tất cả Phật ba đời" : Tức là đã cúng dường tất cả chư Phật
trong mười phương ba đời. "Người đó rất ít có, hơn cả hoa Ưu Đàm" :
Người nầy so với hoa Ưu Đàm càng ít có hơn, do đó có thể thấy, nghe pháp thật
là không dễ dàng, trứ khi đến thời cơ mới nghe được.
Các ông chớ có nghi
Ta là vua các pháp.
Nói khắp các đại chúng
Chỉ dùng đạo một thừa
Giáo hóa các Bồ Tát
Không Thanh Văn đệ tử.
Xá Lợi Phất các ông !
Thanh Văn và Bồ Tát
Nên biết diệu pháp nầy
Bí yếu của chư Phật.
Đức Phật lại nói : Pháp nầy so với hoa Ưu Đàm càng khó gặp hơn. Pháp của ta
nói, các ông chớ có hoài nghi. Vì sao ? "Ta là vua các pháp" : Vì ta
là vua của tất cả các pháp, đã đắc được trí huệ chân thật. "Nói khắp các
đại chúng" : Bây giờ, ta nói khắp tất cả đại chúng trong pháp hội, và hết
thảy chúng sinh vị lai. "Chỉ dùng đạo một thừa" : Ta chỉ dùng một
thừa Phật đạo. "Giáo hóa các Bồ Tát" : Để giáo hóa tất cả Bồ Tát.
"Không Thanh Văn đệ tử" : Pháp nầy chẳng giáo hóa đệ tử Thanh Văn
tiểu thừa. "Xá Lợi Phật các ông" : Xá Lợi Phất ! Các ông những bậc
Thanh Văn. "Thanh Văn và Bồ Tát" : Bây giờ đều nên hồi tiểu hướng
đại, đừng được ít mà cho là đủ, phải từ Thanh Văn thừa mà chuyển qua Bồ Tát
thừa. "Nên biết diệu pháp nầy" : Các ông nên biết diệu pháp của Kinh
Pháp Hoa nầy. "Bí yếu của chư Phật" : Là diệu pháp vô thượng bí yếu
nhất của chư Phật, nên nhớ đừng sinh tâm nghi hoặc.
Bởi đời ác năm trược
Chỉ ưa chấp các dục
Những chúng sinh như thế
Quyết chẳng cầu Phật đạo.
Người ác đời vị lai
Nghe Phật nói một thừa
Mê hoặc chẳng tin nhận
Phá pháp đọa đường ác.
Người hổ thẹn thanh tịnh
Quyết chí cầu Phật đạo
Ta sẽ vì người đó
Rộng khen đạo một thừa.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là bí yếu của chư Phật, cho nên Đức Phật thành Phật rồi,
rất lâu mà chẳng nói bộ Kinh Pháp Hoa nầy. Tại sao ? Vì rất là quan trọng, một
khi nói ra, mà chúng sinh không tin, thì sẽ đọa vào ba đường ác, cho nên đức
Phật thà không nói. "Bởi đời ác năm trược" : Năm trược tức là : Kiếp
trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược, đây là năm
thứ trược hiện tại của thế giới nầy. "Chỉ ưa chấp các dục" : Chúng
sinh trong đời ác năm trược, tánh của họ ưa thích các dục. Năm dục là : Tiền
tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ. "Những Chúng sinh như thế, quyết
chẳng cầu Phật đạo" : Họ chấp vào các dục, tham trước nhất thời, chẳng phải
là khoái lạc cứu kính. Ai ai cũng đều bị tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống
và ngủ nghỉ vây hãm, không thể tự cứu. Phật sớm đã biết có loại chúng sinh mê
muội nầy, cho nên nói : "Những chúng sinh như thế" : Những chúng sinh
mê muội đó. "Quyết chẳng cầu Phật đạo" : Họ chẳng muốn cầu Phật đạo,
nay mình đã khai mở trí huệ chân thật, phá tan mê muội. "Người ác đời vị
lai" : Người ác trược đời vị lai. "Nghe Phật nói một thừa" : Họ
nghe Phật nói một thừa pháp. "Mê hoặc chẳng tin nhận" : Trong tâm mê
hoặc, không thể tin nhận. "Phá pháp đọa đường ác" : Họ chẳng tin mà
còn phá hoại, nói là : "Các vị đó giảng Phật pháp, vốn chẳng có đạo lý
!" Vì phá pháp nên đọa vào ba đường ác. "Người chí cầu Phật đạo, biết
hổ thẹn thanh tịnh" : Người lập chí nhất định thành Phật, biết sinh tâm hổ
thẹn, sửa đổi lỗi lầm muốn cầu thanh tịnh. "Ta sẽ vì người đó" : Phật
nói, ta sẽ vì những chúng sinh đó. "Rộng khen đạo một thừa" : Rộng
khen pháp một thừa vô thượng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Xá Lợi Phất nên biết !
Pháp chư Phật như thế
Dùng vạn ức phương tiện
Tùy nghi mà nói pháp.
Người nào chẳng tu học
Không thể hiểu pháp nầy
Các ông tức đã biết
Chư Phật thầy trong đời.
Tùy nghi dùng phương tiện
Không nên sinh nghi hoặc
Sinh tâm vui mừng lớn
Biết mình sẽ thành Phật.
"Xá Lợi Phất nên biết" : Xá Lợi Phất và tất cả Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni,
cư sĩ nam, cư sĩ nữ, Bồ Tát, trời, rồng, tám bộ chúng hết thảy đều nên biết.
"Pháp chư Phật như thế" : Mười phương chư Phật, Phật Phật đạo đồng,
do đó có câu :
"Ba đời mười phương Phật,
Đều cùng một pháp thân".
Pháp của mười phương chư Phật đều như nhau, pháp chỉ có một, vì quán căn cơ mà
thí giáo, do đó, "Dùng vạn ức phương tiện" : Dùng vô lượng vô biên
phương tiện pháp môn để giáo hóa chúng sinh. "Tùy nghi mà nói pháp" :
Tùy thuận căn cơ của chúng sinh mà nói pháp. Do đó, vì người thí giáo, theo bệnh
cho thuốc. "Người nào chẳng tu học" : Phật nói ra pháp nầy, nếu chúng
sinh nào chẳng tu hành, "Không thể hiểu pháp nầy" : Không thể nào hiểu
được nghĩa của pháp nầy. "Các ông đều đã biết" : Xá Lợi Phất ! Các
ông những bậc đại A La Hán, đại Bồ Tát, đại Tỳ Kheo, hiện tại đều đã biết diệu
pháp chân thật nầy. "Chư Phật thầy trong đời" : Mười phương chư Phật
và Thích Ca Mâu Ni, đều là Đạo Sư của thế gian. "Tùy nghi dùng phương tiện"
: Đều tuỳ nghi nói pháp, dùng phương tiện để giáo hóa chúng sinh. "Không
nên sinh nghi hoặc" : Các ông đừng sinh tâm nghi hoặc. "Sinh tâm vui
mừng lớn" : Bây giờ các ông nghe được Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nên sinh
tâm vui mừng lớn. "Biết mình sẽ thành Phật" : Bây giờ, các ông cũng
nên biết, tương lai mình nhất định cũng sẽ thành Phật. Do đó, tất cả chúng sinh
ở trong hội Pháp Hoa, nhất định đều sẽ thành Phật, vì đức Phật đều đã thọ ký cho
các Ngài, đều nghe pháp Phật thừa tối thượng.