- Giải Thích Tên Kinh
- Phẩm Tựa Thứ Nhất
- Phẩm Phương Tiện Thứ Hai
- Phẩm Thí Dụ Thứ Ba
- Phẩm Tin Hiểu Thứ Tư
- Phẩm Dược Thảo Dụ Thứ Năm
- Phẩm Thọ Ký Thứ Sáu
- Phẩm Hóa Thành Dụ Thứ Bảy
- Phẩm Thọ Ký Cho Năm Trăm Vị Đệ Tử Thứ Tám
- Phẩm Thọ Ký Cho Bậc Hữu Học Và Vô Học Thứ Chín
- Phẩm Pháp Sư Thứ Mười
- Phẩm Thấy Bảo Tháp Thứ Mười Một
- Phẩm Đề Bà Đạt Đa Thứ Mười Hai
- Phẩm Khuyên Trì Thứ Mười Ba
- Phẩm An Lạc Hạnh Thứ Mười Bốn
- Phẩm Từ Dưới Đất Vọt Lên Thứ Mười Lăm
- Phẩm Thọ Lượng Của Như Lai Thứ Mười Sáu
- Phẩm Phân Biệt Công Đức Thứ Mười Bảy
- Phẩm Tùy Hỷ Công Đức Thứ Mười Tám
- Phẩm Công Đức Pháp Sư Thứ Mười Chín
- Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh Thứ Hai Mươi
- Phẩm Thần Lực Của Như Lai Thứ Hai Mươi Mốt
- Phẩm Chúc Lũy Thứ Hai Mươi Hai
- Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Dược Vương Thứ Hai Mươi Ba
- Phẩm Bồ Tát Diệu Âm Thứ Hai Mươi Bốn
- Phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm Thứ Hai Mươi Lăm
- Phẩm Đà La Ni Thứ Hai Mươi Sáu
- Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Vua Diệu Trang Nghiêm Thứ Hai Mươi Bảy
- Phẩm Khuyến Phát Của Bồ Tát Phổ Hiền Thứ Hai Mươi Tám
Giảng Giải: Hoà Thượng Tuyên Hoá
Hán dịch: Ngài Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
Phẩm Dược Thảo Dụ Thứ Năm
Dược là thuốc trị bệnh, thảo là thảo mộc (cỏ), cũng dụ cho chúng
sinh thế tục. Nếu có bệnh thì giáo pháp của Như Lai là thuốc, quán sát căn cơ nói
pháp, tùy theo bệnh mà cho thuốc. Cần phải có căn cơ và giáo pháp tương ưng,
thì thuốc chữa trị mới hay. Cho nên phẩm nầy, Đức Phật dùng cỏ thuốc làm ví dụ,
chữa trị bệnh thân và tâm của chúng sinh.
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Ngài Ma Ha Ca Diếp, và các vị đại đệ tử : Lành
thay, lành thay ! Ca Diếp khéo nói công đức chân thật của Như Lai, đúng như lời
các ông vừa nói. Như Lai còn có vô lượng vô biên A tăng kỳ công đức, dù các ông
trải qua vô lượng ức kiếp, nói cũng không hết được.
Lúc đó, Đức Phật bảo Ngài Ca Diếp và các vị đệ tử trong pháp hội : Lành thay,
lành thay ! Ca Diếp nói thật là hay, ông thật lãnh hội được tâm ý của Như Lai,
pháp của Như Lai nói, đạo lý của ông nói, tơ hào chẳng sai. Như Lai chẳng có bờ
mé, A tăng kỳ, vô lượng số mà công đức của Phật cũng vô lương vô biên. Dù các
ông có trải qua vô lượng ức kiếp, nói cũng chẳng bao giờ hết được, các ông hằng
ngày giảng nói, cũng không nói hết được công đức nầy.
Ca Diếp nên biết ! Như Lai là vua của các pháp, nếu có nói ra lời gì, đều không
hư vọng, trong tất cả các pháp, Phật đều dùng trí huệ phương tiện mà diễn nói, pháp
của Phật nói ra, thảy đều đến nơi Nhất thiết trí.
Ca Diếp ông nên biết, Như Lai là vua của tất cả các pháp, pháp của Như Lai nói,
đều là pháp chân thật không hư. Tất cả pháp bao quát đại thừa, nhị thừa, và tam
thừa. Đại thừa là Phật thừa, nhị thừa là Thanh Văn Duyên Giác thừa, tam thừa là
Bồ Tát thừa. Như Lai đều khéo léo, dùng phương tiện diễn nói diệu pháp, đều
dùng (trí huệ) Bát nhã ba la mật đa, Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí để
nói pháp.
Như Lai quán sát, biết được chỗ quy về của tất cả các pháp, cũng biết được
tâm lý trong thâm tâm của tất cả chúng sinh, thông đạt vô ngại, và thấu rõ rốt
ráo hết các pháp, mở bày Nhất thiết trí huệ cho chúng sinh.
Phật có ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu thông. Ba thân là :
Pháp thân
Hóa thân
Báo thân.
Bốn trí là :
Đại viên cảnh trí
Diệu quán sát trí
Bình đẳng tính trí
Thành sở tác trí.
Năm nhãn là :
1. Phật nhãn
2. Pháp nhãn
3. Huệ nhãn
4. Thiên nhãn
5. Nhục nhãn.
Sáu thông là :
1. Thiên nhãn thông
2. Thiên nhĩ thông
3. Tha tâm thông
4. Túc mạng thông
5. Thần túc thông
6. Lậu tận thông.
Như Lai dùng trí huệ quán sát, mà biết được tất cả các pháp. Pháp có tám muôn bốn
ngàn thứ, nếu dùng mỗi một pháp để nói, thì phí thời gian lâu dài, cho nên nói
tất cả các pháp. Các pháp quy về đâu ? Phật nói tất cả các pháp chẳng lìa tất
cả tâm, tất cả pháp sinh ra, cũng vì sở hiện của tâm vậy, do đó, Phật mới biết
được tâm lý của tất cả chúng sinh. Như trong Kinh Kim Cang có nói:
‘’Chúng sinh có bao nhiêu thứ tâm,
Như Lai đều biết đều thấy‘’.
Chúng sinh khởi tâm động niệm, Phật đều thấy rõ như chỉ bàn tay, chẳng có gì mà
không biết, chẳng có gì mà không thấy, thông đạt vô ngại, mới có thể mở bày Nhất
thiết trí huệ cho tất cả chúng sinh.
Ca Diếp ! Ví như núi sông, khe suối, đất đai, trong ba ngàn đại thiên thế giới,
sinh ra cây cối lùm rừng, và các cỏ thuốc, bao nhiêu thứ, loại, tên gọi, màu
sắc, đều khác nhau. Mây dày phủ khắp ba ngàn đại thiên thế giới, đồng thời đều
mưa xuống như nhau, thấm nhuần hết thảy cây cối lùm rừng và các cỏ thuốc. Cây
nhỏ rễ nhỏ, nhánh nhỏ lá nhỏ; cây vừa rễ vừa, nhánh vừa lá vừa; cây lớn rễ lớn,
nhánh lớn lá lớn. Các cây lớn nhỏ, tùy theo sự lớn, vừa, nhỏ, mà hấp thụ khác nhau.
Một đám mây mưa xuống, mà tùy theo giống loại cây cỏ, mà được sinh trưởng, đơm
hoa kết trái, tuy là một mảnh đất sinh ra, một trận mưa thấm nhuần, mà các cây
cỏ mỗi thứ, đều có sự khác nhau.
Ca Diếp ! Ví như ba ngàn đại thiên thế giới, một mặt trời mặt trăng, một núi Tu
Di, một bốn châu thiên hạ, cộng lại làm một thế giới. Một ngàn mặt trời mặt
trăng, một ngàn núi Tu Di, và một ngàn bốn thiên hạ làm một tiểu thiên thế
giới. Một ngàn tiểu thiên thế giới, làm một trung thiên thế giới. Một ngàn
trung thiên thế giới, làm một đại thiên thế giới, vì ba lần một ngàn, cho nên
gọi là ba ngàn đại thiên thế giới.
Ở trong sơn, hà, đại địa, khe suối, sinh ra các thứ cây
cối, hoa, cỏ, lùm rừng, đều có tên gọi và màu sắc khác nhau. Trên bầu trời phủ
đầy mây dày đặc, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới đều như nhau, mưa xuống
cũng đều như nhau. Tất cả thân, rễ, cành, lá, của cây cối hoa cỏ, đều tùy theo
giống loại lớn, vừa, nhỏ, mà hấp thụ lượng nước khác nhau. Thân rễ cành lá lớn,
thì hấp thụ nhiều, thân rễ cành lá vừa, thì hấp thụ ít hơn, thân rễ cành lá nhỏ,
thì hấp thụ càng ít hơn. Đây cũng là phẩm ví dụ phân biệt lớn, vừa, nhỏ. Tất cả
cây cỏ vốn từ một mảnh đất sinh ra lớn lên, mà mưa xuống cũng một lượng nước
giống nhau, song vì thân rễ cây lớn, cây vừa, cây nhỏ, nên sức hấp thụ lượng
nước đều khác nhau. Song, vẫn lớn lên đơm hoa kết quả như nhau. Đó là Phật ví
dụ căn cơ của chúng sinh, tất cả cây cối hoa cỏ lùm rừng, có phân ra lớn, vừa
và nhỏ.
Ca Diếp nên biết ! Như Lai cũng lại như thế, xuất hiện ra đời như vầng mây lớn,
dùng âm thanh lớn, vang khắp thế giới trời, người, A tu la. Như vầng mây lớn
kia, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, ở trong đại chúng mà xướng lời nầy :
Ta là Như Lai, ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ thế gian
giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Người
chưa được độ, thì khiến cho được độ, người chưa hiểu, thì khiến cho được hiểu,
người chưa an, thì khiến cho được an, người chưa được Niết bàn, thì khiến cho
được Niết bàn. Đời nầy đời sau, Phật đều biết đúng như thật. Ta là bậc Nhất
thiết trí, bậc thấy tất cả, bậc biết đạo, bậc khai mở đạo, bậc thuyết đạo. Các
ông : Trời, người, A tu la, đều nên đến đây để nghe pháp.
Ca Diếp ! Ông nên biết, Như Lai cũng như thế. Ta xuất hiện ra đời giống như vầng
mây lớn hiện ra đời, vì đại sự nhân duyên giáo hóa chúng sinh, mới xuất hiện ra
đời. Do đó, dùng tiếng pháp âm lớn nhất vang khắp, nói với thế gian trời,
người, A tu la, pháp của ta nói như vầng mây lớn, che khắp ba ngàn đại thiên
thế giới, ở trước mọi người nói : Ta là Như Lai.
Tại sao Phật vẫn còn có cái ‘’Ta‘’? Kỳ thật, nếu minh bạch được
‘’Như Lai‘’ thì chẳng có cái ‘’ta‘’; Như Lai tức là ngồi đạo như thật, lai
thành chánh giác. Ví như lúc giảng Kinh, người thông minh thì nhớ nhiều nhất,
người trung bình thì nhớ ít hơn một chút, người ngu si thì nhớ rất ít. Cũng như
trời mưa xuống, tùy theo cây cối hoa cỏ lớn nhỏ khác nhau, nên hấp thụ lượng
nước cũng khác nhau. Đồng lý ấy, bậc trí huệ cao thì được huệ nhiều một chút,
kẻ trí huệ ít thì được ít huệ. Mọi người đều đang nghe Kinh, song trình độ hiểu
biết đạo lý chẳng giống nhau. Có người nghe rồi, thì biết những cây cối hoa cỏ nầy
là ví dụ cho người, hoặc có người biết mưa xuống hoặc mây dày phủ giăng, là chỉ
Phật đang nói pháp. Nếu chẳng hiểu thì sẽ nói : ‘’Tôi chẳng hiểu chút nào, sao
cứ nói nào là cây cối hoa cỏ‘’ ! Nếu biết mình một chút cũng chẳng minh bạch,
tức là có một sự biết mình chẳng minh bạch, tức cũng là đang bắt đầu đi trên
con đường minh bạch. Nhất là người chưa nghe qua Phật pháp, khi nghe lần đầu
tiên, thì chắt chắn chẳng hiểu. Song, nếu biết mình không minh bạch, đó là đã
minh bạch một chút. Hôm nay một chút, ngày mai một chút, từng chút từng chút
tích lũy dần dần, sẽ tụ ít thành nhiều.
‘’Như Lai‘’ còn có mười ý nghĩa khác :
1. Ứng Cúng: Đáng tiếp nhận sự cúng dường.
2. Chánh Biến Tri: Biết vạn pháp duy tâm là chánh tri, biết tâm sinh vạn pháp
là biến tri.
3. Minh Hạnh Túc: Có trí huệ quang minh, tu hành đến quả vị viên mãn.
4. Thiện Thệ: Đã đi đến nơi tốt lành.
5. Thế Gian Giải: Trên thế gian chẳng có ai hiểu biết hơn Ngài.
6. Vô Thượng Sĩ: Chẳng có ai cao hơn Ngài.
7. Điều Ngự Trượng Phu: Bậc đại trượng phu điều phục và chế ngự được tất cả
chúng sinh.
8. Thiên nhân sư: Thầy của chư thiên và loài người.
9. Phật.
10. Thế Tôn: Là bậc tôn kính ở thế gian và xuất thế gian.
Cho nên, Phật có đủ thứ nhân duyên công đức, hay khiến cho người chưa được độ
thì được độ, độ họ đến chỗ chẳng còn thị phi tốt xấu, thiện ác sinh tử. Đồng
thời cũng khiến cho người không an lạc thì được an lạc, khiến cho người chưa
được Niết Bàn thì được: Thường, lạc, ngã, tịnh, vui tịch diệt. Đối với đời này,
đời sau và tất cả, ta đều thấu rõ biết được chân thật, thấy được, mà còn biết
khai ngộ tu đạo, giảng kinh thuyết pháp, khai diễn đủ thứ pháp môn tu hành. Các
ông trời, người, A tu la đều nên đến đây để nghe kinh nghe pháp.
Đồng lý ấy, tại pháp hội nghe kinh nầy, ngoài các vị ra, còn có thiên long bát
bộ. Nếu bạn đã khai mở ngũ nhãn lục thông thì sẽ nhìn thấy rất rõ ràng.
Bấy giờ, có vô số ngàn vạn ức loại chúng sinh, đều đến chỗ đức Phật để nghe
pháp. Lúc đó, đức Như Lai quán sát các căn lợi độn, tinh tấn, hay giải đãi, của
các chúng sinh đó. Tùy theo sự kham nhận của họ, mà vì họ nói pháp, đủ thứ vô
lượng, đều khiến cho họ vui mừng, mau được lợi lành. Các chúng sinh đó, nghe
pháp đó rồi, hiện đời được yên ổn, đời sau sinh vào chỗ tốt lành, được thọ hưởng
niềm vui trong đạo, cũng được nghe pháp. Nghe pháp rồi, lìa được các chướng ngại,
ở trong các pháp, tùy theo sức của mình kham được, dần dần được vào đạo.
Lúc đó, có vô số ngàn vạn ức loài chúng sinh, đến pháp hội nầy, nghe Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa. Đức Như Lai quán sát tỉ mỉ nhân duyên của chúng sinh, biết họ có
rất nhiều căn cơ, có người lợi căn rất thông minh, cũng có những người ngu si
ám độn, có những người dũng mãnh tinh tấn, cũng có người lười biếng giải đãi.
Do đó, Phật vì người tinh tấn nói pháp tinh tấn, vì người giải đãi nói pháp
giải đãi, khiến cho họ nỗ lực tiến tới, tùy thuận căn tính của họ, đáng tiếp thọ
pháp gì thì nói pháp đó, nếu không thể tiếp thọ thì chẳng vì họ nói pháp nầy.
Cho nên, ban đầu Phật chẳng nói thật pháp, chỉ nói quyền pháp, dùng đủ thứ vô
lượng pháp môn, vì vô lượng loài chúng sinh mà nói, mục đích khiến cho chúng
sinh vui mừng tin nhận thọ trì. Do sự thích nghe pháp, mà dần dần sẽ đi trên
con đường của Phật tu học, sẽ nhanh chóng đắc được lợi ích. Chúng sinh nghe
pháp rồi, hiện đời được yên ổn, đời sau được sinh về cõi trời, hoặc sinh vào
chỗ giàu sang ở nhân gian, đời đời kiếp kiếp có thể nghe pháp. Tu Phật đạo đắc
được đủ thứ khoái lạc, cũng chỉ có nghe Phật pháp mới thấu rõ lý, mới lìa được
đủ thứ phiền não chướng ngại. Như vậy, rất dễ dàng tùy sức của mỗi người mà vào
đạo. ‘’Đạo‘’ là giai đoạn khai ngộ, dần dần đạt đến được quả vị liễu sinh thoát
tử.
Như vầng mây lớn đó, mưa xuống khắp tất cả cây cối lùm rừng, và các cỏ thuốc,
tùy theo giống loài mà thấm nhuần đầy đủ, đều được lớn lên. Như Lai nói pháp,
một tướng một vị, đó là tướng giải thoát, tướng lìa khổ, tướng sinh diệt, rốt
ráo đến nơi Nhất thiết chủng trí. Nếu có chúng sinh nào, nghe được pháp của Như
Lai nói, hoặc thọ trì đọc tụng, theo lời nói mà tu hành, thì sẽ được công đức,
tự mình chẳng hay biết. Tại sao ? Vì chỉ có Như Lai mới biết được, chủng tử sắc
tướng thể tính của chúng sinh đó, nghĩ việc gì, niệm việc gì, tu việc gì, nghĩ
thế nào, nhớ thế nào, tu thế nào ? Dùng pháp gì để nghĩ, dùng pháp gì để nhớ,
dùng pháp gì để tu ? Dùng pháp gì được pháp gì ? Chúng sinh trụ đủ thứ các bậc,
chỉ có Như Lai thấy được như thật, thấu rõ chẳng có chướng ngại.
Phật nói pháp giống như vầng mây mưa xuống, cây cối hoa cỏ lùm rừng, là chỉ tất
cả chúng sinh. Tất cả chúng sinh gồm có: Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, Trời,
người, A tu la, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục. Tùy theo chủng tính khác nhau
của họ mà thuyết pháp, khiến cho họ được sinh trưởng. Giống như trời mưa xuống
thấm nhuần đầy đủ, cây cối cỏ thuốc đều được lớn lên. Phật nói pháp là một tướng
một vị: Một tướng là chân như thật tướng của tất cả chúng sinh. Chân tướng tức là
nhất địa. Đã chứng được chân lý nhất thừa gọi là nhất vị. Tất cả chúng sinh chưa
giải thoát, đều khiến cho họ được giải thoát; chúng sinh chưa sinh trưởng thì khiến
cho họ sinh trưởng; chúng sinh đã được sinh trưởng thì khiến cho được giải
thoát, lìa khỏi tướng khổ não, tướng sinh diệt. Đắc được trí huệ của Phật, tức
cũng là Nhất thiết chủng trí. Giả như, có loại chúng sinh nghe Phật pháp rồi,
bèn y theo pháp tu hành, thì Phật dạy họ tu như thế nào. Phật pháp là đại đồng tiểu
dị, giống như chúng ta hiện nay nghe pháp, công đức và quả báo đắc được không thể
nghĩ bàn, song chính mình chẳng biết ! Tại sao ? Chỉ có Đức Như Lai mới biết bốn
pháp của loại chúng sinh nầy: Chủng tướng thể tính. ‘’Chủng‘’ là chủng tử bổn
thân của chúng sinh, chủng tử nầy có thể gieo trồng vào một trong mười pháp
giới nào bất cứ, hoặc hạt giống Phật, hạt giống bồ đề, hạt giống Duyên Giác,
hạt giống Thanh Văn, hạt giống chư thiên, hạt giống loài người, hạt giống địa
ngục, hạt giống ngạ quỷ, hạt giống súc sinh. ‘’Tướng‘’ là pháp bên ngoài, cũng là
sắc. ‘’Thể‘’ là chủ thể, trong thân thể có chủ tể. ‘’Tính‘’ là đối bên trong mà
nói, tức là bốn pháp nầy.
Ba pháp là pháp nghe, pháp suy nghĩ, pháp tu (văn, tư, tu). Văn huệ tức là nghe kinh nghe pháp nhiều lần, thì sau đó trong sự bất tri bất giác sinh ra trí huệ. Nếu chẳng nghe pháp, thì dù người thông minh thế nào cũng chẳng hiểu, đừng nói đến khai mở trí huệ. Tư huệ tức là đả tọa tham thiền, dùng tư duy huệ tu tập. ‘’Thiền na‘’ dịch là tĩnh lự, tẩy sạch niệm lự cho thanh tịnh thì sẽ phát huệ. Con người trước hết phải có văn huệ, sau đó mới phát tư huệ; phải đạo thì tiến, trái đạo thì lùi. Tư tưởng sáng suốt thì phải dụng công tu hành, sớm cũng suy gẫm, tối cũng suy gẫm, sớm tối đều phải dũng mãnh tinh tấn tu hành, song phải dùng trí huệ để tu, đừng có tu đuôi luyện mù, mọi người tiến tới con đường Phật đạo, còn bạn thì ngược lại chạy hướng khác.
Hai pháp là nhân quả. Một pháp là pháp Nhất thiết đạo chủng
trí, là chân thật trí, tức cũng là một thật tướng. ‘’Niệm việc gì’’ ? Dùng tâm niệm,
niệm việc Phật. ‘’Nghĩ việc gì’’ ? Nghĩ việc pháp. ‘’Tu việc gì’’ ? Tu việc
Tăng. Thế thì làm thế nào để nhớ nghĩ tu Phật, pháp, Tăng ? Tức là từ từ, mỗi
phút mỗi giây cũng không sao quên được Phật pháp tăng. Trên phương diện tư
tưởng phải bình tâm tĩnh khí, không khởi vọng tưởng, suy gẫm đạo lý Phật pháp tăng,
tinh tấn tu hành. ‘’Dùng pháp gì niệm’’ ? Dùng chánh pháp niệm. ‘’Dùng pháp gì
nghĩ’’ ? Dùng chánh pháp nghĩ. Ai dùng pháp gì tu thì được pháp đó. Dùng Phật
pháp thì được pháp của Phật, dùng ma pháp thì được pháp của ma. Trồng nhân gì
thì được quả đó, nhân như vầy, quả như vầy. Thế mà chúng sinh gặp đủ thứ cảnh
giới mà không tự biết được, chỉ có Phật thấy như thật, triệt để thấu hiểu chúng
sinh bậc thượng trung hạ, thấu suốt thủy chung trong ngoài tất cả sinh tử. Thế mà,
chúng ta chúng sinh minh bạch sinh, mà chẳng hiểu rõ tử; minh bạch tử, mà chẳng
minh bạch sinh. Chẳng biết bắt đầu cũng chẳng biết điểm cuối, vì chẳng thấu suốt
mới có chướng ngại. Chỉ có Phật mới chân chánh thấu suốt chẳng có gì chướng
ngại. Do đó, có bài kệ rằng:
‘’Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não
Nguyện được trí huệ hiểu chơn thật
Nguyện khắp tai chướng đều tiêu trừ
Đời đời thường hành Bồ Tát đạo‘’.
Ba chướng là: Nghiệp chướng, báo chướng và phiền não chướng. Ý của bài kệ nầy là
nguyện tất cả tai chướng khắp thế giới như động đất, nạn gió, nạn nước, nạn hạn
hán, nạn lửa .v.v., đều tiêu trừ, lại nguyện đời đời kiếp kiếp đều tu Bồ Tát
đạo.
Như các cây cối lùm rừng cỏ thuốc kia, chẳng tự biết tính thượng trung hạ.
Như Lai biết pháp một tướng, một vị, đó là tướng giải thoát, tướng lìa khổ,
tướng sinh diệt, tướng rốt ráo Niết bàn thường tịch diệt. Cuối cùng trở về
không. Phật biết vậy rồi, bèn quán tâm mong muốn của chúng sinh, mà dìu dắt họ,
cho nên chẳng vì họ vội nói Nhất thiết chủng trí.
Ca Diếp ! Các ông rất là hi hữu, biết Như Lai tùy nghi nói pháp,
hay tin nhận thọ trì. Tại sao ? Vì chư Phật Thế Tôn tùy nghi nói pháp, khó hiểu
khó biết. Lúc đó, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng:
Tất cả chúng sinh, đắc được sự thấm nhuần mưa pháp của Phật mà chẳng tự biết, đây
cũng giống như cây cối lùm rừng, hoa, cỏ, cỏ thuốc, chẳng biết tính chất của
mình có phân ra thượng trung hạ. Đức Như Lai biết tâm tính của chúng sinh vốn
đầy đủ tướng chân như. Pháp một vị, cùng tu hành chứng được diệu lý, gọi là
pháp một vị.
‘’Tướng giải thoát‘’, bổn lai cũng chẳng có tướng giải
thoát, chẳng lìa tướng, chẳng diệt tướng, chỉ vì chúng sinh có chấp trước, mới
nói có tướng giải thoát. Tức nhiên ‘’lìa tướng‘’ sao còn có ‘’tướng‘’? Tóm lại,
quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng, một pháp cũng chẳng tồn tại, mới được rốt
ráo Niết Bàn thường lạc ngã tịnh, tức là tướng thường tịch diệt, cho đến một
cái diệt cũng chẳng có; cũng là tướng không, cho đến không cũng chẳng có. Phật biết
tất cả tướng nầy, vốn chẳng có pháp có thể nói, vô tướng khả đắc, song trong
tâm chúng sinh còn có tham dục, nếu ban đầu đối với họ nói gì cũng chẳng có,
‘’một pháp chẳng lập, vạn pháp đều không‘’, thì chúng sinh sẽ không tin, mà còn
phỉ báng Phật pháp. Phật quán sát tâm của chúng sinh, họ có rất nhiều tập khí
mao bệnh, muốn cho họ từ từ trừ khử tập khí thì họ mới tin; nếu muốn họ một
phen trừ khử đi nhiều mao bệnh tập khí, để trở về không, thì không thể nào được.
Cho nên, một mặt vì hộ trì Phật pháp, mặt kia cũng không để cho họ sinh tâm phỉ
báng, do đó Phật chẳng vội vàng nói liền pháp Nhất thiết chủng trí. Nhất thiết
chủng trí là thật tướng Bát Nhã, Phật thấy căn tính của chúng sinh chưa thành
thục, nên chẳng nói thật tướng Bát Nhã.
Phật nói: ‘’Ca Diếp ! Các
Pháp Vương phá các cõi
Xuất hiện ra nơi đời
Tùy sở thích chúng sinh
Nói đủ thứ diệu pháp.
Phá các cõi (hữu), ‘’hữu‘’ là gì ? Nhân quả chẳng mất là hữu. Phật có thể phá được
nhân quả, trước kia nhân quả của bạn trồng, lúc bạn học Phật rồi, thì có thể
dừng lại. Trồng nhân lành được quả lành, trồng nhân ác được quả ác. Tại cảnh
giới của chúng sinh mà nói, thì nhân quả đều là hữu. Thành Phật quả rồi, thì
siêu việt được nhân quả, song đây tuyệt đối chẳng phải bát vô nhân quả. Phật đã
vượt ra ‘’phá các cõi‘’.
‘’Pháp vương‘’ là vua của các pháp, cũng là vua thuyết pháp. Tương lai các bạn xuất
gia thuyết pháp, cũng phải giống như vua của các pháp. Học âm thanh "bát
âm tứ biết" của Phật. Bây giờ, giảng kinh thuyết pháp, cũng là thay thế
vua của các pháp thuyết pháp. Phật là vì phá ‘’ngã‘’ mà xuất hiện ra đời, song vẫn
phải tùy sở thích của chúng sinh, trước hết phải khiến cho họ hoan hỉ, sau mới
nói đủ thứ pháp. Pháp của Phật nói được phân ra năm thời tám giáo. Năm thời là:
1. Thời Hoa Nghiêm.
2. Thời A Hàm.
3. Thời Phương Đẳng.
4. Thời Bát Nhã.
5. Thời Pháp Hoa, Niết Bàn.
Tám giáo là: Tạng, thông, biệt, viên, đốn, tiệm, mật, bất định giáo.
Đức Như Lai tôn trọng
Trí huệ rất sâu xa
Lâu chẳng nói pháp nầy
Không vội vàng nói ra.
Đức Như Lai tôn trọng thật tướng Bát Nhã, tức cũng là cung kính hộ trì Bát nhã. Bát nhã là Bát nhã của chúng sinh, vì Bát nhã thật tướng nầy quá cao sâu, rộng lớn, chẳng đối cơ với một số hạng người tiểu thừa, cho nên không thể vì họ nói pháp đại thừa. Cho nên, từ thời
Người trí nếu nghe được
Bèn sinh tâm tin hiểu
Kẻ vô trí nghi hoặc
Vĩnh viễn mất giống Phật.
Chúng sinh nào có trí huệ nghe được diệu pháp nầy rồi, thì sinh tâm tin nhận, biết đây là pháp đại thừa thì họ sẽ khai ngộ. Song, đối với kẻ vô trí mà nói thật pháp, thì họ sẽ sinh nghi hoặc, họ bảo pháp thật là pháp giả. Trong Phật giáo đại thừa, người vốn vô vật, cũng chẳng cần giải nói, vốn chẳng có tướng hợp, tự nhiên cũng chẳng có tướng lìa; vốn chẳng có tướng sinh cũng chẳng có tướng diệt. Nếu đối với kẻ vô trí mà nói các pháp đều là không, không, có phải gì cũng là không chăng ? Chẳng có gì để học chăng ?
Một khi họ sinh ra tâm nghi hoặc, thì đoạn trừ hạt giống đại thừa, tức cũng là đoạn hạt giống Phật, cũng là đoạn hạt giống chúng sinh, cho nên nói là ‘’Vĩnh viễn mất giống Phật‘’.
Do đó, nầy Ca Diếp !
Tùy sức họ nói pháp
Dùng đủ thứ nhân duyên
Khiến họ được chánh kiến.
Vì cớ đó, nầy Ca Diếp ! Ông phải minh bạch Phật tùy theo phương tiện thiện xảo nói pháp, dùng đủ thứ pháp, đủ thứ duyên, khiến cho chúng sinh được chánh tri chánh kiến, chẳng sinh tà kiến.
Ca Diếp ông nên biết !
Ví như vầng mây lớn
Nổi lên trong thế gian
Che phủ khắp tất cả.
Ca Diếp ! Các ông đều phải biết, Như Lai nói pháp giống như vầng mây lớn, xuất hiện nơi thế gian, ở trong hư không che khắp tất cả ba ngàn đại thiên thế giới.
Mây trí huệ đượm nhuần
Ánh chớp sáng chói lòa
Tiếng sấm vang động xa
Khiến chúng sinh vui đẹp.
Vầng mây lớn nầy là vầng mây trí huệ, lượng mưa đượm nhuần tất cả tâm chúng sinh. Quang minh Phật giáo như ánh chớp chiếu sáng. Âm thanh Phật thuyết pháp như tiếng sấm chấn động, khiến cho trong tâm của chúng sinh vui đẹp.
Nhật quang bị che lấp
Trên mặt đất mát mẻ
Mây giăng phủ mù mịt
Như có thể nắm lấy.
Trí huệ quang minh của Phật, che lấp chín mươi lăm thứ tà quang của ngoại đạo. Phật lại dùng trí huệ mát mẻ, phá chín mươi sáu thứ phiền não trên thế gian. Mây che giăng mù mịt, đám mây rất dày, tựa như có thể dùng tay nắm bắt được.
Trận mưa lớn nhuận khắp
Đều xối xuống bốn phương
Nước chảy tuôn vô lượng
Thấm ngầm vào lòng đất.
Trận mưa nầy đượm nhuần tất cả, bốn phương đều mưa xuống vô số lượng nước mưa, khắp lòng đất đều có nước mưa, hết thảy chúng sinh đều đượm nhuần được mưa pháp.
Nơi núi sông hang hiểm
Chỗ thâm u sinh ra
Các cây cối cỏ thuốc
Đủ thứ cây lớn nhỏ.
‘’Nơi núi sông hang hiểm’’: Núi dụ cho đại Bồ Tát. Sông chỉ cho đại địa, hang hiểm chỉ nơi nguy hiểm.
‘’Chỗ thâm u sinh ra’’: Dụ cho chỗ đen tối sinh ra tất cả thực vật. Tam thảo nhị mộc nầy, tam thảo chỉ là người, trời, Thanh Văn Duyên Giác thừa. Nhị mộc dụ cho thông giáo và biệt giáo Bồ Tát, cây nhỏ là chỉ thông giáo Bồ Tát, cây lớn là chỉ biệt giáo Bồ Tát.
Trăm giống lúa mộng mạ
Các thứ mía và nho
Nhờ nước mưa đượm nhuần
Thảy đều tốt tươi cả.
Lúa mộng mạ là chỉ tất cả chúng sinh, mía là dụ cho thiền định thần thông. Nho dụ cho Bát Nhã, có thể đoạn trừ các hoặc. Mưa đượm nhuần khiến cho cây cối đều tươi tốt.
Đất khô khắp thấm nhuần
Thuốc cây đều sum sê
Vầng mây kia mưa xuống
Nước mưa thuần một vị.
‘’Đất khô khắp thấm nhuần’’: Chỉ cho chúng sinh chẳng nghe pháp, chẳng có căn lành, cũng được đượm nhuần. Thuốc cỏ và cây cối đều sum sê, vầng mây kia mưa xuống thuần một vị, là chỉ cho một thừa Phật pháp, khiến cho hết thảy chúng sinh đều được đượm nhuần.
Các cây cối lùm rừng
Tùy theo sự đượm nhuần
Tất cả các cây cối
Bậc thượng trung và hạ.
Cây cối và cỏ thuốc tùy theo thân cây lớn nhỏ, tức cũng phân ra bậc thượng thì hấp thụ nước mưa bậc thượng, bậc trung thì hấp thụ nước mưa bậc trung, bậc hạ thì hấp thụ nước mưa bậc hạ.
Tùy theo tính lớn nhỏ
Thảy đều được lớn lên
Thân gốc rễ cành lá
Hoa quả đơm đủ màu.
Mỗi thứ cây cối cỏ thuốc, đều được sinh trưởng đượm nhuần, thân gốc rễ cành lá, nhất là hoa quả, mỗi thứ đều hiển màu sắc của nó, trông rất xinh đẹp tốt tươi.
Một trận mưa rưới xuống
Thảy đều được tươi thấm
Theo thể tướng của nó
Tính phân ra lớn nhỏ
Nước đượm nhuần vẫn một.
Tùy thể tướng và căn tính của cây cỏ, hoặc lớn hoặc nhỏ, nước mưa rưới xuống vẫn như nhau, song cây cối mỗi thứ đượm nhuần, tùy theo sức hấp thụ của nó.
Đức Phật cũng như thế
Xuất hiện ra nơi đời
Ví như vầng mây lớn
Che trùm khắp hết thảy.
Đã xuất hiện ra đời
Vì tất cả chúng sinh
Phân biệt và diễn nói
Thật tướng của các pháp.
Đức Phật cũng như thế, xuất hiện ra nơi đời, giống như vầng mây lớn, che trùm khắp hết thảy, vì chúng sinh diễn nói Phật pháp. Chúng sinh nghe minh bạch, thì trừ khử được mao bệnh tập khí, pháp thân trí huệ khai sáng, quang minh hiện ra mà chẳng tự biết. Đức Phật vì người thế gian nói pháp thế gian, vì chư thiên nói pháp chư thiên, vì Thanh Văn nói pháp Thanh Văn, vì Duyên giác nói pháp Duyên giác, vì đại thừa nói pháp đại thừa. Phân biệt diễn nói, là quán căn cơ mà thí giáo, vì người thuyết pháp, tùy theo đủ thứ căn tính khác nhau, mà nói đủ thứ Phật pháp, tức là vì thật thí quyền. Trước kia dùng pháp quyền xảo phương tiện, đều vì muốn nói giáo nghĩa chân thật cuối cùng.
Đấng đại Thánh Thế
Nơi
Trong tất cả chúng hội
Mà tuyên nói lời nầy:
Ta là bậc Như Lai
Là đấng Lưỡng Túc
Xu
Dường như vầng mây lớn
Thấm nhuần khắp tất cả
Những chúng sinh khô khan
Đều khiến cho lìa khổ
Được yên ổn vui sướng
Hưởng sự vui thế gian
Và sự vui Niết Bàn.
Đấng đại Thánh Thế Tôn, nơi chư thiên loài người, trong tất cả chúng sinh, tuyên nói: ‘’Ta là bậc Như Lai Đấng Lưỡng Túc Tôn’’. Lưỡng Túc là :
1. Phước đầy đủ: Tu đủ thứ công đức lành.
2. Huệ đầy đủ: Có phước cũng phải tu huệ, tu sáu độ, bốn pháp nhiếp .v.v. Do đó, có câu:
‘’Tu phước chẳng tu huệ,
Thân voi mang chuỗi ngọc.
Tu huệ chẳng tu phước,
Nếu chỉ tu phước mà chẳng tu huệ, tích tụ rất nhiều phước báu, thành con voi lớn, trên thân thể đeo mang chuỗi ngọc quý giá, lại ích gì ? Còn ngược lại, chỉ nghe kinh nói pháp, chẳng làm công đức, chẳng làm việc lành, thì tương lai chứng được quả A
Pháp vũ hay khiến cho chúng sinh, hưởng được sự vui thế gian và xuất thế gian.
Hết thảy chúng trời người
Một lòng khéo lóng nghe
Đều nên đến chỗ nầy
Hầu đấng Vô thượng tôn.
Ta là bậc Thế
Ch
Vì an ổn chúng sinh
Nên xuất hiện ra đời.
Vì các đại chúng nói
Pháp cam lồ trong sạch
Pháp đó thuần một vị
Vị giải thoát Niết bàn.
Dùng một tiếng diệu âm
Diễn xướng nghĩa nhiệm mầu
Thường vì pháp đại thừa
Mà kết làm nhân duyên.
Trời người đều nên đến đây, một lòng khéo nghe Phật pháp, lễ bái cung kính Phật. Ta là bậc tôn kính trong thế gian và xuất thế gian, cho nên chẳng có ai sánh bằng. Có bài kệ lễ Phật rằng :
‘’Thiên thượng thiên hạ vô như Phật,
Thập phương thế giới diệc vô tỉ,
Thế gian sở hữu ngã tận kiến,
Nhất thiết vô hữu như Phật giả.’’
Nghĩa là :
‘’Chư thiên loài người chẳng ai bằng Phật
Mười phương thế giới cũng chẳng sánh bằng
Hết thảy thế gian ta thấy hết
Tất cả chẳng có ai như Phật‘’.
Phật vì an ổn chúng sinh mà xuất hiện ra đời, vì đại chúng nói pháp cam lồ thanh tịnh. Pháp nầy là một thừa pháp, dùng một tiếng diệu âm diễn xướng nghĩa pháp đại thừa, dùng đủ thứ nhân duyên để nói nghĩa Phật pháp nầy.
Ta xem tất cả chúng
Hết thảy đều bình đẳng
Chẳng phân biệt đó đây
Cùng với tâm thương ghét.
Ta xem tất cả thảy đều bình đẳng, đủ thấy Phật rất từ bi. Phật chẳng nói: ‘’Ta chí cao vô thượng, chúa tể sáng tạo vạn vật.’’ Phật chỉ nói Ngài chuyển hóa vạn vật, khiến cho chúng sinh bỏ tà về chánh, bỏ tối về sáng. Phật chẳng nói: ‘’Ta là chánh, các vị đều là tà, các vị là do ta một tay sáng tạo‘’! Nếu tất cả là do chúa tể nào đó sáng tạo, thì sao lại cứ tạo những điều xấu ? Nói thẳng ra là chẳng có tơ hào năng lực thuyết phục, hóa được người. Cho nên Đức Phật chẳng nói Ngài tạo tất cả, mà là cứu độ tất cả. Ai chẳng minh bạch Phật pháp, thì khiến cho họ minh bạch Phật pháp, ai chẳng giác ngộ thì khiến cho họ giác ngộ. Tuy Phật độ chúng sinh, song chẳng có một chúng sinh có thể độ, đó mới là chân chánh bình đẳng.
Chẳng phân biệt đó đây, vì có đó thì có đây, có thương có ghét, khởi tâm niệm vui mừng, khởi sân hận chẳng vui mừng. Song, nếu chẳng vui cũng chẳng giận tất cả, chẳng có đó đây, thì chẳng có thương ghét. Nếu Thượng đế Ngài một mình làm được, còn ta không thể, thì học Ngài để làm gì ?
Ta chẳng có tham trước
Cũng chẳng có hạn ngại
Luôn luôn vì tất cả
Bình đẳng mà nói pháp.
Dù chỉ vì một người
Trong chúng đông cũng thế
Thường diễn nói các pháp
Từng không việc gì khác.
Phật nói ta chẳng có tham trước, tức chẳng có tâm thương ghét. Vì có thương thì có chấp, không thương thì ghét. Chẳng có tham trước, thì cũng chẳng có chướng ngại. Phật luôn luôn vì tất cả chúng sinh bình đẳng nói pháp, cũng giống như nói với một người. Cho nên, các bạn luyện tập thuyết pháp, đừng nói: ‘’Ngài thuyết pháp thì có nhiều người đến nghe, còn tôi thuyết pháp thì chẳng có ai đến nghe‘’! Đó là chướng ngại, luôn luôn vì tất cả, một là tất cả, một người tức là nhiều người, nhiều người tức là nhiều người.
‘’Bình đẳng mà nói pháp’’: Nhiều chẳng biết nhiều, ít chẳng biết ít; không nhiều không ít, không xa không gần. Giống như tôi tại Hương cảng thuyết pháp, cũng là vì nước Mỹ thuyết pháp; tại nước Mỹ thuyết pháp, cũng là vì Hương Cảng thuyết pháp, đó là không gần không xa. Đây là chân lý thật, chẳng có cười đùa, cũng chẳng có không cười đùa, đối với nhiều người cũng nói như thế, trừ khi hết hơi tôi mới không nói, bằng không còn sống, thì còn diễn thuyết pháp.
‘’Từng không việc gì khác’’. Thấm nhuần Phật pháp rồi, thì phải
thuyết pháp, như các vị thọ Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni phải cung hành thực tiễn, làm
mô phạm cho tốt. Khi mọi người nhìn vào thì thấy, Ồ ! Làm Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni vốn
là tốt như thế, khoái lạc như thế ! Đói chết cũng chẳng sợ, suốt ngày đến tối
đều chẳng nóng giận, thường sinh tâm vui vẻ, trì giới tinh nghiêm. Do đó, xuất
gia ở đây, xuất gia ở kia, mà vô lượng vô biên người đều đến đây xuất gia.
Song, nếu bạn suốt ngày đến tối ngủ nghỉ li bì, ăn ngon mặc đẹp, thì Phật giáo
ở nước Mỹ chẳng có ai tin. Cho nên, Phật giáo ở nước Mỹ mới bắt đầu, các bạn là
người tiên phong, nên dũng mãnh tinh tấn vô úy khai thác. Tại nước Mỹ, đây là lần
đầu tiên tiếp thọ Phật pháp đại thừa. Nếu họ hỏi các bạn thầy của các bạn là ai
? Thì bạn nói là Phật Thích Ca Mâu Ni, đừng nói riêng một vị thầy nào khác,
người khác hỏi bạn học Phật với ai ? Thì bạn cũng nói học Phật với Ba La Đề Mộc
Xoa, bạn nói lấy Ba La Đề Mộc Xoa làm thầy, đây chẳng phải là nói dối, vì Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng nói hãy lấy giới làm thầy.
Ngồi đứng hoặc đến đi
Thảy đều chẳng mỏi nhàm
Đầy đủ cho thế gian
Như mưa thấm nhuần khắp.
‘’Ngồi đứng hoặc đến đi‘’: Phật đi đứng nằm ngồi, bốn oai nghi đều nói pháp, chưa
từng phóng dật. Ngài ngồi cũng nói pháp, đứng cũng nói pháp, cho đến ngủ cũng
độ hóa chúng sinh, giáo hóa chúng sinh ngủ mộng.
‘’Đầy đủ cho thế gian, như mưa thấm nhuần khắp’’. Tại sao phải nói pháp ? Vì
chúng sinh đang sắp chết khô, trước khi họ chưa chết, thì ban cho họ mưa pháp
khiến cho họ sống lại.
Kẻ sang hèn trên dưới
Người trì giới, phạm giới
Oai nghi đều đầy đủ
Và chẳng được đầy đủ
Kẻ chánh kiến, tà kiến.
‘’Kẻ sang, hèn, trên, dưới‘’: Chỉ người bậc trên là hạng sang làm quan chức,
bậc dưới là thường dân. Trì giới hoặc phạm giới là chỉ người xuất gia. Oai nghi
có ba ngàn, ‘’có uy đáng sợ, có nghi đáng kính’’: Đi đứng nằm ngồi bốn đại oai
nghi, đều giữ được viên mãn, song nếu chẳng giữ giới, thì chẳng có bốn đại oai
nghi.
‘’Chánh kiến và tà kiến’’: Nói lời chẳng chánh đáng là tà kiến. Chánh kiến là chẳng
hợp lễ giáo thì đừng xem (phi lễ vật thị), chẳng hợp lễ giáo thì đừng nói (phi lễ
vật ngôn). Nếu như chẳng hợp với lễ giáo, mà đi xem đi nghe là tà kiến.
Lợi căn hoặc độn căn
Thảy đều mưa pháp vũ
Mà chẳng biết mệt mỏi
Hết thảy các chúng sinh.
Ai nghe pháp của ta
Tùy sức mà lãnh thọ
Trụ ở nơi các địa
Hoặc ở trong trời người.
‘’Lợi căn‘’: Là người thông minh, nghe pháp thì sẽ khai ngộ. ‘’Độn căn’’: Là kẻ
ngu si, nghe rất nhiều về Phật pháp, nhưng vẫn chẳng biết Phật pháp là gì. Họ
chẳng giữ giới, chẳng nhẫn nhục, chẳng tinh tấn, cũng chẳng thiền định, chẳng
lãnh thọ được Phật pháp, còn Phật thì chẳng có tơ hào phân biệt, Phật chỉ mưa
pháp vũ xuống khắp, để đượm nhuần chúng sinh. Phật nói pháp chẳng tiếc thân mạng,
cũng chẳng mệt mỏi. Tất cả chúng sinh phi tiềm động thực, thai noãn thấp hóa,
tùy theo thân của họ mà tiếp thọ lợi ích.
‘’Hoặc ở trong trời người’’: Hoặc trụ ở nhân gian hoặc trên trời.
Làm Chuyển luân thánh
Và
Đó là cỏ thuốc nhỏ
Biết được pháp vô lậu.
Sẽ chứng được Niết bàn
Khởi sáu phép thần thông
Và đắc được ba minh.
‘’Làm Chuyển Luân Thánh Vương‘’: Có kim, đồng, thiết, ngân, bốn vua chuyển
luân. Kim luân vương cai trị bốn thiên hạ : Đông Thắng Thần châu, Nam Thiệm Bộ
Châu, Tây Ngưu Hoá Châu và Bắc Câu Lưu Châu.
Kim Luân Vương có bảy báu, toại tâm như ý, biến hóa vô cùng, các nước của Kim
Luân vương cai trị, nhân dân đều giữ năm giới và làm mười điều lành.
Ngân Luân Vương cai trị ba thiên hạ, tức là Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ
Châu và Tây Ngưu Hóa Châu. Đồng Luân Vương quản lý Đông, Nam, hai thiên hạ.
Thiết Luân Vương quản lý một thiên hạ. Hiện tại chúng ta là Nam Thiệm Bộ Châu,
nếu tất cả các nước hợp lại với nhau chọn ra một vị lãnh tụ, có thể nói là
Thiết Luân Vương. Nếu như Thiết Luân Vương có thể tu hành thì có thể thành
Phật. Đức Phật lúc ban đầu nếu không tu hành, thì sẽ thành Kim Luân Vương.
Chuyển Luân Thánh Vương và các vua Thích, Phạm (vua Đế Thích, vua Đại Phạm
Thiên), thuộc về cỏ thuốc nhỏ, có thể được pháp vô lậu và được Niết Bàn. Các
Ngài hay khởi sáu thứ thần thông. Ba minh là Thiên nhãn minh, túc mạng minh và
lậu tận minh.
Ở riêng nơi núi rừng
Thường tu hành thiền định
Chứng được quả Duyên Giác
Là cỏ thuốc bậc trung.
Một mình ở trong thâm sơn cùng cốc tu hành, thường tu tập thiền định, đây là
quả vị Thanh Văn Duyên Giác, là cỏ thưốc bậc trung.
Cầu pháp nơi Thế
Ta
Tinh tấn tu thiền định
Là cỏ thuốc bậc thượng.
Nếu có người đến chỗ đức Thế Tôn cầu Phật pháp, Biết mình nhất tâm tu hành thì
tương lai sẽ thành Phật, tinh tấn tu thiền định, đó là cỏ thuốc bậc thượng.
Lại có các Phật tử
Chuyên tâm cầu Phật đạo
Thường tu hạnh từ bi
Biết mình sẽ thành Phật
Quyết định chẳng còn nghi.
Lại có các Phật tử chuyên tâm học Phật, thường tu hạnh từ bi, biết mình tương
lai cũng sẽ thành Phật, chẳng có tơ hào hoài nghi, đây là cây nhỏ, tức là thông
giáo Bồ Tát.
An trụ sức thần thông
Chuyển pháp luân bất thối
Độ hóa vô lượng ức
Trăm ngàn loài chúng sinh
Hạng Bồ Tát như thế
Đó gọi là cây lớn.
An trụ sức đại thần thông, chuyển pháp luân bất thối, giảng Kinh thuyết pháp, lợi
khắp trời người, vĩnh viễn chẳng thối tâm, giáo hoá vô lượng ức chúng sinh,
chẳng sợ hạnh khổ gian nan, đây là đại Bồ Tát, dụ cho cây lớn.
Phật bình đẳng nói pháp
Như nước mưa một vị
Tùy căn tánh chúng sinh
Tiếp thọ đều khác nhau.
Như các cỏ cây kia
Được đượm nhuần khác nhau
Phật dùng ví dụ nầy
Phương tiện mà khai thị.
Đủ thứ những lời lẽ
Để diễn nói một pháp
Nơi trí huệ của Phật
Như giọt nước trong biển.
Ta rưới mưa pháp vũ
Đầy khắp trong thế gian
Nói pháp thuần một vị
Tùy sức mà tu hành.
Như lùm rừng cây kia
Cỏ thuốc các cây cối
Tùy theo thân lớn nhỏ
Dần dần lớn sum sê.
Pháp của Phật nói là bình đẳng, như một vầng mây mưa xuống thuần một vị, song
tùy theo căn cơ của chúng sinh khác nhau, như cỏ thuốc nhỏ, lùm rừng, cây lớn
và cây nhỏ, đều đắc được lợi ích. Cho nên Phật dùng pháp phương tiện để khai
thị, dùng đủ thứ lời lẽ nói diệu pháp nhất thừa. Nơi trí huệ của Phật, đây chỉ
là một giọt nước trong biển mà thôi. Trí huệ của Phật vô lượng vô biên, pháp
được nói ra, cũng giống như một giọt trong biển cả, mà nước thì vô lượng vô
biên, cho nên nói pháp vũ của Phật nói, đầy khắp chúng sinh thế gian. Diệu pháp
nhất thừa, tùy theo sức tu hành của chúng sinh, cũng giống như cỏ thuốc các cây
cối lùm rừng, tùy theo thân lớn nhỏ và hấp thụ lượng nước, mà lớn lên sum sê
tươi tốt.
Pháp của các đức Phật
Thường chỉ thuần một vị
Khiến cho các thế gian
Thảy đều được đầy đủ.
Thứ tự mà tu hành
Đều đắc được đạo quả
Hàng Thanh Văn Duyên Giác
Thường ở nơi núi rừng.
Trụ thân cuối cùng nầy
Nghe pháp được chứng quả
Đó gọi là cỏ thuốc
Thảy đều được lớn lên.
Nếu các bậc Bồ Tát
Trí huệ rất kiên cố
Thấu suốt được ba cõi
Cầu chứng tối thượng thừa.
Đó gọi là cây nhỏ
Mà được tăng trưởng lên
Lại có vị trụ thiền
Đắc được sức thần thông.
Nghe các pháp không tướng
Trong tâm rất vui mừng
Phóng vô số quang minh
Độ tất cả chúng sinh.
Đó gọi là cây lớn
Mà được tăng trưởng lên.
Diệu pháp của chư Phật thường chỉ thuần một vị, khiến cho các thế gian cũng đắc
được đầy đủ, từng chút từng chút dần dần tu hành đều sẽ thành đạo chứng quả.
Còn có hàng Thanh Văn Duyên Giác, chứng tứ quả A
Như thế nầy Ca Diếp !
Pháp của Phật nói ra.
Ví như vầng mây lớn
Dùng nước mưa một vị
Đượm nhuần nơi hoa người
Thảy đều được thành Phật.
Ca Diếp ông nên biết !
Dùng các thứ nhân duyên
Và đủ thứ ví dụ
Để mở bày Phật đạo.
Là phương tiện của ta
Các đức Phật cũng thế
Nay ta vì các ông
Nói pháp chân thật nhất.
Các chúng hàng Thanh Văn
Đều chưa thật diệt độ
Sở hành của các ông
Đều là Bồ Tát đạo
Nếu từ từ tu học
Tất sẽ được thành Phật.
Ca Diếp ! Pháp của Phật nói giống như vầng mây lớn, dùng một thừa mưa pháp, đượm
nhuần nơi hoa người, tất cả mọi người thảy đều sẽ thành Phật.
Ca Diếp ! Ông nên biết, dùng tất cả nhân duyên và đủ thứ ví dụ, để mở bày con đường
cho chúng sinh thành Phật, là phương tiện của ta, mười phương chư Phật cũng như
thế. Hiện tại, ta vì các ông nói pháp chân thật nhất. Hàng nhị thừa chưa được
pháp chân chính, chỉ chứng được hữu
Song, các ông thực hành đều là Bồ Tát đạo, nếu hằng ngày từ từ tu hành, thì
tương lai chắc chắn sẽ thành Phật. Đây là Phật vì Ngài Ca Diếp và các đệ tử
lớn, đưa ra ví dụ tam thảo nhị mộc, tán dương pháp đại thừa, như vầng mây lớn
mưa xuống, thảy đều bình đẳng, đượm nhuần các loài chúng sinh, tùy theo căn tính
khác nhau, khiến cho họ đều được lợi ích đượm nhuần tăng trưởng.