- Giải Thích Tên Kinh
- Phẩm Tựa Thứ Nhất
- Phẩm Phương Tiện Thứ Hai
- Phẩm Thí Dụ Thứ Ba
- Phẩm Tin Hiểu Thứ Tư
- Phẩm Dược Thảo Dụ Thứ Năm
- Phẩm Thọ Ký Thứ Sáu
- Phẩm Hóa Thành Dụ Thứ Bảy
- Phẩm Thọ Ký Cho Năm Trăm Vị Đệ Tử Thứ Tám
- Phẩm Thọ Ký Cho Bậc Hữu Học Và Vô Học Thứ Chín
- Phẩm Pháp Sư Thứ Mười
- Phẩm Thấy Bảo Tháp Thứ Mười Một
- Phẩm Đề Bà Đạt Đa Thứ Mười Hai
- Phẩm Khuyên Trì Thứ Mười Ba
- Phẩm An Lạc Hạnh Thứ Mười Bốn
- Phẩm Từ Dưới Đất Vọt Lên Thứ Mười Lăm
- Phẩm Thọ Lượng Của Như Lai Thứ Mười Sáu
- Phẩm Phân Biệt Công Đức Thứ Mười Bảy
- Phẩm Tùy Hỷ Công Đức Thứ Mười Tám
- Phẩm Công Đức Pháp Sư Thứ Mười Chín
- Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh Thứ Hai Mươi
- Phẩm Thần Lực Của Như Lai Thứ Hai Mươi Mốt
- Phẩm Chúc Lũy Thứ Hai Mươi Hai
- Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Dược Vương Thứ Hai Mươi Ba
- Phẩm Bồ Tát Diệu Âm Thứ Hai Mươi Bốn
- Phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm Thứ Hai Mươi Lăm
- Phẩm Đà La Ni Thứ Hai Mươi Sáu
- Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Vua Diệu Trang Nghiêm Thứ Hai Mươi Bảy
- Phẩm Khuyến Phát Của Bồ Tát Phổ Hiền Thứ Hai Mươi Tám
Giảng Giải: Hoà Thượng Tuyên Hoá
Hán dịch: Ngài Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật. Mười danh hiệu
là gì ? Tức là Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, đủ mười hiệu
này nên gọi là Thế Tôn. Mười phương ba đời tất cả chư Phật đều gọi là Như Lai.
Như Lai là gì ? Tức là :
‘’Thừa như thật chi đạo,
Lai thành chánh giác.’’
Thừa là trí như như, lai là cảnh như như. Dùng trí như như để quán sát cảnh như
như. Cảnh trí như như, cảnh trí hợp mà làm một. Tóm lại, cũng chẳng có cảnh,
cũng chẳng có trí. Đạo là nhân, giác là quả. Đây là cảnh giới nhân viên quả
mãn, cho nên gọi là ‘’Như Lai.’’ Như Lai có hai thân, tức là chân thân và ứng
thân. Chân thân là pháp thân, ứng thân là hóa thân, tuy danh từ khác nhau, song
thể dụng giống nhau. Theo căn cơ chúng sinh mà hiện thân, để vì chúng sinh nói
pháp. Do đó :
‘’Bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến.’’
Ví dụ như : Chân thân cũng như mặt trăng sáng ở trong hư không, ứng thân giống
như bóng mặt trăng ở trong nước. Do đó, có câu :
‘’Thiên đàm hữu thủy thiên đàm nguyệt.’’
Nghĩa là :
‘’Ngàn ao hồ có ngàn mặt trăng hiện vào.’’
Phàm là nơi nào có nước, chỉ cần lắng trong không đục, thì mặt trăng đều hiện
bóng vào. Song, mặt trăng trong nước chẳng đi, mặt trăng trên trời cũng chẳng
đến. Cho nên nói:
"Như Lai chẳng đến chẳng đi".
Tuy Đức Phật thị hiện đến thế giới này, song cũng chẳng sinh; tuy thị hiện nhập
diệt, cũng chẳng có diệt. Tại sao ? Vì bổn thể của Ngài chẳng động. Đó là cảnh
giới không sinh mà thị hiện sinh, không diệt mà thị hiện diệt, khiến cho chúng
sinh đừng chấp trước có sinh có diệt. Phật thì không sinh không diệt, huệ mạng
của Phật cũng chẳng có hạn lượng, về thời gian là vô hạn, về không gian là vô
lượng. Như Lai có ba thân, tức là :
1). Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật, dịch là "Biến
mãn nhất thiết xứ" (đầy khắp mọi nơi). Trí huệ quang của Ngài chiếu khắp
hư không, tận hư không biến pháp giới. Pháp thân của Phật vô tại vô bất tại.
Tại sao ? Vì pháp thân của Phật không hình không tướng, thuần nhất thanh tịnh,
chân Phật vô hình, cho nên không có chỗ nào mà chẳng phải là pháp thân ở tại chỗ
đó.
Có người khởi vọng tưởng : ‘’Đại khái nơi chẳng thanh tịnh, thì chẳng có pháp thân
của Phật‘’ ! Nói cho bạn biết ! Pháp thân của Phật chẳng có chỗ nào mà không có
(vô sở bất tại). Thanh tịnh hay không thanh tịnh, là do tâm phân biệt của phàm
phu mà nói. Tại cảnh giới của Phật mà nói, thì không thanh tịnh cũng biến thành
thanh tịnh. Ở trước kinh này có nói về ba lần biến đất đai, tức là không thanh
tịnh biến thành thanh tịnh.
2). Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật, dịch là "Tịnh mãn".
Tức là các hoặc đều tịnh, trí huệ viên mãn. Khi Đức Phật chứng đạo dưới cội bồ
đề, thì hiện thân Lô Xá Na ngàn trượng, để vì pháp thân Đại sĩ (Bồ Tát) nói
Kinh
Có người hỏi : ‘’Hàng nhị thừa là bậc Thánh nhân, sao chẳng
thấy Phật chẳng nghe pháp; chúng ta là phàm phu, sao lại thấy được Kinh
Đáp : ‘’Vì hàng nhị thừa cơ duyên còn chưa thành thục, cho nên chẳng nghe pháp đại
thừa. Chúng ta gặp được Kinh
Sau khi Đức Phật vào Niết Bàn, khoảng sáu trăm năm sau, Bồ Tát Long Thọ ra đời ở
Ấn Độ, Ngài có trí huệ hơn người, bất cứ kinh gì sách gì, qua mắt rồi thì không
bao giờ quên, thuộc lòng như nước chảy. Ngài đọc hết tất cả kinh sách thế gian,
chẳng còn sách gì để đọc, Long Vương thỉnh Ngài xuống lầu tạng kinh ở dưới Long
Cung, để đọc kinh điển đại thừa. Ngài phát hiện bộ Kinh
Nói đến đây lại có người khởi vọng tưởng : ‘’Bồ Tát Long Thọ làm sao mà xuống
Long cung được ? Ngài lặn xuống nước chăng‘’ ? Phàm là người chứng quả, đều có
thần thông, vào đất như vào nước, đi trong nước như đi trên đất. Ngài đến bờ
biển thì nước biển tự nhiên rẽ ra thành đường đi, chân Ngài chẳng dính nước, bèn
đi đến Long cung, bạn nói có diệu chăng ! Bạn có muốn xuống Long cung tham quan
chăng ? Hãy mau ngồi thiền nhập định, đắc được ngũ nhãn lục thông, thì bất cứ muốn
đến đâu, cũng đều toại tâm như ý, chẳng bị vật gì hạn chế.
3). Thiên Bách ức Hóa Thân Thích Ca Mâu Ni Phật, dịch là
"Năng nhân tịch mặc". Nghĩa là thân khẩu ý ba nghiệp, lìa các lỗi ác
được vắng lặng. Phật tùy loại chúng sinh mà hiện thân để giáo hóa. Tóm lại,
theo cơ của chúng sinh mà hiện thân nói pháp, chẳng những ở thế giới này nói pháp,
mà còn nói pháp ở khắp mười phương vô lượng thế giới, để giáo hóa chúng sinh.
Phẩm này là vì giải quyết lòng nghi của chúng mà nói : ‘’Ta thành Phật đến nay
rất là lâu xa, thọ mạng của Như Lai vô lượng A tăng kỳ kiếp.’’ Phẩm này nói rõ
công đức báo thân và trí huệ của Phật, trên thì hợp với thật tướng, dưới thì
khế với chúng sinh.
Bấy giờ, đức Phật bảo các Bồ Tát và tất cả đại chúng : Các thiện nam tử !
Các ông nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai. Lại bảo đại chúng : Các ông
nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai. Lại bảo đại chúng : Các ông nên tin
hiểu lời nói chân thật của Như Lai.
Sau khi Đức Phật nói xong Phẩm Từ Dưới Đất Vọt Lên rồi, bèn nói Phẩm Thọ Lượng của
Như Lai. Lúc đó, Phật bảo tất cả Bồ Tát và đại chúng trong hội Pháp Hoa nói :
‘’Các vị thiện nam tử ! Các ông hãy thanh tịnh tâm của mình, thu nhiếp ý của
mình, chú ý lắng nghe ! Nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai.’’ Trước kia
nói pháp ba thừa, là tùy phương tiện mà nói, bây giờ nói pháp một thừa, nên gọi
là pháp chân thật.
Đức Thế Tôn sợ rằng hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trong pháp hội
khởi vọng tưởng chẳng chú ý nghe pháp, cho nên lại nói lần nữa : ‘’Các ông nên
tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai.’’
Bấy giờ, trong đại chúng Bồ Tát, Bồ Tát Di Lặc làm thượng thủ, chắp tay bạch
đức Phật rằng : Đức Thế Tôn ! Xin hãy nói đi, chúng con sẽ tin nhận lời của đức
Phật nói, bạch ba lần như thế rồi nói : Xin hãy nói đi, chúng con sẽ tin nhận
lời của đức Phật nói.
Lúc đó, trong đại chúng Bồ Tát nghe Phật nói ba lần như thế. Bồ Tát Di Lặc đại biểu
cho đại chúng, hướng về Đức Phật cung kính chắp tay mà bạch rằng : ‘’Đức Thế
Tôn ! Xin Ngài hãy vì chúng con mà nói lời chân thật, chúng con sẽ tin sâu tiếp
thọ lời nói của Phật, tuyệt đối chẳng hoài nghi pháp của Phật nói.’’ Nói như
thế ba lần, thì Phật yên lặng chẳng nói (ba lần thỉnh pháp để biểu thị chí
thành khẩn thiết). Bồ Tát Di Lặc lại nói : ‘’Xin Đức Thế Tôn hãy vì chúng con
mà nói, chúng con nhất định tin nhận lời của Phật nói.’’
Bấy giờ, đức Thế Tôn biết các Bồ Tát ba lần thỉnh không ngừng, bèn bảo rằng
: Các ông hãy lắng nghe, sức thần thông bí mật của Như Lai, tất cả thế gian
trời người và A tu la, đều cho rằng hôm nay đức Phật Thích Ca Mâu Ni, lìa bỏ
hoàng cung đến thành Già Gia chẳng bao xa, ngồi nơi Đạo tràng, đắc được Vô
thượng chánh đẳng chánh giác.
Lúc đó, Phật biết các vị Bồ Tát ba lần thỉnh pháp không ngừng, bèn nói với các
vị Bồ Tát rằng : ‘’Các ông phải nghe cho kỹ ! Sức thần thông bí mật của Như
Lai.’’ Tất cả thế gian trời người và A tu la đều nói rằng : ‘’Hiện tại Phật
Thích Ca Mâu Ni, lìa khỏi cung điện của vua Tịnh Phạn, đi đến thành Già Gia chẳng
bao xa, ngồi dưới cội bồ đề, chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.’’
Thiện nam tử ! Thật ra, từ khi ta thành Phật đến nay, đã vô lượng vô biên
trăm ngàn vạn ức Na do tha kiếp. Ví như, năm trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng
kỳ, ba ngàn đại thiên thế giới. Giả sử, có người nghiền ra thành bụi, đi qua
phương đông, năm trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ cõi nước, mới để xuống
một hạt bụi, cứ theo hướng đông làm như thế, hết số hạt bụi đó.
Thiện nam tử ! Thật ra ta thành Phật đến nay, đã có vô lượng vô biên trăm ngàn
vạn ức Na do tha kiếp. Chứ chẳng phải hiện tại mới chứng được Vô thượng chánh
đẳng chánh giác.
Ví như, có năm trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ (vô lượng
số), ba ngàn đại thiên thế giới. Giả sử, có người đem hết các thế giới đó nghiền
ra thành bụi, đi thẳng về phương đông, qua năm trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng
kỳ cõi nước, mới để xuống một hạt bụi, để hết số hạt bụi, chẳng còn hạt bụi nào
cả.
Các thiện nam tử ! Ý của các ông thế nào? Các thế giới đó, có thể suy nghĩ tính
đếm biết được số bao nhiêu chăng?
Các thiện nam tử ! Ý của các ông thế nào ? Những thế giới như thế có bao nhiêu
? Các ông có thể suy nghĩ, tính đếm cứu kính có bao nhiêu số mục, các ông có
biết số chắc chắn là bao nhiêu chăng ?
Bồ Tát Di Lặc và hết thảy Bồ Tát, đều bạch đức Phật rằng : Đức Thế Tôn ! Các
thế giới đó vô lượng vô biên, chẳng phải tính đếm mà biết được. Tất cả hàng
Thanh Văn, Bích Chi Phật, dùng trí huệ vô lậu, cũng không thể suy nghĩ biết
được số lượng. Chúng con trụ ở bậc bất thối, ở nơi việc này, cũng chẳng biết
được. Đức Thế Tôn ! Các thế giới như thế vô lượng vô biên.
Bồ Tát Di Lặc và tất cả Bồ Tát đồng thời nói với Phật : ‘’Đức Thế Tôn ! Những
thế giới đó vô lượng vô biên, chẳng phải tính toán mà biết được số mục, cũng
chẳng phải dùng sức tâm của một số người, mà tưởng tượng đến được. Dù tất cả
hàng Thanh Văn và Duyên Giác, dùng trí huệ vô lậu để suy nghĩ cũng chẳng biết
được số mục. Chúng con hàng Bồ Tát đều trụ ở bậc bất thối, ở nơi việc này cũng chẳng
biết được. Đức Thế Tôn ! Những thế giới đó chẳng có số lượng, chẳng có bờ bến, không
thể nói, không thể hình dung được.’’
Bấy giờ, đức Phật bảo đại chúng Bồ Tát : Các thiện nam tử ! Nay ta phân minh
nói cho các ông nghe, các thế giới đó, hoặc để hạt bụi, hoặc không để, đều
nghiền ra thành bụi hết, một hạt bụi là một kiếp. Từ ta thành Phật đến nay, còn
nhiều hơn số đó, trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ kiếp. Từ đó đến nay, ta
thường ở tại thế giới Ta Bà này, thuyết pháp giáo hóa, cũng ở nơi trăm ngàn vạn
ức Na do tha A tăng kỳ cõi nước khác, giáo hóa lợi ích chúng sinh.
Lúc đó, Đức Phật bảo các đại Bồ Tát ở trong pháp hội rằng : ‘’Các vị thiện nam tử
! Nay ta sẽ phân minh nói rõ cho các ông nghe. Đi về hướng đông, trải qua vô
lượng thế giới như thế, hoặc để một hạt bụi xuống, hoặc không để hạt bụi xuống,
lại đem tất cả những thế giới đó, đều nghiền ra thành bụi. Một hạt bụi là một
kiếp, từ khi ta thành Phật đến nay, đã trải qua nhiều hơn số kiếp hạt bụi đó, khoảng
trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ đại kiếp. Từ đó đến nay, ta thường ở tại
thế giới Ta Bà này, thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, cũng ở những thế giới khác
giáo hóa chúng sinh, tại trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ cõi nước, giáo
hóa lợi ích tất cả chúng sinh.’’
Các thiện nam tử ! Trong khoảng giữa đó, ta nói Phật Nhiên Đăng, và còn nói đức
Phật đó vào Niết Bàn. Như thế đều dùng phương tiện phân biệt.
Các vị thiện nam tử ! Từ lúc ban đầu ta thành Phật, đến hiện tại pháp hội Linh
Sơn, trong khoảng giữa này ta đã từng nói qua : ‘’Ta ở vào thời Phật Nhiên
Đăng, tên là Bồ Tát Thiện Huệ. Sau gặp Phật Nhiên Đăng thọ ký cho ta, vào thời
kỳ Hiền Kiếp, sẽ được thành Phật hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni.’’ Ta lại nói :
‘’Phật Nhiên Đăng nhập Niết Bàn vào thời nào‘’? Những pháp ta nói đó, thật là
pháp phương tiện, vì đối với căn tánh của chúng sinh mà nói ra nhân duyên đó, sự
tích đó. Thật tế thì chẳng phải như thế, chẳng qua phương tiện phân biệt nói mà
thôi. Các ông đừng cho nó là thật.
Các thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh đến chỗ ta, thì ta dùng mắt Phật quán sát,
niềm tin và các căn lợi độn của họ, để độ họ. Nơi nơi tự nói danh tự khác nhau,
tuổi tác lớn nhỏ, cũng hiện nói sẽ vào Niết Bàn, lại dùng đủ thứ phương tiện
nói pháp vi diệu, khiến cho chúng sinh phát tâm hoan hỷ.
Các vị thiện nam tử ! Giả sử có chúng sinh đến chỗ ta, thì ta dùng mắt Phật để
quán sát năm căn của họ, là lợi hay là độn, để thuyết pháp giáo hóa họ.
Nếu người có tín căn mà nghe Phật pháp, thì họ liền tin, chẳng sinh tâm hoài nghi,
giữ quy cụ chẳng phóng dật. Sau khi tin Phật pháp rồi, thì còn phải tinh tấn nỗ
lực tu hành. Bằng không, có tín căn mà chẳng tinh tấn thì đó là ‘’khẩu đầu
thiền.’’ Nói mà chẳng làm thì cũng như không, chẳng ích lợi gì. Phải từ từ đi
đứng nằm ngồi, niệm niệm không quên mới có công hiệu. Những pháp môn học được,
chẳng thiết thực nghiên cứu, chẳng chuyên tâm đọc tụng, thậm chí một ngày nóng mười
ngày lạnh, thì vĩnh viễn chẳng đắc được giải thoát. Niệm căn bất thối thì mới
sinh ra định căn. Có định căn rồi thì mới sinh huệ căn. Năm căn này đều có mối
quan hệ với nhau. Người chẳng có định căn, khi cảnh giới đến khảo nghiệm thì hồ
đồ. Tại sao ? Vì chẳng có huệ căn, cho nên huệ căn rất là quan trọng. Do năm
căn mà sinh ra năm lực, năm lực trợ giúp thành tựu đạo nghiệp.
Lợi căn là người thông minh, độn căn là người ngu si. Người
thông minh thì không bị cảnh giới chuyển, mà chuyển được cảnh giới. Cảnh giới
ác chuyển thành cảnh giới thiện, cảnh giới nghịch chuyển thành cảnh giới thuận.
Người ngu si thì ngược lại, việc tốt làm thành việc xấu, việc thiện làm thành
việc ác, cứ làm việc điên đảo. Tại sao lại thông minh ? Vì làm nhiều công đức,
chẳng làm việc thất đức. Tại sao lại ngu si ? Vì chẳng làm việc công đức, cứ
muốn chiếm tiện nghi, chẳng chịu thiệt thòi. Phải hiểu rằng :
‘’Thiệt thòi là chiếm tiện nghi.’’
Đạo lý này các vị hãy nghiên cứu thì sẽ biết nghĩa của nó.
Lão Tử từng nói qua bài này rằng :
‘’Đại đạo phế, hữu nhân nghĩa.
Trí huệ xuất, hữu đại ngụy.
Lục thân bất hòa, hữu hiếu tử,
Quốc gia hỗn loạn, hữu trung thần.’’
Nghĩa đại khái là : Đại đạo chẳng còn, thì mới đi giảng về nhân nghĩa. Người có
trí huệ xuất hiện, thì trên thế gian sẽ có việc gian ngụy phát sinh. Gia đình
bất hòa thì mới hiển lộ người con có hiếu. Nước nhà hỗn loạn, thì mới xuất hiện
trung thần. Tục ngữ có câu :
‘’Chẳng có núi cao thì không hiển lộ đất bằng.’’
Khi nước nhà thái bình, thì ai ai cũng đều là người tốt, chẳng phân biệt được người
trung kẻ gian. Khi đất nước đại loạn, thì mới biết rõ trung thần báo quốc, gian
thần bán nước, xưa nay đều rõ ràng.
Phật tùy theo chúng sinh nào độ được, thì thuyết pháp giáo hóa họ, cho nên nơi
nơi chốn chốn, tự nói danh hiệu của mình, hoặc là nói Tỳ Lô Giá Na, hoặc nói Lô
Xá Na, hoặc nói Thích Ca Mâu Ni. Tuy danh hiệu khác nhau, song đều là một người.
Tuổi tác của Phật ở đời, hoặc lớn, hoặc nhỏ, hoặc già, hoặc trẻ, đều khác nhau.
Lại đối với hàng đệ tử nói : ‘’Hiện tại ta sẽ vào Niết Bàn.’’ Kỳ thật, Phật
cũng chẳng sinh, cũng chẳng diệt, thường ở tại cõi Thường Tịch Quang thuyết pháp.
Lại dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, diễn nói pháp vi diệu không thể nghĩ bàn,
khiến cho chúng sinh hoan hỷ.
Các thiện nam tử ! Như Lai thấy các chúng sinh ưa thích pháp tiểu thừa, đức mỏng,
trần cấu nặng, thì vì người đó nói : Ta thiếu niên xuất gia, đắc được Vô thượng
chánh đẳng chánh giác. Nhưng thật ra, ta thành Phật đến nay, rất là lâu xa,
nhưng dùng phương tiện giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ vào Phật đạo, mà nói
như thế.
Các vị thiện nam tử ! Như Lai quán sát căn cơ của tất cả chúng sinh, để vì họ
nói pháp. Có chúng sinh thích pháp tiểu thừa, thì vì họ nói pháp tiểu thừa. Có
chúng sinh hoan hỷ pháp đại thừa, thì vì họ nói pháp đại thừa. Đối với chúng
sinh phước mỏng đức cạn, hoặc phiền não cấu nặng, độn căn thì nói : ‘’Ta lúc
thiếu niên xuất gia tu đạo, đã chứng quả giác Vô thượng chánh đẳng chánh
giác.’’ Song, thật ta thành Phật đến nay rất là lâu xa, đã vượt hơn số bụi A
tăng kỳ kiếp. Nhưng dùng pháp môn quyền xảo phương tiện, để giáo hóa chúng
sinh, khiến cho họ cải tà quy chánh, hồi tiểu hướng đại, phát tâm bồ đề chứng
nhập Phật đạo, cho nên mới nói pháp như thế.
Các thiện nam tử ! Như Lai nói tất cả kinh điển, đều vì độ thoát chúng sinh,
hoặc nói thân mình, hoặc nói thân của chư Phật, hoặc thị hiện thân mình, hoặc
thị hiện thân Phật khác, hoặc nói việc của mình, hoặc nói việc của Phật khác.
Những lời nói ra, đều chân thật không hư.
Các vị thiện nam tử ! Như Lai nói tất cả kinh điển, đều vì độ thoát tất cả
chúng sinh, lìa khổ được vui mà nói. Vì chúng sinh có tám vạn bốn ngàn trần
lao, cho nên mới nói ra tám vạn bốn ngàn pháp môn. Mỗi pháp môn đối trị mỗi
chứng bệnh. Đối với chúng sinh tâm tham nặng, thì nói quán pháp bất tịnh; đối
với chúng sinh tâm sân nặng, thì nói quán pháp từ bi; đối với chúng sinh tâm si
nặng, thì nói quán pháp nhân duyên. Tóm lại, theo bệnh cho thuốc, thì mới có
công hiệu. Phật dùng đủ thứ pháp môn, đối trị đủ thứ tập khí mao bệnh của chúng
sinh.
Phật giáo hóa chúng sinh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân
của chư Phật, dùng thân làm khuôn phép, làm mô phạm cho chúng sinh, hoặc thị hiện
thân mình, hoặc thị hiện thân Phật khác, để làm mô phạm khiến cho chúng sinh
học theo, hoặc nói nhân duyên bổn sinh bổn sự của chư Phật, Bồ Tát, Bích Chi
Phật, A
Tại sao ? Vì Như Lai thấy biết tướng ba cõi như thật, chẳng có sinh tử, hoặc
thối lùi, hoặc xuất hiện, cũng chẳng tại thế, hoặc diệt độ, chẳng thật, chẳng
hư, chẳng như, chẳng khác. Chẳng như ba cõi, mà thấy ba cõi. Những sự việc đó,
chỉ có Như Lai mới thấy rõ, chẳng có sai lầm.
Đây là nguyên nhân gì ? Như Lai dùng tri kiến chân như thật trí, chiếu thấy tướng
của ba cõi chẳng có sinh tử. Tại bổn thân của Phật mà nói, thì chẳng có sinh,
cũng chẳng có diệt, cũng chẳng có thối lùi, cũng chẳng có xuất hiện, cũng chẳng
trụ thế, cũng chẳng diệt độ.
Một số phàm phu, quán tất cả pháp là thật có, hàng nhị thừa quán tất cả pháp là
không tướng, Phật quán tất cả pháp là chẳng thật chẳng hư. Tóm lại, trung đạo
mới là chân không diệu hữu; diệu hữu không ngại chân không. Cũng chẳng phải
như, chẳng phải khác. Sao gọi là chẳng phải như ? Chẳng phải một. Sao gọi là
chẳng phải khác ? Cũng chẳng phải hai. Chẳng giống như chúng sinh trong ba cõi,
thấy ba cõi thì có ba cõi. Tại Phật mà nói, thì chẳng có sinh tử, chẳng có ba cõi.
Những sự việc như thế chỉ có Như Lai mới thấy rõ chẳng có sai lầm.
Vì chúng sinh có đủ thứ tánh, đủ thứ dục, đủ thứ hạnh, đủ thứ nghĩ nhớ phân biệt.
Phật muốn khiến cho sinh các căn lành, cho nên dùng đủ thứ nhân duyên, ví dụ
lời lẽ, đủ thứ thuyết pháp, làm các Phật sự, chưa từng tạm phế bỏ.
Vì hết thảy chúng sinh đều có đủ thứ tập tánh, đủ thứ dục vọng, đủ thứ nghiệp
hành, đủ thứ nghĩ nhớ phân biệt. Phật muốn khiến cho chúng sinh trồng tất cả
căn lành, cho nên dùng đủ thứ nhân duyên, đủ thứ ví dụ, đủ thứ lời lẽ, đủ thứ
thuyết pháp. Làm những Phật sự từ lâu xa đến nay, chưa từng tạm thời phế bỏ.
Tóm lại, ngày ngày làm Phật sự chẳng có ngừng nghỉ.
Chúng sinh là gì ? Phàm là có huyết, có khí, có mạng sống, đều là chúng sinh,
tức cũng là do chúng duyên hòa hợp mà sinh. Phi, tiềm, động, thực, đều là hữu
tình chúng sinh, cây, cỏ, vàng, đá, là vô tình chúng sinh, hữu tình chúng sinh
đang nói pháp, vô tình chúng sinh cũng đang nói pháp, bất quá chúng ta phàm phu
chẳng thấu được mà thôi, bậc Thánh nhân chứng được ngũ nhãn lục thông, đều biết
đều thấy.
Như thế, từ khi ta thành Phật đến nay, rất là lâu xa, thọ mạng vô lượng A tăng
kỳ kiếp, thường trụ bất diệt.
Như ở trên vừa nói, từ khi ta thành Phật đến nay, thời gian rất là lâu xa, tuổi
thọ vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp, thường trụ ở cõi Thường Tịch Quang Tịnh
Độ, cũng chẳng sinh, cũng chẳng diệt. Và chẳng phải chỉ chứng đạo ở dưới cội bồ
đề, nhập diệt tại Sa La song thọ. Đó bất quá là phương tiện thị hiện mà thôi.
Các thiện nam tử ! Thuở xưa, ta hành Bồ Tát đạo, được tuổi thọ đến nay vẫn chưa
hết, lại tăng thêm. Nay chẳng phải thật diệt độ, mà nói là sẽ diệt độ. Như Lai
dùng phương tiện đó, để giáo hóa chúng sinh.
Các vị thiện nam tử ! Thuở xưa, khi ta hành Bồ Tát đạo, được tuổi thọ đến nay vẫn
chưa hết. Còn lâu dài hơn hạt bụi số kiếp đã nói ở trên. Hiện tại ta muốn vào
Niết Bàn, chẳng phải thật diệt độ, chỉ là phương tiện nói pháp, bèn nói là sẽ
diệt độ. Như Lai vì phương tiện giáo hóa chúng sinh, mà nói như thế.
Tại sao ? Nếu Phật sống lâu ở đời, thì người đức mỏng chẳng trồng căn lành, bần
cùng hạ tiện tham trước năm dục, vào trong lưới vọng kiến nhớ tưởng.
Tại sao Phật có diệt độ, mà nói là chẳng có diệt độ ? Phật vốn là chẳng sinh chẳng
diệt. Nếu như Phật sống lâu ở đời chẳng vào Niết Bàn, thì người phước mỏng sinh
tâm ỷ lại, chẳng muốn trồng căn lành. Tâm nghĩ : ‘’Phật còn ở đời, mình từ từ
trồng căn lành cũng chưa muộn, còn có nhiều thời gian.’’ Cho nên, bổn ý của
Phật thị hiện Niết Bàn, là khiến cho chúng sinh sớm trồng căn lành, sớm thành Phật
đạo.
Giảng đến đây, tôi nhớ lúc ở đông bắc bên Tàu, đệ tử quy y với tôi thì rất
đông, song đệ tử tu hành thì rất ít. Dạy họ tu hành thì có người nói : ‘’Tôi
chẳng có thời giờ tu, khi về già tu cũng chưa muộn.’’ Sau khi tôi rời khỏi đông
bắc đến Hương Cảng, thì có nhận thư của đệ tử gởi đến nói : ‘’Người đó bây giờ
tu hành, rất là nỗ lực, chẳng giải đãi nữa.’’ Vì sư phụ không có ở đó, thì họ mới
tu hành. Nếu sư phụ ở đó, thì họ chưa chịu tu hành. Sau khi tôi đến Hương Cảng,
cũng có rất nhiều người quy y, song tu hành chẳng nhận chân. Tôi rời khỏi Hương
Cảng đến nước Mỹ, thì lúc này họ mới biết chẳng có sư phụ, thì phát sinh những
việc khó khăn, chẳng cách gì giải quyết được. Do đó, thơ này thì thỉnh sư phụ
trở về, thư kia thì thỉnh sư phụ giúp đỡ. Tóm lại, ngày ngày gặp mặt, thì chẳng
cảm thấy quan trọng, khi không gặp thì mới biết là quan trọng.
Nguyên nhân Phật chẳng ở lại đời, là vì chúng sinh bần cùng hạ tiện, tham trước
năm dục, chẳng biết chẳng hay, đọa vào trong lưới vọng kiến nhớ tưởng điên đảo,
làm che lấp đi trí huệ quang minh, cứ làm việc điên đảo.
Tại sao người lại bần cùng ? Vì kiếp trước chưa làm việc công đức, cũng chẳng trồng
căn lành, cứ nghĩ muốn chiếm tiện nghi, cho nên đời này chẳng có phước báo.
Nếu thấy Như Lai thường ở đời chẳng nhập diệt, thì họ sẽ sinh tâm kiêu mạn
phóng túng, mà ôm lòng nhàm chán giải đãi, chẳng sinh tâm khó được gặp Phật,
chẳng sinh tâm cung kính. Do đó, Như Lai dùng phương tiện nói : Tỳ Kheo nên
biết, chư Phật ra đời rất khó được gặp.
Chúng sinh tham luyến năm dục, nếu thấy Phật thường ở đời mà không nhập diệt,
thì họ bèn sinh tâm kiêu mạn phóng túng, chẳng giữ quy cụ. Họ ngày ngày thấy
Phật, thời thời gặp Phật, thì sinh tâm nhàm chán giải đãi, mà chẳng sinh tâm
khó được gặp Phật ở đời, chẳng sinh tâm cung kính Tam Bảo. Do đó, cho nên Như
Lai phương tiện nói : ‘’Này các Tỳ Kheo ! Các ông nên biết, mười phương chư Phật
xuất hiện ra đời, chẳng dễ gì gặp được.’’
Tại sao ? Vì những người đức mỏng, trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, hoặc
có gặp Phật, hoặc không gặp Phật. Nhờ việc đó mà ta nói rằng : Các Tỳ Kheo !
Như Lai khó có thể được gặp, những chúng sinh đó nghe lời như thế, thì sẽ sinh
tâm khó được gặp Phật, ôm lòng luyến mộ khát ngưỡng đối với Phật, bèn trồng căn
lành. Do đó, tuy Như Lai chẳng thật diệt, mà nói là diệt độ.
Vì sao nói rất khó được gặp Phật ? Vì tất cả những người phước mỏng, trải qua
vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, hoặc có gặp được Phật, hoặc không gặp được
Phật. Vì lẽ đó, cho nên ta mới nói : ‘’Này các Tỳ Kheo ! Như Lai rất khó gặp
được.’’ Những chúng sinh đó, nghe ta nói như thế, thì bèn sinh tâm khó gặp Phật
ra đời, trong tâm bèn luyến mộ Phật, khát ngưỡng Phật, bèn trồng xuống căn lành.
Vì lẽ đó, cho nên Như Lai tuy chẳng phải thật nhập diệt, mà phương tiện nói là
nhập diệt. Kỳ thật, bây giờ Phật vẫn còn ở tại pháp hội Linh Sơn, diễn nói Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa chưa tan hội. Có gì chứng minh ? Vào đời Tùy, Thiên Thai Trí
Giả Đại Sư, Ngài tụng Kinh Pháp Hoa đến Phẩm Dược
- ‘’Phi nhữ mạc thức, phi ngã mạc chứng.’’
Do đó có thể biết, thật có việc đó chứ chẳng hư cấu. Tổ Sư đại đức chẳng nói
dối.
Lại nữa ! Thiện nam tử ! Pháp của chư Phật Như Lai đều như thế, vì độ chúng
sinh, đều thật chẳng hư.
Các vị thiện nam tử ! Mười phương ba đời tất cả chư Phật đều nói pháp như thế,
do đó ‘’Phật Phật đạo đồng.’’ Vì giáo hóa chúng sinh mà nói pháp, đều chân thật
chẳng hư. Trước hết nói pháp ba thừa, đó là vì thật thí quyền; bây giờ nói pháp
một thừa, đó là khai quyền hiển thật. Trước ba sau một, vì khai ngọn hiển gốc,
gốc ngọn chẳng lìa. Đây là pháp "hết ba về một, hết ngọn về gốc".
Ví như vị lương y trí huệ thông đạt, biết luyện chế thuốc, khéo chữa lành
các chứng bệnh. Có rất nhiều người con, hoặc mười, hai mươi, cho đến một trăm
người. Vì có duyên sự nên đi xa đến nước khác. Các người con sau này, uống nhầm
thuốc độc, thuốc phát buồn bực điên loạn, lăn lóc trên đất.
Phật vì nói rõ đạo lý này, mới đưa ra ba mươi ví dụ để giải thích. Ví dụ tuy chẳng
phải là chân lý, nhưng có thể nói rõ chân lý, cho nên có kinh ví dụ truyền bá
trên thế gian.
Ví như có vị lương y trí huệ rất thông minh, biết rõ tính thuốc khéo điều trị tất cả nghi nan tạp chứng. Vị lương y này (đại biểu cho Phật), có rất nhiều con (đại biểu cho chúng sinh), hoặc mười (thập địa Bồ Tát) người con, hoặc hai mươi (nhị thừa) người con, cho đến một trăm (đại biểu cho trăm pháp giới) người con. Vị lương y này, vì có bệnh nhân đặc biệt, nên đi xa đến nước khác, do đó chẳng cách chi chiếu cứ các người con ở nhà. Các người con ở nhà đều rất thơ bé, chẳng ai chăm sóc, bèn lấy thuốc độc uống, bị trúng độc. Trong tâm phiền muộn điên loạn, nằm lăn lóc trên đất, thống khổ không thể tả.
Bấy giờ, người cha trở về nhà, các người con uống thuốc độc, hoặc có người mất bản tâm, hoặc có người không mất, ở xa trông thấy cha về, đều rất vui mừng, quỳ lạy thăm hỏi cha được bình an trở về. Chúng con ngu si, uống lầm thuốc độc, xin cha hãy cứu chữa, khiến cho chúng con khỏi bệnh được sống lâu.
Trong lúc khẩn cấp, thì người cha từ nước khác trở về. Những người con này đã uống thuốc độc, có người đã mất tri giác, có người còn tỉnh táo, trúng độc chẳng nặng lắm. Họ ở đằng xa nhìn thấy người cha trở về, ai nấy đều rất mừng rỡ : ‘’Ba Ba ! Ba được bình an trở về, không việc gì chứ ! Chúng con anh em quá ngu si, uống thuốc độc mà cứ tưởng là nước đường. Xin ba hãy tha thứ sự ngu si của chúng con, hãy cứu chữa khiến cho chúng con khỏi bệnh, để sống lâu trăm tuổi.’’
Người cha thấy các con đau khổ như thế, bèn y theo các phương pháp, tìm cỏ thuốc tốt, sắc vị thơm ngon thảy đều đầy đủ, đâm giã sàng rồi hòa hợp cho các người con uống, mà nói rằng : Đây là thuốc hay, sắc vị thơm ngon thảy đều đầy đủ, các con hãy uống đi, thì sớm sẽ hết khổ não, chẳng còn bị bệnh nữa.
Vị lương y đó từ nước ngoài trở về, phát hiện con của mình vì tham ăn mà trúng độc. Có người bất tỉnh nhơn sự, có người còn tỉnh, song đều rất đau khổ, thật đáng thương xót. Bèn y chiếu theo các phương pháp tìm cỏ thuốc giải độc hữu hiệu nhất, có màu sắc dễ nhìn, mùi vị ngon ngọt, cho nên nói là sắc vị thơm ngon đều đầy đủ, khiến các người con hoan hỷ uống thuốc giải độc này (Phật pháp). Vị lương y đem thuốc đâm giã rồi sàng lấy bột mịn, thêm mật ong hòa hợp làm thành viên. Các người con uống rồi bèn giải trừ độc tố, nhanh chóng khôi phục sức khoẻ.
Về sau người cha nói với các con rằng : ‘’Thuốc rất hay này, sắc cũng thơm, vị cũng ngon. Các con hãy mau uống vào, thì sẽ giải trừ được đau khổ lập tức hết bệnh, chẳng còn bị bệnh nữa, thứ thuốc này là vạn linh đan, trị được bá bệnh, có bệnh thì trị bệnh, không bệnh thì càng khoẻ.’’
Vị lương y đó tức là Phật, các người con tức là tất cả chúng sinh. Nói Phật đi đến nước khác, hoặc chẳng có Phật ra đời, hoặc đã vào Niết Bàn. Lúc đó, chúng sinh vì chẳng có trí huệ chân chánh, cho nên chẳng phân biệt được thức ăn có độc, hay không có độc, thấy là ăn, bèn ăn lầm thuốc độc. Thứ thuốc độc này, tức là tà kiến của bàng môn tả đạo, nói những đạo lý chẳng cứu kính. Chúng sinh vô tri nhận lầm thuốc độc, cho là thuốc trường sinh bất lão. Tại sao phân biệt chẳng rõ ràng ? Vì si mê quá sâu nặng, chẳng cách chi tự cứu.
Chúng sinh bị si mê quá sâu nặng, khi gặp Phật trở về, bèn cúi
đầu đảnh lễ, thỉnh Phật từ bi thương xót cứu ra khỏi biển khổ. Vì có chúng sinh
chịu uống thuốc, nên trừ sạch chất độc; có chúng sinh chẳng chịu uống thuốc,
nên chất độc vẫn còn tồn tại. Cho nên, học Phật pháp quý tại thực hành, chẳng
phải ở lời nói.
Lương y có thần hiệu ‘’Diệu thủ hồi xuân,’’ bằng ngược lại, ngụ ý tức là kẻ
giết người chẳng thấy máu. Tại sao lại nói như thế ? Vì bác sĩ bây giờ, đa số
dùng bệnh nhân để làm vật thí nghiệm, thành công thì y có tiếng tăm, thất bại
thì bệnh nhân mất mạng.
Bây giờ kể một câu chuyện, tuy là chuyện tiếu, nhưng cũng có tính chất giáo dục,
có thể cảnh giác cho bác sĩ. Một ngày nọ, vua Diêm Vương mắc bệnh, sai tiểu quỷ
đến dương gian mời bác sĩ.
- Tiểu quỷ nói : ‘’Việc này tôi không thể đi‘’!
- Vua Diêm Vương hỏi : ‘’Tại sao‘’?
- Tiểu quỷ nói : ‘’Tôi không biết vị nào là lương y‘’?
- Diêm Vương nói : ‘’Việc này rất đơn giản, mày đến trước cửa bệnh viện, thấy chỗ
nào hồn quỷ ít, tức là lương y, thì hãy mời đến âm gian chữa bệnh cho ta.’’
Tiểu quỷ vâng lời đến dương gian tìm khắp nơi, cũng chẳng được lương y. Nhìn
trước cửa chỗ chẩn mạch, đều có vô số oan hồn khóc than đòi đền mạng. Tiểu quỷ
thật chẳng có biện pháp, muốn trở về thì lại sợ Diêm Vương nóng giận, bèn đi về
phía trước, phát hiện trước cửa một nhà chẩn mạch, chỉ có hai oan hồn. Tiểu quỷ
bèn mời vị bác sĩ đó đến chỗ Diêm Vương, để chữa bệnh cho Diêm Vương.
Vị bác sĩ đó đến chỗ Diêm Vương được chiêu đãi rất ân cần, vừa
mời thuốc, vừa mời trà, khiến cho ông ta chẩn mạch tử tế.
Vua Diêm Vương hỏi : ‘’Xin ông hãy chẩn mạch, tôi mắc bệnh gì‘’?
Bác sĩ trả lời : ‘’Không cần phải chẩn mạch, bất cứ bệnh gì, chỉ cần uống một viên
thuốc đặc hiệu, thì sẽ khỏi bệnh.’’
Diêm Vương nghe rồi cảm thấy mạc danh kỳ diệu, tâm nghĩ đâu có lý này, không chẩn
mạch mà uống thuốc, thì chẳng phải là "lang trung" chăng ? Lang trung
tức là bác sĩ giả, chuyên môn gạt những người thôn quê vô tri vô thức.
- Bèn hỏi : ‘’Bác sĩ làm nghề y đã được bao lâu‘’?
- Bác sĩ nói : ‘’Sáng sớm hôm nay khai trương, thì bị quỷ đại ca mời đến chữa
cho Ngài.’’
Diêm Vương nghe rồi bèn sinh hoài nghi, hỏi tiểu quỷ rằng :
‘’Trước cửa của ông ta có bao nhiêu oan hồn?‘’
- Tiểu quỷ đáp : ‘’Chỉ có hai, đang ở đó khóc kể, bị ông ta dùng thuốc độc làm
chết, chết rất oan uổng.’’
- Diêm Vương bèn nói với bác sĩ rằng : ‘’Ông không cần trở về dương gian, hãy ở
lại đây để khỏi hại độc người khác chết nữa.’’ Cho nên, vị bác sĩ đó cũng làm
quỷ luôn.
Trong số các người con, ai không mất bản tâm, thấy thuốc hay đó, sắc hương đều
tốt bèn lấy uống, bệnh lành khỏi hẳn. Người mất đi bản tâm, thấy người cha về,
tuy cũng vui mừng thăm hỏi, xin cha chữa bệnh, tuy cũng cho thuốc, mà chẳng
chịu uống.
Trong số các người con, có người phát cuồng, có người tỉnh táo. Những người con
chưa phát cuồng, thuốc hay sắc vị thơm ngon, thì lập tức uống vào. Chất độc
trong người đều tiêu tan hết (tức là kiến tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc
đều phá trừ hết). Những người con trúng độc quá nặng, thấy người cha trở về,
tuy cũng vui mừng thăm hỏi, cũng xin cha chữa bệnh. Nhưng người cha cho họ thuốc
giải độc, mà họ chẳng chịu uống (biết Phật pháp là thuốc hay, chuyên trị tham
sân si phiền não mà chẳng chịu y giáo phụng hành, giống như những đứa con thơ
bé trúng độc, mà chẳng chịu uống thuốc).
Tại sao ? Vì chất độc vào sâu mất đi bản tâm. Do đó, thuốc hay thơm ngon, mà
cho là không ngon. Người cha bèn nghĩ rằng : Những đứa con này thật đáng
thương, vì trúng độc nên tâm điên đảo. Tuy thấy ta vui, xin ta cứu chữa, thuốc
hay như thế, mà chẳng chịu uống. Nay ta sẽ bày phương tiện, khiến cho chúng
uống thuốc này.
Đây là đạo lý gì ? Vì trúng độc quá nặng, chất độc đã xâm nhập vào ngũ tạng lục
phủ, cho nên mất đi bản tâm tỉnh táo, biến thành hồ đồ. Đối với thứ thuốc hay
sắc vị thơm ngon này, mà nói là chẳng ngon chẳng ngọt.
Phật là vị lương y, chuyên trị bệnh nhiệt não của chúng sinh, vì giải trừ khổ độc
của chúng sinh, mà nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, song chúng sinh chẳng tin, Phật
cũng chẳng có biện pháp. Phật bi tâm thiết thiết, khổ khẩu bà tâm, để giáo hóa
chúng sinh: Đừng tham, đừng sân, đừng si, đây là ba chất độc hại người, nhưng
chúng sinh xem lời vàng ngọc của Phật như gió thoảng qua tai, qua rồi chẳng lưu
lại, thật là cô phụ Phật, Bồ Tát một phen khổ tâm.
Người cha (Phật) thấy những người con trúng độc (chúng sinh), thật là đáng
thương xót. Vì trúng độc (tin pháp của ngoại đạo) quá nặng, cho nên tâm điên
đảo (tà tri tà kiến). Tuy nhiên thấy ta về thì rất vui mừng, xin ta chữa trị,
nhưng ta vì họ lựa cỏ thuốc thượng hạng (Kinh Diệu Pháp Liên Hoa), mà họ chẳng
chịu uống. Bây giờ, ta bày pháp môn phương tiện, khiến cho những người con
trúng độc quá nặng phát tâm uống thuốc giải độc này.
Bèn nói như vầy : Các con nên biết, nay ta già nua, thời kỳ chết đã đến, thuốc
hay tốt này, nay để ở tại đây, các con có thể lấy uống, đừng có lo lắng là bệnh
không lành. Dạy như thế rồi, lại đến nước khác, sai sứ về nói là cha của nhà
người đã chết.
Người cha từ bi đó, bèn nói với các người con không nghe lời rằng : ‘’Các con nên
biết ta tuổi đã già, thân thể suy yếu, thời kỳ chết đã đến. Ta chế thuốc hay để
lại đây cho các con, các con hãy tùy tiện mà lấy uống, đừng có lo lắng là bệnh
sẽ không lành. Chỉ cần uống vào thì nhất định sẽ khỏi.’’
Dặn dò xong rồi, từ giã các con, lại đi đến nước khác. Chẳng bao lâu, cố ý sai sứ
về nói với các người con : ‘’Cha của các ngươi đã chết ở nước khác.’’ Đây là
pháp phương tiện, khiến cho các người con phản tỉnh, biết người cha dụng tâm
lương khổ.
Bấy giờ, các người con nghe tin cha mất rồi, tâm rất buồn rầu đau khổ, mà nghĩ
như vầy : Nếu cha mình còn sống, thì sẽ thương xót chúng ta, cứu hộ chúng ta.
Nay đã bỏ chúng ta mất ở xứ người, chúng ta cô độc, lại chẳng có chỗ nương tựa,
thường ôm lòng bi cảm, tâm bèn tỉnh ngộ, mới biết thuốc này sắc vị thơm ngon,
lập tức lấy uống, bệnh độc đều khỏi.
Lúc đó, các người con trúng độc, nghe tin người cha đã chết ở nước khác, thảy đều
buồn rầu đau khổ, mà nghĩ như vầy : ‘’Nếu như cha mình còn ở đời, thì sẽ thương
yêu chúng ta, cứu hộ chúng ta. Bây giờ, cha đã bỏ chúng ta đi qua đời ở nước
khác. Bây giờ, chúng ta cô độc chẳng có chỗ nương tựa’’! Vì trong tâm bi cảm
đến cực điểm, cho nên đã tỉnh lại, biết rằng khi cha ở đời, có để lại thuốc hay,
đầy đủ sắc vị thơm ngon, lập tức lấy uống, tức thời chất độc giải trừ, thân tâm
thanh tịnh, khôi phục lại diệu minh chân tâm vốn có.
Lúc đó, trừ khử sạch pháp của ngoại đạo, chuyên tâm nhất chí tu học Phật pháp.
Phật pháp là thuốc hay, cũng là phương pháp duy nhất chữa lành tâm lý triệt để.
Người cha nghe tin con đều đã khỏi bệnh, bèn trở về, khiến cho các người con
gặp lại.
Vị lương y này xử dụng kế này, để khiến cho các người con uống thuốc. Các người
con sau khi uống thuốc vào, thì chất độc được giải trừ, khôi phục lại sức khoẻ.
Người cha ở nước khác nghe tin rất là an ủi, do đó bèn trở về. Các người con
lại thấy mặt cha mừng rỡ vô cùng, bèn phát nguyện từ nay về sau, nhất định phải
nghe lời cha dạy bảo, làm người con hiếu thuận.
Các thiện nam tử ! Ý các ông nghĩ sao ? Có người nào cho rằng, vị lương y đó
phạm tội vọng ngữ chăng ? Không vậy, đức Thế Tôn !
Các vị thiện nam tử ! Ý của các ông thế nào ? Có ai nói : ‘’Vị lương y đó nói dối
phạm tội vọng ngữ chăng ? ‘’Đại chúng khác miệng cùng lời đáp : ‘’Không có tội,
Đức Thế Tôn ! Ông ta vì phương tiện dạy con, cho nên mới nói như thế, chẳng
phải nói dối.’’
Đức Phật nói : Ta cũng như thế, ta thành Phật đến nay, vô lượng vô biên trăm
ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ kiếp, vì chúng sinh mà dùng sức phương tiện,
nói là sẽ diệt độ, cũng chẳng có ai có thể nói, ta có lỗi nói dối.
Đức Phật nói : ‘’Pháp của ta nói cũng như thế. Trước hết nói Kinh A Hàm, Kinh
Phương Đẳng, Kinh Bát Nhã, cuối cùng nói Kinh Pháp Hoa, tình trạng cũng giống
như vị lương y. Từ khi ta thành Phật đến nay, đã vô lượng vô biên trăm ngàn vạn
ức Na do tha A tăng kỳ kiếp. Vì phương tiện giáo hóa chúng sinh, vì thật thí
quyền, mới nói với chúng sinh : Ta sẽ diệt độ, song không ai có thể nói : ‘’Phật
nói dối, có lỗi hư vọng.’’ Ta nghĩ rằng, chẳng có ai có thể nói, ta có lỗi hư vọng
không thật !‘’
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :
Lúc đó, Đức Phật muốn thuật lại nghĩa lý trường hàng ở trên, mới nói lại lần nữa,
khiến cho chúng sinh tương lai hiểu rõ ràng, cho nên bèn dùng kệ để thuật lại.
Ta thành Phật đến nay
Trải qua các kiếp số
Vô lượng trăm ngàn vạn
ức kiếp A tăng kỳ.
Thường nói pháp giáo hóa
Vô số ức chúng sinh
Khiến vào trong Phật đạo.
Đức Phật nói : ‘’Từ khi ta chứng quả vị Phật đến nay, trải qua các kiếp số vô lượng
trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ. Ta luôn luôn diễn nói Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa, giáo hóa vô số ức chúng sinh, khiến cho họ vào Phật đạo, chứng Vô thượng
chánh đẳng chánh giác.’’
Vô lượng kiếp đến nay
Vì độ hóa chúng sinh
Phương tiện hiện Niết Bàn
Mà thật chẳng diệt độ.
Thường ở đây nói pháp
Ta thường trụ nơi đây
Dùng các sức thần thông
Khiến chúng sinh điên đảo
Tuy gần mà chẳng thấy.
Từ vô lượng kiếp đến nay, vì độ hóa chúng sinh, cho nên phương tiện thị hiện Niết
Bàn. Kỳ thật, ta chẳng có diệt độ, vẫn ở tại thế giới Ta Bà này, vì chúng sinh
nói pháp. Tuy nhiên ta thường trụ ở hội Pháp Hoa trên núi Linh Thứu, dùng tất
cả sức thần thông để vì chúng sinh điên đảo nói pháp. Song, họ gần mà chẳng
thấy thân của ta. Tại sao ? Vì họ bị vô minh che đậy, trí huệ chẳng hiện tiền, chẳng
có pháp nhãn thanh tịnh, cho nên chẳng thấy ta.
Chúng thấy ta diệt độ
Rộng cúng dường xá lợi
Đều ôm lòng luyến mộ
Mà sinh tâm khát ngưỡng.
Chúng sinh bèn tin phục
Ý chất trực mềm dịu
Một lòng muốn gặp Phật
Chẳng tự tiếc thân mạng.
Chúng sinh thấy ta diệt độ, đại chúng rộng cúng dường xá lợi (linh cốt), đều ôm
lòng luyến mộ sinh tâm khát ngưỡng. Lúc đó, chúng sinh bèn tin, lại được điều
phục, cá tính chất trực thật thà, tâm ý mềm dịu điều thuận, một lòng muốn gặp
lại Phật, vì cầu Phật pháp, dù xả bỏ thân mạng cũng chẳng tiếc.
Người xuất gia có đốt liều ở trên đầu, đó là biểu hiện chẳng tiếc thân mạng, thành
khẩn đồng như đốt thân cúng Phật, thành tâm một lòng quy y Tam Bảo. Khi đốt
liều, thì tinh thần tập trung quán tưởng, suốt đời vì Tam Bảo cống hiến xác
thân; vì độ chúng sinh mà hy sinh tất cả. Nếu tập trung tinh thần quán chiếu
như thế, thì đau cũng chẳng biết đau.
Có người hỏi : ‘’Xá lợi là gì ?‘’ Vấn đề này rất có ý
nghĩa, nói đơn giản là ‘’linh cốt‘’ cũng gọi là ‘’kiên cố tử’’, tinh thể từ tử
thi thiêu ra, giống như hột xoàn, phát quang óng ánh, cứng chắc như kim cang.
Bình thường có màu trắng, đó là cốt xá lợi, có màu đỏ là thịt xá lợi. Tóm lại,
phàm là
Xá lợi có hai thứ : Một là toàn thân xá lợi, như xá lợi của
Phật Đa Bảo. Hai là vụn thân xá lợi, như xá lợi của Phật Thích Ca. Còn có sinh
thân xá lợi, và pháp thân xá lợi hai thứ. Sinh thân xá lợi là do huân tu giới
định huệ, pháp thân xá lợi là tất cả kinh điển.
Khi ta và chúng
Cùng
Có lúc nói chúng sinh
Thường tại đây chẳng diệt.
Vì dùng sức phương tiện
Hiện có diệt không diệt.
Lúc đó, chúng sinh tâm thành sở chí, bèn có cảnh giới cảm ứng đạo giao. Ta và tất
cả Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cùng xuất hiện tại pháp hội ở núi Linh Thứu. Ta thường
nói với chúng sinh : ‘’Ta thường ở trên núi Linh Thứu, vì chúng sinh nói pháp,
chứ chưa diệt độ. Vì sức quyền xảo phương tiện, cho nên có khi thị hiện diệt
độ, có khi thị hiện chẳng diệt độ.’’ Do đó : ‘’Sinh mà chưa sinh, diệt mà chưa
diệt,’’ tức là cảnh giới này.
Nước khác có chúng sinh
Ai cung kính tin ưa
Ta lại ở trong họ
Vì nói pháp Vô thượng.
Ở trong cõi nước khác có chúng sinh, họ đều sinh tâm cung kính tin ưa Phật pháp
đại thừa, thì ta ở trong họ để diễn nói pháp vi diệu thâm sâu Vô thượng, khiến
cho họ phát bồ đề tâm, thành tựu quả giác ngộ vô thượng.
Các ông chẳng nghe đây
Cho rằng ta diệt độ
Ta thấy các chúng sinh
Trôi lăn nơi khổ não.
Nên chẳng vì hiện thân
Khiến họ sinh khát ngưỡng
Do tâm họ luyến mộ
Mới hiện thân nói pháp.
Các ông chẳng nghe nói qua đạo lý này, bèn cho rằng ta diệt độ rồi. Kỳ thật, ta
chưa diệt độ. Ta thấy tất cả chúng sinh đều trôi lăn ở trong biển khổ năm dục,
cho nên chẳng hiện thân Phật vì họ nói pháp, khiến cho họ sinh tâm khát ngưỡng
luyến mộ, sau đó lại hiện thân thuyết pháp giáo hóa chúng sinh.
Như thế, khiến cho chúng sinh biết Phật pháp khó nghe, thân người khó được, mà
đề cao cảnh giác, không thể bỏ qua cơ hội. Cho nên :
‘’Thân người khó được nay đã được
Phật pháp khó nghe nay đã nghe
Đời này chẳng độ thân này
Còn đợi khi nào độ thân này’’!
Khi Phật còn tại thế, cùng chúng đệ tử đi qua làng nọ thuyết pháp, Phật bèn bốc
lên một nắm đất hỏi đệ tử :
- ‘’Các con xem ! Đất trong tay của ta nhiều, hay là đất ở ngoài đại địa nhiều
?‘’
- Chúng đệ tử đáp : ‘’Đương nhiên đất đại địa nhiều.’’
- Phật nói : ‘’Được thân người như đất trong bàn tay của ta, mất đi thân người như
đất ngoài đại địa.’’
Lúc đó, chúng đệ tử tỉnh ngộ, từ đó về sau, dụng công tu hành, chẳng bao lâu chứng
được quả A
Sức thần thông như thế
Trong A tăng kỳ kiếp
Thường ở núi Linh Thứu
Và ở các nơi khác.
Tại sao chúng sinh có thể gặp Phật, có chúng sinh không thể gặp Phật ? Chúng
sinh có duyên với Phật, thì tùy thời tùy lúc có thể gặp Phật; chúng sinh chẳng
có duyên với Phật, thì chẳng gặp Phật. Có người nói : ‘’Tôi với Phật chẳng có
duyên, vĩnh viễn chẳng được gặp Phật, vậy phải làm thế nào ?‘’ Bạn phải trồng
căn lành, làm nhiều công đức, thì kết duyên với Phật. Trồng căn lành như thế
nào ? Kết duyên với Phật như thế nào ? Tức là cúng dường Tam Bảo, đó là biện
pháp duy nhất. Thời gian lâu thì tự nhiên sẽ kết duyên với Phật.
Tại sao diệt độ lại nói là chẳng diệt độ; chẳng diệt độ lại nói rằng diệt độ,
đó là đạo lý gì ? Đối với người chưa khai ngộ mà nói, thì cho rằng diệt độ; đối
với người khai ngộ mà nói, thì chẳng có diệt độ. Vì người khai ngộ chứng được
ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu thông, thường ở một chỗ với Phật, luôn luôn ở
cạnh Phật, cho nên thường gặp Phật. Chưa chứng được cảnh giới này, thì đương
nhiên chẳng nhìn thấy Phật. Phật nói chẳng có diệt độ, là đối với người khai
ngộ mà nói. Tóm lại, đó đều là sức thần thông của Phật biến hiện.
Vì sức thần thông như thế, cho nên trong A tăng kỳ kiếp, thường ở trong hội
Pháp Hoa tại núi Linh Thứu và ở các nơi khác, vì chúng sinh nói nghĩa chân thật
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui, sớm sinh về cõi
Thường Tịch Quang, ở với chư Phật Bồ Tát.
Chúng sinh thấy kiếp tận
Khi lửa lớn thiêu đốt
Ta cõi này an ổn
Trời người thường đầy dẫy.
Vườn rừng những lầu các
Đủ thứ báu trang
Cây
Nơi chúng sinh dạo chơi.
Khi chúng sinh thấy kiếp tận, thì phát sinh nạn lửa lớn, thiêu hủy đến cõi Sơ thiền.
Lục dục thiên (trừ cõi trời Đâu Suất ra, vì là nơi ở của Bồ Tát Bổ Xứ Phật vị),
các nơi khác đều thiêu hủy hết. Trên từ trời Đại Phạm, dưới đến địa ngục vô
gián, chẳng tồn tại vật gì cả. Phật ở cõi Thường Tịch Quang rất an ổn, chẳng bị
lửa lớn thiêu hủy, chư thiên và loài người đều đầy dẫy ở cõi đó, vườn rừng lầu
các đều trang nghiêm bằng bảy báu, cây báu đơm hoa kết trái rất sum sê. Đây là
nơi dạo chơi của những chúng sinh đầy đủ căn lành.
Chư Thiên đánh trống trời
Thường tấu các âm nhạc
Mưa hoa mạn đà
R
Cõi tịnh ta chẳng hủy
Mà chúng thấy thiêu sạch
Lo sợ các khổ não
Như thế đều đầy dẫy.
Chư Thiên trong ba cõi thường đánh trống trời, vì Phật mà tấu âm nhạc. Trên trời
mưa xuống
Phật lại nói : ‘’Cõi Tịnh Độ của ta vĩnh viễn chẳng bị hủy hoại, mà vọng kiến của
chúng sinh và phiền não kiến, đều bị kiếp lửa thiêu sạch, lo sợ và tất cả tâm khổ
não đều đầy dẫy.’’
Chúng sinh có tội đó
Bởi nhân duyên nghiệp ác
Qua A tăng kỳ kiếp
Chẳng nghe tên Tam Bảo.
Những người tu công đức
Tâm nhu hòa chất trực
Thảy đều thấy thân ta
Ở tại đây nói pháp.
Những chúng sinh đó có tội, bởi nhân duyên nghiệp ác, dù trải qua số kiếp A tăng
kỳ, cũng chẳng nghe được danh hiệu Phật, cũng chẳng nghe thấy được Pháp, cũng chẳng
nghe được danh từ Tăng. Ở thế giới này, trước khi Phật ra đời, chẳng có ai biết
về Phật pháp, cho nên chẳng nghe tên Tam Bảo. Giống như Tu Đạt Đa (Cấp Cô Độc)
trưởng giả, khi nghe được danh hiệu Phật, thì toàn thân dựng lông lên. Vì chưa
bao giờ nghe đến danh từ Tam Bảo, cho nên có hiện tượng như thế.
Tất cả những người tu hành, hết thảy những người trồng căn lành, đều có công đức,
tính tình của họ nhu hòa và chất trực. Những người như thế, mới có thể thấy
được thân ta, đang ở tại pháp hội Linh Sơn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Phàm là
chúng sinh có tội nghiệp, chẳng những chẳng thấy được thân Phật, mà cho đến
tượng Phật cũng chẳng thấy đặng. Nếu có thể thấy được tượng Phật, thì cũng giảm
bớt tội nghiệp. Tóm lại, tu hành có công đức, mới có thể thấy được Phật, nghe được
Pháp, gặp được Tăng.
Có khi vì chúng đó
Nói Phật thọ vô lượng
Người lâu mới thấy Phật
Thì nói Phật khó gặp.
Trí lực ta như thế
Huệ quang chiếu vô lượng
Thọ mạng vô số kiếp
Do tu lâu mà được.
Hoặc có lúc, vì chúng sinh nói thọ mạng của Phật là vô lượng vô biên. Đối với
chúng sinh thường gặp Phật, thì nói Phật sống vô lượng. Đối với chúng sinh lâu
được gặp Phật, thì nói chẳng dễ gì được gặp Phật, khiến cho họ sinh tâm khát
ngưỡng. Trí lực của ta là như thế, trí huệ quang chiếu khắp vô lượng chúng sinh,
trong vô lượng thế giới, khiến cho họ phát bồ đề tâm, tu vô thượng đạo. Thọ
mạng lâu dài vô lượng đại kiếp, đó là quả báo tu thiện nghiệp lâu dài.
Muốn tuổi thọ lâu dài, thì phải siêng làm thiện nghiệp phóng sinh. Có công đức đó,
mới có thể sống lâu trăm tuổi, nếu giết hại sinh linh, thì tuổi thọ ngắn ngủi.
Trong bài khuyên đời nhân quả ba đời có nói rằng :
‘’Đời này trường thọ là nhân gì ?
Đời trước giữ giới sát, nhiều phóng sinh.
Đời này chết yểu là nhân gì ?
Đời trước giết hại chúng sinh linh.’’
Các ông người có trí
Chớ nên sinh hoài nghi
Hãy đoạn khiến dứt sạch
Lời Phật thật không hư.
Như lương y phương tiện
Vì trị bệnh cho con
Thật còn mà nói chết
Không thể nói hư vọng.
Các ông đều là người có đại trí huệ, đừng nên sinh hoài nghi đối với lời của ta
nói, nên đoạn sạch tâm hoài nghi, khiến cho nó vĩnh viễn đừng sinh nữa. Các ông
phải tin lời của Phật là chân thật không hư, Phật là bậc Thánh chẳng nói dối.
Giống như vị lương y, vì cứu bệnh điên cuồng của con, cho nên cố ý nói mình đã chết,
vì khiến cho các con uống thuốc để giải trừ chất độc, đó là pháp phương tiện, chẳng
có ai có thể nói vị lương y đó là người nói dối.
Một số người đều có tâm ỷ lại. Khi Phật còn ở đời, thì cho rằng
chẳng cần nghe pháp. Sau khi Phật vào Niết Bàn, thì mới biết sự quan trọng của việc
nghe pháp, mới bắt đầu học Phật pháp. Pháp của Phật để lại là thuốc hay, chuyên
trị phiền não. Bây giờ, chúng sinh tu giữ giới luật, tham thiền đả tọa, tụng kinh
lạy Phật, trì chú lễ sám, đó là chiếu theo toa thuốc mà uống, có thuốc đến thì
bệnh tiêu trừ. Nếu như nghiên cứu Phật pháp mà chẳng tu hành, thì đó là khẩu
đầu thiền, nói mà chẳng thực hành, thì giống như là người què. Nếu tu hành mà
chẳng minh bạch Phật lý, thì thành là á
Ta là cha cõi đời
Cứu những người khổ nạn
Vì phàm phu điên đảo
Thật còn mà nói diệt.
Do bởi thường thấy ta
Mà sinh tâm kiêu ngạo
Phóng dật chấp năm dục
Đọa trong ba đường ác.
Đức Phật nói : ‘’Ta là cha của tất cả người thế gian, cho nên phải cứu hộ tất
cả chúng sinh khổ nạn. Vì phàm phu đều có ý nghĩ điên đảo, cho nên mới nói diệt
độ. Thật tế thì ta chẳng diệt độ.’’
Tại sao chúng sinh điên đảo ?
Vì vô minh đang làm chủ nhân ông trong nhà, tống đuổi trí huệ đi, đúng mà nói
là không đúng, không đúng mà nói là đúng. Tóm lại, tự tánh có đại quang minh tạng,
thì đen tối sẽ biến thành quang minh. Tự tánh chẳng có đại quang minh tạng, thì
quang minh biến thành đen tối. Đại quang minh tạng là gì ? Tức là tướng chân
như. Chân như là gì ? Tức là bổn thể của các pháp, lìa hư vọng là chân thật,
thường trụ chẳng thay đổi, tức cũng là dọc cùng tam tế, ngang khắp mười phương,
Phật tánh tại chư Phật chẳng tăng, tại chúng sinh chẳng giảm. Thật tướng là gì
? Tức là tướng như thật thanh tịnh. Tóm lại, chẳng có tâm chấp hai bên, chẳng
có tâm bốn tướng tức là thật tướng.
Phật lại nói : ‘’Tại sao ta nói diệt độ ? Vì chúng sinh hằng ngày nhìn thấy ta,
cho nên sinh tâm kiêu ngạo, chẳng y theo pháp tu hành, chẳng giữ quy cụ, chấp
trước vào cảnh giới năm dục, tương lai phải đọa vào trong ba đường ác.’’
Ta biết rõ chúng sinh
Hành đạo chẳng hành đạo
Tùy chúng sinh độ được
Mà nói đủ thứ pháp.
Tự ý thường nghĩ rằng :
Làm sao khiến chúng sinh
Được vào vô thượng đạo
Sớm thành tựu thân Phật.
Ta biết tâm niệm của tất cả chúng sinh, do đó trong kinh có câu :
‘’Tất cả chúng sinh, bao nhiêu thứ tâm,
Như Lai đều biết đều thấy.’’
Chúng sinh hành đạo chẳng hành đạo, ta hoàn toàn biết hết. Chúng sinh này đáng
dùng thân Phật độ được, thì ta bèn thị hiện thân Phật, để vì họ nói pháp. Chúng
sinh kia đáng dùng thân chúng sinh độ được, thì ta thị hiện thân chúng sinh, để
vì họ nói pháp. Tóm lại, đáng dùng thân gì độ được, thì ta thị hiện thân đó, mà
vì họ nói pháp.
Phật thường quán tưởng, dùng phương pháp gì để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng
sinh được vào vô thượng đạo ? Khiến cho chúng sinh sớm thành tựu pháp thân của Phật.