- Giải Thích Tên Kinh
- Phẩm Tựa Thứ Nhất
- Phẩm Phương Tiện Thứ Hai
- Phẩm Thí Dụ Thứ Ba
- Phẩm Tin Hiểu Thứ Tư
- Phẩm Dược Thảo Dụ Thứ Năm
- Phẩm Thọ Ký Thứ Sáu
- Phẩm Hóa Thành Dụ Thứ Bảy
- Phẩm Thọ Ký Cho Năm Trăm Vị Đệ Tử Thứ Tám
- Phẩm Thọ Ký Cho Bậc Hữu Học Và Vô Học Thứ Chín
- Phẩm Pháp Sư Thứ Mười
- Phẩm Thấy Bảo Tháp Thứ Mười Một
- Phẩm Đề Bà Đạt Đa Thứ Mười Hai
- Phẩm Khuyên Trì Thứ Mười Ba
- Phẩm An Lạc Hạnh Thứ Mười Bốn
- Phẩm Từ Dưới Đất Vọt Lên Thứ Mười Lăm
- Phẩm Thọ Lượng Của Như Lai Thứ Mười Sáu
- Phẩm Phân Biệt Công Đức Thứ Mười Bảy
- Phẩm Tùy Hỷ Công Đức Thứ Mười Tám
- Phẩm Công Đức Pháp Sư Thứ Mười Chín
- Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh Thứ Hai Mươi
- Phẩm Thần Lực Của Như Lai Thứ Hai Mươi Mốt
- Phẩm Chúc Lũy Thứ Hai Mươi Hai
- Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Dược Vương Thứ Hai Mươi Ba
- Phẩm Bồ Tát Diệu Âm Thứ Hai Mươi Bốn
- Phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm Thứ Hai Mươi Lăm
- Phẩm Đà La Ni Thứ Hai Mươi Sáu
- Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Vua Diệu Trang Nghiêm Thứ Hai Mươi Bảy
- Phẩm Khuyến Phát Của Bồ Tát Phổ Hiền Thứ Hai Mươi Tám
Giảng Giải: Hoà Thượng Tuyên Hoá
Hán dịch: Ngài Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
Phẩm Phân Biệt Công Đức thứ mười bảy
Trước hết, giải thích sơ lược về tên gọi Phẩm Phân Biệt
Công Đức. Phân biệt là gì ? Phân là phân tích; biệt là khác biệt. Tức là phân
biệt công đức có lớn nhỏ, có nhiều ít. Công đức là gì ? Công là đối với bên
ngoài mà nói; đức là đối bên trong mà nói. Bên ngoài thường lập công, thì bên
trong mới có đức. Công là việc thiện mà bạn thường làm, việc thiện này vốn có
thể làm, cũng có thể không làm. Song, nếu bạn làm việc thiện, thì đó là công
đức. Có công rồi, thì trong tự tánh sinh ra một cảm giác rất vui mừng, có cảm
giác vui mừng đó tức là đức.
Công đức do tích lũy mà thành, từ nhỏ thành lớn, từ ít mà tích tụ thành nhiều.
Do đó :
‘’Núi Thái Sơn là do từng hạt bụi,
Từng hạt bụi tích tụ mà thành;
Biển cả là do từng giọt nước,
Từng giọt nước tích tụ mà thành.’’
Công đức cũng như thế. Bên ngoài lập công, bên trong bồi đức, thì đạo nghiệp mới
có thể thành tựu.
Phẩm này nói về phân biệt công đức, trước khi công đức chưa viên mãn, thì hãy
làm nhiều công đức. Chúng ta nghe rồi, thì phải cố gắng làm công đức thiện.
Tông chỉ của phẩm này, khiến cho chúng ta phân biệt so sánh công đức thọ trì
kinh này, tức cũng là ngày mới lại mới thêm, sức cầu của chúng ta tiến thêm.
Bấy giờ, đại chúng trong đại hội, nghe Phật nói số kiếp tuổi thọ lâu dài như
thế, thì vô lượng vô biên A tăng kỳ chúng sinh, đều được lợi ích.
Khi Đức Phật giảng xong Phẩm Như Lai Thọ Lượng, đại chúng trong đại hội, nghe Phật
nói Như Lai thọ lượng kiếp số lâu dài như thế, thì vô lượng vô biên A tăng kỳ
chúng sinh, thảy đều đắc được lợi ích rất lớn.
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo đại Bồ Tát Di Lặc : A Dật Đa ! Khi ta nói Như Lai thọ
mạng lâu dài như thế, thì có sáu trăm tám mươi vạn ức, Na do tha Hằng hà sa
chúng sinh, được vô sinh pháp nhẫn.
Lúc đó, Đức Phật bảo đại Bồ Tát Di Lặc : ‘’A Dật Đa (Vô Năng Thắng) ! Khi ta
nói thọ mạng của Như Lai lâu dài, thì có sáu trăm tám mươi vạn ức, Na do tha
Hằng hà sa số chúng sinh, đều chứng được vô sinh pháp nhẫn.’’
Cảnh giới này chẳng thấy có chút pháp sinh, cũng chẳng thấy có chút pháp diệt. Chứng
được tứ quả A
Lại có gấp bội ngàn lần đại Bồ Tát, đắc được môn văn trì Đà la ni. Lại có số
đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của một thế giới, đắc được nhạo thuyết biện tài
vô ngại. Lại có số đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của một thế giới, đắc được trăm
ngàn vạn ức vô lượng toàn Đà la ni.
Lại có gấp bội ngàn lần đại Bồ Tát, đắc được môn văn trì Đà la ni. Đà la ni
dịch là "tổng trì", tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa.
Đà la ni có bốn ý nghĩa :
1). Pháp Đà la ni : Đối với giáo pháp của Phật, văn trì chẳng quên.
2). Nghĩa Đà la ni : Đối với nghĩa của các pháp, tổng trì chẳng quên.
3). Chú Đà la ni : Đối với Chú tổng trì chẳng quên.
4). Nhẫn đà la ni : An trụ đối với thật tướng của pháp, gọi là nhẫn, trì nhẫn
gọi là nhẫn Đà la ni.
Lại có số đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của một thế giới, đắc được nhạo thuyết biện
tài vô ngại. Nhạo thuyết biện tài vô ngại là gì ? Tức là biện luận với bất cứ
ai, cũng đều thắng lợi. Biện luận đều là chánh tri chánh kiến, khiến cho đối
phương tâm phục khẩu phục, chứ chẳng phải là cường từ đoạt lý.
Bồ Tát thuyết pháp có bốn trí huệ, bốn thứ biện tài vô ngại :
1). Pháp vô ngại biện : Nói pháp thế gian và pháp xuất thế gian, đối với tất cả danh tướng, chẳng có gì mà không thông đạt, do đó : ‘’Chẳng có gì mà không biết, chẳng có gì mà không thấu.’’ Tuy thấu rõ các pháp, nhưng chẳng chấp trước.
2). Nghĩa vô ngại biện : Giải nói nghĩa lý sai biệt của các pháp, thông đạt vô ngại. Tuy biết các nghĩa mà chẳng chấp trước.
3). Từ vô ngại biện : Đối với các lời lẽ thông đạt tự tại. Có thể nói một lời, mà bao hàm vô lượng nghĩa, dùng thế trí phân biệt nói rõ lý này.
4). Nhạo thuyết vô ngại biện : Tùy thuận sở thích của chúng
sinh, phương tiện thiện xảo mà vì họ nói pháp, ‘’Quán cơ thí giáo, vì người nói
pháp.’’ Tóm lại, thấy người gì thì nói pháp đó, thấy người có tâm tham, thì nói
pháp bố thí; thấy người có tâm sân, thì nói pháp nhẫn nhục; thấy người có tâm
si, thì nói pháp Bát Nhã. Theo bệnh cho thuốc. Nếu không khế cơ, thì họ chẳng
bao giờ tin.
Lại có đại Bồ Tát, số nhiều như hạt bụi của một thế giới, đều chứng được vô lượng
toàn Đà la ni. Toàn Đà la ni là gì ? Tức là tại pháp môn đắc được sức toàn
chuyển tự tại, cũng có thể nói là toàn chuyển không giả, pháp môn thông đạt vô
ngại.
Lại có các đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của ba ngàn đại thiên thế giới, chuyển
được pháp luân bất thối. Lại có các đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của trung
thiên thế giới, chuyển được pháp luân thanh tịnh. Lại có các đại Bồ Tát, nhiều
như số hạt bụi của tiểu thiên thế giới, còn tám đời nữa, sẽ đắc được Vô thượng
chánh đẳng chánh giác.
Lại có các đại Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi của ba ngàn đại thiên thế giới
(mười ức thế giới) chuyển được bánh xe pháp bất thoát, tức là tinh tấn hướng về
trước, tuyệt đối không lùi về sau.
Thế nào là ba ngàn đại thiện thế giới ? Tức một núi Tu Di, một mặt trời, một mặt trăng, một bốn đại bộ châu, làm một thế giới. Tích tập một ngàn thế giới, làm một tiểu thiên thế giới. Tích tập một ngàn tiểu thiên thế giới, làm một trung thiên thế giới. Tích tập một ngàn trung thiên thế giới, làm một đại thiên thế giới. Vì nói ba ngàn, cho nên là ba ngàn đại thiên thế giới, chứ chẳng phải ba đại thiên thế giới.
Lại có các đại Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi trung thiên thế
giới (một trăm vạn thế giới), chuyển được bánh xe pháp thanh tịnh. Chuyển bánh
xe pháp, tức là nói giáo pháp. Phàm là giảng kinh nói pháp, đều gọi là chuyển
bánh xe pháp, do đó ‘’Pháp luân thường chuyển.’’ Ý nghĩa chuyển bánh xe pháp,
là chuyển pháp tự tâm để di động tâm người khác, giống như chuyển bánh xe. Cũng
có thể nói là hồi chuyển tất cả chúng sinh giới, phá tan tất cả phiền não. Giống
như luân bảo (bánh xe báu) của vua chuyển luân Thánh vương, hồi chuyển bốn thiên
hạ, hàng phục các oán địch.
Lại có các đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của tiểu thiên thế giới (một ngàn thế giới),
còn trải qua tám đời nữa (siêu nhập tứ địa, hướng đến ngũ địa, lục địa... thập địa,
đẳng giác, diệu giác) sẽ chứng được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lại có đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của bốn tứ thiên hạ, còn bốn đời nữa,
sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi
của ba tứ thiên hạ, còn ba đời nữa, sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lại có đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của hai tứ thiên hạ, còn hai đời nữa, sẽ được
Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của một
tứ thiên hạ, còn một đời nữa, sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lại có đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của bốn tứ thiên hạ (bốn tứ đại bộ châu), còn
trải qua bốn đời nữa, (siêu nhập bát địa, cửu địa, thập địa, đẳng giác, diệu
giác), sẽ chứng được quả vị Phật Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lại có đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của ba tứ thiên hạ, còn trải qua ba đời nữa,
(thập địa, đẳng giác, diệu giác) sẽ chứng quả vị Phật Vô thượng chánh đẳng
chánh giác.
Lại có đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của hai tứ thiên hạ, còn trải qua hai đời nữa,
sẽ chứng quả vị Phật Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lại có đại Bồ Tát, nhiều như hạt bụi của một tứ thiên hạ, còn trải qua một đời nữa,
sẽ chứng quả vị Phật Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lại có chúng sinh, nhiều như hạt bụi của tám thế giới, đều phát tâm Vô
thượng chánh đẳng chánh giác.
Lại có chúng sinh, nhiều như hạt bụi của tám thế giới, ngay lúc đó, họ đều phát
tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Người tu học Phật pháp, nhất định phải phát bồ đề tâm, ‘’Thượng cầu Phật đạo,
hạ hóa chúng sinh.’’ (Trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng dinh), mới có thể kết
quả bồ đề. Bằng không, giống như hoa nở mà chẳng kết trái. Có người nói : ‘’Mọi
người đều là Phật,’’ song phải tu hành, mới có thẻ thành Phật. Chỉ nói mà chẳng
thực hành, cũng giống như nói món ăn mà chẳng ăn, hoặc đếm tiền dùm cho người
khác, cuối cùng cũng rơi vào không. Có người nói : ‘’Thức ăn này ngon quá, mùi vị
thơm ngon đều có đủ.’’ Nhưng họ chẳng ăn thì cũng chẳng ích gì. Lại giống như người
làm ở ngân hàng, suốt ngày đếm tiền thế cho người khác. Do đó có câu :
‘’Chung nhật số tha bảo,
Tự vô bán phân tiền,
Ư pháp bất tu hành,
Kỳ quá diệc như thị.’’
Nghĩa là :
Suốt ngày đếm tiền mướn,
Mình chẳng có xu nào;
Với pháp chẳng tu hành,
Lỗi lầm vẫn trơ trơ.
Khi đức Phật nói các vị đại Bồ Tát đó, được đại pháp lợi, thì ở trong hư
không mưa xuống hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, dùng để rải lên vô lượng
trăm ngàn vạn ức các đức Phật, ngồi trên tòa sư tử dưới các cây báu, và rải lên
tháp bảy báu tòa sư tử của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và đức Đa Bảo Như Lai diệt
độ đã lâu, cũng rải lên tất cả các đại Bồ Tát, và bốn bộ chúng.
Khi Đức Phật nói các đại Bồ Tát đó, đắc được đại pháp lợi, thì ở trong hư không
mưa xuống hoa tiểu bạch và hoa đại bạch. Dùng hoa quý đó, để rải lên trên thân
của vô lượng trăm ngàn vạn ức các Đức Phật, ngồi trên tòa sư tử ở dưới cây báu.
Các vị Phật đó, đều là Phật hóa thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Hoa đó lại
rải trong tháp bảy báu trên tòa sư tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, và Đức Đa Bảo
Như Lai đã diệt độ từ lâu. Hoa đó cũng rải trên thân của tất cả các đại Bồ Tát
và tất cả bốn bộ chúng.
Lại mưa xuống hương bột chiên đàn, và hương trầm thủy. Ở trong hư không trống
trời tự kêu, âm thanh vi diệu sâu xa. Lại mưa xuống hàng ngàn thứ y trời, thòng
rũ xuống các chuỗi ngọc, chuỗi trân châu, chuỗi châu ma ni, chuỗi châu như ý,
khắp cả chín phương. Các lò hương báu đốt lên hương vô giá, tự nhiên tỏa khắp
để cúng dường pháp hội.
Lại mưa xuống hương bột chiên đàn, hương trầm thủy. Đồng thời trống trời ở
trong hư không tự kêu lên, âm thanh vi diệu truyền bá sâu xa. Lại mưa xuớng
hàng nghìn thứ y trời, thòng rũ tất cả các thứ chuỗi ngọc trân châu, chuỗi ma
ni, chuỗi như ý, khắp cả thảy chín phương, dùng các lò hương báu xông đốt hương
thơm vô giá tự nhiên xông khắp cùng pháp giới. Tâm hương đốt lên thì có thể
huân ác thành thiện, dùng tâm thành để cúng dường pháp hội.
Ở phía trên, mỗi vị Phật có các Bồ Tát cầm phan lọng, thứ tự thăng đến trời Phạm
Thiên. Các vị Bồ Tát đó, dùng âm thanh vi diệu ca xướng vô lượng bài kệ, để khen
ngợi các đức Phật.
Chư Phật đến từ mười phương (hóa thân của Phật Thích Ca), ở phía trên của mỗi vị
Phật, đều có các Bồ Tát tay cầm phan báu và lọng báu, thứ tự thăng đi lên đến
trên trời Đại Phạm. Những vị Bồ Tát đó, dùng âm thanh vi diệu ca xướng vô lượng
bài kệ, để khen ngợi công đức của vô lượng chư Phật.
Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc từ tòa ngồi đứng dậy, hở vai bên phải, chắp tay cung
kính hướng về đức Phật, mà nói bài kệ rằng:
Lúc đó, Bồ Tát Di Lặc từ tòa ngồi đứng dậy, hở áo bên mặt, chắp tay lại cung kính
hướng về Đức Phật, sau đó nói ra bài kệ dưới đây.
Phật nói pháp ít có
Thuở xưa chưa từng nghe
Thế Tôn có thần lực
Tuổi thọ không thể lường.
Vô số các Phật tử
Nghe Thế Tôn phân biệt
Nói người được pháp lợi
Vui mừng khắp toàn thân.
Pháp của Phật nói đều là pháp ít có, nhất là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, là ít có trong
sự ít có, thuở xưa vốn chưa từng nghe qua pháp vi diệu thâm sâu vô thượng. Đức
Thế Tôn có sức đại thần thông, tuổi thọ của Phật không thể dò lường được. Vô số
vô lượng con của đấng Pháp Vương, nghe đức Thế Tôn phân biệt nói công đức của
Bồ Tát được pháp lợi, tâm của các Ngài đều vui mừng khắp toàn thân. Tóm lại, sự
vui mừng không cách nào hình dung được.
Hoặc trụ bậc bất thối
Hoặc được Đà la ni
Hoặc nhạo thuyết vô ngại
Vạn ức toàn tổng trì.
Hoặc có cõi đại thiên
Số hạt bụi Bồ Tát
Ai nấy đều chuyển được
Bánh xe pháp bất thối.
Sau khi nghe được pháp này, có Bồ Tát trụ ở bậc bất thoái, hoặc có Bồ Tát được
Đà la ni, hoặc có Bồ Tát chứng được nhạo thuyết vô ngại biện tài, hoặc có Bồ
Tát được vạn ức toàn tổng trì, hoặc có Bồ Tát nhiều như hạt bụi của đại thiên
thế giới, ai nấy đều chuyển được pháp luân bất thối.
Lại có cõi trung thiên
Số hạt bụi Bồ Tát
Ai nấy đều chuyển được
Bánh xe pháp thanh tịnh.
Lại có cõi tiểu thiên
Số hạt bụi Bồ Tát
Chỉ còn tám đời nữa
Sẽ chứng được Phật đạo.
Lại có các Bồ Tát nhiều như hạt bụi của trung thiên thế giới, các Ngài đều chuyển
được đại pháp luân thanh tịnh. Lại có các Bồ Tát nhiều như hạt bụi của tiểu
thiên thế giới, các Ngài còn tám đời nữa, tức cũng là còn tám phẩm vô minh vi
tế chưa đoạn, nếu đoạn sạch thì sẽ chứng được Phật đạo.
Bồ Tát còn bốn mươi hai phần vô minh hoặc, đoạn một phần vô minh hoặc thì chứng
được một phần pháp thân, thăng lên một bậc, đến bậc Đẳng giác thì còn có một
phần sinh tướng (biến dịch sinh tử) vô minh chưa phá, nếu phá được thì lập tức
đến bậc Diệu giác (Phật vị).
Lại có bốn ba hai
Tứ thiên hạ như vậy
Các hạt bụi Bồ Tát
Theo số đời thành Phật.
Hoặc một tứ thiên hạ
Số hạt bụi Bồ Tát
Chỉ còn một đời nữa
Sẽ thành Nhất thiết trí.
Như thế thảy chúng sinh
Nghe Phật thọ lâu dài
Được vô lượng vô lậu
Các quả báo thanh tịnh.
Lại có bốn tứ thiên hạ, ba tứ thiên hạ, hai tứ thiên hạ, số Bồ Tát nhiều như
hạt bụi, tùy theo bốn, ba, hai đời nữa sẽ thành tựu quả vị Phật. Bốn tứ thiên
hạ là bát địa Bồ Tát, các Ngài còn bốn phẩm vi tế sinh tướng vô minh chưa phá.
Ba tứ thiên hạ là cửu địa Bồ Tát, các Ngài còn ba phẩm sinh tướng vô minh chưa
phá. Hai tứ thiên hạ là thập địa Bồ Tát, các Ngài còn hai phẩm sinh tướng vô minh
vi tế chưa phá. Nếu phá sạch thì sẽ thành Phật đạo.
Hoặc có một tứ thiên hạ số hạt bụi Bồ Tát, các Ngài là đẳng giác Bồ Tát, còn một
phẩm sinh tướng vô minh vi tế chưa phá. Nếu phá sạch sẽ lập tức thành Phật.
Những Bồ Tát vừa nói ở trên, nghe Phật nói tuổi thọ của Như Lai lâu dài, đều chứng
được vô lượng trí huệ vô lậu, đắc được quả vị Phật diệu giác thanh tịnh.
Lại có tám thế giới
Số hạt bụi chúng sinh
Nghe Phật nói thọ mạng
Đều phát tâm vô thượng.
Lại có chúng sinh, nhiều như hạt bụi của tám thế giới, nghe Phật nói thọ mạng
của Như Lai lâu dài, đều phát tâm vô thượng, nguyện sẽ chứng đến quả vị Phật.
Tóm lại, hàng phàm phu nghe được Phẩm Thọ Lượng của Như Lai trong Kinh Pháp
Hoa, thì đều phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Thế Tôn nói vô lượng
Pháp không thể nghĩ bàn
Nhiều chúng được lợi ích
Như hư không vô biên.
Bồ Tát Di Lặc nói : ‘’Đức Thế Tôn ! Ngài nói vô lượng diệu pháp không thể nghĩ
bàn, có rất nhiều chúng sinh đắc được lợi ích của pháp, giống như hư không
chẳng có bờ bến.’’
Mưa hoa trời mạn đà
Ma ha mạn đà
Thích Ph
Đến từ vô số cõi.
Từ hư không mưa xuống hoa trời mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la. Lại có Thích Đề
Hoàn Nhân và Đại Phạm Thiên Vương, nhiều như số cát sông Hằng, đến từ vô số cõi
Phật.
Mưa chiên đàn trầm thủy
Tấp nập rơi rớt xuống
Như chim bay không xuống
Cúng rải lên chư Phật.
Lại từ hư không mưa xuống hương bột chiên đàn và hương bột trầm thủy, tấp nập rơi
rớt xuống, giống như chim từ không trung bay xuống. Những hương bột đó rải lên cúng
dường các Đức Phật.
Trống trời trong hư không
Tự nhiên vang diệu âm
Y trời ngàn vạn thứ
Chuyển động rơi rớt xuống.
Trống trời ở trong hư không, tự nhiên phát ra âm thanh vi diệu, trống trời chẳng
đánh mà tự kêu. Lại có ngàn vạn thứ y trời, xoay chuyển ở trong hư không, rồi
rơi rớt xuống.
Các lò hương báu đẹp
Xông đốt hương vô giá
Tự nhiên tỏa khắp nơi
Cúng dường các Thế Tôn.
Lại có lò hương đẹp làm bằng bảy báu, xông đốt hương quý vô giá, mùi thơm tỏa khắp
pháp giới, để cúng dường các Đức Phật và Đa Bảo Như Lai.
Chúng đại Bồ Tát đó
Cầm phan lọng bảy báu
Cao đẹp vạn ức thứ
Thứ tự đến Phạm Thiên.
Lại có đại Bồ Tát từ dưới đất vọt lên, ai nấy đều cầm phan lọng bảy báu. Phan lọng
này rất cao, tốt đẹp khác thường, có hàng vạn ức thứ, rất có thứ tự, từ phương
dưới mà thăng đến trời Phạm Thiên (cõi sơ thiền sắc giới).
Trước mỗi các đức Phật
Tràng báu treo thắng
Cũng
Ca ngợi các Như Lai.
Đủ thứ việc như thế
Thuở xưa chưa từng có
Nghe Phật thọ vô lượng
Tất cả đều vui mừng.
Ở trước tòa mỗi vị Phật, phát tâm cúng dường, treo tràng báu và phan báu thù
thắng nhất, để làm đồ trang nghiêm. Cũng dùng ngàn vạn bài kệ, để ca ngợi công
đức của các Như Lai, những việc không thể nghĩ bàn như thế, thuở xưa chưa từng
có, nghe Phật nói Phẩm Thọ Lượng của Như Lai, hết thảy đều sinh tâm vui mừng.
Danh Phật đồn mười phương
Rộng lợi ích chúng sinh
Hết thảy đủ căn lành
Trợ phát tâm vô thượng.
Danh hiệu của Phật, tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới đều nghe được.
Nhưng chúng sinh có căn lành mới nghe được, bằng không, thì chẳng nghe được
danh hiệu của Phật. Phật dùng từ bi làm bổn hoài, để rộng lợi ích tất cả chúng
sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đều đầy đủ căn lành. Phàm là người không có
căn lành, thì khiến cho họ trồng căn lành; người đã có căn lành thì khiến cho
họ tăng trưởng; người đã tăng trưởng, thì khiến cho họ thành thục; người đã
thành thục thì khiến cho họ được giải thoát. Trợ giúp chúng sinh phát tâm Vô thượng
chánh đẳng chánh giác.
Bấy giờ, đức Phật bảo đại Bồ Tát Di Lặc, A Dật Da ! Những chúng sinh nào, nghe
thọ mạng của Phật lâu dài như thế, cho đến sinh một niệm tin hiểu, thì được
công đức chẳng có hạn lượng.
Lúc đó, Đức Phật bảo đại Bồ Tát Di Lặc : ‘’A Dật Đa ! Có chúng sinh nhiều như
số cát sông Hằng, mà nghe được thọ mạng của Phật lâu dài như thế, mà trong một
niệm sinh tâm tin hiểu, thì sẽ được công đức công đức chẳng có hạn lượng.’’
Nếu có người thiện nam, thiện nữ, vì Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ở
trong tám mươi vạn ức Na do tha kiếp, thực hành năm Ba la mật, trì giới Ba la
mật, nhẫn nhục Ba la mật, tinh tấn Ba la mật, thiền định Ba la mật, trừ Bát Nhã
Ba la mật ra, đem công đức này, so sánh với công đức ở trên, chẳng bằng một
phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn ức, cho đến tính toán ví dụ,
cũng không thể biết được.
Nếu như có người thiện nam, người thiện nữ, giữ năm giới, thực hành thập thiện,
họ vì cầu đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ở trong tám mươi vạn ức Na do
tha kiếp, tu hành năm Ba la mật (dịch là đến bờ kia). Năm Ba la mật là gì ?
Lược giải như sau :
1). Bố thí Ba la mật : Bố thí có ba thứ : Bố thí tài, bố
thí pháp và bố thí vô uý. Bố thí tài gồm có nội tài và ngoại tài. Nội tài là
đầu mắt tủy não; ngoại tài là đất nước vợ con, thảy đều bố thí cho người cần.
Bố thí pháp tức là giảng kinh thuyết pháp, do đó :
‘’Trong các sự cúng dường,
Cúng dường pháp là hơn hết.’’
Bố thí tài là tu phước, bố thí pháp là tu huệ. Phước huệ song tu, thì công đức mới
viên mãn. Đức Phật từng trải qua :
‘’Ba A tăng kỳ tu phước huệ,
Trăm kiếp trồng tướng tốt.’’
Có công đức thì mới thành Phật. Nếu như tu phước mà không tu huệ, thì giống như
voi được người trang sức chuỗi ngọc. Tuy trang nghiêm, nhưng mình chẳng cách gì
thọ dụng được. Nếu chỉ tu huệ mà chẳng tu phước, thì giống như A
2). Trì giới Ba la mật : Giới là ngừa điều ác, không làm
việc quấy. Tức là :
‘’Đừng làm các việc ác,
Hãy làm các việc lành.’’
Giới luật rất quan trọng ở trong Phật giáo, cho nên người xuất gia cần phải thọ
giới cụ túc, do đó :
‘’Chúng sinh thọ Phật giới,
Tức nhập chư Phật vị,
Vị đồng đại giác dĩ,
Chân thị chư Phật tử.’’
Nghĩa là :
Chúng sinh thọ giới Phật,
Liền vào chư Phật vị,
Tuy chưa được giác ngộ,
Mà thật là Phật tử.
Vào đời Đường, Đạo Tuyên luật sư là sơ tổ của luật tông. Ngài tu ở núi Chung
Nam, nghiên cứu luật luận, giữ giới rất nghiêm minh, tơ hào chẳng cẩu thả, cảm
ứng người trời mang thức ăn đến cúng dường. Do đó, đủ thấy quỷ thần cũng sùng
bái, người xuất gia giữ gìn giới luật trong sạch, mà cung kính đảnh lễ. Ngài
Khuy Cơ đại sư (nhị Tổ của Duy Thức tông) nghe Ngài Đạo Tuyên luật sư được người
trời cúng dường, Ngài muốn thưởng thức món ăn của người trời mùi vị như thế nào
? Do đó, từ Trường An đến núi Chung Nam, song quá ngọ chẳng thấy người trời
mang thức ăn đến, Ngài bèn trở về. Trưa ngày thứ hai, người trời mang thức ăn
đến, Ngài Đạo Tuyên luật sư hỏi : ‘’Sao hôm qua chẳng đến ?‘’
- Người trời nói : ‘’Hôm qua tôi đến ở ngoài cửa, nhìn thấy trong nhà có một vị
nhục thân Bồ Tát phóng hào quang rực rỡ, cho nên tôi không dám vào, do đó phải
trở về.’’
Học Phật pháp nhất định phải thọ giới. Thọ giới rồi phải
giữ gìn cẩn thận, tức cũng là phải giữ quy cụ của Phật giáo, do đó ‘’Vô quy cụ
bất thành phương viên.’’ Nghĩa là : Chẳng có quy cụ thì chẳng thành vuông tròn.
Người cư sĩ tại gia phải thọ năm giới, tám giới, mười giới trọng bốn mươi tám
giới khinh của Bồ Tát giới. Người xuất gia trước hết thọ mười giới Sa Di, sau
đó thọ giới Tỳ Kheo.
Bất cứ là người tại gia, hoặc người xuất gia, thọ giới rồi mà phạm giới, thì
giống như chiếc thuyền ở giữa biển có lỗ thủng, sẽ chìm xuống đáy biển. Phàm là
người thọ giới mà chẳng giữ giới, thì sau khi chết sẽ đọa vào ba đường ác, do
đó có câu :
‘’Địa ngục môn tiền tăng đạo đa.’’
Nghĩa là :
Dưới địa ngục rất nhiều ông Tăng ông Đạo.
Nhất là xuất gia rồi mà chẳng giữ giới luật, tùy tiện chẳng giữ quy cụ, thì
nhất định đến địa ngục thọ khổ, chẳng có gì nghi ngờ.
Người thọ giới nếu trong sự vô ý mà phạm giới, thì tình có thể tha, có thể khai
duyên, do đó có câu : ‘’Khai giá trì phạm.’’ Khai là khai duyên, giá là giá
tội, trì là thọ trì, phạm là phạm giới. Ở đây lại có rất nhiều quy định chi
tiết nhỏ, không thể nói ra.
3). Nhẫn nhục Ba la mật : Tức là những người khác nhẫn không được mà bạn nhẫn được. Nếu ai ai cũng nhẫn được thì đâu có gì lạ. Ví như, có người vô duyên vô cớ đến gây sự với bạn, hoặc mắng chưởi bạn, hoặc đánh bạn, mà bạn chẳng động tâm, chẳng nổi lửa vô minh, chẳng sinh tâm báo thù, vẫn an nhiên tự tại. Đến được hỏa hầu như thế, thì mới xứng đáng là người xuất gia. Bằng không, nói nghe rất hay, tuyệt đối không nóng giận, khi cảnh giới đến khảo nghiệm, mà lý trí khống chế chẳng đặng, nổi giận lôi đình, làm cho công đức mình tu hằng ngày, bị lửa vô minh đốt sạch. Cho nên hy vọng các vị hãy cẩn thận.
4). Tinh tấn Ba la mật : Tức là không giải đãi. Bất cứ là
tụng kinh, trì chú, hoặc tham thiền, lạy Phật, nhất định phải dũng mãnh tinh
tấn, không thể một ngày nóng mười ngày lạnh. Thời xưa, các vị
5). Thiền Ba la mật : Thiền dịch là "tư duy tu",
còn dịch là "tĩnh lự", tức là ngưng bặt mọi vọng tưởng, đừng để cho
nó nổi sóng làm gió. Cho nên phải tham câu : ‘’Niệm Phật là ai ?‘’ Đây là biện
pháp lấy độc trị độc, do đó có câu :
‘’Vọng tưởng không sinh tức là Thiền.’’
Vọng tưởng như mây trôi, dễ che lấp đi tự tánh ánh sáng mặt trời, tu thiền định
khiến cho tâm thanh tịnh, không sinh vọng tưởng thì bồ đề sẽ hiện tiền.
Tại sao không nói Bát Nhã Ba la mật ? Vì Bát Nhã là mẹ của chư Phật. Nếu có Bát
Nhã thì có cơ hội thành Phật. Hiện tại nói về công đức, chứ chẳng phải nói về
thành Phật, cho nên chẳng nói về Bát Nhã. Bây giờ, người đó tu năm Ba la mật
này, trải qua tám mươi vạn ức Na do tha kiếp thời gian, đắc được công đức so
sánh với công đức nghe Phẩm Thọ Lượng của Như Lai, mà sinh một tâm niệm tin
hiểu, thì không thể nào bằng được, dù một phần trăm, một phần ngàn, cho đến một
phần ngàn vạn ức, cũng không sánh được. Dù có tính toán, ví dụ để hình dung,
cũng chẳng cách chi biết được cứu kính có bao nhiêu?
Nếu người thiện nam, người thiện nữ, có công đức như thế, mà chẳng đắc được
Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì chẳng có lý đó.
Nếu như có người thiện nam, người thiện nữ, có công đức nghe Phẩm Thọ Lượng của
Như Lai, sinh một tâm niệm tin hiểu, mà chẳng đắc được quả vị Vô thượng chánh
đẳng chánh giác, thì tuyệt đối chẳng có đạo lý đó. Các vị chú ý ! Phật là bậc
Thánh nhân chẳng nói dối, chúng ta phải tin lời từ kim khẩu của Phật nói, không
thể hủy báng kinh nào đó là kinh giả, chẳng phải Phật nói, nếu không thì sẽ đọa
vào địa ngục cắt lưỡi.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:
Lúc đó, Đức Phật e rằng đại chúng trong pháp hội không tin đạo lý này, đối với thọ
lượng của Như Lai lâu dài, sinh một tâm niệm tin hiểu, làm sao lại có công đức
lớn như thế ? Vì khiến cho đại chúng giải trừ tâm hoài nghi, bèn thuật lại
nghĩa lý trường hàng ở trên, nói ra bằng kệ.
Nếu người cầu Phật huệ
Trong tám mươi vạn ức
Na do tha số kiếp
Tu năm Ba la mật.
Nếu như có người muốn cầu trí huệ vô thượng của Phật, ở trong tám vạn ức kiếp,
tu hành pháp môn năm Ba la mật. Công đức đó, chẳng bằng công đức sinh một tâm
niệm tin hiểu.
Ở trong các kiếp đó
Bố thí cúng dường Phật
Và Duyên Giác đệ tử
Cùng các chúng Bồ Tát.
Đồ ăn uống hảo hạng
Y tốt và đồ nằm
Chiên đàn làm tịnh xá
Dùng vườn rừng trang nghiêm.
Bố thí như thế thảy
Đủ thứ đều tốt đẹp
Hết các số kiếp đó
Hồi hướng về Phật đạo.
Trong thời gian dài như thế, bố thí cúng dường cho các Đức Phật và các hàng
Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát thảy, dùng vật ăn thức uống ngon nhất, quần áo
tốt đẹp nhất, thuốc thang hay quý nhất, để cúng dường cho bốn bậc Thánh. Dùng
gỗ chiên đàn để làm tịnh xá, dùng vườn rừng để trang nghiêm chung quanh, khiến
cho thanh tịnh u nhã. Những đồ bố thí này, đều vi diệu thù thắng, bố thí hết
thảy tám mươi vạn ức Na do tha kiếp số, đều hồi hướng công đức về Phật đạo.
Nếu giữ gìn giới cấm
Thanh tịnh chẳng thiếu sót
Cầu chứng vô thượng đạo
Được chư Phật khen ngợi.
Nếu như, lại hay giữ gìn giới cấm thanh tịnh viên mãn, chẳng có chỗ thiếu sót. Muốn
cầu Phật đạo vô thượng, thì nhất định được chư Phật gia trì và khen ngợi. Giữ
giới quan trọng như giữ đầu.
Nếu tu hạnh nhẫn nhục
Trụ nơi chỗ điều nhu
Nếu kẻ ác nhiễu loạn
Mà tâm chẳng lay động.
Có những người đắc pháp
Bị kẻ tăng thượng mạn
Khinh khi làm khổ não
Như thế cũng nhẫn được.
Nếu như tu hành pháp môn nhẫn nhục, trụ ở chỗ điều thuận nhu hòa, tuyệt đối
không sinh lửa vô minh. Nếu có người không biết đạo lý đến nhiễu loạn bạn, hoặc
phỉ báng, hoặc nhục mạ, thậm chí đánh đập, cảnh giới nghịch như thế đến, thì
phải có định lực, đừng để cảnh giới chuyển. Hoặc có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, bị họ
khinh khi nhiễu loạn khổ não, thì đừng sinh tâm sân hận, xem họ như thiện tri
thức khai đạo. Quán như thế, thì tự nhiên sẽ sóng yên gió lặng, bình an vô sự.
Bằng không, nổi trận lôi đình, thì cả hai đều thảm bại thương đau, tạo thành
chuyện cười cho thiên hạ. Cho nên có câu :
‘’Một niệm sân nổi lên,
Trăm vạn chướng ngại đều xảy ra.’’
Nếu lại siêng tinh tấn
Chí niệm thường kiên cố
Trong vô lượng ức kiếp
Một lòng chẳng giải đãi.
Lại trong vô số kiếp
Trụ ở chỗ vắng lặng
Hoặc ngồi hoặc kinh hành
Trừ ngủ thường nhiếp tâm.
Nếu như hay siêng tu tinh tấn Ba la mật, chí niệm kiên cố. Bất cứ gặp khó khăn gì,
nhất định cũng không thối chuyển. Ở trong vô lượng ức kiếp, một lòng tinh tấn hướng
về trước, vĩnh viễn không giải đãi. Lại ở trong vô lượng ức kiếp, trụ ở chỗ
vắng lặng, hoặc là ngồi thiền, hoặc là đi kinh hành, đều phải nhiếp tâm thu
niệm. Trừ sự ngủ nghỉ ra, bình thường phải thu nhiếp tâm viên ý mã, đừng để
chúng rong chạy bên ngoài, huấn luyện chúng giữ gìn quy cụ.
Vì bởi nhân duyên đó
Hay sinh các thiền định
Tám mươi ức vạn kiếp
An trụ tâm chẳng loạn.
Đem phước nhất tâm đó
Nguyện cầu vô thượng đạo
Con được Nhất thiết trí
Hết các bờ thiền định.
Nhờ nhân duyên đó, cho nên sinh tất cả thiền định, trải qua thời gian tám mươi
ức vạn kiếp, trụ an ổn ở trong thiền định, khiến cho tâm chẳng tán loạn, tinh
thần tập trung tại một chỗ, tư duy niệm Phật là ai ? Tham đến chỗ sơn cùng thủy
tận, thì sẽ khai ngộ.
Như đem phước nhất tâm tu trì thiền định tam muội, thệ nguyện cầu Phật đạo vô thượng.
Con nguyện đắc được nhất thiết trí, hết tất cả bờ mé thiền định, tức cũng là
đắc được hết thảy thiền định tam muội.
Người đó trong trăm ngàn
Vạn ức vô số kiếp
Tu các công đức đó
Như ở trên vừa nói.
Có thiện nam tín nữ
Nghe ta nói thọ mạng
Cho đến một niệm tin
Phước đây lại hơn kia.
Nếu có người chẳng có
Tất cả các nghi hoặc
Sinh tâm tin chốc lát
Phước đây đồng phước kia.
Người tu hành đó, trong trăm ngàn vạn ức kiếp tu hành pháp môn năm Ba la mật,
công đức đắc được rất là thù thắng. Nếu như, có người thiện nam, người thiện
nữ, nghe ta nói thọ mạng dài lâu, cho đến sinh một tâm niệm tin hiểu, thì phước
đức này thù thắng hơn công đức tu năm Ba la mật vừa nói ở trên. Nếu như có
người chẳng có tất cả nghi hoặc, trong khoảnh khắc sinh tâm tin sâu, thì đắc được
phước báu, đồng với công đức tám mươi vạn ức kiếp tu năm Ba la mật.
Hết thảy các Bồ Tát
Vô lượng kiếp hành đạo
Nghe ta nói thọ mạng
Thì tâm sẽ tin nhận.
Những người như thế thảy
Tin thọ kinh điển này
Nguyện con đời vị lai
Sống lâu độ chúng sinh.
Hết thảy các Bồ Tát trong vô lượng kiếp đến nay, tu hành Bồ Tát đạo, gieo trồng
các căn lành. Các vị đó, nghe ta nói thọ mạng của Như Lai, thì sẽ tin hiểu thọ
trì, chẳng sinh tâm hoài nghi. Những người như thế thảy, đều tin thọ bộ kinh
điển này, phát nguyện hy vọng Phật thọ mạng vô lượng, ở đời vị lai độ tất cả
chúng sinh, lìa khổ được vui, đồng lên bờ kia.
Như Thế Tôn hôm nay
Vua trong dòng họ Thích
Đạo tràng sư tử hống
Thuyết pháp vô sở úy.
Chúng con đời vị lai
Được tất cả tôn kính
Khi ngồi nơi đạo tràng
Cũng nói thọ như thế.
Giống như Đức Thế Tôn hôm nay, là bậc Pháp Vương vô thượng ở trong dòng họ Thích.
Ngồi ở nơi đạo tràng thuyết pháp như sư tử hống, chẳng có sợ hãi. Trong Chứng
Đạo Ca có nói :
‘’Sư tử hống, vô úy thuyết.
Bách thú văn chi giai lão liệt,
Hương tượng bôn ba thất cước uy,
Thiên long tịch thính sinh hân duyệt.’’
Lúc Phật còn ở đời, thì Đề Bà Đạt Đa và vua A Xà Thế liên kết hại Phật, lợi
dụng uy lực của voi say để đạp chết Phật. Khi Phật đến thành
Đức Phật lại nói : ‘’Chúng con ở đời vị lai, được tất cả chúng sinh tôn kính,
tương lai thành Phật sẽ ngồi ở tại đạo tràng, nói thọ lượng của Như Lai, cũng
như Đức Thế Tôn nói pháp.’’
Nếu có người thâm tâm
Thanh tịnh lại chất trực
Đa văn hay tổng trì
Tùy nghĩa giải lời Phật.
Hết thảy người như thế
Nơi kinh này chẳng nghi.
Nếu như có người thâm tâm, một lòng thanh tịnh chẳng cấu nhiễm, chất trực thật
thà, bác học đa văn, nghiên cứu kinh điển, tổng trì chẳng quên. Tùy theo nghĩa
lý mà giải thích lời lẽ của Phật nói. Người đắc được đa văn tam muội, và tổng
trì tam muội như thế, thì đối với Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, chẳng có hoài nghi,
một lòng thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, ấn tống, truyền bá kinh này.
Lại nữa, A Dật Đa ! Nếu có người nghe được thọ mạng lâu dài của Phật, mà hiểu
rõ nghĩa lý của lời nói, thì người đó được công đức chẳng có hạn lượng, hay
sinh ra trí huệ vô thượng của Như Lai, hà huống là rộng nghe kinh này.
Đức Phật lại gọi một tiếng : ‘’A Dật Đa ! Nếu có chúng sinh nghe được thọ mạng
lâu dài của Phật, mà thấu hiểu nghĩa lý bên trong của lời nói, thì người đó
được công đức chẳng có hạn lượng, hay trợ giúp họ sinh ra trí huệ vô thượng của
Như Lai. Hà huống rộng nghe được Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ! Công đức đắc được
không thể nói được.’’
Hoặc dạy người đến nghe, hoặc tự mình thọ trì, hoặc dạy người thọ trì, hoặc
tự mình biên chép, hoặc dạy người biên chép, hoặc dùng hương hoa, anh lạc, tràng
phan, lọng lụa, dầu thơm, đèn, để cúng dường kinh quyển. Công đức của người đó,
vô lượng vô biên, hay sinh ra nhất thiết chủng trí.
Hoặc dạy bảo người thân, bạn bè đến nghe Kinh Pháp Hoa, hoặc tự mình thọ trì
Kinh Pháp Hoa, hoặc dạy người thọ trì Kinh Pháp Hoa, hoặc tự mình biên chép
Kinh Pháp Hoa, hoặc dạy bảo người biên chép Kinh Pháp Hoa. Hoặc dùng hoa tươi,
hương thơm, anh lạc, tràng báu, phan báu, lọng báu, dầu thơm, đèn .v.v... để
cúng dường Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Công đức của người đó, vô lượng vô biên, sẽ
thành tựu nhất thiết chủng trí của Như Lai.
A Dật Đa ! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, nghe ta nói thọ mạng dài
lâu, mà thâm tâm tin hiểu, tức là thấy Phật thường ở tại núi Kỳ Xà Quật, cùng
với các chúng đại Bồ Tát, Thanh Văn, vây quanh nói pháp.
A Dật Đa ! Nếu như có thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe ta nói thọ mạng lâu dài
của Như Lai, mà phát tâm tin hiểu, lại hay thấu rõ nghĩa lý bên trong, tức là
thấy được pháp thân của Phật. Tại sao ? Vì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tức là chân
thân của Phật, tức cũng là pháp thân của Phật. Thấy được Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa, thì giống như gặp được Phật, đừng cho rằng Phật vào Niết Bàn thì không
thuyết pháp. Phật luôn luôn đều đang nói Kinh Diệu pháp Liên Hoa. Phật nói Kinh
Pháp Hoa trong khoảng thời gian tám năm, từ khi Phật bảy mươi hai tuổi thì bắt đầu
nói Kinh Pháp Hoa. Sau này, đem kinh văn biên trên lá bối, liên kết lá bối lại
dài khoảng tám dặm. Do đó, kinh này là đại biểu cho chân thân của Phật.
Người này thường thấy Phật ở tại núi Kỳ Xà Quật (Linh Thứu) và các chúng đại Bồ
Tát Thanh Văn vây quanh Phật, nghe Phật nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Lại thấy thế giới Ta Bà này, đất bằng lưu ly, mặt đất bằng phẳng, vàng diêm
phù đàn dùng làm tám đường, cây báu thẳng hàng, các đền đài lầu các, đều dùng
bảy báu tạo thành, các chúng Bồ Tát đều ở trong đó. Nếu có người hay quán như
thế, thì nên biết người đó tin sâu hiểu kinh này.
Lại thấy thế giới Ta Bà này, đất bằng chất lưu ly, mặt đất bằng phẳng, chẳng có
núi cao, chẳng có biển sâu. Tại sao thế giới có núi cao biển sâu, cao thấp
chẳng bằng phẳng ? Vì tâm người chẳng bằng phẳng, do nghiệp báo cảm ứng hiện
ra. Người chứng quả, tuy nhiên ở tại thế giới này, nhưng thấy những cảnh giới
khác nhau. Họ thấy mặt đất bằng phẳng như lòng bàn tay, chúng ta phàm phu thấy
mặt đất lồi lõm chẳng bằng phẳng.
Tại châu Diêm Phù Đề có con sông lớn, bờ sông có cây đàn
kim, khi lá cây này rớt xuống sông, thì làm cho cát dưới sông biến thành vàng,
ánh sáng rất sáng đặc biệt, có thể nói là rực rỡ chóa mắt. Dùng vàng này để làm
tám con đường (biểu thị cho bát chánh đạo). Lại có cây bằng bảy báu, thẳng tắp
thành hàng. Hết thảy đền đài lầu gác, đều dùng bảy báu tạo thành. Các chúng Bồ
Tát đều ở trong đó. Nếu như có người quán tưởng như thế, thọ trì kinh này, đọc tụng
kinh này, thì nên biết người đó tin hiểu sâu xa kinh này.
Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh này, mà chẳng hủy
báng, phát tâm tùy hỷ, thì nên biết người đó, đã tin hiểu sâu kinh này, hà
huống là người đọc tụng thọ trì, tức là người đó đầu đội đức Như Lai.
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu như có người nghe được Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, mà
tin sâu chẳng nghi ngờ, chẳng hủy báng, phát khởi tâm tùy hỷ, thì nên biết
người đó, đã tin hiểu sâu xa. Hà huống, là người hay đọc tụng lại hay thọ trì,
người đó cung kính như đầu đội Đức Như Lai.
A Dật Đa ! Người thiện nam, người thiện nữ đó, chẳng cần vì ta mà tạo dựng
chùa tháp, và làm phòng ốc cho Tăng, dùng tứ sự cúng dường chúng Tăng. Sở dĩ vì
sao ? Vì người thiện nam, người thiện nữ đó, thọ trì đọc tụng kinh điển này, là
đã xây dựng tháp, tạo lập phòng ốc cho Tăng, cúng dường chúng Tăng.
A Dật Đa ! Người thiện nam, người thiện nữ đó, nếu hay thọ trì, đọc tụng giải
nói, biên chép ấn tống kinh này, thì chẳng cần vì ta tạo dựng chùa tháp. Tại
sao ? Vì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa tức là chùa tháp của Phật. Có người nói :
‘’Vậy kinh điển là chùa tháp thì chẳng cần làm chùa nữa.’’ Tuy nhiên Phật nói như
thế, song phát tâm làm chùa tháp thì rất tốt. Vì tạo tháp để cúng dường xá lợi
của Phật; tạo chùa để cúng dường tượng Phật vàng, biểu thị cung kính, khiến cho
chúng sinh thấy trang nghiêm mà sinh tâm tín ngưỡng, mới phát tâm bồ đề, do đó
mà trồng xuống căn lành.
Cũng chẳng cần vì Tăng mà tạo phòng ốc, cũng chẳng cần cúng
dường Tăng, tứ sự (quần áo, thức ăn uống, đồ nằm, thuốc thang). Lời có thể nói lại,
nếu chẳng cúng dường tứ sự lên chư Tăng, thì chẳng thể gieo trồng căn lành,
chẳng đắc được công đức, chẳng có công đức thì chẳng có phước báo. Tại sao nói
như thế ? Vì người thiện nam thiện nữ đó thọ trì, đọc tụng kinh này, thì đồng
như đã tạo chùa tháp, tạo phòng xá cho Tăng, cúng dường chúng Tăng. Đây là nói
về công đức thọ trì kinh điển, so với công đức cúng dường còn muốn lớn hơn. Nếu
không thể thọ trì kinh điển, thì vẫn phải cúng dường Tam Bảo, nhờ phước lực này
mà tăng trưởng căn lành.
Tức là đem Phật xá lợi tạo dựng tháp bảy báu, cao rộng nhỏ dần đến cõi trời Phạm
Thiên. Lại treo các phan lọng, và các linh báu, hoa hương, anh lạc, hương bột,
hương thoa, hương đốt, các thứ âm nhạc, ống tiêu, ống địch, đàn không hầu, đủ
thứ kịch múa, dùng âm thanh vi diệu ca ngâm khen ngợi, tức là ở trong vô lượng
ngàn vạn ức kiếp, đã từng cúng dường như thế.
Tức là đồng như đem xá lợi của Phật, tạo dựng tháp bằng bảy báu. Tháp đó dọc
cao tam giới, ngang khắp mười phương, nền tháp cao rộng lên trên nhỏ dần, cao
đến cõi trời Phạm Thiên thuộc cõi sắc. Lại treo các phan báu, lọng báu, linh
báu, hoa tươi, hương quý, anh lạc, hương bột, hương thoa, hương đốt, ống tiêu,
ống địch, đàn không hầu, các loại trống, các thứ âm nhạc, đủ thứ kịch múa, âm thanh
ca rất hay, ngâm nga tán thán khen ngợi. Tức là ở trong vô lượng ngàn vạn ức kiếp,
đã từng cúng dường xá lợi như thế.
A Dật Đa ! Nếu sau khi ta diệt độ, có người nghe được kinh điển này, có người
hay thọ trì, hoặc tự mình biên chép, hoặc bảo người biên chép, tức là tạo dụng phòng
ốc cho chúng Tăng. Dùng gỗ chiên đàn đỏ, làm các điện đường ba mươi hai sở, cao
khoảng tám cây đa la, cao rộng trang nghiêm tốt đẹp, có trăm ngàn vị Tỳ Kheo
trụ ở trong đó.
A Dật Đa ! Nếu sau khi ta diệt độ, có người nào nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hoặc
tự mình biên chép, hoặc bảo người biên chép, thì đồng như tạo lập phòng ốc cho
chư Tăng, dùng gỗ chiên đàn đỏ, làm các điện đường ba mươi hai sở (tạo lập điện
đường trong tự tánh). Điện đường cao khoảng tám cây đa la, chẳng những cao rộng
mà còn trang nghiêm tốt đẹp, có trăm ngàn vị Tỳ Kheo trụ ở trong đó.
Lại có vườn rừng ao tắm, lại có chỗ đi kinh hành, hang động ngồi thiền, y phục
thức ăn uống, giường nệm thuốc thang, tất cả dụng cụ âm nhạc đầy dẫy trong đó.
Nhà Tăng lầu các như thế, hàng trăm ngàn vạn ức nhiều vô số. Dùng những thứ đó,
hiện tiền cúng dường nơi ta và Tỳ Kheo Tăng.
Lại có vườn rừng, lại có ao tắm, lại có chỗ đi kinh hành, lại có hang động ngồi
thiền rất là đẹp đẽ. Lại có y phục, thức ăn uống, giường nệm, thuốc thang, muốn
gì có nấy. Lại có đủ thứ dụng cụ âm nhạc đầy dẫy trong đó. Nhà Tăng lầu các như
thế, nhiều hàng trăm ngàn vạn ức vô lượng vô biên. Dùng cảnh giới hiện tiền đó,
cúng dường cho ta, và tất cả chúng Tỳ Kheo.
Vì lẽ đó mà ta nói, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người thọ trì đọc tụng, vì
người khác nói, hoặc tự biên chép, hoặc bảo người khác biên chép, cúng dường
kinh quyển, không cần tạo lập chùa tháp, và tạo phòng ốc chư Tăng, cúng dường
chúng Tăng.
Đức Phật lại nói, bởi nhân duyên đó, cho nên ta mới nói : ‘’Sau khi Như Lai
diệt độ, nếu có người hay thọ trì đọc tụng bộ Kinh Pháp Hoa này, hoặc vì người
khác giải nói, hoặc tự mình biên chép, cúng dường bộ kinh này, thì không cần
tạo lập chùa tháp, phòng chư Tăng, cúng dường chư Tăng. Vì công đức thọ trì
kinh quyển đã vượt hơn công đức cúng dàng.’’
Huống lại có người hay thọ trì kinh này, và thực hành bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ, được công đức tối thắng vô lượng vô biên.
Ví như hư không, đông tây nam bắc, bốn hướng trên dưới, vô lượng vô biên, công
đức của người đó, cũng lại như thế, vô lượng vô biên, sớm đắc được nhất thiết
chủng trí.
Hà huống lại có người, chẳng những thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa dũng mãnh tinh
tấn, mà còn hay thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
trí huệ, sáu pháp môn Ba la mật, công đức này rất là thù thắng vô lượng vô
biên, chẳng có biện pháp có thể tính toán là bao nhiêu. Ví như hư không, chẳng
tìm được bờ mé của nó. Đông tây nam bắc, bốn hướng trên dưới, mười phương vô lượng
vô biên. Công đức của người đó, cũng vô lượng vô biên như thế, sớm sẽ đắc được quả
vị Nhất thiết chủng trí, tức cũng là quả vị Phật.
Nếu có người đọc tụng thọ trì kinh này, vì người khác nói, hoặc tự biên chép,
hoặc bảo người khác biên chép, lại hay tạo dựng tháp, và tạo lập phòng ốc chư
Tăng, cúng dường khen ngợi chúng
Nếu như có người, chẳng những đọc tụng kinh này, thọ trì kinh này, mà còn vì người
khác giải nói kinh này, hoặc tự mình biên chép kinh này, hoặc bảo người khác
biên chép kinh này. Lại hay tạo lập chùa tháp và phòng Tăng, cúng dàng và khen
ngợi đại chúng Thanh Văn, cũng dùng trăm ngàn vạn ức pháp khen ngợi, để khen
ngợi công đức của Bồ Tát. Lại vì người khác đủ thứ nhân duyên tùy nghĩa lý của
kinh, mà giải thích nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đây là pháp môn bố thí.
Nói đến đây tôi nhớ lại một câu chuyện. Thuở xưa, có một vị quan lớn, ông ta là
Phật giáo đồ, rất kiền thành đọc tụng Kinh Pháp Hoa. Kinh này có bảy quyển, ông
ta tụng ba quyển đầu thuộc lòng rất nhanh, chẳng quên một chữ. Song, đọc tụng
bốn quyển sau thì chẳng nhớ, chính ông ta cảm thấy rất kỳ lạ, suy nghĩ mãi
chẳng hiểu. Do đó, bèn đi hỏi thiện tri thức, nguyên nhân như thế nào ? Vị thiện
tri thức đó chứng được túc mạng thông, biết nhân quả trong quá khứ. Ông ta quán
sát nhân duyên ở trong thiền định, biết rõ nhân duyên của
- Ông quan nói : ‘’Xin Ngài cứ nói thẳng, tốt xấu cũng chẳng sao.’’
- Vị thiện tri thức nói : ‘’Đời trước của ông là một con bò, do người ta đem đến
chùa phóng sinh, tập tục ở trong chùa đó vào ngày mồng 6 tháng 6, thì đem đại
tạng kinh, và tất cả các kinh khác ra ngoài sân phơi nắng, để cho kinh khỏi bị
mọt ăn. Lúc ấy, con bò phóng sinh đó đi đến chỗ phơi kinh, dùng lưỡi liếm tới
ba quyển đầu của Kinh Pháp Hoa, còn bốn quyển sau chẳng liếm tới.’’ Bởi nhân duyên
đó, mà ông nhớ được ba quyển đầu của Kinh Pháp Hoa, còn bốn quyển sau chẳng nhớ
được. Ông quan nghe rồi thì chẳng vui, đòi vị thiện tri thức đưa ra bằng chứng.
Chẳng có bằng cớ khó khiến cho người tin.
- Vị thiện tri thức nói : ‘’Ở sau ngôi chùa nọ có ngôi mộ con bò, tức là con bò
phóng sinh đó. Đương thời, vị hoà thượng trụ trì chùa đó là vị
Vị quan đó nửa tin nửa ngờ, bèn đến đào mộ con bò đó lên, thì quả nhiên có tờ giấy
trắng, biên rõ hết mọi chi tiết.
- Vị quan đó lại hỏi : ‘’Cứu kính thì nhân duyên gì mà được chuyển sinh làm người
?
- Vị thiện tri thức nói : ‘’Kiếp trước ông làm bò, có công lao cày ruộng cho
chùa, và có công đức liếm Kinh Pháp Hoa, cho nên đời này được sinh làm người,
còn được làm quan.’’ Vị quan đó mới khoát nhiên đại ngộ tiền nhân hậu quả tơ
hào chẳng sai. Từ đó về sau, trở thành vị đại hộ pháp, cúng dường Tam Bảo hộ trì
Phật giáo.
Do đó đủ thấy, phàm là người làm công quả cho chùa, cống hiến
sức lực, thì đời sau phần đông được chuyển sinh làm người giàu có, có thể làm quan
làm tướng. Các bạn hãy xem ! Một con bò vì chùa mà cày ruộng, đời này được làm
quan, hà huống là người, hiến thân cho Phật, đời sau chẳng cần nói cũng biết,
tuyệt đối chẳng đọa vào ba đường ác.
Lại hay giữ giới thanh tịnh, và nhu hòa ở chung với nhau, nhẫn nhục chẳng
sân hận, ý chí kiên cố, thường thích ngồi thiền, được các thiền định thâm sâu,
dũng mãnh tinh tấn, nhiếp các pháp lành, lợi căn trí huệ, khéo đáp các vấn nạn.
Lại hay giữ giới thanh tịnh, tức là thanh tịnh cả thân lẫn tâm. Tâm thanh tịnh tức
là trong tâm chẳng có phiền não, sân hận, nhiễm ô. Thân thanh tịnh tức là chẳng
làm những việc phi lý, nhu nhuyến hòa thuận, nhẫn nhục ở với nhau, chẳng sinh
tâm sân hận, ý chí đặc biệt vững chắc, vĩnh viễn chẳng sinh tâm thối chuyển.
Thời gian ngồi thiền rất quý báu, dù một phút một giây cũng chẳng để trôi qua
lãng phí. Tại sao ? Vì chẳng biết giây nào phút nào sẽ khai ngộ. Nếu không, thì
bỏ qua cơ hội khai ngộ. Thường ngồi thiền thì hay vào cảnh định thâm diệu.
Thường tinh tấn thì hay khắc phục mọi khó khăn. Dũng mãnh tinh tấn tuyệt đối
không giải đãi, thì hay nhiếp thọ tất cả pháp lành. Người lợi căn thì có đại
trí huệ, khéo giải đáp các vấn nạn mà đáp trôi chảy, thì khiến cho người hỏi
vừa ý mà sinh tâm hoan hỷ.
A Dật Đa ! Nếu sau khi ta diệt độ, các thiện nam tử, thiện nữ nhân, hay thọ trì
đọc tụng kinh này, lại có các ông đức lành như thế, thì nên biết người đó, đã
hướng về đạo tràng, gần Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ngồi dưới bồ đề đạo
tràng.
A Dật Đa ! Nếu như sau khi ta diệt độ, tất cả các thiện nam, thiện nữ, hay thọ
trì kinh này, đọc tụng kinh này. Lại có công đức lành như thế, thì nên biết
người đó đã hướng về đạo tràng, gần quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác,
ngồi dưới bồ đề đạo tràng, chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh.
A Dật Đa ! Người thiện nam, người thiện nữ đó, chỗ của họ ngồi, hoặc đứng, hoặc
đi, đều nên xây tháp, tất cả trời người, đều nên cúng dường như tháp của Phật.
A Dật Đa ! Người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
thì chỗ của họ ngồi, hoặc chỗ của họ đứng, hoặc chỗ của họ đi kinh hành, đều
nên xây bảo tháp. Trời người đều nên cúng dường tháp đó, đồng như cúng dường
cung kính tháp của Phật, đều đắc được công đức.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:
Lúc đó, Đức Phật muốn thuật lại nghĩa lý trường hàng ở trên, cho nên nói ra bài
kệ dưới đây.
Nếu sau ta diệt độ
Hay phụng trì kinh này
Người đó phước vô lượng
Như đã nói ở trên.
Tức là được đầy đủ
Tất cả sự cúng dường
Vì xá lợi xây tháp
Bảy báu rất trang nghiêm.
Nền tháp rất cao rộng
Nhỏ dần đến Phạm Thiên
Linh báu ngàn vạn ức
Gió động vang diệu âm.
Nếu như, sau khi ta diệt độ, có người hay phụng trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì
người đó đắc được công đức vô lượng vô biên, đồng như công đức đã nói ở trên.
Hay phụng trì Kinh Pháp Hoa, thì đầy đủ tất cả sự cúng dường. Vì cúng dường xá lợi
của Phật, mà xây dựng tháp báu trang nghiêm, đắc được công đức nhiều chẳng bằng
phụng trì Kinh Pháp Hoa.
Nền tháp xây vừa rộng vừa cao, dần dần nhỏ đến cõi trời Phạm Thiên. Các góc tháp
có treo linh báu nhiều hàng nghìn vạn ức, gió thổi làm vang ra âm thanh vi diệu
rất êm tai, khiến cho người nghe sinh chánh niệm, khởi tâm niệm Phật niệm Pháp
niệm Tăng.
Lại trong vô lượng kiếp
Cúng dường nơi tháp đó
Hoa hương các chuỗi ngọc
Y trời các âm nhạc.
Hương đốt dầu thơm đèn
Thường chiếu sáng quanh tháp
Vào đời ác mạt pháp
Người hay trì kinh này.
Tức như trên đã nói
Đầy đủ sự cúng dường.
Lại ở trong vô lượng kiếp về trước, cúng dường tháp đó, dùng đủ thứ hoa tươi,
hương thơm, chuỗi ngọc, y trời, âm nhạc, dầu thơm, đèn .v.v... thường chiếu
sáng chung quanh tháp.
Vào đời ác năm trược thời mạt pháp, người hay thọ trì Kinh Pháp Hoa, tức đầy đủ
tất cả mọi sự cúng dường như đã nói ở trên, đắc được tất cả công đức như trên
đã nói.
Nếu hay trì kinh này
Tức như Phật tại thế
Dùng ngưu đầu chiên đàn
Làm nhà Tăng cúng dường.
Gồm ba mươi hai sở
Cao tám cây đa
Th
Giường nằm đều đầy đủ.
Trăm ngàn chúng ở đó
Vườn rừng các ao tắm
Kinh hành động ngồi thiền
Các thứ đều trang nghiêm.
Nếu như hay thọ trì Kinh Pháp Hoa, thì công đức giống như công đức Phật ở tại thế.
Dùng gỗ ngưu đầu chiên đàn để làm nhà Tăng, nhà gồm có ba mươi hai sở (biểu thị
cho ba mươi hai tướng). Tháp cao khoảng tám cây đa la (biểu thị cho tám mươi vẻ
đẹp). Cúng dường thức ăn uống thượng hảo hạng, quần áo đẹp nhất, giường nệm
thuốc thang đều đầy đủ. Có thể cúng dường cho ngàn vạn ức chúng ở trong đó. Lại
có vườn rừng và ao tắm, lại có chỗ đi kinh hành và có hang động ngồi thiền, hết
thảy các thứ trang bị đều thập toàn thập mỹ, thù thắng trang nghiêm, thật là
đạo tràng lý tưởng nhất.
Nếu người tâm tin hiểu
Thọ trì đọc tụng biên
Và cúng dường kinh quyển
Rải hoa thơm hương bột.
Hoa tu mạn chiêm bặc
A đề mục đa già
Đốt đèn dầu cháy mãi
Người cúng dường như thế.
Được công đức vô lượng
Như hư không vô bờ
Phước đó cũng như thế.
Nếu có người đối với Phẩm Thọ Lượng của Như Lai, mà phát tâm tin hiểu, hoặc tự mình
thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, ấn tống, hoặc dạy người khác biên chép
và cúng dường kinh quyển. Rải hoa tươi, hương thơm, hương bột, dùng hoa duyệt
ý, hoa kim sắc, hạt cây vừng chế thành dầu, xông đốt chỗ có Kinh Pháp Hoa,
chiếu sáng bốn phía. Cúng dường như thế, sẽ được vô lượng công đức, giống như
hư không chẳng có bờ bến.
Huống lại trì kinh này
Và bố thí trì giới
Nhẫn nhục thích thiền định
Chẳng sân chẳng chưởi mắng.
Cung kính nơi chùa tháp
Khiêm nhường các Tỳ Kheo
Xa lìa tâm kiêu ngạo
Thường suy gẫm trí huệ.
Có vấn nạn chẳng sân
Tùy thuận làm giải thoát
Nếu làm được hạnh đó
Công đức không thể lường.
Hà huống lại thọ trì Kinh Pháp Hoa, lại hay bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định, năm Ba la mật này. Đối với tất cả chúng sinh chẳng sanh tâm sân
hận, chẳng mắng chưởi chúng sinh, dùng tâm từ bi đối đãi với chúng sinh.
Gặp chùa cũng cung kính, thấy tháp cũng cung kính, đối với hàng Tỳ Kheo cũng
cung kính khiêm nhường, chẳng có tâm tăng thượng mạn, xa lìa hành vi cống cao
ngã mạn. Luôn luôn suy gẫm trí huệ, không thể suy gẫm ngu si. Tu hành tức là tu
trí huệ, có trí huệ thì tất cả phiền não đều tiêu trừ, đoạn sạch phiền não thì
sẽ được giải thoát.
Nếu có người đến vấn nạn, thì phải hòa nhan duyệt sắc mà vì họ giải đáp, không được
sinh tâm sân hận. Tùy thuận mọi nhân duyên lấy làm giải thoát, khiến cho họ
minh bạch mới thôi. Nếu hay tu hành hạnh môn như thế, thì công đức đắc được
không thể lường được.
Nếu thấy pháp sư đó
Thành tựu đức như thế
Nên dùng hoa trời rải
Y trời che thân họ.
Cúi đầu cung kính lễ
Tâm sinh nghĩ như Phật
Lại nên nghĩ như vầy:
Chẳng lâu đến đạo tràng.
Nếu như thấy vị pháp sư giảng kinh thuyết pháp, tu hành lục độ, vị đó thành
tựu công đức như thế, thì nên rải hoa trời để cúng dường, dùng y trời che trên thân
của vị pháp sư đó. Đối với vị pháp sư đó, phải đảnh lễ sát đất, sinh tâm cung
kính nghĩ như Phật. Lại nên nghĩ như vầy : Vị pháp sư đó, chẳng bao lâu sẽ đến
dưới cội bồ đề chuyển bánh xe pháp, giáo hóa chúng sinh.
Được vô lậu vô vi
Rộng lợi các trời người
Chỗ của người đó ở
Hoặc kinh hành ngồi thiền.
Cho đến nói bài kệ
Đều nên xây dựng tháp
Trang nghiêm khiến tốt đẹp
Dùng các thứ cúng dường.
Phật tử trụ nơi đó
Tức là Phật thọ dụng
Thường ở tại trong đó
Kinh hành và ngồi nằm.
Vị pháp sư đó đã chứng được vô lậu tam muội, diệu pháp vô vi. Vị đó rộng làm
lợi ích cho hàng trời người. Chỗ của vị đó ở, chỗ đi kinh hành, chỗ ngồi nằm,
cho đến chỗ vị đó nói một bài kệ, đều nên xây dựng tháp báu, dùng bảy báu để
trang nghiêm khiến cho tốt đẹp. Dùng đủ thứ đồ cúng, để cúng dường tháp đó,
biểu thị cung kính.
Chỗ của Phật tử đó ở thọ dụng giống như Phật, luôn đi kinh hành và ngồi nằm ở
trong đó, chẳng lìa khỏi đạo tràng.