- Giải Thích Tên Kinh
- Phẩm Tựa Thứ Nhất
- Phẩm Phương Tiện Thứ Hai
- Phẩm Thí Dụ Thứ Ba
- Phẩm Tin Hiểu Thứ Tư
- Phẩm Dược Thảo Dụ Thứ Năm
- Phẩm Thọ Ký Thứ Sáu
- Phẩm Hóa Thành Dụ Thứ Bảy
- Phẩm Thọ Ký Cho Năm Trăm Vị Đệ Tử Thứ Tám
- Phẩm Thọ Ký Cho Bậc Hữu Học Và Vô Học Thứ Chín
- Phẩm Pháp Sư Thứ Mười
- Phẩm Thấy Bảo Tháp Thứ Mười Một
- Phẩm Đề Bà Đạt Đa Thứ Mười Hai
- Phẩm Khuyên Trì Thứ Mười Ba
- Phẩm An Lạc Hạnh Thứ Mười Bốn
- Phẩm Từ Dưới Đất Vọt Lên Thứ Mười Lăm
- Phẩm Thọ Lượng Của Như Lai Thứ Mười Sáu
- Phẩm Phân Biệt Công Đức Thứ Mười Bảy
- Phẩm Tùy Hỷ Công Đức Thứ Mười Tám
- Phẩm Công Đức Pháp Sư Thứ Mười Chín
- Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh Thứ Hai Mươi
- Phẩm Thần Lực Của Như Lai Thứ Hai Mươi Mốt
- Phẩm Chúc Lũy Thứ Hai Mươi Hai
- Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Dược Vương Thứ Hai Mươi Ba
- Phẩm Bồ Tát Diệu Âm Thứ Hai Mươi Bốn
- Phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm Thứ Hai Mươi Lăm
- Phẩm Đà La Ni Thứ Hai Mươi Sáu
- Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Vua Diệu Trang Nghiêm Thứ Hai Mươi Bảy
- Phẩm Khuyến Phát Của Bồ Tát Phổ Hiền Thứ Hai Mươi Tám
Giảng Giải: Hoà Thượng Tuyên Hoá
Hán dịch: Ngài Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
Phẩm bổn sự của Bồ Tát Dược Vương thứ hai mươi ba
Bồ Tát Dược Vương chuyên tu khổ hạnh. Thứ khổ hạnh này, là thứ khổ hạnh khó thực hành nhất, một số người chẳng làm được. Vị Bồ Tát này, thuở xưa danh hiệu là Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến. Theo tên mà suy nghĩa thì, Ngài và tất cả chúng sinh kết duyên lành, cho nên chúng sinh đều hoan hỷ gặp Ngài.
Vị Bồ Tát này từng phát tâm đốt thân cúng dường Phật. Sự
cúng dường này chẳng phải một số người làm được. Có người khởi vọng tưởng :
‘’Ngài chẳng biết đau chăng ?
- ‘’Tôi tin rằng Ngài biết đau, nhưng Ngài nhẫn thọ, kiền thành đem thân thể cúng
dường Phật. Tôi lại tin rằng Ngài chẳng biết đau. Tại sao ? Vì Ngài đã quên mất
thân của mình, tinh thần tập trung quán tưởng, thân thể là do bốn đại năm uẩn
giả hòa hợp huyễn thân mà thôi, chẳng có chỗ nào đáng ưa thích cho nên chẳng
biết đau.
Tóm lại, bất luận là biết đau hay không biết đau, Ngài xả
được thân để cúng Phật, đó là chân cúng dường. Vị Bồ Tát này từ bi nhất, chúng
sinh có bệnh tật, thì Ngài nhất định vì họ giải trừ bệnh khổ, cho nên tất cả
chúng sinh đều hoan hỷ gặp Ngài.
‘’Bổn sự‘’ là nói rõ sự tích tu hành của kiếp trước. Phẩm này nói về tinh thần
của Bồ Tát Dược Vương, vì pháp mà quên mình, cho nên thành tựu viên thông vô
ngại phẩm đức và trí huệ. Phẩm này là phẩm thứ hai mươi ba trong Kinh Pháp Hoa.
Bấy giờ, Bồ Tát Tú
Lúc đó, Bồ Tát Tú
‘’Đức Thế Tôn ! Vị Bồ Tát Dược Vương đó, phát nguyện cứu hộ tất cả bệnh tật của
tất cả chúng sinh, trong bao nhiêu trăm ngàn vạn ức Na do tha kiếp, nhất định
có nhiều sự khổ hạnh khó làm. Xin Đức Thế Tôn vì đại chúng trong pháp hội, hãy
nói việc của Bồ Tát Dược Vương tu khổ hạnh để cho đại chúng biết.’’
Chư thiên, rồng, thần, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma
Hầu
Trời rồng tám bộ và quỷ thần. Lại có các vị đại Bồ Tát từ mười phương đến, và
chúng Thanh Văn ở trong pháp hội này, nghe được Bồ Tát Tú
Bấy giờ, đức Phật bảo Bồ Tát Tú
Lúc đó, Đức Phật bảo Bồ Tát Tú
Nước đó, chẳng có người nữ, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la, cũng chẳng
có các hoạn nạn. Mặt đất bằng lưu ly, bằng phẳng như bàn tay, cây báu trang
nghiêm, màn báu che phía trên. Lại có hoa báu, phan báu, thòng rũ xuống, bình
báu lư hương khắp trong cõi nước đó.
Trong cõi nước của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, chẳng có người nữ, đều là người
nam. Vì sao ? Vì do hoa sen hóa sinh ra, cho nên thân thể của họ thanh tịnh. Chẳng
có bốn đường ác, cũng chẳng có tám nạn.
Tám nạn là gì ? Tức là:
1). Nạn khổ não.
2). Nạn lửa lớn.
3). Nạn nước lớn.
4). Nạn thú dữ.
5). Nạn đao binh.
6). Nạn loài quỷ.
7). Nạn gông cùm.
8). Nạn trộm cướp.
Lại có thể nói là :
1). Địa ngục.
2). Ngạ quỷ.
3). Súc sinh.
4). Sinh về Bắc Câu Lưu Châu (châu này quá sung sướng, chẳng thấy Phật, chẳng
nghe pháp, chẳng gặp Tăng).
5). Trời Trường Thọ (trời Vô Tưởng thuộc sắc giới, nơi của ngoại đạo ở).
6). Đui, điếc, câm ngọng (sáu căn không đủ).
7). Thế trí biện thông (thông minh bị thông minh lừa).
8). Sinh ra trước Phật, hay sau Phật (sinh ra chẳng gặp Phật). Chúng sinh ở
trong cõi đó chẳng có những khổ nạn ấy.
Mặt đất cõi nước đó, bằng phẳng như bàn tay, chẳng có gò,
đồi, chỗ lồi lõm. Tại sao ? Vì chúng sinh trong cõi đó, đều tâm bình khí hòa,
cho nên mặt đất bằng phẳng. Nếu tâm người không bình, thì sẽ hiện ra sơn hà đại
địa. Mặt đất cõi đó chẳng những bằng phẳng, mà đất đều bằng chất lưu ly. Lại có
cây bằng bảy báu, ngay thẳng thành hàng, trang nghiêm cõi nước, lại có màn báu
lọng báu che ở phía trên, còn có hoa báu, phan báu, thòng rũ xuống, và có bình
báu, lư hương báu, khắp cõi nước đó, nơi nào cũng có cảnh giới trang nghiêm như
thế.
Bảy báu làm đài, mỗi cây thì có mỗi đài. Từ cây đến đài cách một đường tên. Dưới
các cây báu đó, đều có các vị Bồ Tát và các vị Thanh Văn ngồi. Ở trên các đài
báu, mỗi đài đều có trăm ức chư Thiên diễn tấu âm nhạc, ca xướng, khen ngợi
Phật để cúng dường.
Dùng bảy báu làm đài, mỗi cây thì có mỗi đài. Cây cách đài một đường mũi tên
(một trăm hai mươi bộ). Dưới các cây báu đó, đều có Bồ Tát và hàng Thanh Văn
đang ngồi tĩnh tọa ở đó. Trên mỗi đài báu, đều có hàng trăm ức chư thiên diễn
tấu âm nhạc, ca xướng, tán thán Phật để dâng lên cúng dường.
Bấy giờ, đức Phật đó vì Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, và các chúng
Bồ Tát, các chúng hàng Thanh Văn, diễn nói Kinh Pháp Hoa. Vị Bồ Tát Nhất Thiết
Chúng Sinh Hỷ Kiến đó, thích tu khổ hạnh, bèn ở trong pháp của đức Phật Nhật
Nguyệt Tịnh Minh Đức, tinh tấn kinh hành, một lòng cầu Phật đạo.
Lúc đó, Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, vì Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến,
các vị đại Bồ Tát, và các chúng hàng Thanh Văn, diễn nói Kinh Pháp Hoa. Vị Bồ
Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đó, hoan hỷ tu khổ hạnh. Ngài ở trong pháp
của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức tinh tấn kinh hành, chẳng giải đãi, thường
ngồi thiền ở dưới gốc cây, chuyên tâm cầu Phật đạo.
Trọn một vạn hai ngàn năm rồi, thì đắc được tam muội hiện tất cả sắc thân. Được
tam muội đó rồi, thì tâm rất hoan hỷ, bèn nghĩ như vầy : Ta được tam muội hiện
tất cả sắc thân, đều là do nghe Kinh Pháp Hoa. Nay ta nên cúng dường Phật Nhật
Nguyệt Tịnh Minh Đức, và Kinh Pháp Hoa.
Đã trọn một vạn hai nghìn năm rồi, thì đắc được tam muội hiện nhất thiết sắc thân,
tức cũng là biến hiện được tất cả sắc thân, giáo hóa tất cả chúng sinh. Tóm
lại, thấy người thì biến ra người để giáo hóa họ, thấy chó thì biến ra chó để
giáo hóa. Bất cứ chúng sinh gì, cũng đều biến hiện ra được thân đồng loại, để
giáo hóa độ thoát, khiến cho tất cả chúng sinh liễu sinh thoát tử, lìa khổ được
vui.
Bồ Tát đắc được tam muội hiện nhất thiết sắc thân rồi, thì trong tâm rất hoan
hỷ, bèn nghĩ như vầy : ‘’Ta chứng được chánh định này, đều là do nghe Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa, cho nên nay ta nên cúng dường Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức
và Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đó là nhờ Phật gia trì, nên khiến cho ta chuyên tâm
thọ trì bộ kinh này.’’
Lập tức, nhập vào tam muội đó, ở trong hư không mưa xuống hoa mạn đà la, hoa
ma ha mạn đà la, bột hương kiên hắc chiên đàn, đầy khắp ở trong hư không, như
mây giăng bủa, lại mưa xuống hương thơm hải thử ngạn chiên đàn. Hương đó lục
thù giá trị như một thế giới Ta Bà, dùng để cúng dường đức Phật.
Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, lập tức nhập vào tam muội Hiện nhất thiết
sắc thân. Ở trong hư không mưa xuống hoa mạn đà la (hoa tiểu bạch) và hoa ma ha
mạn đà la (hoa đại bạch). Lại mưa hương bột kiên hắc chiên đàn, đầy khắp hư
không, giống như mây giăng bủa dày đặc. Lại mưa xuống hương thơm hải thử ngạn
chiên đàn. Thứ hương này quý giá vô cùng, sản xuất tại bờ biển phía bắc Nam
Diêm Phù Đề này. Thứ hương này, nặng khoảng lục thù (hai mươi bốn thù là một
lạng), thì giá trị đồng như giá trị của một thế giới Ta Bà. Tóm lại, dùng một
thế giới Ta Bà (ba ngàn đại thiên thế giới) mới đổi lấy sáu thù hương hải thử
ngạn chiên đàn, dùng thứ hương này để cúng dường Đức Phật.
Cúng dường như thế rồi, từ tam muội dậy, bèn tự nghĩ rằng : Tuy ta dùng thần
lực cúng dường đức Phật, chẳng bằng dùng thân cúng dường, bèn thoa các thứ
hương thơm chiên đàn, hương huân lục, hương suất lâu bà, hương tất lực ca, trầm
thủy giao hương. Lại uống thiềm bặc, các thứ dầu thơm của hoa.
Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến dùng các thứ hoa quý và hương thơm cúng dường
Phật rồi, bèn từ tam muội Hiện tất cả sắc thân xuất định, tự nghĩ như vầy : ‘’Hiện
tại tuy ta dùng sức thần thông cúng dường Phật, song chẳng bằng dùng thân của
mình để cúng dường Phật.’’ Lập tức, uống tất cả các thứ dầu thơm như : Hương
chiên đàn, hương huân lục, hương suất lâu bà, hương tất lực ca, hương trầm
thủy, giao hương, khiến cho bên trong thân thể ngũ tạng lục phủ, đều được thanh
tịnh. Lại uống dầu thơm thiềm bặc, chế tạo từ các thứ hoa, khiến cho thân được thanh
tịnh.
Trọn một ngàn hai trăm năm rồi, lại dùng dầu thơm thoa thân, ở trước đức
Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, dùng y báu trời mà quấn vào thân mình, lại tưới
các thứ dầu thơm, dùng sức thần thông nguyện lực mà tự đốt thân, ánh sáng chiếu
soi khắp tám mươi ức Hằng hà sa thế giới.
Uống các thứ dầu hoa thơm như thế, trải qua một ngàn hai trăm năm rồi, lại dùng
các thứ dầu thơm thoa lên thân mình, ở trước Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức,
bèn dùng y báu trời quấn vào thân mình. Lại tưới các thứ dầu thơm lên y trời,
sau đó dùng thần thông nguyện lực, dùng lửa tam muội thiêu đốt thân mình, ánh
sáng chiếu khắp đến tám mươi ức Hằng hà sa thế giới.
Chư Phật ở trong các cõi nước đó, đồng thời khen ngợi rằng : Lành thay !
Lành thay ! Thiện nam tử ! Đó mới là chân tinh tấn, gọi là chân pháp cúng dường
Như Lai. Nếu dùng hoa hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phan
lọng bằng lụa cõi trời, và hương hải thử ngạn chiên đàn, cúng dường các thứ đồ
vật như thế, không thể bằng được, nếu đem đất nước vợ con bố thí, cũng chẳng bằng
được.
Các Đức Phật ở trong tám mươi ức Hằng hà sa thế giới, thấy Bồ Tát Nhất Thiết
Chúng Sinh Hỷ Kiến đốt thân cúng dường Phật như thế, chư Phật bèn cùng nhau
khen ngợi nói : ‘’Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử ! Đó mới là chân chánh
tinh tấn, gọi là chân pháp cúng dường Đức Phật.’’
Vào đời Tùy, Trí Giả đại sư, một ngày nọ, đọc đến hai câu kinh văn này, thì hốt
nhiên nhập định, đắc được Nhất toàn Đà la ni (hết thảy kinh điển ở trong thời
gian rất ngắn, hoàn toàn minh bạch hết, thông đạt vô ngại). Lúc đó, Trí Giả đại
sư thấy pháp hội Linh Sơn vẫn còn chưa tan. Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn ngồi trên
pháp tòa, đang diễn nói Kinh Pháp Hoa.
Hoặc dùng các thứ hương hoa, chuỗi ngọc, và hương đốt, hương bột, hương xoa, hoặc
dùng lọng báu, và phan báu trời, cùng với hương hải thử ngạn chiên đàn. Dùng
các thứ đồ vật như thế, cúng dường Đức Phật, công đức chẳng bằng đốt thân cúng
dường. Nếu như, dùng đất nước vợ con để bố thí, công đức cũng chẳng bằng đốt
thân cúng dường. Do đó, đủ biết công đức đốt thân cúng Phật, không thể nào sánh
được.
Thiện nam tử ! Đó là bố thí bậc nhất, ở trong các sự bố thí, là trên hơn hết,
vì dùng pháp cúng dường các đức Như Lai. Nói lời đó rồi, thảy đều yên lặng.
Thân Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, đốt cháy trải qua một ngàn hai trăm
năm mới cháy hết.
Chư Phật lại đồng thời lại tán thán nói : ‘’Thiện nam tử ! Ông đốt thân bố thí
cúng dường Phật, mới là bố thí bậc nhất. Ở trong tất cả sự bố thí, thì sự bố
thí này là trên hơn hết.’’ Dùng sắc thân để cúng dường Phật tức là nhân duyên
thành tựu pháp thân. Chư Phật khen ngợi Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến
rồi, thảy đều yên lặng.
Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, dùng lửa thật tam muội thiêu đốt thân mình,
trải qua một ngàn hai trăm năm thân mới cháy hết. Tinh thần đốt thân cúng Phật,
thật là vĩ đại nhất. Sau này, cũng có nhiều người thực hành, như đốt ngón tay
cúng Phật, như Lão Hòa Thượng Hư Vân, từng đốt ngón tay cúng Phật.
Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, theo như pháp cúng dường rồi. Sau khi
mạng chung, lại sinh vào trong nước của đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức,
sinh ra trong nhà vua Tịnh Đức, ngồi kiết già, hốt nhiên hóa sinh, bèn vì vua
cha mà nói kệ rằng :
Vị Bồ Tát đó, sau khi làm xong chân pháp cúng dường như thế rồi, khi mạng chung,
bèn sinh trở lại nước của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, sinh ra trong nhà vua
Tịnh Đức, ngồi kiết già hốt nhiên hóa sinh ra một em bé, gọi
Nay đại vương nên biết!
Con tu hành chốn kia
Lập tức được tam muội
Hiện tất cả sắc thân.
Siêng hành đại tinh tấn
Bỏ sự thương tiếc thân
Cúng dường đức Thế Tôn
Để cầu vô thượng trí.
Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến (tên đời trước của Ngài, đời kế tiếp cũng
là tên của Ngài), nói với vua Tịnh Đức rằng : ‘’Đại vương ! Ngài nên biết, con
đã từng tu hành ở chỗ Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, chẳng khi nào giải
đãi. Nghe Đức Phật diễn nói Kinh Pháp Hoa, con y theo đạo lý trong kinh mà tu
trì, cho nên lập tức chứng được tam muội hiện tất cả sắc thân.
Con siêng năng tu hành pháp môn này, dũng mãnh tinh tấn, thân tinh tấn, tâm tinh
tấn. Xả bỏ sự tiếc thương thân mạng, con thành tâm dùng lửa tam muội thiêu đốt
thân con, để cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức. Tại sao phải làm như
thế ? Vì muốn cầu vô thượng đạo, tức cũng là trí huệ của Phật, đại viên cảnh
trí.’’
Nói bài kệ đó rồi, bèn bạch vua cha rằng : Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức,
hiện nay vẫn còn, trước hết con cúng dường đức Phật rồi, đắc được Đà la ni hiểu
tất cả ngôn ngữ của chúng sinh, lại nghe Kinh Pháp Hoa này, gồm có tám trăm
ngàn vạn ức Na do tha, chân ca la, tần bà la, a môn bà, bài kệ.
Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến nói bài kệ ở trên rồi, lại nói với vua
Tịnh Đức rằng : ‘’Phụ vương ! Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức hiện nay, vẫn
còn ở trong thế giới này. Trước hết, con cúng dường Đức Phật đó, bèn đắc được
Đà la ni hiểu tất cả ngôn ngữ của chúng sinh. Tức cũng là pháp môn bất cứ ngôn
ngữ nào chẳng học mà tự hiểu, chẳng thấy mà tự biết. Con còn nghe Kinh Pháp
Hoa, kinh đó gồm có tám ngàn vạn ức Na do tha (ức số) bài kệ, lại có Chân ca la
(số mục thứ mười sáu), Tần bà la (số mục thứ mười tám), A môn bà (số mục thứ
mười hai, tức có khoảng năm mươi hai thứ đại số mục) bài kệ.’’
Đại vương ! Nay con sẽ trở lại cúng dường đức Phật đó. Nói rồi bèn ngồi trên
đài bảy báu, thăng lên hư không cao bảy cây đa la, đến chỗ đức Phật rồi, cúi
đầu đảnh lễ, chắp tay lại dùng kệ để khen ngợi đức Phật.
‘’Đại vương ! Hiện nay con sẽ trở lại chỗ Đức Phật, để tiếp tục cúng dường vị Phật
đó.’’ Nói xong rồi bèn ngồi lên đài làm bằng bảy báu, từ từ thăng lên hư không,
cao khoảng bảy cây đa la (mỗi cây cao hơn 60 thước). Hướng về chỗ Đức Phật, sau
khi đến nơi rồi, lập tức năm thể sát đất đảnh lễ Phật, chắp tay lại dùng kệ để
khen ngợi Phật.
Dung nhan rất xinh đẹp
Quang minh chiếu mười phương
Trước con từng cúng dường
Nay trở lại gặp Phật.
Dung nhan của Phật rất xinh đẹp lạ thường, có ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi
vẻ đẹp. Quang minh của Phật chiếu sáng khắp mười phương thế giới. Đời trước con
đã từng cúng dường Phật, hiện tại con lại đến gần gũi Phật.
Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến nói kệ đó rồi, bèn bạch đức Phật
rằng : Đức Thế Tôn ! Đức Thế Tôn ! Ngài vẫn còn ở đời ư !
Lúc đó, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến nói bài kệ ở trên xong rồi, lại
nói với Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức rằng : ‘’Đức Thế Tôn ! Đức Thế Tôn !
Ngài vẫn còn ở đời ư ? Kiếp trước con đã gặp Ngài, đời này lại gặp Ngài nữa,
con và Đức Thế Tôn còn nhân duyên.’’
Bấy giờ, đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức bảo Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh
Hỷ Kiến : Thiện nam tử ! Giờ ta vào Niết Bàn đã đến, giờ diệt tận đã đến, ông
nên xếp đặt giường tòa, trong đêm nay ta sẽ vào Niết Bàn.
Lúc đó, Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức bảo Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến
rằng : ‘’Thiện nam tử ! Giờ ta vào Niết Bàn đã đến, giờ diệt tận đã đến ! Bây
giờ ông có thể xếp đặt giường tòa, chuẩn bị sẵn sàng, vào nửa đêm nay, ta sẽ
vào đại bát Niết Bàn.’’
Khi Phật ra đời thì đều vào ban ngày, biểu thị ánh sáng mặt trời chiếu sáng thế
giới. Khi Phật vào Niết Bàn thì đều vào nửa đêm, biểu thị thế giới sẽ phải đen
tối. Chẳng phải nói là, sau khi Phật vào Niết Bàn thì thế giới sẽ đen tối, mà
là nói vào thời mạt pháp, khi Phật pháp diệt rồi, thì tâm con người bị vô minh
che đậy, chẳng có trí huệ quang minh.
Lại bảo Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến rằng : Thiện nam tử ! Ta đem Phật
pháp phó chúc cho ông, và các Bồ Tát đại đệ tử, cùng với pháp Vô thượng chánh
đẳng chánh giác, cũng đem ba ngàn đại thiên thế giới bảy báu, các cây báu, đài
báu, và cung cấp chư Thiên hầu hạ, thảy đều giao phó cho ông. Sau khi ta diệt
độ, hết thảy xá lợi cũng phó chúc cho ông, nên truyền bá, rộng thiết lập cúng
dường, nên xây hàng ngàn ngôi tháp. Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức dạy Bồ Tát Nhất
Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến như thế rồi, vào khoảng cuối đêm bèn vào Niết Bàn.
Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức lại bảo Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến
rằng : ‘’Thiện nam tử ! Hết thảy Phật pháp của ta, đều giao phó chúc cho ông và
các vị Bồ Tát đại đệ tử, cùng với pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại đem
ba ngàn đại thiên thế giới bằng bảy báu, lại có cây báu và đài báu, lại có chư
Thiên cung cấp hầu hạ, đều hoàn toàn phó chúc cho ông. Ông phải hạnh khổ, sau
khi ta diệt độ, thiêu hóa được xá lợi, cũng đều phó chúc cho ông, ông vì ta mà xử
lý hậu sự. Nên truyền bá Phật pháp, lưu rộng xá lợi xây tháp cúng dường, nên
xây hàng ngàn bảo tháp làm nơi cúng dường xá lợi.’’ Phật phó chúc rồi, vào
khoảng cuối đêm bèn vào Niết Bàn.
Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến thấy đức Phật diệt độ, thì rất
buồn rầu, thảm não luyến mộ đức Phật, bèn dùng gỗ hải thử ngạn chiên đàn cúng
dường thân Phật, để hỏa thiêu thân của Ngài. Sau khi lửa tắt, thu lấy xá lợi,
phân chia ra tám vạn bốn ngàn bình báu, xây tám vạn bốn ngàn bảo tháp, cao ba
thế giới, biểu sát trang nghiêm, thòng rũ các phan lọng, và treo các linh báu.
Lúc đó, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến thấy Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh
Đức vào Niết Bàn, thì rất buồn thảm áo não nghĩ rằng : ‘’Tại sao mình không giữ
Phật ở lại đời ? Nếu thỉnh Phật ở lại đời, thì Phật hứa sẽ không vào Niết
Bàn.’’ Ngài luyến mộ nhớ Đức Phật, không đành lìa khỏi Phật. Sau khi Phật vào
Niết Bàn, bèn dùng gỗ hải thử ngạn chiên đàn, loại gỗ quý nhất để làm giàn
thiêu hoá di thể của Phật. Sau khi thiêu hóa xong di thể của Phật Nhật Nguyệt
Tịnh Minh Đức, thu được rất nhiều xá lợi, phân ra đựng trong tám vạn bốn ngàn
bình báu, lại xây dựng tám vạn bốn ngàn ngôi tháp báu, cúng dường xá lợi ở
trong bình báu. Tháp đó cao ba thế giới. Ở trước bảo tháp có biểu sát rất trang
nghiêm, treo tất cả phan lọng và các linh báu, vang ra âm thanh vi diệu xa gần đều
nghe.
Nói đến đây, tôi nhớ tới chuyện của Ngài Ấn Quang đại sư, Ngài ngồi niệm Phật rồi
thị tịch tại núi Linh Nham ở Tô Châu, khi hỏa thiêu thì dùng gỗ chiên đàn để
thiêu di thể. Lúc đó, người tham dự chẳng biết là bao nhiêu. Từ trên núi xuống
dưới chân núi khoảng ba dặm, mà đầy dẫy mọi người đều đến đưa đám. Sau khi
thiêu xong thì lượm được rất nhiều xá lợi năm màu.
Ngài Ấn Quang chẳng những dụng công tu hành, mà còn tinh thông
kinh điển. Ngài tu ở trên núi Phổ Đà mười tám năm. Trong thời gian đó, Ngài chuyên
tâm duyệt đọc Đại Tạng Kinh. Khi duyệt đọc thì ngồi ngay thẳng, cung kính cầm quyển
kinh. Khi vào nhà cầu thời cởi y áo giày dép, thay đổi áo khác giày khác để
vào. Trở ra thì mặc vào lại. Vì cung kính như thế, cho nên đã khai ngộ. Sau khi
khai ngộ thì chuyên môn niệm ‘’Nam Mô A Di Đà Phật,’’ sáu chữ hồng danh.
Về sau thành lập đạo tràng ở trên núi Linh Nham ở Tô Châu, đề xướng pháp môn niệm
Phật, pháp môn này rất dễ tu trì. Ngài Ấn Quang về mặt học vấn và đạo đức đều
là thượng thừa, chẳng hổ là một bậc
‘’Lời nói khuyên người một thời,
Sách vở khuyên người trăm đời.’’
Do đó, lưu lại văn sao của Ngài Ấn Quang, người sau được ích lợi không ít.
Một năm nọ, Ngài Ấn Quang đến Nam Kinh giảng kinh, cũng có thể người tin Phật
rất ít, mấy ngày đầu còn có người nghe kinh, về sau dần dần giảm bớt. Cuối cùng
chỉ còn một người ngồi ở đó nghe. Ngài Ấn Quang từ pháp tòa nhìn xuống đạo
tràng rộng lớn, mà chỉ có một người nghe kinh, tâm nghĩ, "một người nghe kinh
cũng phải giảng kinh".
Sau khi giảng xong, rời khỏi pháp toà đến trước người đó bèn hỏi : ‘’Cư sĩ !
Ông có hiểu tôi giảng kinh chăng ?‘’
- Người đó đáp : ‘’Tôi chẳng hiểu Ngài giảng cái gì ?‘’
- Ngài Ấn Quang trả lời :‘’Nếu ông không hiểu, sao lại đến nghe kinh ?‘’
- Người đó đáp :‘’Tôi là người quản lý ở đây, đợi khi thầy giảng xong, thì tôi
thu xếp bàn ghế lại.’’
Từ đó, Ngài Ấn Quang phát nguyện, chẳng giảng kinh ở Nam Kinh nữa.
Một năm nọ, Ngài Ấn Quang đến Thượng Hải giảng Kinh A Di Đà, có đăng tin tức
trên báo, khiến cho người có duyên đến nghe kinh gieo trồng căn lành, tích tụ
công đức. Lần pháp hội đó, rất long trọng trang nghiêm, rất nhiều người đến
nghe kinh đều là tín đồ kiền thành.
Đương thời, có một nữ cư sĩ (chẳng phải là Phật tử) ở trong
mộng thấy có người mặc áo giáp màu vàng, bảo với cô ta rằng :‘’Con hãy đến
Thượng Hải để nghe Bồ Tát Đại Thế Chí giảng Kinh A Di Đà.’’ Cô ta nhớ rất rõ
ràng. Ngày thứ hai sáng sớm xem báo, thì thấy tin tức họ cung thỉnh Ngài Ấn
Quang giảng Kinh A Di Đà. Cô ta vì tâm háo kỳ, mà đến chỗ đó để cầu kiến Ngài
Ấn Quang. Khi thấy Ngài Ấn Quang thì tự động đảnh lễ, bèn nói với Ngài Ấn Quang
rằng :‘’Con chẳng phải là Phật giáo đồ, vì đêm hôm qua con nằm mộng thấy, có
người bảo con đến chỗ này nghe Bồ Tát Đại Thế Chí giảng Kinh A Di Đà. Xin hỏi
Ngài ! Không chừng Ngài là Bồ Tát Đại Thế Chí.’’
- Lúc đó, Ngài Ấn Quang dơ tay thị ý :‘’Việc này, con biết, ta biết, đừng nói
cho ai biết.’’ Vị nữ cư sĩ đó, bèn quy y Tam Bảo, cuối cùng vẫn giữ tin này bí
mật, chẳng thố lộ với bất cứ ai. Ba năm sau, khi Ngài Ấn Quang viên tịch trên
núi Linh Nham, thì vị cư sĩ này, mới tuyên bố cảnh giới này ở trước công chúng.
Lúc đó, mọi người mới biết Ngài Ấn Quang là hóa thân của Bồ Tát Đại Thế Chí, Bồ
Tát thừa nguyện trở lại. Đời sau, tôn xưng là Tổ Sư thứ mười ba phái Liên Tông.
Tuy nhiên, đệ tử quy y với Ngài khắp thiên hạ, nhưng chẳng có đệ tử truyền
pháp. Tại sao ? Vì Ngài thệ nguyện chẳng lập chùa, chẳng thu đệ tử xuất gia.
Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến lại tự nghĩ rằng : Tuy ta cúng
dường như thế, tâm vẫn cảm thấy chưa đủ. Nay ta nên cúng dường xá lợi, bèn nói
với các Bồ Tát đại đệ tử, và trời rồng Dạ Xoa, hết thảy tất cả đại chúng, các
ông nên một lòng nghĩ nhớ, nay ta cúng dường xá lợi của Phật Nhật Nguyệt Tịnh
Minh Đức.
Lúc đó, vị Bồ Tát đó lại nghĩ rằng :‘’Tuy kiếp trước ta đốt thân cúng dường Phật,
mà tâm vẫn cảm thấy chưa đủ chân thành. Hôm nay phải cúng dường xá lợi của
Phật.’’ Bèn nói với các vị Bồ Tát đại đệ tử và trời rồng tám bộ chúng rằng
:‘’Các ông đại chúng nên một lòng nghĩ nhớ, nay ta phải cúng dường xá lợi của
Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức.’’
Nói lời đó rồi, bèn ở trước tám vạn bốn ngàn bảo tháp, đốt cánh tay trăm phước
trang nghiêm, trải qua bảy vạn hai ngàn năm, dùng để cúng dường, khiến cho vô
số chúng cầu Thanh Văn, vô lượng A tăng kỳ người phát tâm Vô thượng chánh đẳng
chánh giác, đều khiến cho trụ vào tam muội hiện tất cả sắc thân.
Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến nói xong lời đó rồi, lập tức ở trước tám vạn
bốn ngàn bảo tháp, đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm của mình, trải qua bảy
vạn hai ngàn năm để cúng dường.
Có người hỏi : ‘’Kỳ lạ ! Vị Bồ Tát đó, kiếp trước đốt thân cúng
dường trải qua một ngàn hai trăm năm. Tại sao lần này đốt tay phải trải qua bảy
vạn hai ngàn năm ? Tôi chẳng hiểu đạo lý bên trong, xin Thầy từ bi khai thị.’’
- Nói cho bạn biết ! Vị Bồ Tát đó, kiếp trước dùng sắc thân để cúng Phật, lần
này dùng hóa thân để cúng Phật, muốn thiêu bao lâu cũng được, chẳng có hạn chế
thời gian, bạn hiểu chứ !
Tại sao vị Bồ Tát đó lại đốt cánh tay, để cúng dường Phật
xá lợi ? Vì muốn cảm hóa những chúng sinh chẳng có tâm chân thành, phát khởi
tâm chân thành để cúng dường Phật xá lợi, vì muốn khiến cho vô lượng A tăng kỳ
người phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, do đó mà đốt cánh tay để làm
ảnh hưởng chúng sinh phát tâm bồ đề, đều khiến cho chúng sinh trụ tại cảnh giới
tất cả sắc thân tam muội.
Bấy giờ, các vị Bồ Tát, trời, người, A tu la thảy, đều thấy vị Bồ Tát đó
chẳng còn cánh tay, thì rất buồn rầu bi ai, bèn nói rằng : Bồ Tát Nhất Thiết
Chúng Sinh Hỷ Kiến này, là thầy của chúng ta, giáo hóa chúng ta, mà nay đốt đi
cánh tay, thân chẳng còn đầy đủ.
Lúc đó, các vị đại Bồ Tát, hàng trời người và A tu la, quỷ thần thảy, đều thấy vị
Bồ Tát đó chẳng còn hai cánh tay, thì mọi người đều buồn rầu bi ai, khác miệng
cùng lời nói :‘’Vị Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến là thầy của chúng ta,
giáo hóa chúng ta, khiến cho chúng ta hiểu Phật pháp, khiến cho chúng ta tu trì
Phật pháp, nhưng Ngài phát nguyện đốt cánh tay cúng Phật, hiện nay thân tướng
chẳng còn đầy đủ.’’
Lúc đó, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến ở trong đại chúng lập thệ nguyện
rằng : Ta xả bỏ cánh tay, tất sẽ được thân sắc vàng của Phật, nếu thật không
hư, thì khiến cho cánh tay của ta hoàn lại như cũ, thệ nguyện vừa xong, thì
cánh tay tự nhiên hoàn lại. Bởi do Bồ Tát đó phước đức trí huệ sâu dày, nên
được như thế.
Lúc đó, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến ở trong đại chúng lập thệ nguyện rằng
:‘’Ta đốt cánh tay cúng Phật, thì tương lai nhất định được thân sắc vàng tía
của Phật. Nếu như là chân thật không hư, thì khiến cho cánh tay của tôi đót,
lập tức khôi phục lại như cũ. Phát nguyện như thế rồi, thì tự nhiên sinh ra
cánh tay mới như ban đầu, chẳng có gì khác biệt. Đó là nhờ duyên gì ? Vì Bồ Tát
đó có phước đức lớn, trí huệ lớn sâu dày, lại thành thật, cho nên mới có cảnh giới
cảm ứng không thể nghĩ bàn như thế.’’
Bấy giờ, ba ngàn đại thiên thế giới sáu thứ chấn động, trời mưa xuống hoa báu,
tất cả trời người được chưa từng có.
Lúc đó, ba ngàn đại thiên thế giới đều có sáu thứ chấn động. Trời mưa hoa báu xuống,
tất cả trời người đều cho là việc ít có, từ khi sinh ra chưa từng gặp qua cảnh giới
này.
Đức Phật bảo Bồ Tát Tú
Đức Phật bảo Bồ Tát Tú
Tú
Đức Phật lại gọi một tiếng :‘’Tú
Hoặc lại có người, dùng bảy báu đầy ba ngàn đại thiên thế giới, để cúng dường
Phật và đại Bồ Tát, Bích Chi Phật, A
Đức Phật lại nói :‘’Nếu như có người dùng bảy báu đầy dẫy ba ngàn đại thiên thế
giới, để cúng dường chư Phật, chư Bồ Tát, chư Bích Chi Phật, các vị A
Tú
Phật lại nói :‘’Bồ Tát Tú
Lại như : Núi đất, núi đen, núi Thiết Vi nhỏ, núi Thiết Vi lớn, và núi mười báu,
ở trong các núi, thì núi Tu Di là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa này cũng lại như thế,
ở trong các kinh là trên hết.
Lại như : Núi đất, núi đen, núi Thiết Vi nhỏ, núi Thiết Vi lớn, và núi mười
báu, ở trong các núi, thì núi Tu Di là bậc nhất. Bộ Kinh Pháp Hoa này cũng lại
như thế, ở trong tất cả kinh điển, là trên hơn hết, chẳng có bộ kinh nào cao
hơn. Bộ kinh này là kinh thành Phật, chỉ cần y pháp tu hành, thì có hy vọng thành
Phật.
Lại như ở trong các ngôi sao, thì mặt trăng là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa này cũng
lại như thế, ở trong ngàn vạn ức các kinh pháp, thì kinh này chiếu sáng nhất.
Lại giống như ở trong các ngôi sao, thì mặt trăng chiếu sáng nhất. Bộ Kinh Pháp
Hoa này cũng lại như thế, ở trong ngàn vạn ức các kinh điển, thì kinh này chiếu
sáng nhất.
Lại như mặt trời chiếu phá mọi sự tối tăm, kinh này cũng lại như thế, hay
phá trừ tất cả sự tối tăm bất thiện.
Lại giống như mặt trời hay phá trừ tất cả đen tối, Kinh Pháp Hoa cũng như thế,
hay phá trừ tất cả sự đen tối bất thiện. Tóm lại, thọ trì Kinh Pháp Hoa sẽ đắc
được đại trí huệ, quang minh này hay phá trừ đen tối vô minh.
Lại như trong các ông vua, thì vua chuyển luân thánh vương là bậc nhất. Kinh
này cũng lại như thế, ở trong các kinh là tôn quý hơn hết.
Lại giống như trong các ông vua, thì địa vị của vua chuyển luân thánh vương là bậc
nhất, chẳng ai có thể sánh. Kinh Pháp Hoa cũng lại như thế, ở trong các kinh
điển là tôn quý hơn hết.
Lại như trời Đế Thích, là vua cõi trời Ba Mươi Ba. Kinh này cũng lại như
thế, là vua trong các kinh.
Giống như trời Đế Thích, là vua cõi trời Ba Mươi Ba, quản hạt ba mươi hai cõi trời,
Kinh Pháp Hoa cũng như thế, là vua ở trong tất cả kinh điển.
Lại như vua Đại Phạm Thiên, là cha của tất cả chúng sinh. Kinh này cũng lại như
thế, là cha của tất cả các bậc hiền Thánh học vô học, và những người phát tâm
Bồ Tát.
Lại như vua Đại Phạm Thiên, là cha của tất cả chúng sinh. Vì sao xưng là cha của
tất cả chúng sinh ? Vì thế giới có thành trụ hoại không bốn trung kiếp (mỗi
trung kiếp có hai mươi tiểu kiếp). Đến thời kỳ kiếp không, thì Thiên chúng của
cõi Sơ thiền, tự nhiên tỵ nạn đến cõi trời Nhị thiền. Đến thời kỳ kiếp thành
lập, thì Thiên chúng tỵ nạn ở cõi Nhị thiền lại trở về cõi trời Sơ thiền. Người
đầu tiên trở lại là vua Đại Phạm Thiên. Vì người sau này càng ngày càng đến nhiều,
cho nên vua Đại Phạm Thiên đối với đại chúng tuyên bố :‘’Ta là cha của các
ngươi, các ngươi phải tôn kính ta, phải nghe lời ta, không thể làm trái ngược ý
chỉ của ta.’’
Bà la môn ở Ấn Độ cho rằng : Tổ tiên của họ là từ miệng
trời Phạm Thiên sinh ra, cho nên có thần Thánh ưu việt không thể xâm phạm, đáng
hưởng thọ đặc quyền, cho đó là việc thiên kinh địa nghĩa. Do đó, ở Ấn Độ tạo ra
hiện tượng giai cấp chẳng bình đẳng, đến nay vẫn còn như thế, khiến cho kẻ nô
lệ vĩnh viễn không được đối đãi bình đẳng.
Kinh Pháp Hoa cũng lại như thế, là cha của tất cả bậc hiền Thánh, bậc hữu học (sơ,
nhị, tam quả A
Lại như, trong tất cả những người phàm phu, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm,
A
Lại giống như ở trong tất cả phàm phu, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A
Có người hay thọ trì kinh này cũng lại như thế, ở trong tất cả chúng sinh cũng
là bậc nhất.
Nếu như có người hay thọ trì Kinh Pháp Hoa cũng như thế, ở trong tất cả chúng
sinh là bậc nhất. Bộ kinh này là pháp môn ai ai cũng có thể tu, ai kiền thành
tu trì, thì người đó là bậc nhất. Tu hành phải cước đạp thật địa, cung hành
thực tiễn, không nên cứ tìm tiện nghi, phải thấu rõ việc thiên hạ, không thể
nào không làm mà có thu hoạch. Người xưa nói :
‘’Trồng trọt một phần,
Thì thu hoạch một phần.’’
Dụng công một ngày, thì tiếp cận gần cảnh giới của Phật một dặm đường.
Ở trong tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, thì Bồ Tát là bậc nhất. Kinh này
cũng lại như thế, là bậc nhất ở trong tất cả kinh pháp.
Ở trong tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, thì Bồ Tát là bậc nhất. Kinh Pháp
Hoa cũng lại như thế, ở trong tất cả các kinh pháp, thì kinh này là bậc nhất,
cho nên gọi là vua trong các kinh.
Như Phật là vua của các pháp, kinh này cũng lại như thế, là vua trong các
kinh.
Lại giống như Phật là vua của tất cả các pháp, Kinh Pháp Hoa là vua của tất cả
các kinh. Đức Phật cử ra những ví dụ đó, để nói rõ tính quan trọng của Kinh
Pháp Hoa, khiến cho người thọ trì Kinh Pháp Hoa, biết được công đức rộng lớn
của Kinh Pháp Hoa, chẳng gì sánh bằng.
Tú
Phật lại gọi một tiếng : ‘’Bồ Tát Tú
Như hồ nước mát mẻ, hay khiến cho tất cả những người khát khao được hết
khát, như người lạnh được lửa, như người trần truồng được quần áo, như người buôn
bán gặp chủ, như con gặp mẹ, như người qua sông gặp thuyền, như người bệnh gặp
được thuốc, như tối gặp được đèn, như người nghèo gặp của báu, như dân gặp được
vua, như khách buôn gặp được biển, như đuốc sáng trừ tối tăm.
Công dụng của Kinh Pháp Hoa giống như hồ nước trong sạch mát mẻ, hay khiến cho
người khát giải trừ sự khát uy hiếp. Giống như người lạnh lẽo gặp được lửa để
sưởi ấm. Giống như người trần truồng gặp được quần áo. Trước khi chưa thọ trì
Kinh Pháp Hoa, thì như là trần truồng; sau khi kiền thành thọ trì kinh này, thì
đồng như được quần áo. Giống như người buôn bán làm ăn gặp chủ nhân, giống như
đứa con mất mẹ đã lâu, bây giờ gặp được mẹ thì vui mừng không thể tả được, tức cũng
là gặp được pháp thân người mẹ. Giống như muốn đi qua sông mà gặp được thuyền. Kinh
Pháp Hoa là thuyền pháp lớn, đưa chúng sinh qua biển sinh tử, giống như người
bệnh tật gặp thầy thuốc, thuốc vào thì hết bệnh. Chúng ta là người mắc bệnh ba
độc, Kinh Pháp Hoa là thầy thuốc giỏi, hay cứu bệnh khổ phiền não của chúng ta.
Kinh Pháp Hoa giống như chỗ tối tăm có đèn chiếu sáng, chiếu
phá vô minh ở trong tâm, khiến cho trí huệ quang minh hiện tiền. Giống như người
nghèo được bảy báu vô giá; giống như dân gặp được ông vua anh minh nhân từ,
giống như khách buôn được châu báu ở trong biển, giống như đuốc lớn hay phá trừ
tất cả đen tối.
Kinh Pháp Hoa cũng lại như thế, hay khiến cho chúng sinh lìa tất cả sự khổ, tất
cả bệnh khổ, giải thoát tất cả sự trói buộc sinh tử.
Bộ Kinh Pháp Hoa này, có mười hai thứ diệu dụng này, hay khiến cho tất cả chúng
sinh lìa khỏi tất cả sự khổ não, và tất cả mọi bệnh tật, lại hay giải trừ tất
cả sự trói buộc sinh tử của chúng sinh, khiến cho được tự tại.
Nếu người nào được nghe Kinh Pháp Hoa này, hoặc tự biên chép, hoặc khiến cho
người biên chép, thì công đức đắc được, dùng trí huệ của Phật suy lường, cũng
chẳng biết được bờ mé là bao nhiêu.
Nếu như người có căn lành được nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa rồi, mà phát
tâm biên chép kinh này, hoặc là tự mình biên chép, hoặc nhờ người khác biên
chép, thì công đức đắc được đều đồng nhau. Công đức này dù dùng trí huệ của
Phật để suy lường là bao nhiêu, cũng chẳng cách chi biết được bờ mé của công đức.
Nếu biên chép quyển kinh này, mà dùng hương hoa, chuỗi ngọc, hương đốt, hương
bột, hương xoa, phan lọng, y phục, các thứ đèn, đèn tô, đèn dầu, các đèn dầu
thơm, đèn dầu thiềm bặc, đèn dầu tu mạn na, đèn dầu ba la la, đèn dầu bà lợi sư
ca, đèn dầu ba ma lợi, để cúng dường, thì công đức đắc được cũng vô lượng.
Nếu như có người khi biên chép bộ kinh điển này, mà dùng đủ thứ hoa tươi, hương
quý, chuỗi ngọc, để cúng dường kinh này, hoặc dùng các thứ hương đốt, hương
bột, hương xoa, để cúng dường kinh này, hoặc dùng các thứ phan báu, hoa báu, y
phục báu, để cúng dường kinh này. Hoặc dùng các thứ đèn để cúng dường, nào là
đèn dầu tô, đèn dầu, đèn dầu thơm, đèn dầu thiềm bặc, đèn dầu tu mạn na, đèn
dầu ba la la, đèn dầu bà lợi sư ca, đèn dầu na bà ma lợi, công đức đắc được cũng
vô lượng vô biên, không thể biết được.
Tú
Đức Phật gọi một tiếng :‘’Bồ Tát Tú
Nếu có người nữ, nghe được phẩm bổn sự của Bồ Tát Dược Vương, mà hay thọ
trì, thì khi hết thân nữ này, về sau chẳng thọ lại nữa.
Nếu có người nữ, nghe được Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, mà hay thọ trì phẩm
này, thì đời vị lai chẳng làm thân người nữ. Song, nếu thích làm thân nữ thì chẳng
có gì để nói.
Nếu sau khi Như Lai diệt độ, trong năm trăm năm sau, nếu có người nữ nghe được
kinh này, theo như trong kinh nói mà tu hành, thì sau khi mạng chung, sẽ được
vãng sinh về thế giới An Lạc, cõi của đức Phật A Di Đà, được chúng đại Bồ Tát
vây quanh chỗ ở.
Sau khi Phật vào Niết Bàn, trong năm trăm năm sau, nếu có người nữ nghe được
Kinh Pháp Hoa, mà phát tâm y theo đạo lý trong kinh nói để tu hành, tức là tu
nhẫn nhục, từ bi, pháp không, ba pháp môn. Sau khi mạng chung, thì sẽ vãng sinh
về thế giới An Lạc, tức cũng là thế giới Cực Lạc, được gặp Phật A Di Đà, ‘’hoa
nở thấy Phật‘’ có Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát vây quanh chỗ ở.
Sinh trên đài báu trong hoa sen, chẳng bị tham dục làm phiền não, cũng chẳng
bị sân hận ngu si làm phiền não, cũng chẳng bị sự kiêu mạn, đố kỵ, các cấu, làm
phiền não, được thần thông của Bồ Tát, và vô sinh pháp nhẫn.
Người hóa sinh trên đài báu trong hoa sen, chẳng còn bị tham dục làm phiền não,
chẳng còn bị sân hận ngu si làm phiền não, chẳng còn bị ngu si làm phiền não.
Giải trừ ba độc thanh tịnh, tức là thân tâm khinh an. Ba độc này có mối quan hệ
với nhau. Sinh tâm tham dục mà chẳng đắc được, thì bèn khởi nóng giận. Khi nóng
giận thì sẽ mất đi lý trí, tức là ngu si. Trí huệ chẳng hiện tiền thì chẳng rõ
thị phi, chẳng biết thiện ác. Vô minh hiện tiền thì làm việc điên đảo, tạo thành
nghiệp thân khẩu ý chẳng thanh tịnh. Phạm mười điều ác rồi, thì vĩnh viễn đọa
vào ba đường ác trong luân hồi, chẳng có kỳ hạn thoát khỏi.
Khống chế tham sân si như thế nào ? Thì phải siêng tu giới định huệ, hay giữ giới luật thì chẳng có tâm tham, hay giữ định lực thì chẳng có tâm sân, hay học trí huệ thì chẳng ngu si. Ví như một bồn nước đục (vô minh) muốn cho nó thanh tịnh lắng trong, thì cho vào một chút phèn trắng (giới pháp), đừng quấy động (định lực), từ từ sẽ lắng xuống và hiện ra thanh tịnh (trí huệ), hay phản chiếu vạn vật.
Nếu minh bạch nghĩa lý Kinh Pháp Hoa, thì cũng chẳng bị kiêu mạn, đố kỵ, các cấu bẩn gây phiền não. Nếu người nào có hai thứ tâm lý biến thái này, thì vĩnh viễn chẳng thể khai ngộ, chẳng thể được trí huệ. Tu đạo trước hết phải đừng có tâm cống cao ngã mạn, chẳng có tâm đố kỵ chướng ngại, học tinh thần từ bi hỷ xả của Bồ Tát.
Trong tâm chẳng có dơ bẩn, thì sẽ đắc được thần thông của Bồ Tát và vô sinh pháp nhẫn. Vô sinh pháp nhẫn là gì ? Nói đơn giản là chẳng thấy có chút pháp sinh, chẳng thấy có chút pháp diệt, nhẫn ở nơi tâm.
Nhẫn tức là nhẫn nại, đối diện với cảnh nghịch mà chẳng sinh tâm sân hận. An trụ trên lý pháp mà chẳng động tâm. An trụ tâm vào chân như thật tướng, thì cảm thấy chẳng có tơ hào tình niệm của phàm phu, có thể xả bỏ, cũng chẳng có kiến giải của Thánh nhân, có thể thủ lấy. Lúc đó, cảm thấy mười pháp giới chẳng có chút pháp sinh, cũng chẳng có chút pháp diệt, chẳng có sinh diệt, song trên pháp lý đều là như như bất động. Vì như như bất động, cho nên chẳng có sinh diệt, từ đó thấy tất cả các pháp đều chẳng có sinh diệt. Thật sự thấy được chân như thật tướng, mới đắc được sự nhẫn đó, mà vĩnh viễn chẳng bị cảnh bên ngoài làm mê hoặc, giao động tâm.
Tóm lại, buông bỏ được tất cả, chẳng có chấp trước tức là
vô sinh pháp nhẫn. Chứng được vô sinh pháp nhẫn, tức là pháp thân Bồ Tát. Phàm
là người thượng phẩm thượng sinh về thế giới Cực Lạc, một khi đến Tịnh Độ thì
lập tức hoa nở thấy Phật, lập tức được vô sinh pháp nhẫn, có đại trí huệ, có
đại thần thông, trợ giúp Phật giáo hóa chúng sinh, khiến cho sớm được lìa khổ
được vui, sinh về Tịnh Độ.
Đắc được nhẫn đó rồi, thì căn mắt thanh tịnh, nhờ căn mắt thanh tịnh, nên thấy
được bảy trăm vạn hai ngàn ức Na do tha, Hằng hà sa các đức Phật Như Lai.
Đắc được vô sinh pháp nhẫn rồi, thì căn mắt thanh tịnh, tức cũng là đắc được pháp
nhẫn. Dùng pháp nhãn thanh tịnh, có thể thấy được bảy trăm vạn hai ngàn ức Na
do tha, Hằng hà sa các Đức Phật.
Lúc đó, các đức Phật cùng nhau khen ngợi nói : Lành thay ! Lành thay ! Thiện
nam tử ! Ông ở trong pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni, hay thọ trì đọc tụng suy
gẫm kinh này, vì người khác nói, phước đức đắc được vô lượng vô biên, lửa không
thể thiêu đặng, nước không thể ngập chết đặng, công đức của ông ngàn đức Phật
cùng nói, cũng không hết được.
Lúc đó, chư Phật nhiều như số cát sông Hằng ở trong mười phương cõi nước, đều
cùng nhau khen rằng :‘’Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử ! Ông ở trong pháp
của Phật Thích Ca Mâu Ni, hay thọ trì kinh này, đọc tụng kinh này, tư duy kinh
này. Lại vì người khác giải nói kinh này, công đức đắc được vô lượng vô biên.
Lửa lớn không thể thiêu đặng, nước lớn không thể ngập chết. Công đức của ông dù
ngàn vị Phật cùng nhau nói, cũng nói không hết được.’’
Ông nay đã phá được các ma tặc, dẹp tan quân sinh tử, các oán địch khác cũng
đều tiêu diệt.
Hiện tại ông đã phá trừ được tất cả ma tặc. Ma hay chướng ngại chánh đạo, hay hại
huệ mạng, tặc là sáu tên tặc, tức là sáu căn cướp đi pháp tài. Lại phá hoại
được quân sinh tử, chẳng còn thọ khổ trong luân hồi, còn các oán địch khác thì
thảy đều tiêu diệt, chẳng còn đến nhiễu hại nữa.
Thiện nam tử ! Trăm ngàn các đức Phật dùng sức thần thông cùng bảo hộ ông. Ở
trong tất cả thế gian trời người chẳng có ai bằng ông, ngoài Như Lai ra, các
hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, cho đến Bồ Tát, trí huệ thiền định, cũng chẳng
có ai bằng ông.
‘’Thiện nam tử ! Trăm ngàn các Đức Phật, cùng dùng sức đại thần thông, cùng bảo
hộ ông. Ở trong tất cả thế gian trời người chẳng có ai cao hơn ông. Trừ Như Lai
ra, dù tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật, cho đến trí huệ và thần thông của Bồ
Tát, cũng chẳng bằng ông được.’’ Tóm lại, địa vị của Bồ Tát đó đã gần bậc Diệu
Giác.
Tú
Phật lại gọi một tiếng :‘’Tú
Nếu có người nghe Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, mà tùy hỷ khen ngợi,
thì người đó, hiện đời trong miệng thường tỏa ra hương thơm hoa sen xanh, lỗ
lông nơi thân thường tỏa ra hương thơm ngưu đầu chiên đàn, công đức đắc được
như trên đã nói.
Nếu có người nghe Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, mà tùy hỷ tán thán :‘’Lành
thay !’’ Thì người đó hiện đời trong miệng thường tỏa ra hương thơm hoa sen
xanh, lỗ lông nơi thân thường tỏa ra hương thơm ngưu đầu chiên đàn, công đức
đắc được như trên đã nói.
Bởi thế, Tú
Phật nói :‘’Bởi vì thế, Tú
Tú
Phật lại gọi một tiếng :‘’Bồ Tát Tú
Tú
Phật lại gọi một tiếng :‘’Bồ Tát Tú
Khi đức Phật nói Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, thì có tám vạn bốn ngàn vị
Bồ Tát, đắc được Đà la ni tất cả ngôn ngữ của chúng sinh.
Khi Đức Phật nói Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, thì có tám vạn bốn ngàn vị
Bồ Tát, đắc được Đà la ni tất cả ngôn ngữ của chúng sinh.
Đức Đa Bảo Như Lai ở trong bảo tháp khen Bồ Tát Tú
Đức Đa Bảo Như Lai ở trong bảo tháp, cũng khen ngợi Bồ Tát Tú
Hết tập 4
Hồi hướng công đức
Trong các sự bố thí, thì bố thí pháp là cao thượng nhất. Vì
ấn tống kinh điển bố thí cho mọi người đọc, khiến cho họ hiểu rõ những lời đức Phật
dạy, phát tâm tu học, thực hành hạnh Bồ Tát, tự lợi lợi tha, tự độ độ tha, tự
giác giác ta, tích tụ căn lành công đức, hồi hướng về quả Vô thượng bồ đề, cuối
cùng sẽ chứng ngộ quả vị Phật. Nhờ giáo lý Pháp bảo mà chúng ta tin, hiểu, thực
hành, và chứng ngộ.
Xin hồi hướng công đức pháp thí cao thượng nầy, đến các bậc Thầy Tổ, và toàn thể
tất cả Phật tử đã phát tâm hùn phước ấn tống, hữu danh hoặc vô danh, và thân
bằng quyến thuộc của tất cả quý vị còn sống hoặc đã quá vãng, cùng pháp giới
chúng sinh, thảy đều được lợi lạc, căn lành tăng trưởng, tâm bồ đề kiên cố, luôn
luôn an trụ ở trong chánh pháp, tu hành chánh pháp, rốt ráo được thoát khỏi sinh
tử luân hồi, đến được bờ giác ngộ bên kia.
Nam Mô Hộ Pháp Vi Đà
Kệ hồi hướng công đức
Nguyện đem công đức nầy
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu ba đường khổ
Nếu có ai thấy nghe
Liền phát tâm bồ đề
Khi bỏ báo thân nầy
Sinh về cõi Cực Lạc.