- Giải Thích Tên Kinh
- Phẩm Tựa Thứ Nhất
- Phẩm Phương Tiện Thứ Hai
- Phẩm Thí Dụ Thứ Ba
- Phẩm Tin Hiểu Thứ Tư
- Phẩm Dược Thảo Dụ Thứ Năm
- Phẩm Thọ Ký Thứ Sáu
- Phẩm Hóa Thành Dụ Thứ Bảy
- Phẩm Thọ Ký Cho Năm Trăm Vị Đệ Tử Thứ Tám
- Phẩm Thọ Ký Cho Bậc Hữu Học Và Vô Học Thứ Chín
- Phẩm Pháp Sư Thứ Mười
- Phẩm Thấy Bảo Tháp Thứ Mười Một
- Phẩm Đề Bà Đạt Đa Thứ Mười Hai
- Phẩm Khuyên Trì Thứ Mười Ba
- Phẩm An Lạc Hạnh Thứ Mười Bốn
- Phẩm Từ Dưới Đất Vọt Lên Thứ Mười Lăm
- Phẩm Thọ Lượng Của Như Lai Thứ Mười Sáu
- Phẩm Phân Biệt Công Đức Thứ Mười Bảy
- Phẩm Tùy Hỷ Công Đức Thứ Mười Tám
- Phẩm Công Đức Pháp Sư Thứ Mười Chín
- Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh Thứ Hai Mươi
- Phẩm Thần Lực Của Như Lai Thứ Hai Mươi Mốt
- Phẩm Chúc Lũy Thứ Hai Mươi Hai
- Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Dược Vương Thứ Hai Mươi Ba
- Phẩm Bồ Tát Diệu Âm Thứ Hai Mươi Bốn
- Phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm Thứ Hai Mươi Lăm
- Phẩm Đà La Ni Thứ Hai Mươi Sáu
- Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Vua Diệu Trang Nghiêm Thứ Hai Mươi Bảy
- Phẩm Khuyến Phát Của Bồ Tát Phổ Hiền Thứ Hai Mươi Tám
Giảng Giải: Hoà Thượng Tuyên Hoá
Hán dịch: Ngài Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
Phẩm này gọi là Phẩm Phổ
Môn, có rất nhiều ý nghĩa. Bây giờ, trước hết giảng về ‘’Dược châu‘’. Vì ‘’Dược
châu’’ cho nên nói là ‘’Phẩm Phổ Môn’’.
‘’Dược’’ gọi là gì ? ‘’Dược’’ tức là cây Dược Vương; ‘’châu’’ là gì ? ‘’Châu’’
tức là châu như ý . Cây Dược Vương lại là gì ? Tức là rất lâu xa về trước, có
một người tiều phu lên núi đốn củi, gánh ra chợ bán, gặp một vị thầy thuốc. Vị
thầy thuốc thấy trong bó củi của ông ta gánh phóng ra hào quang, do đó bèn mua
số củi đó đem về nhà. Về đến nhà mở bó củi ra xem, thì trong đó có một cây Dược
Vương, sau khi ông thầy thuốc được cây Dược Vương rồi, thì bất cứ bệnh gì, chỉ cần
dùng cây Dược Vương gõ nhẹ lên thân người bệnh, hoặc đánh nhẹ, thì bất cứ bệnh gì
cũng khỏi ngay, cứu được rất nhiều người, do nhân duyên đó mà gọi là ‘’cây Dược
Vương’’.
‘’Châu’’ tức là châu như ý. Châu như ý là gì ? Như ý tức là toại tâm như ý, tức cũng là khiến cho bạn hoan hỉ, mãn nguyện theo yêu cầu của bạn. Bạn nghĩ muốn ăn gì, thì châu như ý sẽ hiện ra vật ấy, bạn chẳng cần đi mua. Bạn muốn mặc quần áo gì, thì chỉ cần đối với hạt châu như ý nghĩ đến : ‘’Tôi muốn một bộ quần áo đẹp nhất, hiếm có trên thế gian’’, thì lúc đó hạt châu như ý sẽ hiện ra bộ quần áo mà bạn thích. Thậm chí bạn muốn căn nhà, thì nó cũng có thể hiện ra. Bạn nghĩ : ‘’Tối nay tôi muốn ở trong một căn nhà lộng lẫy đẹp nhất’’, thì hạt châu như ý sẽ hiện ra căn nhà, ở xong đêm đó rồi, thì ngày thứ hai căn nhà cũng tự động trở vào trong hạt châu như ý. Bạn nghĩ muốn ăn gì, thì hạt chây như ý sẽ hiện ra vật đó, cũng chẳng nhiều cũng chẳng ít, rất vừa vặn. Bạn mặc quần áo cũng chẳng cần sắm tủ đựng quần áo, chỉ cần thay ra, thì quần áo tự động trở vào trong hạt châu như ý, cho nên gọi là ‘’như ý’’.
Châu như ý lớn cỡ nào ? Là một hạt châu rất nhỏ, có thể mang trên mình, chẳng nặng cũng chẳng chiếm mất chỗ, cho nên gọi là như ý, toại tâm như ý, diệu đến cực điểm. Tóm lại, hạt ‘’châu như ý’’ cũng là Phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm, cũng là cây Dược Vương. Hạt châu như ý, hay toại tâm nguyện, chỉ cần bạn trì tụng Phẩm Phổ Môn, thì cầu mong việc gì cũng sẽ mãn nguyện. Nhưng chẳng phải hôm nay tụng niệm, thì ngày mai có cảm ứng. Trước hết, phải tạo cơ sở cho vững chắc, cũng như xây nhà lầu, thì trước hết phải xây nền móng cho tốt, nền móng mà không tốt, thì nhà lầu cũng chẳng cách chi xây được. ‘’Phẩm Phổ Môn’’ tuy cảm ứng giống như cây Dược Vương và châu như ý, không thể nghĩ bàn như thế, song trước hết bạn phải tụng niệm Phẩm Phổ Môn, hằng ngày tụng niệm, tụng niệm đến khi nào Bồ Tát Quán Thế Âm cho rằng bạn có tâm thành, thì sau đó bạn sẽ được sở cầu như ý, toại tâm mãn nguyện. Chẳng phải nói lúc bình thường thì chẳng tụng niệm, đến lúc nghĩ muốn cầu sự cảm ứng, thì lập tức có sự cảm ứng, mà bình thường phải dụng công tu hành, đến khi đó ‘’Phẩm Phổ Môn’’ giống như cây Dược Vương, như hạt châu như ý, thì sẽ có cảnh giới không thể nghĩ bàn, bất quá trước hết bạn phải tự mình tụng niệm.
Có người nói : ‘’Trong
Phật giáo có nhiều thứ phải học ! Nào là tụng Chú Lăng Nghiêm, lại tụng Chú Đại
Bi, bây giờ giảng ‘’Phẩm Phổ Môn’’, lại phải tụng Phẩm Phổ Môn, thật nhiều khoá
lễ quá, chúng ta đâu có nhiều thời gian như thế !’’ Bạn không cần nhiều thời
gian, chỉ cần mỗi ngày bớt ngủ một tiếng đồng hồ, bớt nói chuyện một chút, thì những
khóa lễ đó có thể làm được. Nếu bạn không muốn toại tâm mãn nguyện, nói rằng, tôi
chẳng cầu mong gì, tôi chẳng còn tâm tham, tâm sân, tâm si, thì bạn chẳng cần phải
tụng, như thế thì chẳng có gì để nói. Nếu bạn cảm thấy tương lại, hoặc sẽ gặp
việc gì mà muốn cầu Bồ Tát Quán Thế Âm, hoặc là Phật giúp đỡ, thì bạn nên học
thêm một chút Phật pháp. Phật pháp như biển cả, một giọt bạn chưa uống đã hiềm
nhiều, thì tương lai nhất định nước trong biển cả uống chẳng hết được, bất quá
chỉ cần tận hết sức của bạn, muốn uống bao nhiêu thì uống bấy nhiêu, Phật pháp
thì lấy chẳng hết được, dùng chẳng cạn được, cho nên hãy tận hết sức của bạn để
vận dụng tu học Phật pháp.
Vì ý nghĩa ‘’Dược châu’’, cho nên phải nói Phẩm Phổ Môn này.
Còn có một ý nghĩa nữa, gọi là ‘’Hiển mật’’. ‘’Hiển’’ tức là minh hiển; ‘’mật’’
tức là bí mật. Do đó, khi bạn tụng Phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm, thì có lúc
sẽ đắc được cảm ứng minh hiển, có lúc sẽ đắc được cảm ứng bí mật.
Cảm ứng minh hiển, thì ai ai cũng đều nhìn thấy được, ai ai cũng đều biết. Ví như
Bồ Tát Quán Thế Âm cứu chúng sinh, trong Phẩm Phổ Môn có nói : ’’Nếu vào lửa
lớn, lửa chẳng cháy được.’’ Trong Kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát Quán Thế Âm thuật
nhĩ căn viên thông cũng nói : ‘’Lửa chẳng cháy được, tính lửa thật không, tính
không thật lửa.’’ Ví như, bạn đang ngồi ở trong nhà, một lòng niệm Bồ Tát Quán
Thế Âm, mà trong sự vô ý lửa nổi lên, lúc đó, chỉ cần bạn thành tâm niệm Bồ Tát
Quán Thế Âm, thì nhà cửa kế bên bị cháy, còn nhà của bạn thì không cháy. Nhưng
đó là trong sự vô ý, chứ chẳng phải là cố ý. Nếu bạn cố ý đốt một chút lửa lên,
để thử xem nhà của bạn có cháy không, thì nhất định sẽ cháy ! Tại sao ? Vì bạn
vốn muốn thử nghiệm Bồ Tát Quán Thế Âm, là vì bạn tin chẳng chân thật, cho nên
mới muốn thử xem. Đó cũng giống như có người nọ, có một người bạn, muốn biết
người bạn đó đối với mình có tâm chân thật chăng, có phải là người tốt ‘’gặp
vàng không tham’’ chăng! Do đó, lúc người bạn đến, bèn cố ý đem năm trăm đồng bạc
để dưới đất, chẳng để ý đến. Nếu anh ta là người tốt, thì chẳng lấy tiền bỏ đi.
Tại sao bạn phải thử bạn
của bạn ? Vì bạn chẳng thật sự nhận thức người bạn của bạn, chẳng biết anh ta
có phải là người tốt thật sự không, cho nên mới thử nghiệm
Minh hiển thì ai ai cũng đều biết, như nhà lân cận cháy, mà nhà của bạn không
cháy, đó là ‘’hiển’’, mọi người đều biết : ’’Ồ ! Người đó niệm Bồ Tát Quán Thế
Âm có sự cảm ứng, người đó tin Phật thật là có sự mầu nhiệm’’, có cảm ứng, đó
tức là ‘’hiển’’.
Lại có ‘’bí mật’’. Bí mật là bạn vốn có một tai nạn, hoặc là bạn đáng lẽ phải rớt
xuống nước, bị nước ngập chết, nhưng trong sự vô hình, Bồ Tát Quán Thế Âm cảm
ứng, khiến cho bạn chẳng gặp sự nguy hiểm đó, bí mật làm cho tai nạn của bạn
tiêu trừ, đó gọi là bí mật. Người đó đáng lẽ bị lửa thiêu, nhưng vì họ tin Bồ
Tát Quán Thế Âm, nên Bồ Tát Quán Thế Âm trong sự yên lặng, làm cho tai nạn tiêu
trừ, đó cũng là cảm ứng bí mật. Thậm chí bạn ngồi máy bay, đáng lẽ bị tai nạn
máy bay, bây giờ sự giao thông tuy là thuận tiện, song số người chết cũng
nhiều, nào là máy bay rớt, tai nạn xe lửa, tai nạn xe hơi, khiến cho nhiều
người mất mạng. Ở trong những trường hợp đó, vì bạn tụng trì Phẩm Phổ Môn, vì
bạn niệm Chú Đại Bi, vì bạn tin Bồ Tát Quán Thế Âm, thì Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong
sự yên lặng, tức là người đó chẳng biết, thì Ngài bèn vì bạn hóa hung thành cát
tường. Do đó, có câu :
’’Gặp hung hóa cát, gặp nạn hóa tường.’’
Do đó, vì sự ‘’hiển mật’’ cho nên nói ‘’Phẩm Phổ Môn’’ này.
Phẩm Phổ Môn có ‘’Hiển mật viên thông’’, hiển cũng viên thông, mật cũng viên
thông, hiển mật đều viên thông, cho nên công đức của Phẩm Phổ Môn không thể
nghĩ bàn.
Phẩm Phổ Môn này có đủ thứ sự diệu dụng, Chú Đại Bi cũng có những diệu dụng đó.
Nay tôi kể một câu chuyện có sự cảm ứng. Tại quê hương Đông bắc của tôi, có
người nông dân làm ruộng, nhà rất giàu có. Mùa thu năm ấy, ông ta thu hoạch
xong, dùng xe chở đồ vật lên thành thị bán. Bán xong lương thực mang tiền về,
trên đường về cách nhà khoảng ba dặm đường, thì gặp bọn trộm cướp. Ông tài chủ
đó, thấy phía trước có trộm cướp, biết làm sao bây giờ? Chạy trốn chăng? Trốn
chẳng thoát bọn chúng, nhưng nếu không chạy trốn, thì chắc chắn sẽ bị cướp. Do
đó, ông ta bèn niệm Chú Đại Bi, xe vẫn tiến đi về trước. Đi gần đến bọn cướp,
thì đột nhiên nhìn thấy từ trong bọn cướp, có một người đi đến trước xe của ông
ta nói :’’Ông đưa cây roi đánh ngựa cho tôi, để tôi thế ông chạy xe’’, ông ta cũng
để cho người đó đánh xe ngựa đi, đi qua khỏi bọn cướp mà bọn cướp giống như chẳng
thấy chẳng nghe gì cả, cho nên ông ta chẳng bị cướp bóc. Đến lúc bọn cướp chẳng
nhìn thấy nữa, thì người đó trả lại cây roi đánh ngựa nói : ’’Bây giờ ông hãy
đi mau đi, chẳng có việc gì đâu!’’ Ông tài chủ nhìn thấy ông ta từ từ trong bọn
cướp đi đến, thì nghĩ chắc ông ta là trộm cướp bèn nói : ’’Ông bạn ! Hôm nay
ông cứu tôi, khiến cho tôi chẳng bị trộm cướp, xin hỏi tên họ của ông? Và ông ở
đâu? Để tương lai tôi đến nhà ông mà bái tạ!’’ Người đó bèn nói rằng : ’’Tên
của tôi là A Thệ Dựng’’
Các bạn thường niệm Chú Đại Bi, có phải trong Chú Đại Bi có một vị hộ pháp tên
là ‘’A Thệ Dựng’’ chăng? Song, lúc ấy ông tài chủ nghĩ : ’’Ai gọi là A Thệ
Dựng? Là ai?’’ Lúc đó ông ta quên mất, quên A Thệ Dựng là một câu Chú ở trong
Chú Đại Bi, tức cũng là một vị hộ pháp. Đến khi A Thệ Dựng đi rồi, nhìn chẳng
thấy A Thệ Dựng nữa, ông ta mới nghĩ ra : ’’Ồ ! Đây chẳng phải là một vị hộ pháp
ở trong Chú Đại Bi chăng?’’ Do đó, bèn nghĩ muốn đi tìm A Thệ Dựng cũng tìm chẳng
thấy, chẳng biết A Thệ Dựng đã đi đâu? Do đó, đây là một cảnh giới không thể
nghĩ bàn ở trong Chú Đại Bi. Nếu như ông tài chủ nghĩ : ’’Mình niệm Chú Đại Bi
xem thử có linh nghiệm chăng?’’ Thì A Thệ Dựng cũng chẳng đến cứu
Bộ Kinh Pháp Hoa này gồm có bảy quyển, hai mươi tám phẩm, phẩm này là phẩm thứ
hai mươi lăm. Phẩm này hiển dương công đức thần thông diệu dụng của Bồ Tát Quán
Thế Âm, cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Ở trước có nói về ‘’Dược châu’’, bây giờ lại nói đến ‘’Nhân pháp’’ (người và
pháp). Nhân pháp là gì ? ‘’Nhân tức là Bồ Tát Quán Thế Âm, ‘’Pháp’’ tức là pháp
môn thị hiện trong Phẩm Phổ Môn. Vị Bồ Tát Quán Thế Âm, Ngài cứu bảy nạn, giải
ba độc, ứng hai cầu, cho nên nhân vật không thể nghĩ bàn. Ngài lại nói pháp của
phổ môn thị hiện, có cầu tất ứng, vô cảm bất thông. ‘’Pháp’’ này là pháp không
thể nghĩ bàn. Vì không thể nghĩ bàn, cho nên gọi là diệu pháp. Vì ‘’người’’ này
cũng không thể nghĩ bàn, cho nên cũng gọi là diệu nhân. Tức nhiên là diệu nhân,
diệu pháp, nên mới được tên là ‘’Phổ môn’’. Vì nhân duyên ‘’nhân pháp’’ nên Bồ
Tát Quán Thế Âm mới nói ‘’Phẩm Phổ Môn’’ này.
Ý nghĩa thứ hai tức là ‘’từ bi’’. Vì ‘’từ bi’’, cho nên Bồ Tát Quán Thế Âm nói ‘’Phẩm
Phổ Môn’’ này. Từ là gì? Từ hay ban vui;
‘’bi’’ là gì ? Bi hay cứu khổ. Bồ Tát Quán Thế Âm cứu chúng sinh bảy thứ nạn, giải
trừ ba thứ độc, ứng chúng sinh hai thứ cầu. Bảy nạn này, ở trong kinh văn nói
rất rõ ràng tức là : Nạn nước, nạn lửa, nạn gió, nạn gông cùm, nạn gió đen (hắc
phong) .v..v... bảy thứ nạn.
Giải ba thứ độc tức là tham, sân, si ba độc. ứng hai cầu, tức là cầu con trai, cầu
con gái hai thứ cầu.
Chúng sinh đều có ba độc : Tham, sân, si. Nếu người nhiều
tham, thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ lìa khỏi tham lam. Nếu
người nhiều sân hận, mà thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ lìa
khỏi sân hận. Nếu người nhiều si mê, mà thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế
Âm, thì sẽ lìa khỏi si mê. Tham mà nói ra thì nhiều, sân nói ra cũng chẳng ít,
còn si mê thì không nhiều mà cũng chẳng ít. Nói nó nhiều, thì cũng chẳng nhiều,
mà nói nó ít, cũng chẳng ít. Si mê là gì ? Nói đơn giản tức là ngu si. Ngu si
là gì ? Tức là chẳng có trí huệ, chẳng minh bạch, thấy lý lẽ chẳng chân thật,
cho nên gọi là ngu si. Gặp lý luận chẳng chánh quyết. Căn cứ vào học thuyết của
Thử đưa ra một ví dụ để nói, ví như người ngu si nói :
‘’Hoa đẹp thường khiến cho tươi mãi mãi, trăng sáng ước gì đêm nào cũng tròn,
nguồn nước dưới đất đều hóa thành rượu, lá rừng đều biến thành tiền.’’ Người
tham hoa thì sinh tâm ngu si nói : ‘’Tôi muốn đóa hoa này, luôn luôn tươi mãi
mãi chẳng phai tàn, muốn đóa hoa đó nở mãi, tươi đẹp mãi.’’ Người nọ tham trăng
tròn, thì nói như vầy : ‘’Mặt trăng sao chẳng tròn mãi mãi ?’’ Tối hôm qua mặt
trăng tròn sáng, nếu đêm nào mặt trăng cũng tròn sáng, thì tốt biết bao ! Ngày
ngày ra ngoài ngắm trăng, ánh trăng chiếu sáng ngời, cũng chẳng cần bậc đèn
diện, lại chẳng tốn tiền, ánh sáng thiên nhiên tốt quá!’’ Đó chẳng phải là ngu
si chăng ? Mặt trăng có tròn có khuyết, hoa có tươi có tàn, khi hoa nở thì có
hoa tàn, khi trăng tròn thì có trăng khuyết, đó là thiên đạo tuần hoàn. Người
thích uống rượu thì mua để uống, tốn tiền quá ! Nếu nước các dòng sông đều biến
thành rượu, khi nào mình muốn uống rượu, thì xuống lấy uống, đó chẳng phải là sướng
lắm ư !’’ Còn có người tham tiền nghĩ rằng : ’’Bây giờ tôi phải đi làm kiếm
tiền rất khổ cực, nếu như lá cây đều biến thành tiền, khi nào muốn dùng tiền,
thì mình bèn đến lấy chẳng phải là tiện nghi sao ! Đó là những việc không bao
giờ có, đều là huyễn tưởng ngu si. Còn có chuyện đơn giản hơn rằng, có người chẳng
đi học, thậm chí chẳng học qua tiểu học, mà anh ta muốn có bằng tiến sĩ. Bạn
nói có lý đó chăng ! Chẳng học tiểu học, thì làm sao có bằng tiến sĩ ! Còn có
một loại người, anh ta vốn chẳng làm ruộng, mà đến mùa thu hoạch thì muốn thu
hoạch mùa màng, đó đều là ngu si. Song, một số người đều phạm phải thứ vọng
tưởng mao bệnh, chẳng nhọc sức mà thu hoạch. Nếu có thứ mao bệnh đó thì nên sửa
đổi.
Bồ Tát Quán Thế Âm Ngài cứu bảy nạn, giải ba độc, ứng hai sự mong cầu, đó là
đại bi, và còn lợi lạc cho chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui,
đó là từ bi. Vì đại từ đại bi, cho nên mới nói Phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm.
Còn một ý nghĩa nữa đó là ‘’phước huệ’’. Phước, sở dĩ Bồ Tát Quán Thế Âm hay
tầm thanh cứu khổ, bất cứ là âm thanh thiện, âm thanh ác, âm thanh khổ, âm
thanh vui .v.v... Ngài đều phân biệt được, là vì Ngài có trí huệ chân chánh.
Trí huệ của Ngài có là từ đâu đến ? Là vì Ngài bố thí khắp, dùng pháp này thí
cho chúng sinh, nên Ngài có phước báu đó, nên phước đức trang nghiêm. Bởi do
phước huệ này, mà nói Phẩm Phổ Môn.
Lại còn có sự ‘’chân ứng’’. Chân là Bồ Tát Quán Thế Âm nhờ diệu lực chân thân của Ngài, để cứu độ bảy nạn, giải trừ ba độc, mãn nguyện chúng sinh hai mong cầu, đó là nhờ diệu lực chân thân. Ngài còn hiện ba mươi hai ứng hóa thân, đây gọi là ứng thân, dùng để giáo hóa chúng sinh, do đó mà có ‘’chân ứng’’ này.
Nói Phẩm Phổ Môn này còn có ‘’quyền thuật’’. Bồ Tát Quán Thế Âm nhờ sức pháp thân, mà ở trong sự yên lặng, tức là trong sự bí mật để lợi ích chúng sinh, đây gọi là ‘’thật’’. Ngài còn dùng ba mươi hai ứng hóa thân, để giáo hóa chúng sinh, đây là ‘’quyền’’. Quyền tức là quyền xảo phương tiện, tức cũng là phương pháp dùng tạm thời, chẳng phải vĩnh viễn. Bởi Bồ Tát Quán Thế Âm dùng quyền thật, cho nên mới nói Phẩm Phổ Môn này.
Còn có một nhân duyên nữa gọi là ‘’Bổn tích’’. Bổn là gì ? Bổn
tức là căn bổn; tích tức là tông tích. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng một pháp thân,
mà độ khắp tất cả chúng sinh là ‘’bổn’’, Ngài dùng ứng hóa thân để giáo hóa
cúng sinh, tức là ‘’tích’’. Pháp thân của Ngài như mặt trăng, tích cũng giống
như ‘’mặt trăng chiếu ngàn con sông’’. Do đó, có câu : ’’Ngàn con sông có nước,
đều có bóng của mặt trăng chiếu xuống.’’ Một mặt trăng chiếu xuống mọi con sông,
mà mặt trăng ở trong mọi con sông, đều từ bổn thân của một mặt trăng hiện ra.
Mặt trăng ở trong nước tức là ‘’tích’’. Mặt trăng ở trên trời tức là ‘’Bổn’’.
Đó là nhân duyên ‘’bổn tích’’ nên nói Phẩm Phổ Môn.
Bồ Tát Quán Thế Âm dùng một pháp thân, để hiện khắp vào trong tâm của tất cả
chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh sửa lỗi lầm làm mới lại, cải ác hướng
thiện, lìa khổ được vui, cứu kính thành Phật. Giảng đến đây, có người nói :
‘’Sở dĩ tôi không sửa lỗi lầm làm mới lại, nguyên lai là Bồ Tát Quán Thế Âm
chẳng hiện vào trong tâm của tôi, cho nên tôi có lỗi lầm gì, cũng chẳng muốn sửa
đổi.’’ Người hút thuốc thì nghĩ : ‘’Đại khái Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng gia bị
cho tôi, chẳng giúp đỡ tôi.’’ Người thích uống rượu thì nói : ‘’Tôi muốn học
Phật pháp, đáng tiếc tôi chẳng giữ được giới rượu, đó là lỗi của Bồ Tát Quán
Thế Âm chẳng giúp đỡ tôi.’’ Do đó, họ bèn sinh ta tâm cừu oán nói :’’Bồ Tát Quán
Thế Âm chẳng công bằng, tại sao Ngài giúp đỡ người khác mà chẳng giúp đỡ tôi
?’’ Đó thật là ngu si, lại thêm ngu si, đó là hai ngu si nặng nề. Tại sao Bồ
Tát Quán Thế Âm chẳng gia bị cho bạn ? Là vì bạn chẳng nghe Bồ Tát Quán Thế Âm
giáo hóa. Khi Bạn nghe danh hiệu ‘’Bồ Tát Quán Thế Âm’’ thì nên sửa đổi lỗi lầm
làm mới lại, nên thanh tịnh phiền não, ‘’Ngộ dĩ vãng chi bất gián’’, biết việc
quá khứ thì đã là quá khứ. ‘’Tri lai giả chi khả truy’’, tương lai nên đi trên
con đường thiện. Song, bạn hiểu biết mà cố phạm, đó là tội lại thêm tội. Cho
nên trách Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng gia bị cho bạn, đó là sai lầm. Bồ Tát Quán
Thế Âm luôn luôn đều gia bị cho bạn, nhưng đáng tiếc bạn đã đóng cửa trong tâm
của bạn, chẳng để cho Bồ Tát Quán Thế Âm vào, Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ biết than
thở : ’’Ôi ! Chúng sinh này thật là đáng thương xót !’’ Do đó, bạn đừng trách
Bồ Tát Quán Thế Âm, mà nên trách bạn mới đúng.
Ở trên là nói về ‘’Bổn tích’’. Còn có một nhân duyên nữa, tức là ‘’Duyên liễu’’.
‘’Duyên’’ tức là duyên nhân, ‘’liễu’’ tức là ‘’liễu nhân’’. Liễu nhân là gì ?
Tức là đoạn cái nhân đó đi, cũng có thể nói là thấu rõ nhân của nhân quả. Chúng
ta bây giờ đến nghe kinh nghe pháp, có người đến từ
Còn có một nhân duyên ‘’Trí đoạn’’ nữa. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng trí huệ của
Ngài, trí đức trang nghiêm để giáo hoá chúng sinh, là bậc trí huệ trang nghiêm.
‘’Trí’’ huệ gọi là đoạn đức, tức là đức hạnh của ‘’trí’’. ‘’Đoạn’’ là đoạn đức,
tức là đoạn trừ tất cả vô minh. Đoạn đức ở đây, lại có thể gọi là phước đức, vì
Ngài đoạn sạch vô minh, cho nên có phước đức trang nghiêm chân chánh, giống tựa
như Phật, phước cũng đủ, huệ cũng đủ. Bồ Tát Quán Thế Âm tuy nhiên là Bồ Tát,
nhưng Ngài có phước đức trang nghiêm, cũng có huệ đức trang nghiêm, cho nên
‘’trí huệ’’ cũng gọi là phước huệ.
Tổng cộng ở trên lại, thì có mười thứ nhân duyên, cho nên nói Phẩm Phổ Môn này.
Bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý bèn từ tòa ngồi đứng dậy, hở y bày vai bên phải, chắp
tay hướng về đức Phật, mà bạch Phật rằng : Đức Thế Tôn ! Bồ Tát Quán Thế Âm, do
nhân duyên gì, mà được tên là Quán Thế Âm ?
‘’Bấy giờ’’ : Tức là vào lúc đó, lúc đó là lúc nào ? Tức là lúc Bồ Tát Vô Tận Ý
ở trong pháp hội, hỏi nhân duyên tên của Bồ Tát Quán Thế Âm; tức cũng là lúc
nói xong Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Diệu Âm, bây giờ là lúc nói Phẩm Phổ Môn Bồ Tát
Quán Thế Âm. Có một vị Bồ Tát Vô Tận Ý. Vô Tận Ý là gì ? Tóm lại có ba ý nghĩ:
Thứ nhất là : ‘’Thế giới vô biên trần nhiễu nhiễu’’. Thế giới thì vô
lượng vô biên, chúng ta đừng cho rằng thế giới tức mắt chúng ta thấy được, tai
nghe được, đó tức là một thứ biên giới. Chẳng phải, thế giới ở đây nhiều vô lượng
vô biên, có thế giới này, có thế giới kia, vô lượng các thế giới; nước này,
nước kia, vô lượng các nước, vô cùng vô tận, cho nên gọi là ‘’Thế giới biên trần
nhiễu nhiễu’’. Nhiễu nhiễu là gì ? Nhiễu tức là nhiễu loạn; nghĩa là bất định; bất
định tức là động. Trần tức là chẳng thanh tịnh. Trên thế giới có rất nhiều vi
trần (hạt bụi), hãy nhìn vào ánh sáng mặt trời chiếu, thì sẽ thấy vô số hạt
bụi, chuyển động lên xuống ở trong hư không. Những hạt bụi này từ đâu đến ?
Nhiều hạt bụi trên thế giới từ đâu đến. Truy cứu nguồn gốc những hạt bụi này,
rất là quan trọng, những hạt bụi đó từ trong tâm của chúng sinh sinh ra. Tại
sao ? Vì trong tâm chúng sinh vọng tưởng quá nhiều. Vọng tưởng giống như hạt
bụi, nhiễu nhiễu chẳng yên, luôn luôn biến động. Hãy nhìn xem, chúng ta quan
sát vọng tưởng nhiều vô kể chẳng biết là bao nhiêu, có đếm cũng chẳng biết số
lượng. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói : ‘’Trong một niệm có chín mươi sát na’’. Sát
na là một đoạn thời gian rất ngắn, mà một sát na có chín trăm lần sinh diệt,
cho nên ‘’Thế giới vô biên trần nhiễu nhiễu’’.
Thế giới này có như thế nào ? Là vì chúng ta chúng sinh y chân khởi vọng, một niệm
vọng tưởng, thì biến thành có sông núi đất đai, nhà cửa phòng ốc, tất cả thế
giới thành lập liên tục, đây cũng gọi là ‘’thế giới vô biên trần liễu liễu.’’
Thứ hai là :’’Chúng sinh vô tận nghiệp mang mang’’. Thế giới thì
vô biên, là vì có thế giới, cho nên cũng sinh ra chúng sinh. Chúng sinh là
chúng duyên hòa hợp mà sinh, có rất nhiều thứ nhân duyên hòa hợp mà sinh. Đại
khái có bốn loài :
Loài sinh bằng thai.
Bằng trứng.
Bằng ẩm thấp.
Bằng hóa sinh.
Sao lại có thai sinh ? Thai do tình mà có. Thai sinh là do có thứ ái tình, nên mới
có sinh mạng mới. Trứng do tưởng mà sinh. Thấp sinh là nhờ ẩm thấp mà sinh, nơi
đó có sự ẩm thấp thì sẽ sinh ra. Hóa sinh tức biến hóa mà sinh ra, là tự nhiên
có thể biến hóa mà sinh ra, chẳng nương duyên của cha mẹ mà sinh ra. Nếu nói tỉ
mỉ thì có mười hai nhân loài, còn tám loài kia là :
Loài có sắc.
Không sắc
Có tưởng.
Không tưởng.
Chẳng có sắc.
Chẳng phải không có sắc.
Chẳng có tưởng.
Chẳng phải không có tưởng.
Có nhiều loài chúng sinh như thế, đáo để là từ đâu ra ? Chúng sinh là từ Phật
tánh mà ra, cho nên mới nói : ’’Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể
thành Phật’’. Tuy hết thảy chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật,
nhưng chẳng phải nói chúng sinh là Phật, chẳng phải nói chẳng tu thì thành Phật.
Nhất định phải dụng công tu hành, tham thiền, học Phật pháp, như thế thì mới có
thể trở về cội nguồn mà thành Phật. Chẳng phải nói chúng sinh bây giờ là Phật, chẳng
cần dụng công tu hành, đó là thứ tà tri tà kiến ! Mà phải tu hành, học Phật
pháp, y giáo phụng hành, mới có thể thành Phật. Cho nên mới nói chúng sinh là
từ Phật tánh sinh ra.
Thứ ba là :’’Ái hà vô để lãng thao thao’’. ‘’Ái hà’’ là chỉ ái tình giữa nam nữ,
chẳng riêng gì nói về ái của con người, mà các loài khác như súc sinh, cũng
chấp mê chẳng ngộ, chấp trước về ái này, nhất là súc sinh càng chẳng rõ lý, cho
nên tâm dâm dục của chúng rất nặng, chúng luôn lúc nào cũng nghĩ về dâm dục.
Nếu thanh tâm quả dục, tự tịnh kỳ ý, cắt ái đoạn dục, thì cách Phật đạo chẳng
xa.
‘’Ái hà’’ (biển ái dục) chẳng có đáy, càng hãm vào thì càng sâu, càng sâu thì
càng đi xuống, chẳng có ‘’đáy’’. ‘’Lãng mang mang’’, thứ sóng này triền miên
không ngừng, giống như sóng nước. Tại sao trong biển lại có sóng ? Là vì trong
tâm chúng sinh có sóng. Trong tâm chúng sinh có sóng, là vì biển ái có sóng.
‘’Ái’’ này, bạn muốn xé ra cũng xé chẳng đứt, dùng đao bén muốn chặt đứt ái tình
cũng chẳng dễ. Song nếu bạn thật sự có trí huệ, thì đối với đề này giải quyết
chẳng có gì khó, do đó có câu :
’’Kiếm trí huệ chặt đứt tơ tình’’.
Người chẳng có trí huệ, thì bị lún ở trong biển ái, càng lún càng sâu, lún đến
đâu ? Vốn chẳng có đáy. Càng lún càng sâu, càng sâu càng lún, đi xuống chẳng
khi nào chấm dứt, do đó gọi là Vô Tận Ý.
Bởi ba ý nghĩa đó, cho nên Bồ Tát Vô Tận Ý muốn biến vô lượng thế giới này, thành
thế giới Cực Lạc. Muốn giáo hóa vô tận chúng sinh đều thành Phật, và lấp bằng biển
ái không đáy. Do đó, Bồ Tát Vô Tận Ý có tên là Vô Tận Ý.
Bồ Tát gọi tắc, nếu nói đầy đủ là ‘’Bồ đề tát đỏa’’, là tiếng Phạn, dịch ra là
giác hữu tình, tức cũng là dùng đạo lý giác ngộ, đi giác ngộ tất cả hữu tình,
dùng đạo lý tự giác đó, đi giác ngộ tất cả chúng sinh. Tức là mình giác ngộ
rồi, cũng muốn tìm cách đi giáo hóa kẻ khác cho được giác ngộ, đây gọi là tự
giác giác tha. Bồ Tát từ đâu đến ? Bồ Tát là từ chúng sinh đến. Bồ Tát vốn cũng
là chúng sinh, cũng giống như bạn tôi và họ, hết thảy chúng sinh, chẳng có gì khác
biệt. Bất quá Ngài là một bậc giác ngộ ở trong chúng sinh, là một bậc giác ngộ
ở trong hữu tình. Chúng ta chúng sinh là kẻ mê muội ở trong chúng sinh, vẫn
chưa giác ngộ. Nếu hôm nay bạn giác ngộ, thì hôm nay là Bồ Tát; nếu ngày mai
bạn giác ngộ, thì ngày mai bạn là Bồ Tát. Giác ngộ cái gì ? Giác ngộ vô minh. Nếu
bạn biết nơi đến của vô minh, phá được vô minh, thì đó là ‘’giác’’. Phá được vô
minh rồi, thì pháp tánh cũng tự nhiên hiện tiền, biển ái cũng sẽ khô cạn, biển
ái khô cạn rồi, thì trí huệ sẽ hiện tiền, đó là giác ngộ. Bồ Tát là giác ngộ
hữu tình, cũng là hữu tình giác ngộ. Bồ Tát còn gọi là chúng sinh ‘’đại đạo
tâm’’, đạo tâm của Ngài rất lớn, còn gọi là ‘’Khai sĩ’’, Ngài khai mở ngu si
cho chúng sinh, để hiển hiện Phật tánh vốn có, đó gọi là Bồ Tát.
‘’Bèn từ tòa ngồi đứng dậy’’ : Ở hội trong hội Pháp Hoa, khi Bồ Tát Vô Tận Ý nghe
Đức Phật giảng xong Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương rồi, thì Ngài bèn từ toà
ngồi đứng dậy. Tại sao phải đứng dậy ? Bất cứ ở trong đại hội nào, khi bạn muốn
nói thì phải đứng lên, không thể ngồi ở đó dơ tay lên để hỏi, như thế thì quá
tùy tiện. Lúc đó, Bồ Tát Vô Tận Ý muốn nói, chẳng những Ngài đứng dậy mà cón ‘’hở
y bày vai bên phải’’. Tại sao phải để vai bên phải lộ ra ? Vì biểu thị cung
kính, đó là biểu thị thân nghiệp cung kính.
‘’Chắp tay hướng về Đức Phật’’ : Sau đó Bồ Tát Vô Tận Ý chắp tay lại. ‘’Mà bạch
Phật rằng’’. Đối với Phật mà nói.
Từ ‘’Bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý bèn từ tòa ngồi đứng dậy, hở y bày vai bên phải, chắp tay hướng về Đức Phật bạch rằng’’. Đoạn này là Ngài A Nan biên khi kết tập kinh điển. Dùng để miêu tả nhân duyên của pháp hội. Bắt đầu từ ‘’Đức Thế Tôn’’ là lời nói của Bồ Tát Vô Tận Ý.
Bồ Tát Vô Tận Ý gọi một tiếng :’’Đức Thế Tôn!’’ Thế Tôn là bậc
tôn kính của thế gian và xuất thế gian, thế gian và xuất thế gian, đều tôn kính
Ngài nhất.
‘’Bồ Tát Quán Thế Âm do nhân duyên gì, mà được tên là Quán Thế Âm’’? Bồ Tát Vô Tận
Ý gọi một tiếng Đức Thế Tôn, rồi bèn nói : ’’Bồ Tát Quán Thế Âm có sức thần thông
lớn như thế, từ bi nguyện lực của Ngài lớn như thế, Ngài có thể cứu bảy thứ
nạn, giải trừ ba độc, ứng hai thứ cầu, mười bốn vô uý (chẳng sợ hãi), mười chín
thuyết pháp, ba mươi hai ứng thân, bởi nhân duyên gì, mà gọi là ‘’Bồ Tát Quán
Thế Âm ?’’ Bởi nhân duyên gì, tức cũng là hỏi Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong quá khứ
tu pháp môn gì, mà được tên là ‘’Quán Thế Âm’’? Đó là Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni.
Đức Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý : Thiện nam tử ! Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức
chúng sinh, chịu các khổ não, mà nghe được danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, một
lòng niệm danh hiệu của Ngài, thì Bồ Tát Quán Thế Âm, lập tức quán xem tiếng
kêu kia, khiến cho họ đều được giải thoát.
‘’Đức Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý’’: Câu này tôn giả A Nan y chiếu theo văn pháp,
mà ghi vào khi kết tạp kinh điển.
‘’Thiện nam tử’’ : Là Đức Phật gọi Bồ Tát Vô Tận Ý nói : ‘’Thiện nam tử ! Nếu
có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh’’. ‘’Nếu có’’ là từ giả thiết, tức là
sẽ có mà chưa có, hiện tại thì chưa có, nhưng tương lai sẽ có. Những chúng sinh
đó bao quát : Thai, noãn, thấp, hóa, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng,
chẳng có sắc, chẳng không sắc, chẳng có tưởng, chẳng không tưởng, mười hai loài
chúng sinh, đều bao quát ở trong đó. ‘’Chịu các khổ não’’ : ‘’Chịu’’ là gặp,
gánh lấy. ‘’Các’’ là số nhiều. ‘’Khổ não’’ là sự thống khổ, có bao nhiêu ?
Đại khái có bốn thứ :
1). Một người thọ một thứ khổ.
2). Một người thọ nhiều thứ khổ.
3). Nhiều người thọ một thứ khổ.
4). Nhiều người thọ nhiều thứ khổ.
Một người thọ một thứ khổ như câm ngọng, chính người đó có khổ sở người đó biết,
cũng không thể nói với họ, do đó có câu : ‘’Câm ngọng ăn huỳnh liên’’ (người
câm khổ sở như ăn quả đắng huỳnh liên).
Một người thọ nhiều thứ khổ, ví như người nọ, bất cứ đi đến đâu cũng gặp khổ
não, chẳng phải thiên tai thì là nhân họa, chẳng phải trộm cướp thì là nạn lửa.
Hết thảy khổ não trên thế gian anh ta đều nếm hết. Một người mà nếm hết các thứ
khổ, đây gọi là một người thọ nhiều thứ khổ.
Nhiều người chịu một thứ khổ, ví như chiến tranh hiện tại ở Việt Nam, khi tác chiến thì mưa bom đạn lạc, sinh linh lầm than, chết chẳng biết bao nhiêu người, thật là bi ai. Nhiều người ở trong một nước này, cùng chịu một thứ khổ, thứ khổ não này gọi là nhiều người thọ một thứ khổ. Còn một thứ nữa, như bệnh ôn dịch lưu hành, rất nhiều người đều chịu thứ bịnh truyền nhiễm đó, bệnh như chết sống lại, thứ khổ não đó tuy chưa đến chết, nhưng bệnh tật rất thống khổ, đó cũng là nhiều người chịu một thứ khổ, còn có rất nhiều khổ não khác nữa, nói cũng nói chẳng hết. Thế giới này là thế giới khổ não. Chúng sinh cũng nhiều, khổ não cũng nhiều, cứu kính có bao nhiêu thứ khổ não ? Căn bản chẳng có số lượng để tính. Tổng quát lại thì có tám vạn bốn ngàn thứ khổ.
Vậy khi chịu các thứ khổ não thì làm thế nào ? Ai cũng đều
có khổ não. Khi chúng ta chịu khổ não, thì chúng ta đừng quên Bồ Tát Quán Thế
Âm.
‘’Nghe danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm’’. ‘’Nghe’’: Là mình vốn chẳng biết, giống
như người Mỹ, cứu kính có bao nhiêu người nghe được danh hiệu Bồ Tát Quán Thế
Âm ? Tôi tin rằng, toàn nước Mỹ nghe được Quán Thế Âm Bồ Tát dù một phần trăm
cũng chẳng có ! Bạn hãy nghĩ xem, nhiều người như thế chẳng nghe được danh hiệu
Bồ Tát Quán Thế Âm, mà bạn bây giờ nghe được, nghe cũng tức là minh bạch, biết
Bồ Tát Quán Thế Âm nhĩ căn viên thông, có ba mươi hai ứng thân, thần thông tự tại,
đó là ‘’Nghe Bồ Tát Quán Thế Âm’’.
‘’Một lòng niệm danh hiệu của Ngài’’: Quan trọng nhất là ‘’một lòng’’, đừng có
hai lòng, cũng đừng có ba lòng, càng đừng có bốn lòng, nếu tâm của bạn càng
nhiều, thì tựa như bạn chẳng làm công đức. Nếu tâm mà nhiều quá thì chẳng tốt.
Tại sao ? Vì nhiều tâm thì phân tán, mà phân tán thì chẳng chuyên nhất, chẳng
chuyên nhất thì chẳng linh, chẳng có công hiệu. Nếu bạn ‘’hai lòng niệm danh
hiệu’’ thì cũng chẳng linh, ‘’ba lòng xưng danh’’ thì càng chẳng ích gì.
‘’Bồ Tát Quán Thế Âm’’ : Quán, tức là quán xem. Thế tức là thế gian. Âm là âm thanh.
Bồ Tát quán xem tất cả âm thanh của thế gian. ‘’Lập tức Quán Âm thanh kia’’ :
Lập tức quán sát âm thanh của chúng sinh đó. ‘’Đều được giải thoát’’ : Hết thảy
tất cả khổ não đều được giải thoát. Giải thoát tức là khổ não chẳng còn nữa,
khổ não chẳng còn nữa thì được an vui. Giải thoát ở đây tức cũng là đắc được tự
tại thật sự, vô câu vô thúc, vô quái vô ngại.
Nếu có người trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, dù vào trong lửa lớn, lửa chẳng
cháy được, do nhờ sức oai thần của Bồ Tát. Nếu bị nước lớn cuốn trôi, mà xưng
niệm danh hiệu của Ngài, thì liền được vào chỗ cạn.
Đoạn văn này nói về Bồ Tát Quán Thế Âm cứu nạn lửa và nạn nước hai nạn trong bảy
nạn. ‘’Nếu có người trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm’’ : Trì tức là niệm. Nếu
có, là hiện tại chẳng có, tương lai sẽ có. Nếu như có người trì danh hiệu Bồ
Tát Quán Thế Âm. Trì là nghĩ nhớ luôn luôn, tức cũng là tâm niệm đều chấp trì :
‘’Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát’’. Bất cứ người nào muốn giải trừ thống khổ bảy nạn,
thì trước hết phải luôn luôn cung kính xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.
‘’Dù vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được’’ : Đây là nói
lúc bình thường bạn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, chứ chẳng phải nói đến lúc bị khốn
ở trong lửa lớn, thì mới niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Chẳng phải nói hôm nay mình
có tai nạn, thì hôm nay mới niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, đó là :
‘’Khi bình an thì chẳng thắp hương,
Đến lúc lâm chung thì ôm chân Phật’’.
Lúc nhàn thì một cây hương cũng chẳng đốt, đến lúc sắp chết, thì đến ôm chân Phật
cầu cứu. Lúc đó, tuy bạn đến ôm chân Phật, nhưng Phật cũng chẳng lý tới bạn.
Tại sao ? Vì lúc bình thường bạn chẳng tu hành, đợi khi có nạn thì đến cầu
Phật, đó gọi là vừa đốt hương vừa niệm Phật. Song, còn có hạng người lúc bình
thường họ cũng chẳng đốt hương, cũng chẳng niệm Phật. Nhưng khi họ có tai nạn,
thì Bồ Tát cũng đến cứu họ, cũng khiến cho họ lìa khổ được vui. Đây là đạo lý
gì ? Bạn nên biết, mỗi người chúng ta đều có tiền nhân hậu quả, có thể kiếp
trước họ đã từng dũng mãnh tinh tấn tu đạo, siêng năng dụng công niệm Bồ Tát
Quán Thế Âm. Thậm chí họ đã từng tạo đủ thứ công đức, cho nên đời này tuy họ
chẳng niệm, là vì họ kiếp trước đã niệm rồi, đã từng trồng xuống căn lành đó, cho
nên đời này họ chẳng niệm, mà Bồ Tát Quán Thế Âm cũng đến cứu họ, đó là vì sự quan
hệ nhân xa. Nhân, có nhân xa, cũng có nhân gần. Nhân xa là nhân trồng kiếp trước;
nhân gần là nhân trồng đời này.
Hoặc có người nói : ‘’Kiếp trước tôi đã trồng nhân xuống
rồi, nên bây giờ tôi chẳng cần niệm, tương lai tôi có nạn thì Bồ Tát Quán Thế
Âm cũng sẽ đến cứu tôi.’’ Song chẳng bảo đảm, dù bạn hướng về tôi mua bảo hiểm,
tôi cũng chẳng bán. Nếu bạn ngay đời này bắt đầu thành tâm thành ý niệm, thì
tôi có thể làm chứng cho bạn, chắc chắn sẽ được cảm ứng, tương lai bạn có tai
nạn gì, thì Bồ Tát Quán Thế Âm nhất định sẽ đến cứu bạn. Vì bạn chẳng phải vừa
đốt hương vừa niệm Phật, thì tuyệt đối có cảm ứng.
Trước kia có người nọ, một lòng muốn đến Nam Hải núi Phổ Đà lạy Bồ Tát Quán Thế
Âm. Đến ngày anh ta quyết định đến núi Phổ Đà, để lạy Bồ Tát Quán Thế Âm, vừa
mới lên thuyền, thì nhà kế bên cạnh bỗng bị lửa cháy. Người nhà của anh ta chạy
đến báo cáo với anh ta : ‘’Chẳng may rồi ! Anh phải trở về nhà gấp, đừng đi đến
núi Phổ Đà, nhà bên cạnh đã bị lửa cháy, anh phải về nhà lo liệu.’’
- Anh ta nói : ‘’Tôi vì muốn lễ lạy Bồ Tát Quán Thế Âm, nên đã ăn chay ba năm rồi,
bây giờ tôi cũng lên thuyền đi. Nếu nhà bị lửa cháy, thì tôi có xuống thuyền nó
cũng vẫn cháy. Nếu không cháy, thì Bồ Tát Quán Thế Âm đã bảo hộ tôi, dù tôi không
trở về, nó cũng không cháy. Tôi thành tâm như thế, thì dù nhà có bị lửa cháy,
tôi cũng phải đến lễ lạy Bồ Tát Quán Thế Âm!’’ Anh ta quyết định một lòng đến
lễ lạy Bồ Tát Quán Thế Âm, sau khi lễ lạy xong trở về nhà, thấy những nhà bên cạnh
phải trái đều bị cháy sạch, mà một mình nhà của anh ta chẳng bị lửa cháy. Do đó,
một số người bèn hỏi anh ta : ‘’Sao những nhà bên cạnh nhà anh đều cháy sạch,
mà nhà của anh chẳng bị lửa cháy.’’ Anh ta nói : ‘’Vì lần này tôi thành tâm lễ
lạy Bồ Tát Quán Thế Âm nhất, khi tôi đi thì gì cũng chẳng màng đến, nó phải
cháy thì để nó cháy, cái gì tôi cũng buông xả hết. Đó là Bồ Tát Quán Thế Âm gia
hộ cho tôi, nên khiến cho nhà của tôi chẳng bị lửa cháy.’’ Đó là : ‘’Bằng chứng
thật dù vào trong lửa lớn, lửa không cháy được.’’
‘’Do nhờ sức oai thần của Bồ Tát’’ : Tại sao lửa chẳng cháy được ? Vì Bồ Tát
Quán Thế Âm có sức oai thần, cho nên lửa không cháy được.
‘’Nếu bị nước lớn cuốn trôi’’ : Nếu lúc bình thường bạn
cũng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì trong sự vô ý, chẳng phải cố ý muốn
thử Bồ Tát Quán Thế Âm, đi nhảy xuống biển coi thử có linh nghiệm, không chết
chìm chăng ? Nếu bạn còn có tâm thử nghiệm, thì chẳng phải là tin chân thật,
thì tuyệt đối chẳng linh, bạn đi nhảy xuống biển tơ hào chẳng nghi vấn là muốn
ngập chìm chết. Tại sao ? Vì bạn còn tâm thử nghiệm Bồ Tát. Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng
phải là học sinh, còn bạn cũng chẳng phải là thầy giáo, thì tại sao bạn phải
thử Bồ Tát Quán Thế Âm ? Vì bạn chẳng tin Bồ Tát Quán Thế Âm có đại thần thông
như thế, cho nên mới muốn thử nghiệm. Bạn thử nghiệm thì chẳng quan trọng, song
sinh mạng của bạn phải hy sinh, đừng đem mạng sống ra làm trò đùa. ‘’Xưng niệm
danh hiệu của Ngài, thì liền được vào chỗ cạn’’: Bạn xưng niệm danh hiệu Bồ Tát
Quán Thế Âm, trong sự bất tri bất giác, thì sẽ được vào chỗ cạn. Trong biển cả
chẳng biết làm thế nào được vào bờ, đó đều là thần lực của Bồ Tát Quán Thế Âm, cho
nên mới có cảm ứng như thế.
Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sinh, vì đi tìm cầu vàng, bạc, lưu ly, xa cừ,
mã não, san hô, hổ phách, trân châu, các thứ châu báu, vào trong biển lớn. Giả
sử, có gió đen thổi thuyền của họ, trôi dạt vào nước quỷ La sát. Trong đó, dù
chỉ có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì hết thảy những
người kia, đều được thoát khỏi nạn quỷ La sát, bởi nhân duyên đó, mà có tên là
Quán Thế Âm.
Đoạn văn này nói về quỷ La sát trong bảy nạn, cũng có thể nói là nạn gió đen.
Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sinh, vì muốn tìm cầu vàng, bạc, lưu ly, xa cừ,
mã não, san hô, hổ phách, chân châu bảy báu. Người thế gian đi tìm cầu khắp
nơi, bạn tranh giành, cho rằng đó là quý báu, kỳ thật đều là vật ngoài thân.
Bạn chẳng minh bạch châu báu chân thật của tự tánh, mà tham trước châu báu bên
ngoài, dù đắc được cũng chẳng có đại tác dụng gì, đối với trong tự tánh của
bạn. Song, một số người đều muốn tìm cầu ‘’vàng’’. Mỗi quốc gia đều hoan hỉ
vàng, cho nên người dân cũng cho rằng đó là một vật quý báu ít có, nên ngày đêm
nghĩ phương pháp để tìm cầu. Cho đến đất nước xảy ra giao tranh cũng vì vàng. Tại
sao con người lại cho rằng vàng quý trọng như thế ? Là vì nó rất hiếm hoi, vì
ít cho nên trân quý. Nếu vàng mà nhiều như đất, thì con người coi nó cũng chẳng
có giá trị gì. Do đó : ‘’Vật hiếm hoi thì quý.’’ Vì ít cho nên ai ai cũng đều
hoan hỉ, thậm chí nằm mộng cũng mộng thấy vàng, có người đến phi châu tìm vàng,
có người đến nước Mỹ để tìm vàng. Trước kia, nghe nói ở Cựu Kim Sơn rất là
nhiều vàng, cho nên chạy đến nước Mỹ, nhất là người Hoa đến nước Mỹ chuyên môn
tìm vàng. Khi vàng ở nước Mỹ khai quật rồi, thì chạy về Á Châu. Nước Mỹ có Cựu
Kim Sơn, còn Á Châu thì có Tân Kim Sơn, rất nhiều người chuyên môn tìm vàng. Vì
người đến Mỹ để tìm vàng, nên bị chết ở trong biển cũng chẳng biết bao nhiêu
người, có thể chết rất nhiều, vì trước kia giao thông chẳng phương tiện như bây
giờ, tin tức cũng chẳng linh thông cho lắm, cho nên chết rất nhiều người cũng chẳng
biết, đó đều là gặp phải nạn gió đen. Vàng là vật quý báu nhất, bạc là vật quý
báu thứ hai. Ngoài ra còn lưu ly, người
Ở
Ngày kế tiếp hoàng thân đến nhà Thạch Sùng tham quan, thì
ngay phòng khách chưng đầy cây san hô cao hơn ba thước, hoàng thân thấy tâm bèn
nghĩ : ‘’Ta tuy là hoàng thân, mà chẳng giàu bằng anh Thạch Sùng.’’ Do đó, bèn
lựa một cây san hô rồi từ giã ra về. Kết quả Thạch Sùng cũng vì giàu có mà bị
đấu tranh đến chết. Do đó :
‘’Người vì tài mà chết.
Chim vì ăn mà bỏ mạng’’.
Chúng sinh là điên đảo như thế. Tại sao mà chết ? là vì ‘’ tiền tài’’. Hổ phách
là một thứ khoáng vật trong suốt màu vàng, do mỡ của cây hệ tùng biến thành.
Trân châu là một loại vật chất hình tròn ở trong ngọc trai, trong suốt óng ánh
rất đẹp, gọi là trân châu.
‘’Vào trong biển lớn’’ : Con người vì muốn tìm cầu những báu vật đó, bèn vào trong biển tìm những châu báu. Ở trong biển nhiều châu báu nhất, nên vào trong biển mà tìm cầu. ‘’Giả sử có gió đen’’ : Gió đen là gì ? Tức là gió màu đen, song thứ gió màu đen này, mỗi người cũng đều có. Gì gọi là ‘’gió màu đen’’? Tức là khi bạn nổi giận, thì sắc mặt của bạn phát đen. Vì con người nổi giận nên có gió đen, nếu không nổi giận thì chẳng có gió đen.
‘’Biển’’ là gì ? Tức là ‘’biển tánh’’ của chúng ta, biển
tánh của tự tánh. ‘’Gió đen’’ dụ cho vô minh của chúng sinh, ‘’vô minh’’ còn
gọi là ‘’phiền não’’. Nếu bạn sinh phiền não tức là có gió đen. Nếu chẳng có
phiền não, thì trong ‘’biển tự tánh’’ của bạn gió yên sóng lặng. Làm thế nào
mới tìm cầu được châu báu ? Là đi vào trong tự tánh phát quật chân báu tự tánh.
Khi bạn muốn phát quật châu báu tự tánh, thì lúc đó sẽ gặp chướng ngại. Vì sao có
chướng ngại ? Là vì đức hạnh của mình chẳng đủ, đức tính chẳng đủ, đạo đức chẳng
đủ, công đức chẳng đủ. Vì chẳng làm công đức, nên đức hạnh cũng chẳng viên mãn.
Đức hạnh chẳng viên mãn, cho nên mới có gió đen, mới có ma chướng. Nếu đức của
bạn lớn, thì gió đen sẽ biến hóa thành mây cát tường. Do đó có câu rằng :
‘’Đạo cao long hổ phục,
Đức trọng quỷ thần khâm’’.
Nếu người đạo hạnh cao, thì dù rồng thấy bạn cũng khoanh lại. Rồng vốn rất là
lợi hại, nó có thể dời núi lấp biển, nếu rồng dụng thần thông thì núi cũng sẽ
dời đi, biển cũng dời đi, do đó thế lực của rồng rất là lợi hại. Song, nếu bạn
có đạo thì tuy rồng có thần thông quảng đại, cũng chẳng dám thị uy ở trước mặt
bạn, mà lão lão thật thật khoanh lại. Cọp tuy hung dữ nhất, song nếu bạn thật sự
chẳng có nóng giận, thì cọp thấy bạn sẽ thuần phục bạn, cuối đầu vẫy đuôi, tỏ
vẻ hoan nghênh, chẳng làm dữ cắn bạn. Song, bạn phải có đức hạnh thì mới có
cảnh giới này. Nếu chẳng có đạo đức, thì rồng cũng chẳng khoanh, cọp cũng chẳng
nằm.
‘’Đức trọng quỷ thần khâm’’. Nếu bạn đủ đức hạnh viên mãn, thì
dù quỷ thần gặp bạn, cũng đều cung kính bạn, tôn trọng bạn, hướng về bạn cuối
đầu đảnh lễ. Cho nên quan trọng nhất của con người, là phải có đức hạnh.
‘’Gió đen thổi thuyền của họ trôi dạt vào nước quỷ la sát’’ : Quỷ la sát là loài
quỷ ăn tinh khí, đa số nữ tính, chuyên môn ăn tinh khí của người. Nếu thuyền bị
gió đen trôi dạt vào nước quỷ la sát, nếu trong đó chỉ có một người phát tâm
xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thé Âm, thì tất cả mọi người đó, thậm chí trăm ngàn
vạn ức chúng sinh, đều được thoát khỏi nặn quỷ la sát. Bởi nhân duyên đó, nên
tên của Bồ Tát đó, gọi là Bồ Tát Quán Thế Âm.
Nói đến ‘’đức hạnh’’, mọi người đều nên chú trọng về đức hạnh,
sở dĩ người khác với cầm thú, là vì có đức hạnh. Nếu chẳng trọng đức hạnh, thì
chẳng nói về đức hạnh, chẳng phân biệt với cầm thú, mà đạo đức là do tu hành
thực tiễn tích thành, bằng không thì vốn chẳng có đạo đức để nói.
Tại quê hương đông bắc, tôi có một người bạn tri kỷ, sao anh ta trở thành bạn
tri kỷ của tôi ? Vì anh ta và tôi là đồng đạo. Khi tôi còn tại gia, đã từng vì
mẫu thân thủ hiếu, còn anh ta cũng thủ hiếu mẹ bên cạnh mộ phần. Chỗ khác nhau
là khi tại gia thì anh ta là kẻ trộm cướp, trước khi thủ hiếu thì anh ta chuyên
môn trộm cướp. Có một lần, anh ta trộm cướp đánh lại với họ, chẳng may anh ta thất
bại và bị thương, vết thương điều trị hơn nửa năm mà chẳng lành, lúc đó anh ta tỉnh
ngộ, bèn nghĩ rằng :’’Do mình làm việc quấy, cho nên vết thương này chẳng
lành.’’ Do đó, bèn quyết tâm phát nguyện : ‘’Nếu vết thương này mà lành lại,
thì sau này tôi chẳng làm trộm cướp nữa’’, và còn đến bên cạnh mộ của cha mẹ
thủ hiếu. Anh ta phát nguyện rồi, quả nhiên chưa được mấy ngày, thì vết thương
tự nhiên lành hẳn. Do đó, mà tiếp tục thủ hiếu. Trong khi thủ hiếu, có rất
nhiều chuyện phát sinh. Nay nói ra một câu chuyện cắt thịt để tế trời.
Khi anh ta thủ hiếu, thì trời mưa cả mấy tháng không ngừng. Anh ta tự nhủ :
‘’Mùa màng ngũ cốc của dân chúng trồng, sắp bị nước mưa ngập
lụt chết.’’ Bèn phát tâm vì dân chúng cầu cho trời hết mưa, mà phát nguyện rằng
: ‘’Nếu trong vòng ba ngày mà hết mưa, thì tôi sẽ cắt thịt trên thân của mình,
để cúng dường trời Phật.’’ Sau khi anh ta phát nguyện rồi, thì thật là lạ thay,
chưa đến ba ngày thì trời hết mưa. Anh ta bèn thực hành lời hứa của mình, lấy
đao cắt thịt của mình. Anh ta cắt thịt xong, vì đau đớn vô cùng nên bị hôn mê
bất tỉnh, lúc sau mới tỉnh đậy. Lúc đó, có vị huyện trưởng đi ngang qua đó, nhìn
thấy khắp nơi đều có máu tâm nghĩ : Người này cắt thịt của mình, chẳng biết là để
làm gì ? Hay là anh ta bị điên ? Bèn hỏi anh ta thì mới biết anh ta vì dân chúng
cầu cho dừng mưa, cắt thịt dâng cúng trời Phật. Ông huyện trưởng nghe rồi thì
rất hoan hỉ : ‘’Anh thật là người tốt’’! Có ấn tượng tốt đối với
Cho nên vì sao mà tôi cũng chẳng sợ khổ, ban ngày làm việc,
chẳng có chút thời gian xem kinh Phật, còn ban đêm thì vì mọi người giảng kinh.
Vì muốn làm chút bố thí, dùng pháp để bố thí. Ở nước Mỹ, có thể nói là pháp
thiếu thốn nhất, do đó tôi phát nguyện, vì các bạn bố thí Phật pháp, dù khổ
nhọc tôi cũng chẳng đình công.
Nếu lại có người, bị người khác cầm đao làm hại, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán
Thế Âm, thì đao gậy của kẻ kia cầm, bèn gãy ra từng đoạn, mà được giải thoát.
Đoạn kinh này nói về nạn đạo gậy. Nếu như có người, khi bị người khác cầm đao muốn
giết hại, nếu người đó xưng niệm danh hiểu của Bồ Tát Quán Thế Âm thì ‘’đao gậy
của kẻ kia cầm’’ : Kẻ kia là chỉ người muốn giết hại anh ta. Đao gậy là vũ khí
cầm tay, khi muốn chém bạn thì ‘’Bèn gãy ra từng đoạn’’, khi bạn xưng niệm Bồ
Tát Quán Thế Âm, thì tự nhiên cổ của bạn cứng hơn cây đao. Bổn lai cây đao cứng
hơn cổ của bạn, song bây giờ khi cây đao dơ lên chặt cổ của bạn, thì tự nhiên
gãy ra từng đoạn. Nếu không tin thì hãy thử xem cái cổ của bạn có cứng như thế
chăng ? Cây đao đó sao lại gãy ra từng đoạn ? Chẳng những gãy ra một đoạn, mà
còn gãy ra nhiều đoạn, thậm chí cây đao đó gãy vụn ra. ‘’Mà được giải thoát’’ :
Nhờ thế mà thoát khỏi nạn đao gậy. Đạo lý giải thoát được là gì ? Là vì anh ta
phát tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Có người hoài nghi : ‘’Niệm danh hiệu Bồ Tát Quán
Thế Âm, mà có sự linh cảm như thế chăng?’’ Chẳng những linh cảm như thế, mà còn
linh cảm nhiều hơn việc này ! Chỉ cần bạn thành tâm tin tưởng, thành tâm niệm
Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ có những sự việc phát sinh, cảm ứng hơn là việc đó.
Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới, đầy dẫy quỷ Dạ xoa và la sát, muốn đến
làm hại người, mà nghe họ xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì các ác
quỷ đó, còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn họ, huống chi lại làm hại. Nếu như
lại có người, hoặc có tội, hoặc không có tội, bị gông cùm siềng xích, trói buộc
thân họ, mà xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì gông cùm siềng xích đều
gãy tan, mà được giải thoát.
Đoạn văn này giải trừ nạn quỷ Dạ xoa, quỷ la sát và giải trừ nạn gông cùm siềng
xích. ‘’Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới’’ : Ba ngàn đại thiên thế giới là
gì ? Vì có chữ ba ngàn, cho nên gọi là ba ngàn đại thiên thế giới. Thế giới của
chúng ta đây, có một mặt trời mặt trăng, một núi Tu Di, một tứ thiên hạ. Một tứ
thiên hạ tức là : Nam Thiệm Bộ Châu, Bắc Câu Lư Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Đông
Thắng Thần Châu, bốn đại bộ châu. Bốn đại bộ châu này là ‘’một tứ thiên hạ’’,
‘’một’’ là chỉ một núi Tu Di, một mặt trời, một mặt trăng, và bốn đại bộ châu.
Có một ngàn núi Tu Di, một ngàn mặt trời, mặt trăng, một ngàn một tứ thiên hạ,
đây gọi là một tiểu thiên thế giới. Một ngàn tiểu thiên thế giới hợp lại, là
một trung thên thế giới. Một ngàn trung thiên thế giới, là một đại thiên thế
giới, vì có chữ ba ngàn, cho nên gọi là ‘’ba ngàn đại thiên thế giới’’.
‘’Trong đó đầy dẫy quỷ Dạ xoa’’ : Trong ba ngàn đại thiên thế giới đó, đều đầy dẫy quỷ Dạ xoa. Dạ xoa gồm có phi hành Dạ xoa, địa hành Dạ xoa, không hành Dạ xoa. Những loài quỷ này, chạy đặc biệt rất nhanh, dù hỏa tiển hiện đại, cũng chạy chẳng bằng chúng, cho nên gọi là quỷ tốc tật, hoặc là quỷ tiệp tật (quỷ chạy nhanh). La sát tức là quỷ ăn tinh khí, chúng chuyên môn ăn tinh khí của người. ‘’Muốn đến làm hại người’’ ? Loài quỷ Dạ xoa và quỷ la sát, đều chuyên môn hại người, đi khắp nơi nhiễu hại người. Ví như bạn muốn phát bồ đề tâm, thì chúng nhất định chẳng vui vẻ, cho nên cố ý gây thêm phiền não cho bạn, mà nghĩ ra đủ thứ phương pháp chướng ngại bạn, khiến cho bạn chẳng thể tu hành, kêu bạn thối đạo tâm. Bổn lai bạn phát bồ đề tâm rất dũng mãnh, song, chúng kiềm tỏa thân của bạn, dạy bạn tự nhiên vọng tưởng lên rằng : ‘’Tu để làm cái gì ? Học Phật pháp có ích gì ? Hay là đừng học Phật pháp, đi đến những nơi khác làm gì cũng rất tự do, muốn nhảy đầm thì nhảy, muốn nghe âm nhạc thì nghe. Học Phật thì những thứ đó chẳng thể làm được, nhiều thứ làm chẳng được, lại không thể xem phim, không thể uống rượu, lại không thể hút thuốc, bạn thấy đó, nhiều thứ không thể làm, Phật pháp càng học càng chán nãn’’! Ai có những tư tưởng như thế, tức là quỷ Dạ xoa, la sát đến dạy bạn nghĩ như thế. Có người nghĩ muốn xuất gia làm hòa thượng, thì chúng dạy bạn nghĩ : ‘’Làm Hòa thượng khổ quá ! Suốt ngày đến tối phải làm việc, lại ăn chẳng ngon, mặc chẳng đẹp, khổ hạnh quá, bạn đi làm Hòa thượng có ý nghĩa gì’’? Do đó, bèn thối đại tâm. Lại có người nghĩ muốn làm Tỳ Kheo ni, thì quỷ Dạ xoa la sát cũng đến dạy bạn nghĩ: ’’Hay là đi lấy chồng, có chồng thì mỗi ngày đều có chồng lo, toại tâm mãn dục’’. Tức là chúng muốn cho bạn không thể phát tâm bồ đề, đó là việc của quỷ Dạ xoa la sát, chuyên môn tổn hại đạo tâm bồ đề, phá hoại người tu hành. Cho nên nói : ‘’Muốn đến não hại người’’. ‘’Thì các ác quỷ đó còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn’’ : Một khi niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì tự nhiên phóng ra đại quang minh, quỷ đó muốn nhìn bạn, cũng nhìn chẳng thấy, vì chúng nhìn bạn tựa như đèn điện chiếu sáng, mắt cũng mở chẳng ra, cho nên nói ‘’còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn’’. ‘’Huống chi lại làm hại’’ : Chúng mắt cũng mở chẳng lên, lại làm sao mà làm hại bạn ? Tự nhiên bèn bỏ bạn chạy xa. Do đó, bạn nên luôn luôn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì mới bảo đảm.
‘’Nếu như lại có người’’ : Giả sử lại có người như thế. ‘’Hoặc có tội, hay không có tội’’ : Bất cứ là có tội, hoặc chẳng có tội. ‘’Gông cùm xiềng xích’’ : Người có tội thì sẽ bị chính phủ bắt đi, tay bị còng, cổ bị gông cùm, người có tội là chỉ người phạm tội, người chẳng có tội là người bị oan uổng, bị vu cáo, mình vốn chẳng phạm tội, mà bị chính phủ bắt đi nhốt vào lao tù. Gông cùm xiềng xích, đều là hình cụ của người phạm tội mang, trói buộc lại. Nếu bạn lúc đó xưng niệm Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, thì gông cùm xiềng xích đều gãy tan. Những hình cụ đó tự nhiên gãy ra. ‘’Đều được giải thoát’’: Lập tức bèn được giải thoát, tự do. Gông tự động gãy, cùm tự động mở. Tóm lại, bất cứ hình cụ gì trên thân của bạn, đều tự nhiên mở ra, những tình hình như thế tôi thấy qua rất nhiều.
Có một lần, tôi ở chùa Nam Hoa gặp một vị Hòa Thượng, vào
thời kỳ Nhật xâm lược
Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới, đầy dẫy những kẻ oán tặc, có một người
chủ buôn, đem theo các người buôn bán, mang theo rất nhiều châu báu quý giá, đi
qua con đường hiểm, trong đó có một người xướng lên rằng : Các thiện nam tử !
Chớ có sợ hãi, các ông nên một lòng xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, vì
vị Bồ Tát đó, hay đem sự vô úy thí cho chúng sinh. Nếu các ông xưng niệm danh
hiệu của Ngài, thì ở nơi oán tặc nầy, sẽ được giải thoát. Các người buôn nghe
rồi, đều xưng niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, vì xưng niệm danh hiệu của Ngài,
nên được giải thoát.
‘’Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới’’ : Nếu như trong ba ngàn đại thiên cõi nước.
‘’Đầy dẫy những kẻ oán tặc’’ : Trong ba ngàn đại thiên thế giới, chỗ nào cũng
có oán tặc. Oán tặc là có oan trái với bạn trong quá khứ, cho nên đời này làm
oán tặc, để đến cướp đồ của bạn. ‘’Có một người chủ buôn’’: Có một người làm
chủ buôn bán, đem theo rất nhiều người làm ăn buôn bán, lại mang theo rất nhiều
báu vật quý giá, đi qua nơi có trộm cướp. Song, trong số người buôn đó, có một người
đề nghị nói với đại chúng : ‘’Các vị thiện nam tử, các vị huynh đệ ! Xin mọi người
đừng lo âu sợ hãi. Chúng ta mọi người, hãy nên một lòng niệm danh hiệu Nam Mô
Quán Thế Âm Bồ Tát.
Vì vị Bồ Tát đó, hay đem tinh thần vô úy để bảo hộ hết thảy
chúng sinh. Hiện tại nếu mọi người chúng ta niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế
Âm, thì sẽ thoát khỏi những oán tặc này, mà được giải thoát, và chẳng bị bọn
cướp trộm cướp hoặc giết hại’’. Những người buôn đó nghe rồi, mọi người đều
cùng nhau xưng niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Vì xưng niệm danh hiệu Quán Thế
Âm Bồ Tát, quả nhiên thoát khỏi nạn oán tặc, chẳng bị bọn cướp trộm cướp. Vì đó
là cảm ứng không thể nghĩ bàn, cho nên mỗi người đều nên phát tâm tin chân thành,
đừng có hoài nghi.
Vô Tận Ý ! Sức oai thần của đại Bồ Tát Quán Thế Âm, rộng lớn như thế.
Đức Phật nói xong đạo lý kinh văn ở trên rồi, lại tiếp tục kêu một tiếng : ‘’vô
Tận Ý ! Sức oai thần của đại Bồ Tát Quán Thế Âm rộng lớn vĩ đại như thế, nói
cũng không hết.’’
Nếu có chúng sinh nhiều lòng dâm dục, thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế
Âm, thì sẽ lìa khỏi lòng dâm dục.
Nếu như có loài chúng sinh đặc biệt nhiều lòng dâm dục. Có người một mặt học Phật,
một mặt sinh tâm dâm dục, học Phật pháp càng nhiều, thì tâm dâm dục của họ càng
tăng trưởng, suốt ngày đến tối đều vọng tưởng về dâm dục, giống như suối nước
chảy không ngừng. Đó là thứ tư tưởng xấu nhất, hành vi và biểu hiện đê hèn. Vậy
thì phải làm thế nào ? Bạn đừng lo lắng, đừng buồn rầu. Chỉ cần bạn ‘’Thường
niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm’’, song chỉ tụng niệm Nam Mô Quán Thế Âm thì
vẫn chưa đủ, còn phải đem tâm cung kính chân thành ra, hướng về Bồ Tát Quán Thế
Âm lễ bái. Đảnh lễ Phật và Bồ Tát là một biểu hiện cung kính nhất. Song một số
người chẳng hiểu đạo lý này, nhất là kẻ ngoại đạo thấy mọi người lạy Phật, thì
phê bình nói những lời mù : ‘’Đó là tượng gỗ tượng đá, lạy lại có ích gì ?’’ Vì
mình chẳng có trí huệ, chẳng nhìn thấy cảnh giới Phật quang phổ chiếu, ngược
lại sinh đại ngã mạn, thậm chí xem mình còn lớn hơn Phật, cho nên nói hà tất
phải lạy Phật ! Đó là người ngu si đến cực điểm. Nếu thường hay niệm cung kính Bồ
Tát Quán Thế Âm, thì tâm dâm dục của bạn tự nhiên sẽ lìa khỏi. Có người nói :
‘’Không xong rồi ! Tôi thích dâm dục mà bây giờ không còn thì làm sao?’’ Nếu
bạn thích có dâm dục, thì cũng đừng lo lắng, vẫn có thể có. Nếu không thích có
thì có thể không có. Nếu bạn thích có, thì hà tất niệm Bồ Tát Quán Thế Âm ? Cứ
giữ nó như thường.
Nếu người nhiều sân hận, thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ
lìa khỏi sân hận.
Sân hận là gì ? Sân hận tức là phiền não, tức cũng là vô minh. Sân hận lợi hại như
lửa. Do đó có câu :
‘’Một đốm lửa nhỏ,
Đốt sạch rừng công đức.’’
Cổ nhân cũng nói :
’’Ngàn ngày nhặt củi,
Đốm lửa thiêu sạch.’’
Nghĩa là bạn nhặt củi cả ngàn ngày, song chỉ cần một chút lửa, thì sẽ đốt sạch đống
củi đó. Đây là hình dung công đức lành mà chúng ta làm hằng ngày, tuy tu trì
nhiều thời, song một khi bạn nóng giận, thì sinh ra lửa vô minh, đốt sạch công
đức đã tích tập từ lâu. Người thích nổi lửa vô minh tức là A tu la, mỗi người
đều có con đường xu hướng. Có người hướng về Phật đạo, thì tính cách của họ đa
số là từ bi, về cõi tiên thì thích thanh nhàn, về cõi người thì có duyên với người
khác, về đường ngạ quỷ thì đa số là tính giảo hoạt, chẳng chịu thiệt thòi, là người
chẳng thành thật, về đường súc sinh thì lòng tham dục nặng, về đường A tu la
thì thích nổi nóng, thứ người này, động hay chẳng động cũng đều nổi lửa nóng giận.
Loại người này phải làm thế nào ? Có phương pháp gì có thể thay đổi ? Bộ Kinh
Pháp Hoa này đã nói rõ ràng, tức là phải thường niệm : ‘’Nam Mô Quán Thế Âm Bồ
Tát’’, chỉ cần niệm luôn luôn đừng gián đoạn. Mỗi khi đến chùa nào, phàm là có
cúng Phật, hoặc cúng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì nên cung kính đãnh lễ. Cũng đừng hôm
nay lễ, ngày mai thì lại không; sáng nay đảnh lễ, tối thì chẳng lạy. Nếu kiền,
thành, hằng, thường kính lễ chư Phật Bồ Tát, thì lâu dần tính nóng giận của bạn
sẽ chẳng còn nữa, cho đến chính bạn cũng chẳng biết sự việc thế nào ? Nếu bạn
không tin, thì tôi sẽ nói ra một sự kinh nghiệm của chính tôi, để cho các vị
mượn làm cảnh.
Trước kia tôi cũng là người rất nóng giận, nói đánh người
là đánh người, nói chưởi người thì chưởi người. Khi tôi mười hai mười ba tuổi
thì thích chỉ huy, bất cứ bạn lớn cỡ nào ở cùng chỗ với tôi, thì phải nghe sự
chỉ huy của tôi, nếu chẳng nghe tôi chỉ huy, thì tôi sẽ đánh ! Chết cũng muốn
đánh, đánh đến khi nào bạn đầu hàng mới thôi, đó là hành vi củ A tu la. Về sau,
tôi học Phật thì mới giác ngộ tính nóng giận là không đúng, bèn sửa lỗi làm
mới, thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm. Cho nên hiện tại làm sư phụ,
cũng phải tu hạnh nhẫn nhục. Có khi đệ tử đến coi thường sư phụ, trước hết nổi
nóng, song tôi đề thanh hạ khí nhẫn nhục, đến khi anh ta từ từ sẽ hiểu là mình
sai quấy. Trước kia, tôi nóng giận với người khác, bây giờ bị đệ tử đến khi phụ
tôi, đây có thể nói là báo ứng. Có người nói : ‘’Đệ tử nào đến khi phụ Thầy ?’’
Người khi phụ tôi tức là người đó.
Nếu người nhiều ngu si, thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ lìa
khỏi ngu si.
Ở trước đã nói về tham và sân, bây giờ nói về si, đây gọi là ba độc. Ba độc
này, đầu độc Phật tánh của con người hôn mê như là ngủ. Tại sao chẳng giác ngộ,
một đời đều sống trong cơn say, chết trong ảo mộng ? Là vì ba độc này. Tham tức
là dâm dục, dâm dục là lợi hại nhất đối với tự tánh, thế mà một số người cho
rằng đó là sự hưởng thụ cao nhất, cho nên cứ làm những hành vi điên đảo, thứ
bụi bặm này càng ngày càng nhiều, vì Phật tánh quang minh của bạn chẳng hiển
hiện, đó là sự lợi hại của tham độc. Sân độc cũng như tham độc, lợi hại vô
cùng.
Bây giờ nói về si độc. ‘’Ngu si’’ là gì ? Tức là cảm thấy mình chẳng ngu si, đó
càng là ngu si. Cho rằng mình là người rất thông minh có trí huệ, thật tế bạn
hỏi họ : ‘’Anh từ đâu đến ? Tương lai anh đi về đâu ?’’ Thì họ chẳng biết, đến
chẳng biết đến, đi chẳng biết đi, bạn nghĩ rằng người như thế là thông minh
nhất chăng ? Song họ chẳng thừa nhận mình là người ngu si. Do đó :
‘’Danh lợi việc nhỏ ai cũng ham
Sinh tử việc lớn chẳng ai màng.’’
Trên thế giới này, cầu danh cầu lợi tuy là việc nhỏ, song con người suốt ngày
vì nó mà bôn ba lao nhọc, thậm chí đi hại người, giết người cũng vì ‘’lợi’’.
Chẳng phải vì lợi, thì là vì ‘’danh’’. Người của các nước trên thế giới này,
nhiều đếm chẳng hết được, song hợp lại mà nói thì chỉ có loại hai người. Tức
là, một là cầu danh, một là cầu lợi. Danh và lợi chi phối làm cho con người
điên đảo, song vẫn chưa tỉnh, từ sinh ra đến chết đi đều hồ đồ. Có người tham
cầu làm quan, có người cầu phát tài, có người cầu con trai con gái, một đời
khát vọng các thứ khoái lạc, song hưởng thụ chẳng bao lâu thì chết đi. Chết rồi
sinh về đâu cũng chẳng biết. Khi sống thì cho mình là bất phàm, cảm thấy là ngon
lành lắm, mình là người có trí huệ rất thông minh, thậm chí học ở nhà trường
năm nào tôi cũng đứng nhất lớp, bất cứ làm việc gì tôi cũng đứng đầu, cao hơn
mọi người, tự cho rằng thông minh khác thường. Kỳ thật, cho đến mặt mũi của mình
cũng chẳng nhận thức được, sự thông minh của bạn đều là giả, đó là thông minh
giả. Nếu bạn có trí huệ thật sự, thì chẳng cảm thấy mình có trí huệ. Vậy nói là
cảm thấy mình ngu si chăng ? Cũng chẳng cảm thấy mình là ngu si, càng chẳng cảm
thấy có trí huệ. Tuy trên bề mặt nhìn lại, đồng thân thể hình trạng với một số người,
song những tư tưởng quan niệm bạn đều minh bạch. Minh bạch hết thảy tất cả, như
huyễn như hóa. Biết hết thảy tất cả đều giả, thì bạn chẳng tham trước những
vinh hoa phú quý ở trong mộng, tham đồ sắc đẹp, tranh ta người, tranh đúng sai,
tranh hạng nhất, tranh danh đoạt lợi, mà thấy rõ tất cả đều là vô thường. Cho
nên trong Kinh Kim Cang có nói :
’’Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện,
ứng tác như thị quán’’.
Nghĩa là:
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn bọt bóng
Như sương cũng như điện
Hãy quán sát như vậy.
Tất cả pháp hữu vi như mộng huyễn bọt bóng. Pháp hữu vi là gì ? Tức là tất cả
có hình tướng, có thể nhìn thấy được, đều gọi là pháp hữu vi, tựa như mộng
huyễn bọt nước. Bọt nước ở trong biển, bạn nói là thật hay là giả ? Nói là
thật, nó lại hóa là không, nói là giả mà nó lại có bọt nước. Tuy có bọt nước,
nhưng chẳng thật tại, chẳng có thể tánh chân thật. Bóng cũng là hư huyễn, lại giống
như giọt sương, sáng sớm thì có giọt sương, nhưng khi mặt trời xuất hiện, thì
nó lại tiêu mất. Điện cũng là có, song điện quang lửa đá chuyển nháy mắt thì mất,
cũng chẳng chân thật. Nếu quán tưởng tất cả sự vật như thế, thì có gì để chấp
trước ? Chẳng có gì chấp trước, thì mới thật minh bạch, cũng chẳng tưởng đông
nghĩ tây, càng không tưởng nam nghĩ bắc, buông xả hết tất cả những trần lao
vọng tưởng. Buông xả hết được tất cả trần lao vọng tưởng, thì lúc đó bạn không
muốn thành Phật cũng không được, muốn chẳng có trí huệ cũng không thể được, tự nhiên
sẽ có.
Cho nên, khi mình chẳng có trí huệ, thì đừng cho rằng mình có trí huệ. Trí huệ chẳng phải từ bên ngoài đến, đừng sinh ra tâm kiêu ngạo : ‘’Ở trong tất cả mọi người, ta là thông minh nhất, đẹp nhất, nổi bậc hơn tất cả mọi người, chẳng giống mọi người !’’ Nếu bạn có tư tưởng như thế, thì tức là chấp tướng. Tướng vốn là túi da hôi thối, như mộng huyễn bọt bóng. Bạn suốt ngày tới tối mặc quần áo đẹp cho nó, ăn đồ ngon, hết lòng vì nó mà hưởng thụ. Song, đến lúc nó muốn đi, thì nó chẳng màng đến bạn. Có người chuyên vì túi da hôi thối mà hút thuốt, lại uống rượu, lại ăn thịt. Suốt ngày đến tối cứ lấp cho cái đáy sâu không đáy này, lấp đầy rồi lại vơi, vơi rồi lại đầy, vĩnh viễn lấp chẳng đầy, vì mình mà bận tới bận lui.
Tại sao tôi mỗi ngày ăn một bữa ? Là vì sợ phiền não, cho nên ăn ít một chút, thì bớt đi rất nhiều phiền não. Một số người cho rằng, ăn đồ ngon là hưởng thụ tốt nhất, tôi thì cho rằng là việc phiền não. Vậy giải thích sao đây ? Nếu ăn nhiều thì trong bụng chẳng thoải mái, mà ăn ít thì lại sinh tâm tham : ‘’Vì ăn ngon thì lại ăn thêm một chút.’’ Nếu ăn đồ chẳng ngon, thì chẳng sinh ra tâm tham, bụng cũng chẳng thọ tội, cho nên đây đều là việc phiền não. Tại sao con người có những phiền não ? Vì mình quá ngu si, mới tham hưởng thụ, cầu giàu sang, cầu danh lợi, cầu sung sướng, đủ thứ đâu chẳng phải là điên đảo ? Bạn tham cái này, cái kia, kết quả lại thế nào ? Đến lúc vẫn phải chết như nhau. Khi chết, một chút gì cũng chẳng mang theo được, đó chẳng phải là ngu si chăng ? Nếu ngu si như thế, thì phải làm thế nào ? Y chiếu theo Kinh Pháp Hoa : Thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm. Khi ngu si đi rồi, thì trí huệ sẽ đến. Ai biết được mình ngu si, thì người đó mới chân chánh nhận thức được mình, đã có trí huệ, thì mới cảm thấy mình là ngu si, càng chạy càng xa. Mình vốn là ngu si, mà tự cho rằng là thông minh, đó chẳng phải là ngu si lại thêm ngu si chăng ? Một cái ngu si vốn chưa đủ, mà biến thành hai cái ngu si. Nếu bây giờ chúng ta không muốn ngu si, thì phải thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là cách diệu nhất, linh nhất, tuyệt đối diệu không thể tả
Nói về ngu si và trí huệ. Gì là ngu si ? Gì là trí huệ ?
Tôi nói về một đạo lý, mà chắt các vị chẳng tin : ’’Ngu si tức là trí huệ, trí
huệ tức là ngu si.’’ Tại sao lại nói như thế ? Ở trong Kinh Bát nhã có nói
:’’Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là
sắc.’’ Cảnh giới này nói rõ về chân sắc, là từ chân không sinh ra, chân không
là từ chân sắc mà có, cho nên hai mà chẳng hai. Trí huệ và ngu si cũng như đạo
lý đó. Nếu bạn dùng được thì càng ngu si. Ngu si và trí huệ cũng chẳng phải
hai, xem thử bạn có dùng được chăng ? Nếu bạn dùng được, thì ngu si cũng biến
thành trí huệ, nếu chẳng dùng được, thì trí huệ sẽ biến thành ngu si. Nếu bạn
thật sự minh bạch đạo lý này, thì chẳng điên đảo.
Vô Tận Ý ! Bồ Tát Quán Thế Âm có những sức đại oai thần như thế, làm nhiều sự
lợi ích, cho nên chúng sinh thường hay niệm. Nếu có người nữ muốn cầu con trai,
mà lễ lạy cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ sinh được con trai phúc đức trí
huệ. Nếu muốn cầu con gái, thì sẽ sinh được con gái đoan chánh xinh đẹp, thuở
xưa đã từng trồng gốc công đức, được mọi người kính mến.
Đức Phật giảng đoạn kinh ở trên xong rồi, lại gọi một tiếng Bồ Tát Vô Tận Ý nói
:’’Bồ Tát Quán Thế Âm như ở trước có nói, có các thứ sức oai thần cứu bảy nạn,
giải ba độc, Ngài còn có thần thông diệu dụng lợi ích chúng sinh, cho nên trong
tâm chúng sinh thường hay niệm Bồ Tát Quán Thế Âm’’. Chỗ này mọi người đều phải
đặc biệt chú ý ! ‘’Tâm thường hay niệm’’ : Chẳng phải miệng niệm mà tâm không
niệm. Nếu tâm niệm mà miệng không niệm cũng được. Tóm lại, phải từ từ, vĩnh
viễn nhớ danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. ‘’Nếu có người nữ muốn cầu con trai’’. Nếu
như có người phụ nữ muốn cầu sinh được một cậu con trai, thì hãy chiếu theo
pháp môn đã nói ở trong Kinh Pháp Hoa, tức là phải lễ lạy và dùng hương hoa
trái cây, cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, thì tự nhiên sẽ được con trai đầy đủ
phước đức trí huệ. Nếu cầu con gái thì sẽ sinh được con gái tướng mạo xinh đẹp.
‘’Trước đã trồng gốc công đức, được mọi người kính mến. Tại sao lại có tướng
đoan chánh xinh đẹp ? Đó đều là do đời trước, hoặc đã từng mua hương hoa, dùng
các thứ đồ trang nghiêm, cúng dường chư Phật Bồ Tát, do công đức cúng dường
tích tụ trong quá khứ, cho nên cảm ứng đời đời được tướng mạo viên mãn trang
nghiêm, ai thấy cũng ưa mến.
Vô Tận Ý ! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức oai thần như thế. Nếu có chúng sinh
cung kính lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm, thì phước chẳng tổn giảm, cho nên chúng
sinh đều hay thọ trì, danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.
Vô Tận Ý ! Nếu có người thọ trì, sáu mươi hai ức Hằng hà sa
danh hiệu các Bồ Tát, lại suốt đời cúng dường thức ăn uống, quần áo, đồ nằm, thuốc
thang. Ý ông như thế nào ? Người thiện nam, thiện nữ đó, công đức có nhiều
chăng ?
Vô Tận Ý nói : Rất nhiều, bạch đức Thế Tôn !
Đức Phật nói : Nếu lại có người, thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, cho đến
một thời lễ lạy cúng dường, thì phước của hai người đó, bằng nhau không khác, ở
trong trăm ngàn vạn ức kiếp không thể hết được.
Đức Phật nói xong cứu bảy nạn, giải ba độc, ứng hai cầu ở trên rồi, bây giờ lại
nói : ‘’Vô Tận Ý ! Vị Bồ Tát Quán Thế Âm này, có sức oai thần như đã nói ở
trên. Nếu có chúng sinh hay cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, phát tâm lễ lạy Bồ
Tát Quán Thế Âm, thì phước của họ chắc chắn tồn tại, chẳng luống qua. Vì vậy
cho nên, có những chúng sinh hay thọ trì tụng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế
Âm.’’ Nếu trong tâm của bạn thường trì niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì được hết
thảy phước báo không thể nghĩ bàn, vi diệu khó dò.
Đức Phật lại gọi một tiếng : ‘’Vô Tận Ý ! Nếu như có người,
thọ trì sáu mươi hai ức Hằng hà sa số danh hiệu các Bồ Tát. Chẳng những chỉ niệm
và còn suốt đời dùng hương, hoa, đèn, trái cây, hoặc dùng thức ăn uống, quần
áo, đồ nằm, thuốc thang, bốn thứ cúng dường Tam Bảo. Ý của
Phật hỏi xong rồi, thì Bồ Tát Vô Tận Ý trả lời rằng: ‘’Công đức đó rất nhiều.’’
Phật nghe Bồ Tát Vô Tận Ý nói rồi bèn nói : ’’Nếu như có người khác hay niệm
danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, đừng nói người đó suốt đời cúng dường, mà dù
trong khoảng thời gian rất ngắn, lễ bái cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, thì phước
báu của hai người này đồng nhau, trong trăm ngàn vạn ức kiếp, phước báu đó cũng
không hết được.
Vô Tận Ý ! Thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, được lợi ích phước đức vô lượng
vô biên như thế.
Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng : Đức Thế Tôn ! Bồ Tát Quán Thế Âm vân du thế giới Ta Bà này như thế nào ? Vì chúng sinh thuyết pháp như thế nào ? Sức phương tiện việc đó thế nào ?
Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý : Thiện nam tử ! Nếu có những
chúng sinh trong cõi nước, đáng dùng thân Phật độ được, thì Bồ Tát Quán Thế Âm
liền hiện thân Phật, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Bích Chi Phật độ
được, thì liền hiện thân Bích Chi Phật, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân
Thanh Văn độ được, thì liền hiện thân Thanh Văn, để vì họ nói pháp. Người đáng
dùng thân Phạm Vương độ được, thì liền hiện thân Phạm Vương, để vì họ nói pháp.
Người đáng dùng thân Đế Thích độ được, thì liền hiện thân Đế Thích, để vì họ
nói pháp. Người đáng dùng thân trời Tự Tại độ được, thì liền hiện thân trời Tự
Tại, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân trời Đại Tự Tại độ được, thì liền
hiện thân trời Đại Tự Tại, để vì họ nói pháp.
Đức Phật lại gọi một tiếng Bồ Tát Vô Tận Ý nói : ‘’Thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán
Thế Âm, sẽ đắc được phước đức lợi ích chẳng có số lượng, chẳng có bờ bến như ở
trên đã nói.’’
Bồ Tát Vô Tạn Ý nghe Phật nói như thế bèn hỏi Đức Phật : ‘’Đức Thế Tôn ! Vị Bồ Tát Quán Thế Âm đó giáo hóa chúng sinh ở thế giới Ta Bà như thế nào ? Làm thế nào để vì chúng sinh nói pháp? Phương tiện nhân duyên Ngài giáo hóa việc đó thế nào ?’’
‘’Thế giới Ta Bà’’ là gì ? ‘’Ta Bà’’ là tiếng Phạn, dịch là
‘’kham nhẫn’’, tức cũng là hay nhẫn nhục, nghĩa là nói thế giới này rất khổ, chẳng
dễ gì nhẫn thọ.
Đức Phật nghe Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi như thế, bèn trả lời : ‘’Thiện nam tử ! Nếu
như có chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới, đáng dùng thân Phật độ được
họ, thì Bồ Tát Quán Thế Âm bèn thị hiện thân Phật, để vì chúng sinh đó nói
pháp.’’
Giảng đến đây có người hỏi : ‘’Bồ Tát Quán Thế Âm là Bồ Tát
chẳng thành Phật, sao có thể hiện thân Phật để vì chúng sinh nói pháp ? Có phải
là mạo xưng Phật chăng ?’’ Chẳng phải. Vì Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong vô lượng
kiếp quá khứ, sớm đã thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Sau khi thành
Phật, vì chẳng quên chúng sinh, cho nên Ngài lại đến thế giới này ẩn thân Phật,
mà hiện ra thân Bồ Tát để cứu hộ chúng sinh, đây gọi là ẩn lớn hiện nhỏ. A
Tiếp theo Phật lại nói : ‘’Người đáng dùng thân Bích Chi Phật độ được, thì Ngài liền hiện thân Bích Chi Phật, để vì họ nói pháp.’’ Bích Chi Phật nguyên tiếng Phạn là ‘’Bích Chi Ca La’’, dịch ra là ‘’Duyên giác’’. ‘’Duyên Giác’’ lại phân ra có hai : Khi sinh vào thời có Phật ra đời, thì gọi là Duyên Giác, khi sinh vào thời chẳng có Phật ra đời, gọi là Độc giác. Khi có Phật ra đời thì tu mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, Ngài quán sát làm sao lại có vô minh ? Vô minh rồi sao lại có hành ? Sao lại có thức ? Sao lại có danh sắc ? Có lục nhập ? Sao lại có xúc ? Sau đó có thọ ? Thọ rồi lại có ái ? Có ái thì có thủ ? Vì có ‘’hữu’’, tức cũng có ‘’sinh’’ ? Có đời sau, tức cũng có lão tử ? Suốt ngày quán sát mười hai nhân duyên như thế, biết tất cả đều là khổ, không, vô thường, vô ngã, cho nên buông xả tất cả, thì sẽ khai ngộ. Do quán mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, cho nên gọi là ‘’Duyên giác’’. Lúc sinh ra vào thời không có Phật ra đời, cũng tu mười hai nhân duyên này, và còn quán mùa xuân trăm hoa đua nở, mùa thu quán lá vàng rơi, quán sát đủ thứ trạng thái biến hóa tự nhiên, cho nên giác ngộ được sinh, trụ, dị, diệt; thành, trụ, hoại, không, đủ thứ tình hình chẳng phải một, chẳng phải vô thường, cũng do đó mà giác ngộ, đây gọi là ‘’Độc Giác’’, sự khác biệt giữa Duyên Giác và Độc Giác là, có và không có Phật ra đời, cho nên tên gọi khác.
Bồ Tát Quán Thế Âm vì có ngàn mắt chiếu thấy, ngàn tai nghe được, biết chúng sinh nào đáng dùng thân Bích Chi Phật độ được, thì hiện ra thân Bích Chi Phật, để vì họ nói pháp : ‘’Bạn có biết vô minh từ đâu đến chăng ? Tức là từ một niệm không giác của bạn mà đến. Vì một niệm không giác, cho nên trong tính Như Lai tạng của bạn sinh ra vô minh. Có vô minh rồi, tiếp theo sinh ra ‘’hành’’, .v.v... Đó là đáng dùng thân Bích Chi Phật, để vì họ nói pháp, khiến cho họ khai ngộ, sau dó họ mới phát tâm bồ đề, hồi tiểu hướng đại
‘’Người đáng dùng thân Thanh Văn độ được, thì liền hiện
thân Thanh Văn để vì họ nói pháp’’. Thanh Văn gọi là gì ? Thanh Văn cũng là A
la hán, Duyên Giác cũng là A la hán, đây là người nhị thừa. Thanh là âm thanh,
văn là nghe, tức là nghe được âm thanh của Phật mà ngộ đạo. Phật nói âm thanh
gì ? Nói pháp bốn đế, nghe âm thanh này mà ngộ đạo, nên gọi là ‘’Thanh Văn’’. Pháp
bốn đế là khổ, tập, diệt, đạo. Đức Phật ban đầu vì năm vị Tỳ Kheo, ba lần chuyển
bánh xe pháp bốn đế :
‘’Đây là khổ, tính bức bách
Đây là tập, tính chiêu cảm
Đây là diệt, tính khả chứng
Đây là đạo, tính khả tu’’.
‘’Đây là khổ, tính bức bách’’ : Nói sự khổ có tính bức bách mãnh liệt, khiến cho
người thọ chẳng thấu. Khổ: Có khổ khổ, hoại khổ, và hành khổ, còn có khổ về
sinh, già, bệnh chết, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh,
tám thứ khổ. Hết thảy những thứ khổ này, bức bách con người; khiến cho con
người suốt ngày phiền não khó chịu. Tất cả mọi vấn đề đều do khổ mà sinh ra,
cho nên nói khổ là tính bức bách.
‘’Đây là tập tính chiêu cảm’’ : Tập là tập tụ tích lũy, tập tụ những gì lại với
nhau ? Tập tụ phiền não lại với nhau. Tại sao lại có phiền não ? Vì có ‘’khổ’’.
Trước hết có khổ, bị khổ đè nén thọ chẳng thấu, thì sinh ra phiền não, thì sinh
nóng giận. Cho nên nói, phiền não là tính chiêu cảm, do tụ tập mà thành, tức
cũng từ ‘’khổ’’ mà có ‘’tập’’.
‘’Đây là diệt tính khả chứng’’ : Diệt tức là tịch diệt, tịch diệt phiền não vô minh.
Tịch diệt an vui, Niết Bàn diệu quả có thể chứng đắc.
‘’Đây là đạo tính khả tu’’ : Đạo này ai ai cũng có thể tu, chẳng có người nào không
thể tu đạo được. Bất cứ ai cũng có thể tu đạo, bất cứ ai cũng có thể chứng được
lý thể Niết Bàn. Đây là chuyển bánh xe pháp lần thứ nhất.
Đức Phật chỉ là hiện thân thuyết pháp, vì năm vị Tỳ Kheo nói pháp bốn diệu đế
này, tiếp theo lại nói :
‘’Đây là khổ, ông nên biết,
Đây là tập, ông nên đoạn,
Đây là diệt, ông nên chứng,
Đây là đạo, ông nên tu.’’
Nghĩa là: ‘’Sự khổ này, chẳng phải chỉ mình ta thành Phật mới biết, ông cũng
nên biết sự khổ này. Ông cũng nên đoạn trừ tập đế, nên cầu chứng Niết Bàn diệu
quả, cũng nên tu hành bồ đề giác đạo này.’’ Đây là lần thứ hai chuyển bánh xe
pháp.
Phật nói lần thứ ba chuyển bánh xe pháp :
‘’Đây là khổ, ta đã biết
Đây là tập, ta đã đoạn
Đây là diệt, ta đã chứng
Đây là đạo, ta đã tu.’’
Sự khổ này ta đã biết, tập này ta đã đoạn. Ta biết khổ thì chẳng còn bị khổ làm
mê hoặc, ta đoạn sạch phiền não, tức cũng chẳng còn tập đế. Đây là diệt ta đã
chứng đắc, ta đã đắc được sự vui tịch diệt thật sự. Đây là đạo ta đã tu hành
rồi.
Năm vị Tỳ Kheo nghe Phật ba lần diễn nói chuyển bánh xe pháp bốn đế rồi, lúc đó
lập tức khai ngộ. Vì nghe tiếng của Phật mà ngộ đạo, nên gọi là ‘’Thanh Văn’’.
Thanh Văn và Duyên Giác lại gọi là ‘’Nhị thừa’’, cũng gọi là tiểu thừa. Có đại
thừa, cũng có tiểu thừa. Đại là gì ? tiểu là gì ? Vốn chẳng có đại, cũng chẳng
có tiểu, chỉ vì trong tâm chúng sinh có đại, có tiểu. Tâm lượng vốn tận cùng hư
không khắp pháp giới, bất quả phàm phu chúng ta chẳng thể dùng tính Như Lai tạng
của mình vốn có. Có người chỉ dùng một phần nhỏ, có người dùng một phần lớn, có
người dùng toàn bộ. Chư Phật thì dùng toàn bộ, vì đã trở về cội nguồn cội. Bồ
Tát thì dùng một phần lớn, vì Bồ Tát có đại trí huệ, cho nên xử dụng một phần
lớn tính Như Lai tạng vốn có. Tiểu thừa biết ít nên cũng dùng ít. Do đó, Bồ Tát
Quán Thế Âm gặp cơ duyên, người đáng dùng thân Thanh Văn được độ, thì cũng hiện
ra thân Thanh Văn để vì họ nói pháp bốn Thánh Đế.
‘’Người đáng dùng thân Phạm Vương độ được họ, thì liền hiện thân Phạm Vương để
vì họ nói pháp’’. Phạm Vương tức là Đại Phạm Thiên Vương, ông ta là hoàng đế ở
trên trời Đại Phạm. ‘’Phạm’’ nghĩa là thanh tịnh. Ông ta làm vua ở trên trời
cảm thấy rất tự tại, Bồ Tát Quán Thế Âm cũng hiện thân Đại Phạm Thiên Vương để
vì họ nói pháp.
‘’Người đáng dùng thân Đế Thích độ được, thì liền hiện thân
Đế Thích, để vì họ nói pháp’’. Đế Thích, trong Kinh A Di Đà gọi là Thích Đề
Hoàn Nhân, ở trong đạo giáo gọi là Ngọc Hoàng Đại Đế. Đế Thích không chỉ là
một, mà có rất nhiều vị. Cõi trời này mà chúng ta thấy biết gọi là trời Đao
Lợi. Đế Thích của trời Đao Lợi tức cũng là Thiên Chúa mà một số người tín ngưỡng.
Trong chú Lăng Nghiêm có một câu là : Nam Mô Nhân Đà
Làm sao có thể có ‘’Ngàn trăm ức hóa thân’’? Tức là bạn mô phỏng
Ngài, học tập theo Ngài, thì biến thành hóa thân của Ngài. Do đó, ‘’Pháp chẳng có
pháp cố định’’, pháp này chẳng cố định, chẳng chấp trước. Nếu bạn nghĩ chấp trước
cố định, thử hỏi chính bạn xem cố định có thể không chết chăng ? Nếu bạn nhất
định không chết, thì việc đó cũng đều cố định. Cho nên đạo lý ‘’trăm ngàn ức
hóa thân’’, chẳng khó khăn gì, chỉ cần bạn có tâm hằng thường, có nghị lực học
tập Bồ Tát Quán Thế Âm, hoằng
‘’Người đáng dùng thân trời Tự Tại độ được, thì liền hiện
thân trời Tự Tại, để vì họ nói pháp. Đáng dùng thân trời Đại Tự Tại độ được,
thì liền hiện thân trời Đại Tự Tại, để vì họ nói pháp.’’ Thân trời Tự Tại là gì
? Tức là thiên ma ngoại đạo. Tôi nói toạt ra cho mọi người biết, thân trời Tự
Tại này tức là Thiên Chúa Giáo, Thiên Chúa cơ đốc giáo. Đại Tự Tại Thiên Vương
cũng thuộc về loại tôn giáo này. Họ rất cống cao ngã mạn, họ nói chẳng có Phật,
chẳng có Pháp, chẳng có Tăng, hủy báng Tam Bảo, tự cho mình là tối cao vô thượng.
Tại sao lại như thế ? Vì họ quá tự tại, quá khoái lạc, thật là thân trời Tự Tại
! Song, Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng trách loài chúng sinh này, khi cơ duyên của họ
thành thục, thì Ngài cũng giảng giải Phật pháp cho họ nghe, khiến cho họ chuyển
mê thành ngộ, trở về nguồn cội.
Người đáng dùng thân thiên đại tướng quân độ được, thì liền hiện thân thiên đại
tướng quân, để vì họ nói pháp.
‘’Thiên Đại Tướng Quân’’ này, có hai lối giải thích, một là làm đại tướng quân
ở trên trời, và thứ hai là thiên thần ở trên trời.
Khi họ hưởng hết phước trời, thì chuyển xuống nhân gian làm đại tướng quân. Bồ
Tát Quán Thế Âm biết nhân duyên của họ có thể độ được, thì liền hiện thân thiên
đại tướng quân, để vì họ nói pháp, phá trừ mê hoặc, giác ngộ vô thường, buông
xả tất cả khoái lạc thế gian, phát tâm tu hành, cầu chứng khoái lạc chân chánh
vô thượng.
Người đáng dùng thân Tỳ Sa Môn độ được, thì liền hiện thân Tỳ Sa Môn, để vì họ
nói pháp.
Tỳ Sa Môn tức là tên của một trong bốn vị Thiên Vương, tức cũng là Thiên Vương
phương bắc Câu Lưu Châu. Bốn đại bộ châu đều có một vị Thiên Vương, tức là Đông
Thiên Vương, Tây Thiên Vương, Nam Thiên Vương và Bắc Thiên Vương. Đáng dùng
thân Tỳ Sa Môn độ được, thì Bồ Tát Quán Thế Âm hiện ra thân Bắc Phương Thiên
Vương để vì họ nói pháp.
Người đáng dùng thân ông vua nhỏ độ được, thì liền hiện thân ông vua nhỏ, để
vì họ nói pháp.
Thân ông vua nhỏ là chỉ ông vua quản lý một nước, chỉ xưng vua trong một nước. Người
đáng dùng thân ông vua nhỏ độ được, thì Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân ông vua
nhỏ, để vì họ nói pháp.
Người đáng dùng thân trưởng giả độ được, thì liền hiện thân trưởng giả, để
vì nọ nói pháp.
‘’Trưởng giả là gì ?’’ Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói, phàm là người có đạo đức,
có trí huệ, có danh vọng, quý tộc, niên cao, người trưởng bối, không có ai mà chẳng
mến họ, người vãn bối không có ai mà chẳng cung kính họ. Tại sao ai ai cũng đều
đối tốt với họ ? Vì họ có tâm từ bi, bình đẳng, nhiệt tâm giúp đỡ mọi người,
hết thảy mọi người đều công nhận họ là ‘’trưởng giả’’. Nếu có người đáng dùng thân
trưởng giả độ được, thì Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân trưởng giả giàu có, để vì
họ nói pháp. Trong Chú Đại Bi có hình tướng đại trượng phu, của Bồ Tát Quán Thế
Âm hiện tướng trưởng giả, có râu dài mấy thước, đoan nhiên chánh tọa, oai phong
lẫm liệt, đó tức là tướng trưởng giả giàu có.
Người đáng dùng thân cư sĩ độ được, thì liền hiện thân cư sĩ, mà vì họ nói
pháp.
‘’Người đáng dùng thân cư sĩ độ được’’, thì Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân
cư sĩ, để vì người đó nói pháp. Cư sĩ tức là người cư sĩ tại gia, tức cũng là
người tại gia tin Phật, giữ gìn năm giới, tu mười điều thiện. Năm giới là gì ?
Tức là không sát sinh, không trộm cắp, không ta dâm, không nói dối, không uống
rượu. Mười điều lành là gì ? Tức là ngược lại với mười điều ác : Sát sinh, trộm
cắp, tà dâm. Ý có ba điều ác : Tham, sân, si. Miệng có bốn điều ác : Nói dối,
nói hai chiều, nói thêu dệt, chưởi mắng. Thân có ba điều ác, ý có ba điều ác,
miệng có bốn điều ác, hợp lại là mười điều ác. Chuyển mười điều ác này thì
thành mười điều thiện. Mười điều thiện tức là chẳng sát sinh, chẳng trộm cắp,
chẳng tà dâm, chẳng tham, chẳng sân, chẳng si, chẳng nói dối, chẳng nói thêu dệt,
chẳng nói hai chiều, chẳng chười mắng.
Bạn chẳng làm ác cũng tức là thiện. Làm cư sĩ thì một mặt phải
phụng trì năm giới mười điều lành, một mặt hộ trì Tam Bảo, hộ trì Phật pháp, đề
xướng Phật giáo, khiến cho Phật giáo ngày càng hưng thạnh, đó là trách nhiệm của
mỗi cư sĩ chúng ta, trách nhiệm của người xuất gia là hoằng
Người đáng dùng thân tể quan độ được, thì liền hiện thân tể quan, để vì họ
nói pháp.
Tể tức là tể hạt vạn hóa, nghĩa là làm tể tướng, hoặc là chức quan lớn khác. Người
đáng dùng thân làm quan độ được, thì Bồ Tát Quán Thế Âm cũng hiện thân làm
quan, hoặc thân tể tướng, để vì họ nói pháp.
Người đáng dùng thân Bà la môn độ được, thì liền hiện thân Bà la môn, để vì họ
nói pháp.
Đáng dùng thân bàng môn tả đạo ở Ấn Độ, chí tu phạm hạnh thanh tịnh Bà la môn
độ được, thì Bồ Tát Quán Thế Âm bèn hiện thân ngoại đạo Bà la môn, để vì chúng
sinh nói pháp, khiến cho họ minh bạch Phật pháp, y giáo phụng hành, tương lai
sẽ thành Phật đạo.
Người đáng dùng thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, độ được, thì liền
hiện thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, để vì họ nói pháp.
Tỳ Kheo là tiếng phạn, dịch ra gồm có ba nghĩa :
1). Bố ma : Vì có người xuất gia tu đạo, thọ giới cụ túc, nên quyến thuộc của
ma giảm bới, cho nên khiến cho ma vương sợ hãi.
2). Khất sỉ : Người Tăng sĩ xuất gia, trên khất (xin) pháp của chư Phật để nuôi
pháp thân; dưới khất (xin) thức ăn của chúng sinh, để nuôi dưỡng sắc thân.
3). Phá phiền não : Xuất gia tu đạo, y giáo phụng hành, sẽ phá trừ vô minh
phiền não, thấy tánh thành Phật, nên gọi là phá phiền não. Tỳ Kheo ni tức là
người nữ xuất gia thọ giới cụ túc. Cư sĩ nam, cư sĩ nữ. Tiếng Phạn gọi là ưu bà
tắc, ưu bà di, nghĩa là cư sĩ nam, cư sĩ nữ gần gũi Tam Bảo, thường đến chùa lễ
Phật, tụng kinh, quét dọn, cúng dường Tam Bảo, làm công đức, làm phước. Bồ Tát
Quán Thế Âm thấy tất cả chúng sinh này, đáng dùng thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư
sĩ nam, cư sĩ nữ, độ được, thì liền hiện thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam,
cư sĩ nữ, để vì những chúng sinh đó nói pháp.
Người đáng dùng thân phụ nữ trưởng giả, cư sĩ, tể quan, Bà la môn, độ được, thì
liền hiện thân phụ nữ, để vì họ nói pháp.
Trưởng giả cũng bao quát vợ của trưởng giả, cư sĩ cũng bao quát vợ của cư sĩ,
tể quan cũng bao quát vợ của tể quan, Bà la môn cũng bao quát vợ của Bà la môn.
Trưởng giả cũng có nữ trưởng giả, cư sĩ cũng có nữ cư sĩ, tể quan cũng có nữ tể
quan, Bà la môn cũng có nữ Bà la môn. Do đó, nếu có người đáng dùng đủ thứ thân
phụ nữ độ được, thì Bồ Tát Quán Thế Âm bèn hiện ra thân phụ nữ trưởng giả, cư
sĩ, tể quan, Bà la môn, để vì họ nói pháp.
Người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ, độ được, thì liền hiện thân đồng nam,
đồng nữ, để vì họ nói pháp.
Bồ Tát Vi Đà trong quá khứ phát nguyện, đời đời kiếp kiếp muốn làm đồng nam,
còn Long Nữ Bồ Tát trong quá khứ, cũng phát nguyện đời đời kiếp kiếp làm đồng
nữ, chẳng muốn kết hôn.
Nói về sinh lý của con người thì, đồng nam đồng nữ tức là
chẳng phá hoại thân thể. Một khi nam nữ khác tính tiếp xúc với nhau, thì thân
thể chẳng còn nguyên vẹn, trên văn pháp
Trong Phật giáo, thân đồng nam, đồng nữ là thanh tịnh nhất, chẳng có ô nhiễm, nếu
tu đạo hoặc tham thiền, thì sớm sẽ thành tựu, mau khai ngộ, đắc được thiên
nhãn. Do đó, đồng trinh nhập đạo là quý báu nhất. Đồng nam thuộc về (quẻ) càn.
Càn tức là thuần dương. Đồng nữ thuộc về (quẻ) khôn, tức thuộc về thuần âm. Một
thuần dương, một thuần âm, cho nên ở trong đạo giáo mà nói, thì đây là thân thể
thanh tịnh nhất. Bồ Tát Quán Thế Âm quán nhân duyên, nếu người nào đó đáng dùng
thân đồng nam, đồng nữ, tu hành đắc đạo, thì Bồ Tát Quán Thế Âm bèn hiện thân
đồng nam, đồng nữ, để vì họ nói pháp, khiến cho họ phát bồ đề tâm, sớm thành
tựu Phật đạo.
Người đáng dùng thân trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn
na la, Ma hầu la già, người, chẳng phải người, độ được, thì liền hiện ra các
thân đó, để vì họ nói pháp.
Rồng có rất nhiều loại, có rồng ở trên trời, có rồng ở trong biển, có rồng giữ
kho tàng. Rồng trên trời làm hộ pháp ở trên trời, rồng trong biển là ở trong
cung rồng làm thủ lãnh cá, rùa, tôm, cua; còn gọi là rồng làm mưa. Rồng giữ kho
tàng, tức là rồng bảo vệ châu báu. Thời xưa có rất nhiều rồng, bây giờ một số
người chẳng nhìn thấy, bèn nói là không có. Kỳ thật, rồng rất nhiều. Vào thời
Lục Tổ Huệ Năng, có một con rồng độc, chuyên môn phun hơi độc. Ai mà trúng chất
độc này, thì sẽ sinh bệnh, thậm chí chẳng trị được mà chết. Đương thời, nền đất
thiền đường Chùa Nam Hoa, vốn là một đầm rồng độc, diện tích cái đầm này lớn
khoảng một mẫu, chẳng có ai biết đầm rộng đó sâu bao nhiêu, trong đó lại có một
con rồng, con rồng này, chẳng phải là rồng tốt mà là rồng độc, chuyên môn hại người,
nhất là làm cho những người tu hành ở chùa Nam Hoa thường thường sinh bệnh,
không thể tu hành. Một lần nọ, Lục Tổ Huệ Năng đến đầm đó thì nó hiện thân lớn,
chật đầy cái đầm rộng một mẫu. Lục Tổ nhìn thấy bèn cười nói : ‘’Ê ! Ngươi chỉ
có bản lãnh hiện thân lớn, mà không thể hiện thân nhỏ, nếu chỉ hiện thân lớn,
thì chẳng có bản lãnh bao nhiêu.’’ Con rồng nghe rồi bèn ẩn thân lớn hiện ra
thân nhỏ, dài khoảng một tất, ở trong nước bơi tới bơi lui. Lục Tổ nói : ‘’Ê !
Ngươi có chút bản lãnh, có thể hiện lớn, có thể hiện nhỏ, nhưng không dám nhảy
vào trong bình bát của ta.’’ Lúc đó, con rồng nghe rồi, bèn nhảy vào trong bình
bát của Lục Tổ. Lục Tổ nói : ‘’ Đây là ngươi tự động vào, nhưng ra không
được’’! Con rồng dùng mọi cách nhảy ra ngoài, nhưng chẳng cách chi nhảy ra
đuợc. Lục Tổ bèn nói với nó : ‘’Ngươi hà tất phải vùng vẫy, sao đời này ngươi
lại biến thành thân rồng ? Vì đời trước ngươi vốn là người tu hành, cũng có căn
lành, từng nghe Phật pháp, bất quá tâm sân của ngươi quá nặng, tính nóng giận
quá lớn, đây là thừa cấp giới hoãn (tu theo đại thừa mà chẳng giữ giới), cho
nên hiện nay ngươi mới đọa làm thân rồng. Ngươi đừng cho rằng bản lãnh của mình
là lớn, có thể biến lớn biến nhỏ, biến có biến không ! Nhưng bây giờ ngươi đã ở
trong bình bát của ta, thì không thể ra được.’’ Rồng nghe những lời đó rồi, tức
cũng bị hàng phục, chẳng thể ra ngoài được nữa. Do đó, Lục Tổ nói pháp cho nó
nghe, nó nghe pháp hiểu rõ rồi, lập tức thoát khỏi thân rồng. Tro cốt con rồng
này, được giữ ở chùa Nam Hoa rất lâu, về sau vì chiến tranh binh lửa, nên cốt
con rồng cũng mất đi. Đó là một đoạn nhân duyên Lục Tổ Huệ Năng hàng phục rồng
độc ở chùa Nam Hoa.
Vào đời Đường ở
Không ngờ đêm hôm đó, Tiểu Bạch Long đến đòi mạng ông ta
nói : ‘’Tôi đã nói chúng ta là anh em, phải cứu tôi mà tại sao ông không cứu
tôi ? Để cho tên quan đó giết tôi. Bây giờ tôi phải giết ông để đền mạng cho
tôi.’’ Vua Đường Thái Tông tỉnh dậy biết Tiểu Bạch Long đến đòi mạng. Ngày thứ
hai bèn thảo luận việc này với Từ Mậu Công, Từ Mậu công nói : ‘’Không quan
trọng, chúng ta đây có hai người Tần Quỳnh và Kính Đức có thể cản được nó. Ngài
nên dùng hai người này gát bên ngoài cửa, thì Tiểu Bạch Long chẳng dám đến, Tần
Quỳnh là thần tướng mặt vàng, còn Kính Đức là thần tướng mặt đen, sắc mặt của y
so với dầu hắc bây giờ còn đen hơn, đen đến nỗi phát quang. Do đó, bèn dùng hai
người này giữ cửa, quả nhiên Tiểu Bạch Long tối chẳng dám đến. Về sau, chẳng
cần hai người này gát cửa nữa, mà chỉ vẽ hình của hai người này dán lên cửa, để
gát cửa cho vua Đường Thái Tông, thì Tiểu Bạch Long vĩnh viễn chẳng dám đến nữa.
Cho nên người
Nhân quả của loài rồng là vì chúng ‘’thừa cấp giới hoãn’’ (tu đại thừa mà chẳng giữ giới), tu hành rất dụng công, nhưng chẳng giữ gìn giới luật. Vì chúng thừa cấp, cho nên có thần thông biến hóa, lại vì giới hoãn, nên đọa làm súc sinh. Đây là lược nói về rồng.
Dạ xoa cũng gọi là Dược Xoa đề, là tiếng phạn, nghĩa là ‘’tiệp
tật’’, tức là chạy nhanh, thậm chí còn nhanh hơn hỏa tiển bây giờ. Loài quỷ này
trong một niệm, có thể đến bất cứ nơi nào chúng nghĩ muốn đến.
Càn thát bà, dịch là hương thần, dùng hương làm thức ăn, thân tỏa ra mùi hương.
Lại dịch là nhạc thần, là thần tấu nhạc của vua Đế Thích, đội mũ ba góc, tay
cầm ống tiêu, ống sáo, thân màu đỏ, búi tóc phóng ánh sáng màu lửa ngọn. Ở Tây
Vực gọi là người ca xướng là Càn Thác Bà.
A tu la là tiếng phạn, dịch là ‘’phi thiên’’. Vì chúng có phước
trời, mà chẳng có đức trời, tựa như trời mà chẳng phải trời. Lại dịch là ‘’Vô đoan
chánh’’, vì dung mạo của chúng rất xấu xí. Chẳng phải chỉ chúng sinh sinh vào
loài A tu la, thì mới là A tu la, mà trong sáu đường cũng có rất nhiều loài, A
tu la của ngựa rất nặng, do đó có câu ‘’ngựa hại bầy’’. Thứ ngưạ này, sống ở
trong bầy ngựa không đá con này, thì cũng cắn con kia. Tóm lại, y khiến cho bầy
ngựa đồng loại đều chẳng được bình an, có hại cho bầy ngựa, nên gọi là ngựa hại
bầy. Đó cũng là một loài A tu la. Và bò cũng là A tu la, bạn thấy trên đầu bò có
hai cái sừng dài, hai cái sừng đó dự bị đánh lộn với người. Vì thuở xưa khi làm
A tu la, thì trên đầu thường đội cái mũ che đạn, thân cũng mặc giáp, cho nên
khi chuyển sinh làm bò, thì cũng chẳng quên được tính A tu la. Chẳng những bò A
tu la, mà gà trống cũng là A tu la biến thành. Gà trống mỗi khi gặp gà trống
khác thì muốn đá. Chăng những gà A tu la mà con dế mèn cũng là A tu la, chúng đá
với nhau, cho đến khi có một con chết mới thôi. Ngoài ra như rắn, chuột, mèo
.v.v... phàm là động vật tính tình thích đấu, thích giết, đều thuộc về A tu la.
Chúng sinh chuyển sinh làm A tu la tướng mạo rất là xấu xí, bất đoan chánh
nhất, mỏ dài như là mỏ heo, lỗ mũi dài như lỗ mũi voi, mắt như mắt bò, tai như
tai chuột. Hoặc là thân người mà đầu heo, hoặc là thân người đầu bò, hoặc thân
người đầu ngựa, hoặc thân người đầu cọp, rất là hung ác. Tuy tướng mạo của nam
A tu la rất xấu xí, nhưng nữ A tu la rất xinh đẹp. Nữ A tu la có thể nói, ai
thấy cũng ưa, cho nên trời Đế Thích một lần nọ, thấy nữ A tu la xinh đẽp, bèn
nói với vua A tu la cầu hôn, vua A tu la cũng đáp ứng, gả con gái cho trời Đế
Thích.
Tóm lại, A tu la thì thích nóng giận, thích đấu tranh. Người nào thường nóng giận,
thì tương lai đều có thể sinh làm A tu la, cũng có thể hiện tại là A tu la. Nếu
sửa đổi tính nóng giận, tu hạnh nhẫn nhục, thì sẽ thoát khỏi quan hệ với đường
A tu la.
Ca lâu la tức là đại bàng kim sí điểu, chuyên bắt rồng để
ăn. Loài chim này lớn cỡ nào ? Hai cánh của nó xoè ra rộng ba trăm do tuần. Do
tuần là số mục ở Ấn Độ dùng để đo lường, phân làm đại do tuần, trung do tuần,
và tiểu do tuần. Tiểu do tuần có bốn mươi dặm, trung do tuần sáu mươi dặm, đại
do tuần tám mươi dặm. Hai cánh chim đại bàng xoè ra, là ba trăm do tuần, tức
cũng là hai vạn bốn ngàn dặm. Mỗi khi nó xoè cánh ra, thì quạt nước biển rẽ làm
hai, bắt rồng trong biển ăn. Chúng lấy rồng làm thức ăn, lâu dần rồng con rồng cháu
gần như bị tuyệt nòi. Vua rồng chẳng có cách nào khác, bèn đến gặp Phật để cầu cứu.
Phật bèn cho vua rồng tấm y cà sa, mang về chia cho mỗi con rồng một sợi tơ cột
lên thân, thì chim đại bàng chẳng cách chi ăn được rồng nữa. Vì tấm y cà sa của
Phật diệu dụng vô cùng, nên giúp cho loài rồng thoát khỏi hoạn nạn. Song, lần
này chim đại bàng kim sí đến tìm Đức Phật nói : ‘’Ngài cứu loài rồng cố nhiên
là việc tốt, song loài chim của tôi đều bị chết đói ! Chúng tôi chỉ có thể ăn rồng,
bây giời chẳng có rồng ăn, chúng tôi biết làm thế nào ?’’ Phật bèn vì chim đại bàng
kim sí nói pháp thọ năm giới. Chim đại bàng nói : ‘’Tôi không sát sinh có thể
được, nhưng tôi chẳng có gì để ăn, chẳng phải là bị chết đói chăng ?’’ Phật nói
: ‘’Ngươi không có chết đói, từ nay về sau mỗi ngày vào giờ ngọ, hết thảy đệ tử
của ta khi ăn cơm, thì đem chút cơm cho nhà ngươi ăn.’’ Cho nên sau này, phàm
là đệ tử của Phật khi ăm cơm trưa, đều có đem chút cơm cúng cho đại bàng kim sí
điểu ăn. Từ đó, chim đại bàng thọ trì năm giới, chẳng sát sinh nữa và trở thành
hộ pháp ở trong Phật giáo, là một bộ trong Thiên Long Bát Bộ.
Về phương diện ăn uống trong Phật giáo, thì sáng sớm là chư thiên ăn, buổi trưa
là Phật dùng, buổi chiều là súc sinh ăn, buổi tối là quỷ ăn. Ngạ quỷ vốn chẳng
tìm được thức ăn, chúng nhìn thấy chúng ta ăn, chúng cũng nghĩ tưởng ăn, một
khi chúng ta ăn vang ra tiếng động khua chén đũa, thì chúng cướp lấy để ăn, song
thức ăn đến miệng chúng thì liền biến thành lửa, đó là nghiệp báo quá nặng.
Song, trong tâm của loài quỷ thì cho rằng, con người dùng pháp thuật, biến thức
ăn thành lửa do chúng cướp được, chẳng cho chúng ăn, do đó chúng sinh tâm sân
hận đánh người, hoặc khiến cho người sinh bệnh. Cho nên buổi tối người xuất gia
không ăn, vì là giờ của loài quỷ ăn. Sáng sớm là giờ chư thiên ăn, nếu người
xuất gia sáng có dùng cháo, hoặc bánh nướng, thì đem một chút thí cho chư thiên
dùng, hoặc cho quỷ mẹ quỷ con.
La sát quỷ mẹ quỷ con, vốn chuyên môn ăn con nít. Tại sao lại gọi chúng là quỷ mẹ quỷ con ? Vì chúng thống lãnh một ngàn người con của chúng, đi khắp nơi tìm bắt con nít để ăn. Có một nhà nọ, vừa mới sinh ra một đứa bé thì bị chúng bắt đi ăn, cứ như thế dần dần biến thành rất nhiều nhà chẳng còn con nít. Do đó, có người đến cầu Đức Phật, hỏi Phật tại sao con nít đều mất hết chẳng thấy. Phải làm cách nào ? Đức Phật biết số con nít đều bị chúng bắt trộm ăn.
Một ngày nọ, Đức Phật bèn bắt con quỷ út nhất, trong số một
ngàn con quỷ bỏ vào trong bình bát đậy lại. Khi chúng về nhà thì thấy mất đứa con
út của mình, bèn đi khắp nơi tìm cũng chẳng thấy, mới tìm đến chỗ Đức Phật, thì
nghe tiếng khóc con của chúng ở trong bình bát vang ra. Chúng bèn đến chỗ bình
bát, tìm cách cứu con của chúng ra, song chúng di động bình bát chẳng nổi, bèn
về nhà kêu hết chín trăm chín mươi chín con quỷ con đến, để dùng sức di động
cái bình bát, song cũng di động chẳng nổi, tơ hào cũng chẳng động đậy, do đó
chúng bèn đến cầu Đức Phật nói : ‘’Tại sao Ngài bắt trộm con của tôi bỏ vào
trong bình bát, mà không trả lại con của tôi ?’’ Đức Phật hỏi : ‘’Nhà người có
bao nhiêu người con ?’’ Chúng đáp : ‘’Có một ngàn người con’’. Phật nói :
‘’Ngươi có một ngàn người con, mà bây giờ chỉ mất đi có một đứa, mà sao ngươi
lại cấp tốc như thế ?’’ Chúng nói : ‘’Tuy chỉ mất một, nhưng tôi cũng chẳng
muốn thiếu.’’ Phật nói : ‘’Vậy chứ ngươi bắt trộm hết thảy những đứa con nít
của người ta đem đi ăn, thì ngươi tính sao ?’’ Quỷ nói : ‘’Tôi chẳng phải muốn
ăn con nít, nhưng tôi chẳng có gì để ăn ! Nếu tôi không đi bắt trộm con nít để ăn,
thì một ngàn đứa con của tôi đây sẽ bị chết đói.’’ Phật nói : ‘’Từ nay về sau, ngươi
đừng bắt trộm con nít để ăn nữa, ngươi nên quy y Tam Bảo, thọ trì năm giới, đừng
sát sinh nữa ! Ngươi nghĩ xem, ngươi có một ngàn người con, mà một người con cũng
xả bỏ chẳng đặng, ta chỉ bắt nhốt một người con của ngươi, mà ngươi buồn rầu
như thế ! Vậy con của mọi người trên thế gian, ngươi bắt trộm ăn, cha mẹ của họ
không buồn rầu chăng ? Ngươi đừng có ích kỷ như thế.’’ Do đó, quỷ mẹ quỷ con
bèn đáp ứng Đức Phật, quy y Tam Bảo, thọ trì năm giới. Đức Phật bèn kêu hết thảy
đệ tử, khi dùng cơm vào giờ trưa, thì đem ít hạt cơm hoặc chút thức ăn, thí cho
quỷ mẹ quỷ con. Cho nên, khi tống thực thì niệm bài kệ rằng :
‘’Đại bàng kim sí điểu
Khoáng dã quỷ thần chúng
La sát quỷ tử mẫu
Cam lồ tất sung mãn.’’
Nghĩa là :
Chim đại bàng cánh vàng
Quỷ thần nơi hoang dã
Quỷ mẹ con la sát
Cam lồ đều no đủ.
Cam lồ là ví dụ ăn bất cứ vật gì, đều ngon ngọt như cam lồ, vô luận có bao
nhiêu thì thảy đều no, đó là kệ cúng thí buổi trưa.
Khẩn na la cũng là một trong tám bộ quỷ thần. Chúng cũng là thần âm nhạc của
trời Đế Thích; trên đầu của chúng có một cái sừng, nên còn có tên gọi là nghi
thần.
Ma hầu la già là gì ? Tức là đại mãng xà, chúng rất hung ác, còn gọi là địa long.
Ở tỉnh Quảng Đông của
Vào thời vua
Khi Phật còn tại thế thì Ma
hầu la già quy y Tam Bảo, cho nên chúng cũng là Phật giáo đồ, là hộ pháp.
‘’Người và chẳng phải người’’ : Người là tất cả loài người chúng ta, chẳng phải
người là chỉ tất cả súc sinh. Bồ Tát Quán Thế Âm nhìn xem chúng sinh đáng dùng
thân trời rồng bát bộ độ được, thì liền hiện ra thân rồng, hoặc thân Dạ xoa,
hoặc thân La sát, hoặc Càn thát bà, hoặc A tu la, hoặc Ca lâu la, hoặc Khẩn na
la, hoặc Ma hầu la già các thứ thân hình, hoặc hiện thân người, và tất cả thân
súc sinh chẳng phải người, để vì chúng sinh đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Thần chấp kim cang độ được, thì liền hiện thân Thần
chấp kim cang, để vì họ nói pháp.
‘’Thần chấp kim cang’’ là hộ pháp của Phật giáo. Lai lịch của Thần Kim Cang, là
một vị chuyển luân thánh vương trong quá khứ lâu xa về trước. Ngài sinh được
một ngàn người con. Làm sao một bà phu nhân mà có thể sinh được ngàn người con
? Vì tuổi thọ của họ rất lâu dài, tuổi thọ lâu dài, cho nên có một ngàn người
con cũng chẳng lấy làm nhiều, song ông vua chuyển luân còn cảm thấy chưa đủ,
lại cưới thêm một bà thiếp. Bà vợ thứ hai này sinh được hai người con, do đó
tổng cộng có một ngàn lẻ hai người con. Một ngàn lẻ hai người con này, cùng
nhau phát nguyện rằng : ‘’Tương lai chúng ta tu hành thành tựu, thì chúng ta
một ngàn anh em phải theo thứ tự mà thành Phật, cho dù Chuyển Luân Thánh Vương
cũng chẳng làm, mọi người chúng ta hãy cùng nhau bắt thăm.’’ Đức Phật Thích Ca
bắt trúng thăm thứ tư. Ngài là vị Phật thứ tư, tương lai vị Phật thứ năm, thứ
sáu, đều sẽ lần lượt ra đời ngàn vị Phật trong kiếp hiền. Một ngàn anh em này
đều phát nguyện thành Phật. Và hai người con của bà phu nhân thứ hai cũng phát nguyện.
Phát nguyện gì ? Một người phát nguyện : ‘’Một ngàn người anh của chúng tôi đây,
bất cứ người anh nào lúc thành Phật, thì tôi sẽ là người đầu tiên đến thỉnh
Ngài thuyết pháp, cung kính cúng dường Tam Bảo’’. Còn người kia phát nguyện:
‘’Tôi phát nguyện tương lai làm hộ pháp, khi mỗi người anh của tôi thành Phật,
thì tôi sẽ bảo hộ Ngài, hộ pháp của Ngài.’’ Do đó, Ngài thành vị Kim Cang Hộ Pháp,
trong tay thường cầm chày kim cang để bảo hộ Phật giáo. Mỗi khi có vị Phật ra
đời, thì Ngài đến ủng hộ Phật pháp. Ngoài ra, có một vị Đại Phạm Thiên Vương,
mỗi lần có vị Phật mới ra đời, thì ông ta là người đầu tiên thỉnh Phật thuyết
pháp.
Vô Tận Ý ! Bồ Tát Quán Thế Âm đó, thành tựu công đức như thế, dùng đủ thứ
thân hình đi khắp trong các cõi nước, để độ thoát tất cả chúng sinh. Bởi thế
các ông nên một lòng cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm. Đại Bồ Tát Quán Thế Âm đó,
ở trong nạn khẩn cấp sợ hãi, Ngài hay ban cho sự không sợ hãi. Vì thế mà thế
giới Ta Bà đều gọi Ngài là bậc thí vô uý.
Khi Đức Phật nói Bồ Tát Quán Thế Âm dùng đủ thứ hóa thân rồi, lại gọi một tiếng
: ‘’Vô Tận Ý ! Bồ Tát Quán Thế Âm thành tựu đủ thứ công đức như ở trên đã nói,
Ngài dùng đủ thứ thân hình, đi đến mỗi cõi nước, để độ thoát hết thảy tất cả
chúng sinh; vì nhân duyên đó, cho nên các ông tất cả chúng sinh, nên một lòng
cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm’’, đừng có hai lòng. Nếu có hai lòng, tức là có
tâm hoài nghi. ‘’Một lòng’’ tức là chỉ dùng một niềm tin, nếu bạn có hai lòng
thì chẳng có cảm ứng, chẳng có công đức, cho nên mới nói : ‘’Nên một lòng cúng
dường Bồ Tát Quán Thế Âm.’’ Đại Bồ Tát Quán Thế Âm là vị đại Bồ Tát, hay ở
trong sự sợ hãi nạn khẩn cấp, bố thí cho bạn sự không sợ hãi, khiến cho bạn
không sinh tâm sợ hãi, vì thế cho nên thế giới Ta Bà này đều gọi Ngài là Bồ Tát
bố thí vô úy.
Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng : Đức Thế Tôn ! Nay con xin cúng dường Bồ Tát
Quán Thế Âm, bèn cởi chuỗi ngọc các châu báu nơi cổ, giá trị trăm ngàn lạng
vàng, dâng lên nói rằng : Xin nhân giả hãy nhận sâu chuỗi ngọc châu báu pháp
thí này.
Bồ Tát Vô Tận Ý nghe Đức Phật nói như thế rồi, cũng muốn cúng dường Bồ Tát Quán
Thế Âm, bèn bạch Đức Phật rằng : ‘’Đức Thế Tôn ! Nay con nên cúng dường Bồ Tát
Quán Thế Âm. Bồ Tát Quán Thế Âm có công đức lớn như thế, sức oai thần không thể
nghĩ bàn, cho nên tuy con đã thành Bồ Tát, nhưng con còn phải tài bồi phước báu
ở trước Bồ Tát Quán Thế Âm, con nên cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm.’’ Sau khi
nói xong rồi, thì Bồ Tát Vô Tận Ý lập tức cởi sâu chuổi ngọc châu báu nơi cổ,
cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, cũng chẳng có tơ hào tư lự. Chuỗi ngọc là một
loại châu báu rất có giá trị, thứ chuổi ngọc này bên trong rỗng không, nên có
thể bỏ đồ vào, người xưa thường dùng nó làm đồ trang sức. Sâu chuỗi này giá trị
trăm ngàn lạng vàng, đem dâng lên cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm nói : ‘’Xin
Nhân giả hãy nhận sâu chuỗi ngọc châu báu pháp thí này.’’ Nhân giả tức chỉ
người nhân từ có đức, Bồ Tát xưng hô với Bồ Tát thường dùng ‘’nhân giả’’.
Sâu chuỗi ngọc châu báu này, vốn là thuộc về tài thí, tại sao trong kinh văn Bồ
Tát Vô Tận Ý nói là pháp thí ? Trong sự bố thí có tài thí, pháp thí, và vô úy
thí. Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, thì trong tâm của Ngài
chẳng cho rằng, chuỗi ngọc đó là vật đắc tiền, Ngài hoan hỉ thành tâm cúng
dường Bồ Tát Quán Thế Âm, Ngài chũng chẳng nghĩ là trị giá bao nhiêu tiền.
Song, tại sao trong kinh văn lại nói là : ‘’Giá trị trăm ngàn lạng vàng?’’ Câu
này là tôn giả A Nan thêm vào khi kết tập kinh điển. Đương thời, Bồ Tát Vô Tận
Ý chẳng nói trị giá bao nhiêu tiền. Ngài dùng chân tâm để cúng dường Bồ Tát Quán
Thế Âm, giữa đó đây chẳng có quan niệm về ‘’tiền tài’’, cho nên thuộc về pháp
thí. Tuy là tài thí, nhưng cũng biến thành pháp thí. Đây là mọi người dùng tâm
ấn tâm. Do đó, Ngài yêu cầu Bồ Tát Quán Thế Âm nhận chuỗi ngọc châu báu pháp
cúng dường này.
Lúc đó, Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng chịu thọ nhận. Bồ Tát Vô Tận Ý lại bạch với
Bồ Tát Quán Thế Âm rằng : Nhân giả ! Hãy thương xót chúng tôi, mà thọ nhận
chuỗi ngọc này.
Bồ Tát Vô Tận Ý dùng sau chuỗi ngọc châu báu, cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, mà
Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng chịu nhận. Tại sao Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng chịu nhận
? Vì Bồ Tát Quán Thế Âm dưới tòa của Đức Phật Thích Ca, đang ở trong hội nghe
Kinh Pháp Hoa. Bồ Tát Quán Thế Âm chưa được Đức Phật hứa khả, nên Ngài biểu thị
khách sáo, chẳng chịu nhận sự cúng dường đó, hơn nữa Ngài cũng chẳng có tâm tham,
chẳng giống như phàm phu bèn nghĩ ? ’’Ồ ! Sâu chuỗi châu báu này quá quý trọng,
có người cho mình, sợ rằng thọ nhận trễ thì họ chẳng cúng dường nữa, thì biết
làm sao ?’’ Là vì Ngài chẳng có tâm lý như thế, cho nên chẳng sợ người ta không
cúng dường. Trong tâm của Ngài vốn chẳng có người thí, vật thí, cũng chẳng có
người thọ nhận. Bạn cúng dàng cho tôi và không cúng dường cho tôi, xem đều rất
bình thường. Đương nhiên trong sự yên lặng, Bồ Tát Vô Tận Ý là có công đức. Song,
Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng chịu nhận sự cúng dường đó, do đó Bồ Tát Vô Tận Ý khẩn
cầu. Ngài chẳng giống như một số người, thật sự chẳng muốn cúng dường : ‘’Bạn
không nhận thì tôi chẳng cúng dường.’’ Cho nên, Bồ Tát Vô Tận Ý lại khẩn cầu Bồ
Tát Quán Thế Âm nói : ‘’Nhân giả ! Hãy thương xót chúng tôi mà thọ nhận sâu
chuỗi này.’’ Nghĩa là nói : ‘’Nhân giả ! Bồ Tát đại từ bi, hãy thương xót tôi, thương
xót Vô Tận Ý tôi, và chúng sinh bốn chúng này. Tôi cúng dường Ngài sâu chuỗi
này, chẳng phải vì cầu phước cho chính tôi, mà là vì bốn chúng đệ tử này, và
hết thảy pháp giới chúng sinh, để cúng dường nhân giả. Tôi là đại biểu cho
chúng sinh cúng dường Ngài, cho nên xin Ngài hãy thương xót chúng tôi thọ nhận sâu
chuỗi này.’’ Bốn chúng là Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ. ‘’Chúng
tôi’’, tức là hết thảy tất cả chúng sinh.
Bấy giờ, đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm, nên thương xót Bồ Tát Vô Tận Ý, và
bốn chúng, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma
hầu la già, người, và chẳng phải người, mà thọ nhận sâu chuỗi đó.
Bồ Tát Vô Tận Ý nhất định phải cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, còn Bồ Tát Quán
Thế Âm quyết tâm chẳng thọ nhận sự cúng dường đó bèn nói : ‘’Vật tốt của Ngài,
tôi không dám thọ nhận, tôi chẳng có đạo đức gì, Ngài hãy tự giữ lấy.’’ Bồ Tát
Vô Tận Ý nghe Bồ Tát Quán Thế Âm nói như thế, càng khẩn trương, thậm chí cuối
đầu đảnh lễ để khẩn nài Bồ Tát Quán Thế Âm. Một người chẳng chịu nhận, còn một
người nhất định phải cúng dường, hai bên đều kiên trì. Lúc đó, Đức Phật Thích
Ca điều giải vấn đề này, bèn nhìn Bồ Tát Quán Thế Âm, cười và nói : ‘’Bồ Tát
Quán Thế Âm, ông nên thương xót Bồ Tát Vô Tận Ý và bốn chúng đệ tử, chẳng chỉ vì
bốn chúng đệ tử này, mà còn có trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca Lâu
la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người và chẳng phải người. Ông nên thương tất cả
những chúng đó, mà thọ nhận sự cúng dường. Bồ Tát Vô Tận Ý rất thành tâm khẩn
thiết bố thí pháp, thì ông đừng cự tuyệt hảo tâm của ông ấy !’’
Tức thời Bồ Tát Quán Thế Âm thương xót hàng bốn chúng, và các
trời, rồng, người, và chẳng phải người, mà thọ nhận sâu chuỗi đó, chia làm hai
phần. Một phần dâng lên đức Phật Thích Ca Mâu Ni, một phần dâng cúng tháp của
Phật Đa Bảo.
Vô Tận Ý ! Bồ Tát Quán Thế Âm có thần lực tự tại như thế, đi khắp thế giới Ta Bà.
Bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý dùng kệ hỏi rằng.
Lúc đó, Bồ Tát Quán Thế Âm thấy Đức Phật điều giải việc này, Ngài cũng nghe lời
Đức Phật, thương xót bốn chúng đệ tử và trời rồng tám bộ, thọ nhận sâu chuỗi
ngọc châu báu đó. Song, Ngài nhận rồi lại chia ra làm hai phần để cúng dường.
Sâu chuỗi có giá trị đắc tiền mà Ngài cũng chẳng cần, Ngài dâng một phần lên
cúng dường Đức Phật Thích Ca, một phần dâng cúng tháp của Đức Phật Đa Bảo.
Sau đó Đức Phật lại gọi một tiếng : ‘’Vô Tận Ý ! Vị Bồ Quán Thế Âm đó, có các
thứ thần thông diệu dụng, thần lực tự tại như đã nói ở trên, hết thảy chúng
sinh đều nên cúng dường ông ta, cung kính ông ta, niệm danh hiệu
Câu kệ là vì văn trường hàng ở trên, có chỗ nói rất tỉ mỉ, lại có chỗ nói chẳng
tỉ mỉ, cho nên dùng kệ để tường thuật lại. Kệ giống như thơ, phải có cách thức
nhất định, hoặc là một câu sáu chữ, hoặc một câu năm chữ, một câu bốn chữ,
chẳng nhất định, song phải có số chữ nhất định.
Thế Tôn đủ tướng tốt
Nay con xin hỏi Ngài
Vị kia do duyên gì
Tên là Quán Thế Âm ?
Bồ Tát Vô Tận Ý gọi một tiếng : ‘’Đức Thế Tôn đầy đủ tướng tốt ! Hôm nay con xin
hỏi Bồ Tát Quán Thế Âm, bởi nhân duyên gì mà tên gọi là Quán Thế Âm ?’’ Vì
tướng mạo của Phật viên mãn nhất, đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp,
cho nên gọi là Thế Tôn đủ tướng tốt, tức là đầy đủ chẳng thiếu chẳng dư. Lại có
thể giải thích là phước đầy huệ đủ, nên gọi là Lưỡng Túc Tôn. Nghĩa là có ba
mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, tướng tốt này vi diệu không thể nghĩ bàn.
Đấng đầy đủ tướng tốt
Đáp kệ Vô Tận Ý :
Ông nghe hạnh Quan Âm
Khéo ứng khắp mọi nơi.
Vì Bồ Tát Vô Tận Ý dùng kệ hỏi Đức Phật, cho nên Phật cũng dùng kệ để trả lời.
Đức Phật nói : ‘’Vô Tận Ý ! Ông có biết việc làm và nhân duyên của Bồ Tát Quán Thế
Âm chăng ? Ông nên chú ý lắng nghe, nay ta sẽ vì ông giải thích nói. Bồ Tát
Quán Thế Âm dùng thiện xảo phương tiện, quán căn cơ mà vì họ nói pháp, theo
bệnh cho thuốc.’’
‘’Quán căn cơ’’ tức là nhìn xem chúng sinh đó căn tính thế nào
? Thích cái gì ? Thì Ngài vì họ mà nói pháp. Giống như ở trước đã nói : ‘’Người
đáng dùng thân Phật độ được, thì liền hiện thân Phật để vì họ nói pháp. Người
đáng dùng thân Đế Thích độ được, thì liền hiện thân Đế Thích để vì họ nói pháp
.v.v...’’ Đây gọi là ‘’khéo ứng khắp mọi nơi’’. Bất cứ căn tính như thế nào,
Ngài liền dùng phương pháp phương tiên khéo léo để độ bạn, phương pháp này
chẳng nhất định. Chẳng nhất định cho nên trong Kinh Kim Cang có nói :
‘’Là pháp bình đẳng
Chẳng có cao thấp
Chẳng có pháp nhất định’’.
Tức là làm vị pháp sư muốn đi giáo hóa người, cũng phải hiểu nhiều đạo lý và
pháp thế gian, thấy loại người nào thì nói thứ pháp đó. Ví như gặp người buôn
bán thì nói : ‘’Hiện nay bạn buôn bán như thế nào ? Gần đây buôn bán có đắc
không !’’ Gặp người làm công thì nói : ‘’Anh thật là vất vả ! Hôm nay có ngày nghỉ
chăng?’’ Nên vì họ nói đạo lý làm công, họ nghe thì tâm nghĩ : ‘’Thật tế cũng
có người biết mình vất vả, bận rộn !’’ Sau đó mới vì họ giảng chút Phật pháp,
thì họ cảm thấy : ‘’Thật không sai, nguyên lai Phật pháp là như thế.’’ Gặp
người đi học thì hỏi họ : ‘’Anh học về ngành gì ? Khoa học ? Hóa học, hay văn
học .... ?’’ Giống như hôm nay có một số học sinh đến, Quả tôn giảng cho họ nghe
về Phật pháp này, họ nghe rồi rất cao hứng, và bắt đầu có ấn tượng đối với Phật
pháp, ở trong não hải của họ bèn có ‘’Phật’’. Một khi chữ Phật vào trong não
hải của họ, thì ngày càng sẽ tăng trưởng, tương lai cũng sẽ thành Phật. Đó là
khéo ứng khắp mọi nơi, theo bệnh cho thuốc, vì người nói pháp. Do đó có câu :
‘’Phương tiện khéo léo độ chúng sinh,
Khéo ở trong trần lao làm Phật sự.’’
Khéo biến tất cả sự việc trong thế gian thành Phật sự.
Hoằng nguyện sâu như biển
Kiếp số không nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn đức Phật
Phát nguyện lớn thanh tịnh.
Vị Bồ Tát Quán Thế Âm đó, trước kia khi Ngài chưa thành Phật, thì có phát hoằng
nguyện đại từ bi. Hoằng thệ đó lớn cỡ nào ? Sâu rộng như biển cả. Ngài trải qua
đại kiếp không thể nghĩ bàn, tạo công đức không thể nghĩ bàn, phát nguyện lực
không thể nghĩ bàn, cho nên Bồ Tát Quán Thế Âm tất cả hết thảy, đều vi diệu
không thể nghĩ bàn. Ngài đã từng hầu cận rất nhiều hàng ngàn ức vị Phật, có thể
là hàng vạn ức, mặc dù kinh văn chỉ nói là ngàn ức. Ngài phát nguyện đại từ đại
bi như thế, cho nên cảnh giới của Bồ Tát Quán Thế Âm cao sâu khó dò. Bồ Tát
Quán Thế Âm phát nguyên thanh tịnh. Nguyện thanh tịnh là gì ? Thanh tịnh là
chẳng có tư tưởng ích kỷ, là một người đại công vô tư. Ngài vì chúng sinh mà
phát nguyện, hoàn toàn là phát xuất từ tâm từ bi chân chánh, tâm từ thương
chúng sinh.
Ta vì ông lược nói
Nghe tên và thấy thân
Tâm niệm chẳng luống qua
Hay diệt khổ các cõi.
Đức Phật nói : ‘’Hiện tại ta vì ông nói sơ lược về công đức của Bồ Tát Quán Thế Âm, người có căn lành mới nghe được danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm.’’ Nếu người chẳng có căn lành, thì cho đến tên của Bồ Tát Quán Thế Âm cũng chẳng nghe được, huống chi nói đến thấy thân. Thấy thân chẳng nhất định nói là thấy được nhục thân của Ngài, tức là thấy được hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm, hoặc dùng bùn nắn, hoặc dùng gỗ chạm trỗ, hoặc dùng đá tạo, cho đến vàng, bạc, đồng, thiết, đúc thành tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu bạn thấy những tượng nói trên, thì cũng giống như thấy được nhục thân của Ngài. Chỉ cần trong tâm chúng ta niệm danh hiẹu Bồ Tát Quán Thế Âm, đừng khởi vọng tưởng, thì sẽ tiêu diệt được tất cả sự khổ trong các cõi. Các cõi tức là hai mươi lăm cõi trong dục giới, sắc giới, và vô sắc giới.
Nếu người khởi tâm hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Nhờ sức niệm Quán Âm
Hầm lửa biến thành ao.
Giả sử có người khởi tâm hãm hại bạn, ví như bạn bè hợp tác làm ăn với bạn, khi cùng đi với bạn đến đỉnh núi cao ngàn trượng. Vì anh ta muốn một mình chiếm đoạt số tiền của bạn, bèn sinh tâm cướp tiền hại mạng xô bạn rớt xuống chân núi. Lúc đó, chỉ cần bạn thành tâm niệm : ‘’Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát’’, thì có thể bình an vô sự. Nếu như xô bạn rớt suống hầm lửa lớn, thì hầm lửa sẽ biến thành ao nước. Bạn bất tất phải dùng phương pháp khác, cũng chẳng cần niệm chú gì, chỉ một lòng chuyên niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, thì sẽ có cảm ứng cứu hộ bạn, sự cảm ứng đó không thể nghĩ bàn. Cho nên chúng ta bất cứ lúc nào, đều nên niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì tương lai sẽ được Bồ Tát Quán Thế Âm bảo hộ, cảnh giới cảm ứng đó nói chẳng hết được.
Hoặc trôi dạt biển cả
Rồng cá các nạn quỷ
Nhờ sức niệm Quan Âm
Sóng lớn chẳng ngập chết.
Nếu như bị trôi dạt ở trong biển cả, chẳng thấy bờ bến đâu cả, lúc đó rất là nguy hiểm. Trong biển lớn thường có rồng độc, cũng có quỷ la sát, hoặc cá ăn thịt người, lúc đó rất là nguy hiểm. Nếu bạn gặp những nạn đó, thì nên niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, tức sóng to cách mấy, cũng chẳng ngập chết bạn được, trong sự bất tri bất giác, sẽ đưa bạn vào bờ, hoặc tự nhiên trôi dạt vào chỗ cạn, hoặc gặp thuyền đến vớt lên. Đó là Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện cứu nạn nước. Ở trên là nạn lửa. Song, nếu bạn chẳng niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì rất là nguy hiểm.
Giảng đến đây, tôi nhớ lại lúc ở Hồng Kông, có một người đệ tử quy y chẳng tốt. Chẳng tốt như thế nào ? Ông ta là người đã từng hại người khác, tên của ông ta là
Trở về kiếm được rất nhiều tiền. Sau ông ta lại làm thuốc giả để kiếm tiền, do đó mà phát tài. Phát tài rồi sau đó ông ta như thế nào? Đại khái là quan hệ oan tương báo, ông ta mắc chứng bệnh ưng thư. Đương thời, sáu ông bác sĩ nổi tiếng ở Hồng Kông đều nói rằng, chỉ trong vòng một trăm ngày, thì ông ta sẽ chết. Do đó, ông ta đăng báo xin cứu mạng nói: "Nếu ai chữa được bệnh của ông ta, bảo trì được sinh mạng của ông ta, thì ông ta sẽ bỏ ra hai chục vạn Mỹ Kim". Lúc đó, hai chục vạn Mỹ Kim ở Hồng Kông rất lớn vô cùng, song cũng chẳng có ai có phương pháp cứu mạng
Một ngày nọ ông ta đến chùa Tây Lạc Viên hỏi tôi làm thế
nào mới chữa được bệnh. Tôi nói với ông ta : ‘’Ông mắc chứng bệnh này, thì nên làm
nhiều việc thiện, cúng dường Tam Bảo gieo trồng công đức. Trước hết ông phải
quy Tam Bảo, như thế thì có thể chứng bệnh của ông sẽ hết.’’ Do đó, vào ngày 18
tháng 9 âm lịch ông ta quy y với tôi. Quy y rồi, tôi bèn khuyên ông ta phát tâm
làm việc thiện. Đương thời, người xuất gia từ
Lúc đó, chẳng có vị xuất gia nào biết trong đó có tiền của tôi
mượn để cho họ, cho đến hiện tại cũng chẳng biết. Đến khi
Lúc đó tôi chẳng có chút công lao nào, tôi cũng chẳng nói với ông ta lời nào. Trải
qua sáu năm, ông ta cũng chẳng chết. Lúc đó, tôi đang làm chùa ở tại núi Đại Tự
ở Hồng Kông, xây chùa Từ Hưng. Ngôi chùa này đại khái có thể ở trên hai trăm
người. Ông ta nghe tôi làm chùa, tức nhiên là đệ tử quy y với tôi, nên sai một
người cầm một bao tiền đến cúng cho tôi làm chùa. Số tiền đó tôi chẳng nhìn qua,
cũng chẳng mở ra xem, tôi bèn vứt nó ra ngoài cửa, tôi nói với người đó rằng :
‘’Số tiền này kiếm được chẳng chánh đáng, chẳng thanh tịnh, tôi chẳng cần tiền
của ông ta như thế, ông hãy mang về trả lại cho ông ta.’’ Người đó đem tiền về
đưa lại cho ông ta, lần này ông ta kêu vị pháp sư phan duyên ông ta, tên là
Định Tây đến nói lời ngon ngọt và mang tiền đến. Tôi nói : ‘’Bây giờ công trình
làm chùa đã xong, tôi chẳng cần dùng tiền. Ông ta có tiền thì có thể làm công
đức chỗ khác, có rất nhiều chùa, nhiều pháp sư, ông ta muốn làm gì cũng được.’’
Vị pháp sư đó cũng chẳng vui vẻ trở về. Qua hai năm sau, vào giữa tháng giêng,
tôi tuyên bố với mọi người : ‘’
Bổn lai,
Hoặc trên đỉnh Tu Di
Bị người xô rớt xuống
Nhờ sức niệm Quan Âm
Như mặt trời trên không.
Tu Di là tiếng phạn, dịch là núi Diệu cao, là núi cao nhất trong vũ trụ. Ở đây
nói là trên đỉnh núi Tu Di, chẳng nhất định là chỉ ở trên đỉnh núi Tu Di, mà là
ví dụ sự cao như đỉnh núi Tu Di. Hoặc là bạn đang ở trên đỉnh núi cao như núi
Tu Di, bị người xô rớt xuống, lúc đó nếu bạn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì ‘’Như
mặt trời trên không’’, giống như mặt trời lơ lửng ở trong hư không, chẳng gây
tổn thương cho bạn. Chẳng chỉ nói ở trên đỉnh núi xô rớt bạn xuống tan xương nát
thịt, mà cũng có thể nói là có người ở trên chỗ cao, khiến bạn trèo lên cây
thang, đợi khi bạn đến chỗ cao nhất, thì họ xô cây thang, lúc đó muốn lên cũng
chẳng được, muốn xuống cũng chẳng xong, đó cũng là việc rất nguy hiểm. Tức cũng
là mọi người đối sử tốt với bạn, sau đó chẳng đối tốt với bạn nữa, để cho bạn
từ trên cao rớt xuống. Lúc đó, nếu bạn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì chẳng có vấn
đề gì, giống như mặt trời ở trong hư không chiếu khắp vạn dặm, một chút phiền
não cũng chẳng có, ngược lại rất an nhiên tự tại, rất có định lực, cho nên khen
chê đều chẳng động tâm, đó cũng là biểu thị ‘’Như mặt trời trên không’’ một ý
nghĩa riêng khác.
Hoặc bị người ác đuổi
Ngã xuống núi kim cang
Nhờ sức niệm Quan Âm
Chẳng tổn hại mảy lông.
Người ác là gì ? Tức là người chẳng nói về đạo lý, chuyên môn làm chuyện giết người,
phóng lửa, người man rợ chẳng nói đạo lý : ‘’Anh là tôi, tôi cũng là tôi. Tiền của
anh là của tôi, tiền của tôi thì càng của tôi.’’ Bạn xem đây có đạo lý chăng ?
Đây gọi là người ác, có quyền lực mà chẳng có công lý, chỉ dùng thế lực để bức
bách người khác, chẳng nói đến công lý, đó tức là người ác.
Truy đuổi là bạn chạy đến đâu, thì họ cũng đuổi theo bạn đến đó, luôn luôn xem giữ
bạn. Nếu bạn bị người ác truy đuỗi, vì nhất thời bôn ba chẳng cẩn thận mà rớt
xuống núi kim cang sâu vạn dặm, nếu bạn chẳng niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì chắc
chắn sẽ mất mạng, thậm chí tan thân nát xương chẳng tìm được thi thể. Song, nếu
bạn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì dù cho một sợi lông cũng chẳng tổn thương. Bạn
nói có kỳ lạ chăng ! ‘’Núi kim cang’’ ở đây, là biểu thị vực thẳm vạn trượng,
rất cứng chắc như kim cang. Song nếu bạn gặp trường hợp nguy hiểm như thế, mà niệm
Bồ Tát Quán Thế Âm, thì chắc chắn sẽ có cảm ứng. Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ đến cứu
hộ bạn, khiến cho bạn gặp hung hóa cát tường, gặp nạn được bình an, nguy hiểm
mà chẳng nguy hiểm.
Hoặc gặp oán tặc vây
Đều cầm đao làm hại
Nhờ sức niệm Quan Âm
Thảy đều khởi tâm từ.
Ở trên nói về người ác, bây giờ nói về ‘’oán tặc’’, tức là bọn cướp, giết người
phóng lửa, chẳng có việc ác nào mà chẳng làm. Tất cả mọi người mà chúng ta gặp,
đều có quan hệ tiền nhân hậu quả. ‘’Oán tặc’’ tức là người có oán hận với chúng
ta, hoặc là kiếp trước chúng ta ăn cắp đồ vật của người, hoặc là đã giết người,
hoặc đối với người chẳng tốt, cho nên đời này lại gặp nhau, mới biến thành oán
tặc. Do đó, có câu :
‘’Giết người phải đền mạng,
Mắc nợ thì trả tiền’’.
Bạn giết mạng người ta, thì người ta cũng muốn lấy mạng của bạn; bạn cướp đoạt tài
vật của người ta, cho nên phải đền tiền cho người ta. Hết thảy tất cả đều có
mối liên quan với nhau.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi từng nói cho mọi người biết rằng :
‘’Tôi đời đời kiếp kiếp chưa từng ăn trộm đồ vật của người khác, luôn giữ giới
trộm cắp. Có gì để chứng minh ? Tôi đem châu báu giá trị nhất, để ở ngã tư đường,
chẳng nhìn xem đến nó, trải qua ba ngày cũng chẳng bị ai trộm lấy đi. Do đó, có
thể chứng minh lời của tôi nói là chân thật’’. Nhưng vẫn có người không tin, do
đó Ngài đi thử nghiệm, đem châu báu để ở ngã tư đường, nơi mà mọi người đi qua lại
tấp nập. Quả nhiên ba ngày sau, cũng chẳng có ai trộm lấy.
Do đời đời kiếp kiếp Ngài đều giữ giới trộm cắp thanh tịnh, cho nên có quả báo như
thế. Do đó, nếu bây giờ chúng ta gặp kẻ oán tặc đều phải chấp nhận, tức là mất
vật gì, chịu tổn thất gì cũng đừng buồn rầu, nên chấp nhận, đừng có oán trời
trách người.
Lúc tôi ở chùa Nam Hoa, thì từng gặp việc như vầy : Vào ngày nọ có rất nhiều kẻ
trộm đến cướp chùa Nam Hoa. Bọn chúng đập cửa rất mạnh muốn tiến vào, nhưng tôi
chẳng mở cửa. Bọn cướp phá cửa tung vào, ai nấy đều cầm thương vây chung quanh
tôi, có người còn muốn đánh tôi. Song, lúc đó tôi chẳng cảm thấy sợ hãi gì cả,
rất tự nhiên nói với bọn chúng rằng : ‘’Tại sao anh muốn đánh tôi ?’’
- Anh ta nói : ‘’Vì ông chẳng mở cửa’’
- Tôi nói : ‘’Nếu anh là tôi, tôi là anh, thì anh có mở cửa không ? Tại sao ?
Vì anh đến đây muốn trộm đồ của tôi, chẳng phải đến tặng đồ cho tôi.’’
- Tôi nói như thế thì anh ta nói : ‘’Hãy mau đem tiền ra !’’
- Lúc đó tôi mặc chiếc y rách có nhiều chỗ vá víu, tôi nói : ‘’Anh nhìn xem, tôi
mặc chiếc y này, có giống như người có tiền chăng ?’’
- Anh ta nhìn rồi hỏi : ‘’Vậy ai có tiền ?’’
- Tôi nói : ‘’Trong chùa này tôi là ông thầy, còn những người khác là đệ tử,
tôi làm ông thầy chẳng có tiền, thì làm đệ tử làm gì có tiền ? Nếu anh không
tin tôi thì có thể vào phòng của tôi xem, nếu anh thấy vật gì đáng giá, là đồ
quý, thì tùy ý anh lấy !’’ Lúc đó ở trong phòng của tôi có hai bửu bối, hai bửu
bối này là hai bửu bối sống, bửu bối sống gì ? Tức là chú Sa di và vị pháp sư. Hai
vị này nghe thấy bọn cướp đến, lúc gõ cửa thì họ đã cuống lên, thậm chí chẳng
đi được nữa, bò dưới đất, bò vào chỗ tôi nói : ‘’Thầy ơi ! Bây giờ biết làm sao
? Tôi sợ quá !’’ Tôi nói : ‘’Không sao, các vị hãy đi vào trong phòng của tôi,
chun xuống giường cây của tôi để trốn.’’ Bây giờ tôi lại kêu bọn cướp vào phòng
của tôi, xem muốn lấy gì thì lấy. Lúc này hai vị này run lên lập cập, cuối cùng
bọn cướp cũng chẳng vào. Lúc đó, có vị pháp sư thấy tôi và bọn cướp nói chuyện
tựa như là bạn bè, cũng từ trong phòng chạy ra.
Khi ông ta xuất hiện, thì bọn cướp lập tức dùng thương vây ông
ta lại muốn đánh, ông ta sợ quá bèn khóc lên, giống như trẻ con. Lúc đó, trong
tâm tôi cảm thấy buồn bã bèn nói : ‘’Ông ta cũng chẳng có tiền, các ông muốn
tiền thì nói với tôi.’’ Song bọn cướp chẳng đếm xỉa gì đến tôi, mà hướng về ông
ta muốn tiền, ông ta nói : ‘’Vào trong phòng của tôi lấy.’’ Bèn dẫn bọn cướp
vào lấy hơn hai trăm đồng, đó là tiền mà ông ta dành dụm mấy năm nay, bèn để
cho bọn cướp lấy đi. Sang ngày thứ hai ông ta nói với đồ đệ rằng : ‘’Chùa Nam
Hoa có hơn hai trăm người, mà chỉ có vị Pháp sư này chẳng sợ hãi.’’
- Tôi mới nói với họ rằng : ‘’Chẳng phải chỉ mình tôi, mà trong chùa có bốn vị Hòa
Thượng chẳng sợ hãi.’’ Thứ nhất là ai ? Là Lục Tổ Huệ Năng, ngồi tại đó như như
bất động, lão Tăng nhập định như thế. Thứ hai là Đại Sư Hám Sơn, ngồi nhập định
tựa như tướng của Lão Tăng, chẳng động đậy. Thứ ba là tổ sư Đan Điền, Ngài
chẳng đủ đại định lực như Lục Tổ, và đại sư Hám Sơn, còn quay đầu lại nhìn bọn
cướp. Thứ tư mới đến tôi, cho nên khi bạn gặp oán tặc, thì cũng đừng sinh tâm
sợ hãi. Kết quả bọn cướp đó cũng chẳng đánh tôi, hoặc phóng thương. Tại sao ?
Đại khái là vì tôi niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, ban đầu họ đối với tôi rất hung
hăng, khi nhìn thấy tôi mặc y phục rách rưới thì họ nghĩ : ‘’Ông thầy này thật
đáng thương’’, tức cũng khởi tâm từ bi chẳng gây phiền não đến tôi.
Hoặc gặp nạn khổ vua
Muốn hành hình sắp chết
Nhờ sức niệm Quan Âm
Đao bèn gãy từng đoạn.
Luật vua chẳng nói đến nhân tình. Nếu phạm vào vương pháp, thì phải bị chém đầu.
Song, cũng có kẻ chẳng phạm pháp mà bị dẫn đi chém đầu, là vì bị người vu cáo,
cho nên luật pháp quốc gia có chỗ lợi ích, mà cũng có chỗ hại. Chỗ lợi ích là
nó trừng phạt những kẻ phạm tội, chỗ hại là chẳng phạm pháp nhưng bị người khác
vu cáo, ví như người làm chứng nói : ‘’Ông ta làm xấu việc đó, chính mắt tôi
thấy !’’ Luật sư cũng chẳng màng việc đó ra sao, bèn xử ông ta phạm tội đem đi
chém đầu, nhưng thật ra người đó chẳng phạm pháp, luật sư chẳng có chánh nghĩa,
có người rõ ràng là phạm pháp, mà có thể biện hộ cho họ vô tội. Có người rõ
ràng là vô tội, mà lại chứng minh là có tội. Bạn nói đi tìm chân lý ở đâu trên
thế gian này ? Ở trên thế gian vốn chẳng có chân lý, chỉ có quyền thế. Vậy muốn
tìm chân lý, thì phải vào trong Phật pháp mà tìm. Cho nên, hoặc có tội, hay
không có tội, bị chịu nạn khổ vua, lúc phải bị chém đầu, mạng sống sắp chấm
dứt, lúc đó e rằng bạn đã ngất xỉu, sợ quá nên quên hết mọi việc. Song nếu bạn
nhớ niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì cái đao chém đầu bạn đó, sẽ tự nhiên gãy ra
từng đoạn, đó là chứng minh cái cổ của bạn cứng hơn là kim cang, cho nên đao mới
gãy ra từng đoạn. Nhưng nếu bạn ôm lòng hoài nghi, thì đầu của bạn sẽ rơi. Vì
bạn vốn chẳng có niềm tin đối với Bồ Tát Quán Thế Âm, cho nên mới muốn thử
nghiệm, nên chẳng có cảm ứng. Nếu có niềm tin thì mọi việc đều có cảm ứng.
Hoặc gông cùm bỏ tù
Tay chân bị xiềng xích
Nhờ sức niệm Quan Âm
Tự nhiên được giải thoát.
Ở tù tức là bắt giam vào ngục, chẳng được tự do. Gông, chẳng những nhốt bạn vào
ngục tù, mà còn gông cùm bạn lại, để cho bạn khỏi trốn đi. Cùm, tức là cùm hai
chân bạn lại, và còn trói tay bạn.
Lúc trước tôi đã có nói, phàm là người có gia đình, thì nên sớm giác ngộ, đừng để
cho ba điều này vây hãm như bị nhốt trong tù. Ba điều gì ? Cha mẹ như là gông
cùm cổ, con cái như là cái cần cần tay, đừng cho rằng có con cái là đắc ý, một
khi bị cần vào tay thì buông xả chẳng đặng. Có vợ thì như là cái cùm cùm chân,
cũng chẳng được tự do giải thoát.
Hôm nay tôi thế một vị đệ tử của tôi, nói chuyện này cho
quý vị biết, anh ta nói : ‘’Con có vay của chính phủ hơn hai ngàn đồng, bây giờ
muốn xuất gia mà hai ngàn đồng này không thể trả, cho nên trước hết phải đi làm
công, để trả hết số tiền này, rồi sau đó mới đi xuất gia.’’ Anh ta nói thật hay
giả ? Tôi chẳng màng đến anh ta, bất quá nói cho mọi người biết, có thể tiền
trả xong rồi, hoặc là có cái cùm cùm chân (cưới vợ) này cũng chẳng nhất định, song
tôi hy vọng chẳng bị cùm vào, có thể làm một vị sư biểu của trời người cho nước
Mỹ. Tôi đem ý này ra nói cho mọi người biết, để mọi người đều phát tâm chú
nguyện cho anh ta thành công, làm lãnh tụ tốt cho Phật giáo nước Mỹ. Vì nước Mỹ
hiện tại rất cần người xuất gia, nếu tất cả mọi người muốn xuất gia, tôi chẳng
màng trước kia họ là người như thế nào, tôi đều rất hoan hỉ tán thán, chỉ cần sau
khi xuất gia rồi, giữ giới luật quy cụ là được. Tôi tận sức ở tại nước Mỹ này,
đào tạo bậc trưởng lão, chính họ trưởng chẳng nổi, vì chẳng có cơ sở, gốc rễ
chưa đâm sâu xuống, song tôi nguyện sẽ tài bồi, Phật giáo tại nước Mỹ, mỗi
người xuất gia đều là một phần của bậc trưởng lão, thậm chí làm tổ sư của nước
Mỹ.
Khi tay chân bị gông cùm mất đi tự do, thì phải làm sao ? Chỉ cần bạn niệm Bồ
Tát Quán Thế Âm, thì tự nhiên sẽ được giải thoát. Trước kia ở
Nguyền rủa các thuốc độc
Muốn làm hại thân người
Nhờ sức niệm Quan Âm
Trở lại hại người đó.
Nguyền rủa ở đây là nói về sự niệm chú để trù rủa. Chú cũng có rất nhiều loại, nhất
là chú của bàng môn tả đạo, họ chỉ cần niệm bảy ngày, thì có thể người kia sẽ
chết. Chú có loại chú hại người, cũng có loại chú lợi người. Chú bây giờ nói là
chú hại người. Các thuốc độc cũng bao quát tất cả các thuốc độc. Nếu bạn gặp sự
trì chú nguyền rủa các thuốc độc, thì nên một lòng niệm: ‘’Nam mô Bồ Tát Quán
Thế Âm’’, tức thì lời nguyền rủa và các thuốc độc đó, chẳng những không thể hại
bạn, mà còn trở lại hại người đó.
Trước kia, có một nơi nọ tại
Kết qủa người bói toán đó, bị cảnh sát bắt đi tra hỏi: "Tại
sao ông lại bắt cô gái này đến đây"?
- Ông ta mới nói : "Tôi có một vị tiên giúp đỡ tôi bói toán cho mọi người,
vị tiên này mỗi năm phải ăn thịt một cặp đồng nam đồng nữ, đã mấy năm qua tôi
đều cúng cho vị tiên đó, cho nên vị tiên đó giúp đỡ tôi bói toán rất linh, kiếm
được rất nhiều tiền". Nói xong cảnh sát bắt ông ta giam vào ngục. Ông ta
bói toán rất linh, song chẳng bói toán được cho mình, kết quả bị luật pháp trừng
phạt chém đầu thị chúng. Câu chuyện như thế, tức là thật sự chứng minh
"Nguyền rủa các thuốc độc, muốn làm hại thân người, nhờ sức niệm Quán Âm,
trở lại hại người đó". Cho nên hại người tức là hại mình.
Câu "Trở lại hại người đó", đương thời ông Tô
Đông Pha từng sửa thành câu "Hai nhà đều vô hại". Ý của ông ta cho
rằng, người trù ẻo và người bị trù ẻo đều bình an vô sự. Kỳ thật là sai lầm. Tại
sao? Trong Phật giáo có nói về giới sát sinh, phóng sinh, song nếu không trừ khử
kẻ ác, thì họ sẽ hại kẻ lương thiện. Tuy họ trù ẻo dùng thuốc độc muốn hại
người, kết quả khiến cho họ vô sự, đó chẳng phải là cổ lệ chăng? Họ hại chẳng
được người này, lại muốn hại người khác, mà nếu người đó không niệm Bồ Tát Quán
Thế Âm, thì sẽ bị hại chết. Người hay niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì đương nhiên
họ hại chẳng được, nhưng nhiều người chẳng biết niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, cho
nên "Hai nhà đều vô sự" là không đúng, "Trở lại hại người
đó" là không sai lầm, khiến cho người ác chịu khổ, họ thọ quả báu là đáng,
như thế về sau, họ chẳng dám hại người nữa.
Hoặc gặp la sát dữ
Rồng độc các loài quỷ
Nhờ sức niệm Quán Âm
Thời chúng chẳng dám hại.
Hoặc là bạn đến rừng núi hoang dã, đi qua nơi chẳng có người ở, gặp quỷ la sát dữ,
loài quỷ này rất hung ác, chúng chuyên môn ăn thịt người. Còn có rồng độc cũng hại
người, chúng thường chiếm cứ một vùng, hoặc trong hồ, trong sông, trong kênh,
phàm có ai đi qua chỗ cuả chúng, thì chúng phun khí độc, có thể độc chết người.
Có loại rồng độc to lớn, có thể dùng hơi hút luôn cả người lẫn thuyền vào trong
bụng, rất là lợi hại. Còn có rất nhiều loài quỷ. Quỷ chẳng phải chỉ có một
loại, có quỷ giàu, quỷ nghèo. "Quỷ giàu" như thần thổ địa, thành
hoàng, tuy chúng đều là quỷ nhưng đều làm thủ lãnh của quỷ, làm quỷ vương, đây
gọi là "quỷ giàu". "Quỷ nghèo", chẳng có tiền, hoặc có rất
ít, còn có loài quỷ chẳng có gì cả, vậy nói rằng quỷ vẫn dùng tiền chăng? quỷ
vốn chẳng cần tiền, nhưng vì nguyên nhân tập quán ác, cho nên loài quỷ giàu
cũng tham ô, quỷ nghèo cũng tựa như người, suốt ngày đến tối đều muốn kiếm chút
ít tiền. Tuy nhiên bất tất phải dùng tiền, nhưng vì chúng chấp trước thành tính,
biến thành một thứ mê, cho nên ham thích tiền. Chúng dùng tiền bằng giấy, tại
Nếu bạn gặp những loài quỷ la sát, rồng độc, hoặc các quỷ
thần, mà bạn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì chúng tự nhiên sẽ bỏ chạy. Vì sao? Vì
khi bạn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì trong miệng sẽ phóng quang, hết thảy tất
cả loài quỷ đều sợ quang (ánh sáng), sẽ không gây thương hại bạn.
Nếu thú dữ vây quanh
Nanh vuốt nhọn đáng sợ
Nhờ sức niệm Quán Âm
Chúng vội bỏ chạy đi.
Thú dữ như lang, sói, hổ, báo, chúng là dã thú chuyên môn ăn thịt người. Núi rừng
ở Mỹ chẳng có cọp, ở
Rắng độc cùng bò cạp
Hơi độc khói lửa đốt
Nhờ sức niệm Quán Âm
Nghe tiếng bỏ chạy đi.
Rắn độc đa số là màu đen. Bò cạp, nếu người nào bị nó cắn, thì lập tức trúng
độc mà chết đi, đều là có "Khí độc khói lửa đốt", những thứ độc này
rất lợi hại, thậm chí khiến cho người bỏ mạng. Tuy độc hại như thế, nếu bạn niệm
Bồ Tát Quán Thế Âm, chúng nghe bạn niệm : "Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ
Tát", thì chúng sẽ ẩn tàng, chạy về chỗ của chúng ở, chẳng dám tác quái
nữa.
Mây sấm sét điện chớp
Tuôn mưa đá mưa rào
Nhờ sức niệm Quán Âm
Liền được trời quang tạnh.
Trên trời thường có mây, sấm sét, điện chớp, hoặc tuôn mưa đá, các thứ tai nạn.
Có khi mưa đá, cục đá lớn gần bằng quả trứng gà, hoặc có cục đá lớn nặng mấy
mươi gam, thậm chí xuống trúng trâu bò, thì trâu bò sẽ chết. Nếu rớt xuống
trúng người, thì chẳng cần nói càng làm cho người chết. Hoặc tuôn mưa rào, nếu
bạn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì chẳng bao lâu những hiện tượng đó sẽ ngừng,
chẳng còn nữa.
Chúng sinh bị khốn cùng
Vô lượng khổ bức bách
Nhờ diệu trí Quán Âm
Hay cứu khổ thế gian.
Chúng sinh tức là chúng duyên hòa hợp mà sinh, hơn nữa chúng sinh có trăm ngàn
vạn thứ loài khác nhau, nên gọi là chúng sinh. Cũng có thể giải thích nói
"chúng sinh" tức là sinh ra quá nhiều. Theo chữ chúng của
Đầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương
Chẳng cõi nào không hiện.
"Đầy đủ" là chẳng thiếu. "Sức thần thông" là gì? Thần thông
có sáu thứ.
Thứ nhất là thiên nhãn thông. Thiên nhãn có thể nhìnu thấy động tác của chư thiên ở cõi trời Đao Lợi, đều nhìn thấy rõ ràng.
Thứ hai là thiên nhĩ thông, nghe được mọi thứ tiếng của người nhân gian, và chư thiên ở trên trời trong mười phương thế giới.
Thứ ba là tha tâm thông, trong tâm người khác nghĩ gì cũng đều biết hết.
Thứ tư là túc mạng thông, tức nhân quả quá khứ đều biết rõ.
Thứ năm là thần túc thông, còn gọi lày thần cảnh thông, tức có thể bay đi biến hóa tự tại.
Thứ sáu là lậu tận thông, thần thông này khó đắc được nhất. Tất cả quỷ thần đều có năm thứ thần thông ở trên, chỉ lậu tận thông là không có.
Bồ Tát Quán Thế Âm đều đầy đủ sáu thứ thần thông, cho nên gọi là đầy đủ sức thần thông. "Rộng tu trí phương tiện", do chữ "rộng" nên biết rằng Ngài chẳng những chỉ tu trì một pháp môn, mà còn tu đủ thứ các pháp môn. Giống như chúng ta bây giờ, chẳng phải chỉ có nghe kinh, mà cũng học Phật pháp, lại phải học Chú Lăng Nghiêm, Chú Đại Bi, còn phải lạy đại bi sám .v.v... phải học tập tinh thần rộng tu trí phương tiện, của Ngài Quán Thế Âm khi Ngài còn tu hành ở tại nhân điạ.
Trong các cõi nước trong mười phương, chẳng có một nước nào
mà Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng đến, nơi nào Ngài cũng đến, cho nên Bồ Tát Quán Thế
Âm đều có duyên với chúng ta tất cả chúng sinh. Chỉ cần ai niệm danh hiệu của
Ngài, thì Ngài sẽ bảo hộ người đó. Còn nếu chẳng niệm danh hiệu của Ngài, thì
đương nhiên Ngài chẳng đếm xỉa tới. Lý do gì? Vì bạn chẳng quan hệ gì với Ngài.
Cho đến danh hiệu của Ngài cũng chẳng biết, cũng chẳng niệm, Ngài bèn nói:
"Họ chẳng muốn làm bạn với mình, mình cũng chẳng hơi đâu mà lo chuyện của
họ". Nếu bạn muốn làm bạn với Ngài, thì phải niệm "Nam Mô Bồ Tát Quán
Thế Âm" cho nhiều. Một khi bạn niệm danh hiệu của Ngài, thì Ngài nói: "Ta
lại có thêm một người bạn, tốt lắm, nếu người bạn mới này có chuyện gì, thì ta
phải giúp đỡ họ".
Có người muốn biết làm thế nào để đắc được "thiên nhãn thông"? Có
nhiều phương pháp, nếu bạn chuyên tâm niệm Chú Lăng Nghiêm, cũng sẽ đắc được
thiên nhãn thông, hoặc học Chú Đại Bi, và bốn mươi hai tay và mắt của Chú Đại
Bi, cũng sẽ được thiên nhãn, hoặc chẳng ngủ để học Phật pháp, cũng sẽ đắc được
thiên nhãn thông, bất quá phương pháp này rất nguy hiểm, tôi chẳng muốn họ y
chiếu học pháp môn này, taị sao? Chắc các bạn còn nhớ tôn giả A Na Luật ở trong
Kinh Lăng Nghiêm, tôn giả chuyên môn ngủ, về sau bị Phật quở, từ đó tôn giả
tinh tấn dụng công, chẳng ngủ nữa, trải qua bảy ngày, mắt của tôn giả bị mù. Phật
thương xót tôn giả, bèn dạy Ngài tu tam muội kim cang chiếu minh, kết quả Ngài
đắc được thiên nhãn đệ nhất.
A Na Luật là tiếng Phạn, dịch là "không nghèo". Nguyên lai được tên này như thế nào ? Trong vô lượng kiếp về trước, Ngài là người mới phát tâm bồ đề, tuy chưa làm Phật giáo đồ, nhưng đã hiểu rõ đạo lý bố thí, lúc đó Ngài chỉ là người nông phu làm ruộng, đời sống nghèo nàn khốn khổ. Trong núi gần nhà của Ngài, có một vị Tỳ Kheo già ở tu, đã chứng được quả Bích Chi Phật. Vị Tỳ Kheo già đó, mỗi bảy ngày mới xuống núi để đi khất thực một lần, mỗi lần chỉ khất thực bảy nhà, tuyệt đối không khất thực nhiều nhà, nếu bảy nhà đều bố thí, thì mới đủ ăn bảy ngày. Nếu một nhà không bố thí, thì một ngày không có gì ăn.
Một lần nọ, người nhà mang cơm đến cho người nông phu đó vào buổi trưa, vốn để cho người nông phu làm rồi thì ăn, song thấy vị Tỳ Kheo già nghèo xuống núi hóa duyên, mà cũng chẳng được vật gì, người nông phu sinh tâm bố thí nghĩ : Hôm nay ta không ăn cơm, để đem phần cơm này dâng cho vị Tỳ Kheo già đó đã chứng quả Bích Chi Phật. Vị Tỳ Kheo nhận phần cơm xong, rất đặc biết hoan hỉ và khen ngợi nói : ''Như thị, như thị ! Ngươi rất thành tâm cúng dường, công đức này thật là không thể nghĩ bàn''. Sau đó đi trở về núi.
Sau đó, người nông dân nhìn thấy con thỏ chạy đến chỗ ông
ta, đột nhiên trèo lên lưng của ông ta, và dính trên thân của ông ta, làm thế
nào cũng chẳng rớt xuống. Ông ta lập tức trở về nhà để tìm cách lấy con thỏ
xuống. Nhìn rõ ràng thì vốn là con thỏ bằng vàng. Ông ta chặt một cái chân con
thỏ đi đổi tiền, trở về nhìn thì cái chân bị chặt lại mọc ra như cũ, cho nên từ
đó ông ta giàu có lên. Từ đó về sau, đời đời kiếp kiếp đều giàu có, vĩnh viễn chẳng
nghèo thiếu. Do ông ta cúng dường bữa cơm cho vị Bích Chi Phật, với tấm lòng
thành mà được quả báo như thế, đời đời kiếp kiếp đều "không nghèo",
đó là nguồn gốc tên của Ngài A Na Luật.
Trong Kinh Bốn Mươi Hai Chương có nói : "Cúng dường cho một trăm người ác,
chẳng bằng cúng cho một người thiện. Cúng dường cho một ngàn người thiện, chẳng
bằng cúng cho một người cư sĩ giữ gìn năm giới. Cúng dường cho một vạn người cư
sĩ giữ năm giới, chẳng bằng cúng cho một vị Sa Di giữ mười giới. Cúng dường cho
mười vạn vị Sa Di, chẳng bằng cúng cho một Tỳ Kheo. Cúng dường cho một trăm vạn
vị Tỳ Kheo, cũng chẳng bằng cúng cho một vị chứng sơ quả Tu Đà Hoàn. Cúng dường
một ngàn vạn vị Tu Đà Hoàn, chẳng bằng cúng cho một vị chứng nhị quả Tư Đà Hàm.
Cúng dường cho một vạn vạn vị Tư Đà Hàm, chẳng bằng cúng cho một vị chứng quả A
Na Hàm. Cúng dường trăm ngàn vạn vạn vị A Na Hàm, chẳng bằng cúng dường cho một
vị chứng tứ quả A
Hôm nay, nói về tôn giả A Na Luật cúng dường một vị Bích Chi Phật, mà đời đời kiếp
kiếp không nghèo và còn rất giàu có, không làm thái tử con vua, thì cũng làm
con trong gia đình giàu có. Cho nên chúng ta muốn đời đời kiếp kiếp đều không
nghèo, thì phải cúng dường Tam Bảo, thì tương lai sẽ có cơ hội giàu có. Song,
khi bạn giàu có, thì lại có vấn đề. Vấn đề gì ? đó là :
"Bần cùng bố thí khó,
Giàu sang học đạo khó".
Tôn giả A Na Luật làm sao mà được giàu có ? Vì Ngài nghèo khổ mà biết bố thí,
hy sinh bữa cơm trưa của mình, đem cúng dường Tam Bảo, do một niệm chân tâm mà
được vô lượng phước báu. Người nghèo chính họ đã không no, mà còn đem đi bố
thí, thì chẳng còn gì để ăn, cho nên nói "bố thí khó". Còn giàu có
thì sao? thì "học đạo khó". Những người giàu có, bạn kêu họ đến học
Phật pháp, thì họ chẳng chịu đến. Đây là hai điều khó trong hai mươi điều.
Đủ thứ các đường ác
Địa ngục quỷ súc sinh
Khổ sinh già bệnh chết
Dần dần đều dứt hết.
Các đường ác, tức là tất cả những nơi không lành. Đủ thứ là biểu thị nhiều thứ,
chẳng riêng gì một đường ác, mà có rất nhiều. Tổng cộng lại thì có bốn: A tu
la, ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục, đây là bốn đường ác. A tu la ở trước đã giải
thích rõ ràng, chúng rất thích đấu tranh, phàm loài chúng sinh nào thích đấu
tranh, đều thuộc về A tu la. Địa ngục tạo ra như thế nào? là do nghiệp chướng của
mỗi người chúng ta hình thành. Bạn tạo nghiệp ác gì thì có địa ngục đó. Địa ngục
lại phân ra rất nhiều loại, trong kinh Điạ Tạng có nói: "Điạ ngục lớn có
mười tám, ngoài ra có năm trăm địa ngục nhỏ, và còn có trăm ngàn vô lượng vô
biên điạ ngục khác". Địa ngục có phải giống như ngục tù ở nhân gian chăng?
Do người xây nhà tù kiên cố, để có ai phạm tội thì nhốt vào tù chăng? Chẳng phải,
điạ ngục là do nghiệp ác của mỗi người tạo ra mà hiện ra. Bạn tạo nghiệp ác giết
người, thì có điạ ngục giết người hiện ra; tạo tội ác phóng lửa, thì có địa ngục
phóng lửa hiện ra; tạo nghiệp gì thì có điạ ngục đó, cho nên loại địa ngục cũng
chẳng nhất định. Khi nào bạn trả hết nghiệp, thì điạ ngục chẳng còn nữa, nếu
nghiệp chẳng hết thì điạ ngục vẫn tồn tại.
Lúc tôi còn ở đông bắc bên
Ông ta thấy bà vợ bé của người cha xinh đẽp, thì coi như là vợ của mình, và lúc đó đứa con của ông ta lại chết, ông ta thấy cô vợ của con mình tướng mạo cũng đẹp. Do đó, cô vợ của người con cũng làm vợ của mình. Lúc đó ông ta chỉ mới khoảng hai mươi tám tuổi. Khi ông ta được bốn mươi tuổi, thì mới bắt đầu giác ngộ, tự nghĩ rằng: "Ôi ta một đời tạo quá nhiều nghiệp ác, lấy mẹ của mình làm vợ, lấy con dâu cuả mình làm vợ, tội nghiệp này chẳng ít". Do đó, ông ta bắt đầu tu, chuyên trì Kinh Kim Cang.
Tụng Kinh Kim Cang hơn mười năm, ông ta vào khoảng hơn năm mươi tuổi thì chết. Chết rồi đến trước vua Diêm Vương. Vua Diêm Vương là ông vua quản lý tất cả lũ quỷ trong địa ngục, rất là lợi hại, mặt mày đen sì, chẳng đếm xỉa gì đến nhân tình, ông ta bị vua Diêm Vương hỏi : ‘’Tại sao ông cứ tạo những nghiệp ác ? Bây giờ sẽ bỏ ông vào địa ngục chảo dầu sôi, dùng chảo dầu để chiên ông.’’ Do đó, kêu hai con quỷ đến bắt ông ta bỏ vào chảo dầu sôi.
Lúc đó, bên cạnh có ông quan tòa nói : ‘’Không thể được.’’ Vua Diêm vương hỏi : ‘’Tại sao không được?’’ Quan tòa đáp : ‘’Vì ông ta đọc tụng Kinh Kim Cang, trước hết phải xả Kinh Kim Cang ở trong bụng của ông ta ra hết, rồi sau đó mới dùng chảo dầu sôi chiên.’’
Do đó, lại kêu ông ta đầu thai làm người, ông ta đầu thai
vào một gia đình nghèo khổ, cha mẹ bán đồ điểm tâm. Đứa trẻ này từ nhỏ rất tham
ăn, nên bụng trương lên quá to mà chết, chết rồi cha mẹ của anh ta cùng nói
rằng: ‘’Tại sao bụng của nó lại to như thế ? Đáo để trong bụng có vật gì thế ?
Chúng ta hãy mỗ bụng nó ra xem thử’’. Bèn mỗ bụng ra, thì có một vật rất cứng
chắc tựa như đá kim cương, lũ quỷ bèn nói : ‘’Ê ! Bây giờ có thể kêu ông ta vào
cạnh chảo dầu sôi là vừa.’’ Bèn mang ông ta đến gặp vua Diêm Vương nói : ‘’Bây giờ
có thể kêu ông ta đầu thai làm heo.’’ Ông ta lại đầu thai làm heo, bị người
nuôi heo cho ăn mập mạp rồi làm thịt. Sau đó lại trở về địa ngục để bỏ vào chảo
dầu sôi, thì ông ta nói với vua Diêm Vương: ‘’Ông bất tất phải bỏ tôi vào chảo
dầu sôi, hãy cho tôi đầu thai đến nhân gian làm người, ông chừa cho tôi một tay
heo để làm chứng minh, tôi sẽ khuyên người đời đừng tạo tội nghiệp.’’ Vua Diêm
Vương nói : ‘’Như thế cũng tốt.’’ Do đó, để cho ông ta đầu thai làm người họ
Lưu. Vì ông ta có dấu tích heo, cho nên mọi người kêu ông ta là ‘’ông Lưu tay
heo.’’ Người đó tôi đã gặp qua, và còn nói chuyện rất nhiều với ông ta, cho nên
mới biết ông ta nhớ việc của mình rất rõ ràng. Đây tức là do nhân duyên tạo
thành đường ác. Địa ngục là nơi rất nguy hiẻm, hy vọng mọi người đừng tạo nghiệp
ác, bằng không thì quả báo khổ khó tránh khỏi.
Còn có một vị pháp sư tại Hợp Nhĩ Tân, một lần nọ, ông ta mắc một chứng bịnh trầm
kha, cảm thấy mình chết đi, chết rồi thần thức hướng về phía ngã tư đường chạy,
chạy đến cách chùa chẳng bao xa thì đi đầu thai. Đầu thai làm gì? Làm heo. Nhìn
thấy mình biến thành thân heo, nhưng chẳng chịu bú sữa nên bị chết đói, chết
đói rồi thần thức của ông ta lại trở lại nơi thân của vị pháp sư đó, bèn tỉnh
dậy nói: ‘’Ôi , tôi vừa mới đi đầu thai làm heo!’’
- Người bên cạnh hỏi ông ta rằng: ‘’Ông đến đâu đầu thai làm heo?’’
- Ông ta nói: ‘’Bây giờ bệnh của tôi đã khỏi, tôi sẽ dẫn anh tới nơi đó xem,
nơi đó vừa mới sinh bảy con heo con, tôi là một trong số đó, cố ý không bú sữa
nên mới chết.’’ Bèn dẫn anh ta và các vị pháp sư khác, cùng đi đến chỗ đó, quả
nhiên có gia đình nọ có con heo vừa sinh bảy con heo con, đã chết đi một con.
Đó là chính vị pháp sư đó đã trải qua, và tôi cũng đã gặp
‘’Thân người khó được,
Phật pháp khó nghe
Thiện tri thức khó gặp’’.
Bạn thử tính xem, tại nước Mỹ này có bao nhiêu triệu người, song có bao nhiêu người
được nghe Phật pháp? ‘’Thiện tri thức khó gặp’’: Bạn muốn gặp một vị thiện tri thức
chân chánh hiểu Phật pháp, một vị thầy tốt cũng chẳng dễ dàng. Có những người
làm sư phụ, mà ngay cả chính mình cũng chẳng hiểu đạo lý, họ giảng đạo lý cũng
giảng chẳng đúng.
Ngạ quỷ cũng do nghiệp lực sở cảm, mới bị quả báu làm ngạ quỷ. Về ngạ quỷ tôi đã
từng giải thích rất nhiều lần. Bụng của chúng to như trống, cổ họng nhỏ như
kim, những vật mà chúng ta ăn, khi vào trong miệng chúng, thì cũng biến thành
lửa. Cảnh giới mỗi loài mỗi khác, chư thiên nhìn thấy nước là lưu ly, chúng ta
nhìn thấy nước là nước, cá nhìn thấy nước là nhà của chúng, là cung điện của chúng,
quỷ nhìn thấy nước là lửa. Đó đều là nghiệp lực cảm nên, cho nê sự thấy cũng
khác nhau. Súc sinh, tôi vừa mới nói vị pháp sư đó đầu thai làm heo, còn có
người đầu thai làm gà, bò, ngựa .v.v... đó đều là do người làm thành. Những
người nào chẳng hiếu thuận với cha mẹ, chẳng cung kính sư trưởng, thì những
người đó tương lai đều có quan hệ với súc sinh. Và người nào thích ăn thịt, thì
cũng rất nguy hiểm, cũng có mối quan hệ như trên. ‘’Đủ thứ các đường ác’’ tức cũng
là bao quát bốn đường ác.
Khổ sinh già bệnh chết, nhân sinh có ba thứ khổ, tức là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Khổ khổ tức là khổ trong sự khổ, như người nghèo khốn khổ, tức chẳng có tiền, lại chẳng có cơm ăn, lại chẳng có nhà ở, muốn tìm việc làm lại tìm chẳng được, thật là khổ trong sự khổ. Khổ trong sự khổ này, khiến cho con người không thể chịu đựng được.
Vậy người có tiền thì chẳng khổ chăng? Khổ của người có
tiền lại càng lớn, có người nói: ‘’Pháp sư thầy nói đạo lý này tôi chẳng tin’’.
Bạn không tin tôi cũng nói như thế, bạn tin tôi cũng nói như thế. Tại sao? Bạn
thấy tiền nhiều, thì suốt ngày đến tối đều nghĩ rằng:’’Số tiền này bỏ vào ngân
hàng nào? Số tiền kia tôi phải đem đi làm ăn, còn số tiền nọ phải .v.v...’’ Đếm
tới đếm lui, đếm tới đầu bạc, răng rụng, mắt hoa, tai điết, lúc đó vẫn chưa đếm
xong. Chưa đếm xong thì bạn nói sẽ thế nào? Có vấn đề xảy đến, vì quá nhiều tiền,
suốt ngày đến tối cứ lo đếm tiền, đếm tới đếm lui, bị kẻ trộm biết, tối đến phá
cửa xông vào, ăn cắp hết mang đi, đây gọi là hoại khổ. Thứ khổ này, so với khổ bần
cùng thì lợi hại hơn, vì khổ người nghèo là khổ tập quán, chẳng cảm thấy khổ
như thế nào. Song, người giàu có đột nhiên mất mát đi, thứ khổ này mới là khó
chịu đựng. Nhất là người già, chẳng có tiền, tất cả mọi sự đều bất như ý, đây
gọi là hoại khổ.
Nói như thế thì, người không giàu cũng không nghèo thì chẳng khổ? Vẫn khổ. Khổ gì?
Tức là hành khổ, do từ nhỏ lớn lên rồi già nua, già rồi chết đi, niệm niệm thay
đổi, niệm niệm không ngừng. Tức nhiên chẳng có khổ về bần cùng, chẳng có khổ về
giàu sang, mà có hành khổ. Ba thứ khổ này chẳng có ai tránh khỏi.
Lại có tám thứ khổ. Ba thứ khổ đã không ít, lại còn thêm tám thứ khổ. Kỳ thật
là thế nào? Tám thứ khổ vẫn chưa nhiều. Sự khổ chẳng phải chỉ có tám, mà là có
hàng ngàn hàng vạn vô lượng sự khổ. Khổ nhất là làm người, làm súc sinh còn
sung sướng hơn làm người nhiều. Làm gì thì không khổ? Làm Phật thì chẳng khổ. Tại
sao nói làm súc sinh thì sung sướng hơn làm người? Súc sinh thì chẳng lo về cái
ăn, cái mặc, chỗ ở, chúng có điều kiện sinh hoạt thiên nhiên, chẳng lo lắng,
bạn nói có phải chăng? Chỉ có làm người là khổ nhiều nhất. Bây giờ bất tất
giảng tám vạn bốn ngàn thứ khổ, cho đến vô lượng thứ khổ, chỉ nói về tám thứ
khổ, đó là: Khổ về sinh, già, bệnh, chết, thương yêu mà phải xa lìa, ghét mà
gặp nhau, cầu mong chẳng được, năm ấm thiếu đốt. Trong tám thứ khổ này, bạn nói
thứ khổ nào khổ nhất? Đó là khổ về sinh, nếu chẳng có sinh, thì chẳng có các
thứ khổ kia.
Có người hỏi: ‘’Khổ về sinh là khổ như thé nào?’’ Tôi biết bạn chẳng còn nhớ, đã quên mất khổ về sinh. Do đó, bây giờ tôi nói cho bạn biết: ‘’Sự sinh này là do tinh cha huyết mẹ kết hợp thành, lại do thân trung ấm đến đầu thai mà có. Bào thai ở trong bụng mẹ vào tuần lễ thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư, đều chẳng có cảm giác. Nếu lúc đó bà mẹ ăn đồ ăn lạnh, thì bạn cảm thấy như ở trong núi băng, cảm giác rất khó chịu, nếu bà mẹ ăn đồ ăn nóng, thì cảm giác như ở trong hầm lửa, nóng vô cùng. Ở trong bụng mẹ thì có những sự khổ như thế. Và nếu bà mẹ khom lưng, thì thai nhi cảm giác như bị núi đè rất khó chịu vô cùng. Đến lúc sinh ra thì mới là khổ nhất, đang lúc sinh thì giống như hai quả núi đè lên, cho nên khi đứa bé chào đời thì khóc oà lên, kỳ thật tiếng khóc là do khổ mà ra, cho nên mới kêu: ‘’Khổ quá, khổ quá, khổ quá’’!
Khi sinh ra thì thống khổ như rùa sống lột mai, song một
khi lớn lên thì quên hết sư thống khổ đó, sau khi trưởng thành rồi bất tri bất
giác thì già đi. Sự khổ của cảnh già nua cũng rất lợi hại. Tuổi già thì tai
cũng điếc, họ mắng thì bạn cũng chẳng nghe. Mắt cũng mờ, nhìn vật gì cũng chẳng
rõ ràng. Trước hết là lỗ tai và con mắt chẳng giúp đỡ bạn, tuy nhiên lưỡi chẳng
rụng, nhưng răng thì rụng. Trước kia tôi gặp cụ già tám chín mươi tuổi, tôi hỏi
ông ta: Ông đã gặp người nào rụng lưỡi chăng? Tại sao răng của ông đều rụng
hết?
- Ông ta nói: Không, còn ông đã thấy chưa?
- Tôi nói: Tôi lại càng chẳng thấy qua, ông là người tuổi tác đã cao, mà còn chưa
thấy người nào rụng lưỡi, tôi còn trẻ làm sao có thể gặp chuyện lạ như thế?
- Tôi lại hỏi ông ta: ‘’Ông có biết vì sao lưỡi chẳng rụng không? Trên thế gian
chẳng có ai rụng lưỡi mà chỉ rụng răng.’’
- Ông ta nói: Đạo lý gì?
- Tôi nói: Vì răng quá cứng, cho nên rụng, còn lưỡi quá mềm, cho nên chẳng rụng.
Răng rụng có gì khổ? Răng rụng ăn gì cũng chẳng biết mùi vị, nhai chẳng nát cắn chẳng đứt, chỉ nuốt vào bụng lại khó tiêu hóa, bạn nói có khổ chăng? Lúc đó mặt mày nhăn nhó, do đó có câu: ‘’Da gà tóc bạc’’, da thịt rất là sù sì nhăn nhó, đầu tóc thì bạc phơ. ‘’Tóc trắng’’ này ở nước Mỹ mà nói, thì chẳng phải là người già, vì người tây phương còn nhỏ khi mới sinh ra, thì tóc đã màu trắng, đó chẳng phải là trắng bạc của người già, mà khi còn rất rẻ cũng có tóc trắng. Tóc bạc của người già là do tóc đen mà biến thành trắng, đen có thể biến thành trắng, trắng thì không thể biến thành đen, song có lúc cũng có thể. Lúc tôi ở tại Hồng Kông, thì tóc của tôi hoàn toàn bạc hết, vì tôi làm chùa, làm quá sức, suy nghĩ nhiều, nên đầu tóc bạc phơ. Về sau mọi việc gì cũng đều buông xả hết, nên tóc đen trở lại. Cho nên việc gì cũng chẳng có nhất định, bây giờ đầu tóc của tôi chỉ có chút tóc bạc.
Sự khổ về già cũng chẳng dễ gì chịu đụng, nếu bạn không tin thì hãy thử xem, đợi đến khi bạn già thì sẽ biết, bạn đừng ngại sống đến bảy, tám mươi tuổi, hoặc tám, chín mươi tuổi, thậm chí một trăm tuổi, thì lúc đó ăn vật gì cũng chẳng biết mùi vị, lúc đó bạn nghĩ lại: Trước kia có vị thầy nói về sự khổ của tuổi già, mà mình chẳng tin, bây giờ mình mới biết là thật không sai. Lúc bấy giờ bạn mới nghĩ đến việc tu đạo, thì đã quá muộn chẳng còn kịp nữa. Bình đẳng nhất là ‘’khổ về bệnh’’. Bất cứ ai cũng đều có khổ về bệnh, chẳng có bệnh nặng thì có bệnh nhẹ. Đau đầu thì đầu chẳng yên vui, đau chân thì chân chẳng yên ổn, thân đau thì thân chẳng khỏe. Bệnh có rất nhiều thứ, như có bệnh dạ dày, thì ăn vật gì cũng chẳng thoải mái, nếu bệnh phổi tì ho không ngừng. Tóm lại, ngũ tạng (tim, gan, tỳ, phổi, thận) này mà có bệnh thì khổ.
Còn có sự khổ nhất, đó là khổ về ‘’chết’’. Có người nói: ‘’Khổ về chết? Tôi chẳng biết mùi vị ra sao? Tôi muốn biết trước.’’ Vậy thì bạn hãy thử xem, chết trước một lần, song chẳng có ai bảo đảm bạn sẽ sống lại, cho nên đừng nên thử. Chết thì dễ lắm, chết rồi sẽ đi về đâu? Đây là vấn đề rất quan trọng. Chết rồi sẽ đọa vào địa ngục? Hay là súc sinh? Hoặc tái sinh làm người? Vấn đề này chẳng có ai bảo đảm.
Sinh, già, bệnh, chết, đều là khổ. Tại sao Đức Phật phải đi
xuất gia? Cũng vì cảm thấy sinh, già, bệnh, chết chẳng dễ gì chịu được. Khi
Ngài mười chín tuổi thì, một ngày nọ đi du ngoạn, đi đến cửa hướng đông thì
thấy một người phụ nữ đang sinh đứa bé, bèn hỏi người tùy tùng rằng: Đó là việc
gì?
- Người tùy tùng đáp: Đó là đang sinh đứa bé.
Thái tử thấy đứa bé đó lớn tiếng khóc la, mà người phụ nữ
đó cũng đau khổ vô cùng, do đó tâm chẳng vui, bèn trở về hoàng cung.
Ngày thứ ba lại đến cửa hướng tây, thì thấy một người bệnh, do đó chẳng còn hứng
thú đi nữa, bèn trở về. Ngày thứ tư đến cửa hướng bắc đi du ngoạn, thì thấy một
người chết, Ngài lại hỏi tùy tùng: Đó là việc gì? - Tùy tùng đáp: Người đó đã
chết!’’
Ngài lại cảm thấy rất buồn rầu, thấy cảnh sinh, già, bệnh, chết,
ai cũng phải trải qua, thật là khổ, chẳng có ý nghĩa gì, bèn trở về hoàng cung.
Chính lúc đó lại xuất hiện một vị Sa môn, tức là người xuất gia. Thái tử lại hỏi:
Người đó làm gì thế?
- Tùy tùng mới đến hỏi vị Sa môn: Ông làm gì vậy? - Vị Sa môn nói: Tôi là người
xuất gia, tu Phật đạo, mới có thể lìa khỏi sự khổ sinh, già, bệnh, chết.
Thái tử nghe được sự tu đạo sẽ chấm dứt sinh tử, thì rất phấn khởi lại hỏi vị
Sa môn: Tôi cũng có thể y theo ông tu đạo có được chăng?
- Vị Sa môn trả lời: Ai tu cũng được, bất cứ ai cũng có thể xa lìa sự khổ về
sinh già bệnh chết.
Sau khi Thái tử trở lại hoàng cung, thì nửa đêm cùng với Xa Nặc vượt thành xuất
gia tu hành. Đức Phật vì cảm thấy sinh già bệnh chết chẳng có ý nghĩa gì, cũng
chẳng biết sinh từ đâu đến ? Cũng chẳng biết chết rồi sẽ đi về đâu. Cho nên bèn
phát tâm xuất gia, đến núi Tuyết tu khổ hạnh sáu năm, vì muốn tránh khỏi sự khổ
sinh già bệnh chết. Ai cũng đều có sinh, nhưng chẳng có ai tránh khỏi sự chết,
mọi người tương lai đều phải chết, có người chết an lành, có người chết chẳng
an lành, có đủ thứ sự chết khác nhau. Có người chết vì bệnh, có người chết vì
đói, có người làm việc nhiều quá lao lực mà chết, có người chết vì tai nạn, có
người bị đá trên núi lăn xuống đè chết, hoặc có người đánh lộn bị người đánh
chết, hoặc chết ngoài chiến trường, hoặc bị thuốc độc mà chết, hoặc có người tự
tử, hoặc có người chẳng muốn chết mà chết, có người muốn chết lại không chết,
cho nên sự chết có đủ thứ sự khác nhau.
Tuy là chết khác nhau, nhưng quả báo tương lai cũng khác
nhau. Ví như những người chết oan, tức là bị xe cán chết, hoặc bị nước ngập
chết, hoặc bị lửa thiêu chết, ở trong sự vô ý phát sinh tai nạn mà chết đi, thì
những người này thuộc về chết oan. Hồn quỷ của họ vua Diêm Vương chẳng quản,
quỷ cũng chẳng quản. Vậy lúc đó họ rất tự do chăng ? Tuy nói là tự do, song là
con quỷ tự do, chứ chẳng phải người tự do. Người tự do thì có khi cũng chẳng
giữ quy cụ, hà huống là quỷ. Quỷ tự do cũng chẳng giữ quy cụ. Người chết oan
thì muốn bắt quỷ khác thay thế họ. Ví như nơi nào đó trên đường lộ, từng xảy ra
tai nạn chết người, thì nơi đó cứ mỗi năm, hoặc trong vòng ba năm, lại xảy ra
tai nạn chết người nữa. Nguyên nhân gì ? Vì hồn oan quỷ ở tại nơi đó đợi, nhất
định phải làm cho người khác chết để họ đi đầu thai, bằng không thì họ vĩnh
viễn ở đó không thể đi đầu thai.
Nếu người tự tử uống thuốc độc chết, đến địa ngục chịu hình phạt rất là thống khổ.
Hình phạt gì ? Lúc còn sống uống thuốc độ mà chết, thì ở trong địa ngục phải
uống nước cốt sắt nóng, vào trong bụng thì ngũ tạng bên trong đều bị thiêu đốt,
chết đi rồi lại có gió xảo phong trong địa ngục thổi thì lại sống dậy. Sống dậy
rồi lại uống nước cốt sắt nóng, sau đó bị chết di, chết rồi lại bị gió xảo
phong thổi, lại sống dậy, cứ như thế một ngày đêm đều chịu hình phạt như thế,
rất khó mà chịu đựng.
Song, nếu bạn có thể niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì dần dần sinh
già bệnh chết, đủ thứ sự thống khổ đều chẳng còn nữa.
Đây là nói về bốn thứ khổ về thương mà xa lìa. Thương yêu ai ai cũng biết,
thương yêu cũng có thể nói là ham muốn. Có người ham sắc, có ngườì thích danh,
có người ham tài, cũng có người thích lợi. Ví như có người giàu có, tính toàn
chuyện làm ăn lớn để kiếm tiền song làm ăn thất bại lỗ vốn, mất tiền. Đây là
người và lợi xa lìa, vốn chẳng muốn xa lìa khỏi tiền bạc, nhưng tiền chẳng còn nửa,
đây cũng là khổ về ái biệt ly. Sắc tức là vấn đề nam nữ, người nam thương người
nữ, người nữ thương người nam, hai bên thương yêu với nhau, song vì nhân quả
kiếp trước gieo trồng chẳng tốt, cho nên sự thương yêu này chẳng được lâu dài,
vào dịp nào đó hai bên sẽ chia ly. Khi chia ly, nếu chẳng có thương yêu chân
chánh thì cũng không sao; còn nếu một bên chấp trước vào ái tình, thì sẽ rất
đau khổ. Đây là ái biệt ly khổ về thương yêu sắc đẹp. Còn có ái biệt ly khổ về danh.
Danh sao lại có biệt ly ? Có người nói như vầy : ‘’Danh dự là sinh mạng thứ hai
của con người vậy.’’ Cho rằng có danh tốt, tức là sinh mạng thứ hai của mình,
song sinh mạng thứ hai này bị hủy hoại, thì biến thành danh dự quét đất.
Bổn lai chẳng muốn mất danh dự, song chẳng có cách nào hơn, vì nhất thời làm việc sai lầm, khiến cho danh dự mất đi, đây cũng là một thứ khổ ái biệt ly về danh. Khổ ái biệt ly rất nhiều. Ví như vợ chồng chẳng phân ly, nhưng sinh ra đứa con xinh đẹp dễ thương lại thông minh, quý trọng đứa con như châu báu, song đột nhiên đứa con đó qua đời, lúc đó họ rất đau đớn buồn rầu không ngui, đó cũng là ái biệt ly khổ. Hoặc có người rất có hiếu với cha mẹ, rất cung kính thương yêu, vốn chẳng muốn cha mẹ lìa khỏi mình, song chẳng may cha mẹ qua đời, đó cũng là ái biệt ly khổ.
Tức nhiên biết khổ về ái biệt ly, nhưng đừng chấp trước về ái, đừng đặc nặng sự thương yêu về một người, mà hãy thương yêu bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, hành Bồ Tát đạo để độ tất cả chúng sinh, đừng nghĩ tưởng riêng mình, hãy nghĩ tưởng vì chúng sinh, được như thế thì chẳng có khổ về ái biệt ly.
Sự khổ về ái biệt ly này, có người càng chấp trước về ái tình, chẳng có khổ mà tự mình đi tìm khổ. Giống như có những chàng thanh niên vừa kết hôn rồi, suốt ngày đến tối cứ buồn rầu. Buồn về chuyện gì ? Sợ vợ của y đi tìm bạn trai khác bên ngoài, đó chẳng phải không có khổ mà đi tìm khổ chăng ? Cũng có những người phụ nữ kết hôn rồi, nhưng người chồng quá đẹp trai, nên suốt ngày cứ buồn bã sợ chồng của cô ta có bạn gái khác, thậm chí nghĩ đến thì không thể ăn cơm. Bạn nói đó có phải là quá ngu si chăng ? Còn những người chẳng thương người mà thương chó, lại có người thương mèo, coi chó mèo như mạng sống của mình, cho đến đối với tất cả súc sinh hoặc vật chất đều sinh tâm thương yêu. Khi sinh tâm thương yêu thì cũng rất xảo diệu, thương chó mà chó chết đi, thương mèo mà mèo cũng mất đi, họ cũng đau đớn khóc lóc, đó cũng là ái biệt ly khổ. Tóm lại, đối với bất cứ sự vật gì mà bạn nhìn chẳng thấu, buông xả chẳng đặng, và khi có sự phân ly, khiến cho bạn chẳng được sở nguyện như ý, thì cảm thấy rất thống khổ, đó đều gọi là khổ về ái biệt ly.
Có người nói : ‘’Chỉ thương yêu mà có nhiều sự khổ như thế, thì tôi chẳng thương yêu nữa, về sau tôi bắt đầu ghét.’’ Ghét tức là không thương, có sự chán ghét, có tâm oán hận, đối với sự vật gì cũng đều chẳng thương yêu, đó là sai lầm. Vậy nói thương yêu là có khổ, còn nếu không thương yêu ? Cũng có khổ như nhau, tức là có khổ về ‘’Ghét mà gặp nhau.’’ Trong trường hợp nào đó, bạn đều cảm thấy rất chán ghét, rất hận những người khác và cũng chẳng có duyên với bất cứ ai, cảm thấy người nào cũng đều không tốt, cho nên ai tôi cũng đều chẳng hoan hỉ. Bạn chẳng thương người, cũng chẳng thương chó, càng chẳng thương mèo, gì cũng đều chẳng thuận mắt, thấy vật gì cũng đều nổi giận. Do đó, dọn nhà đi đến chỗ khác ở, không ngờ về chỗ đó rồi, lại gặp những người và vật như ở trên, thậm chí còn tệ hơn hoàn cảnh ban đầu.
Những sự tình mà bạn chẳng muốn thấy, càng thấy càng chán ghét, thì những sự tình đó lại càng đến. Rất kỳ lạ, rất kỳ lạ ! Bạn sợ thấy mèo, mà suốt ngày đều có mèo chạy đến chỗ bạn, đánh nói cũng chẳng chạy. Ghét chó, vừa mới thương đó, bây giờ lại ghét, bạn càng ghét nó, thì nó càng gần gũi bạn. Bạn ghét phụ nữ, mà người phụ nữ đó suốt ngày cứ đến tìm bạn. Bạn chẳng vui vẻ lại muốn dọn nhà, đến nơi khác lại có những người và hoàn cảnh như thế, còn tệ hơn lúc trước, chẳng có ngày nào vui vẻ thoải mái. Bạn nói đó có khổ chăng ?
Sự khổ này từ đâu đến ? Vốn từ trong tự tánh của bạn chiêu cảm đến, vì tự tánh của bạn thiếu định lực. Bạn ở nơi đó chẳng có hòa khí với những người lân cận, thì dọn đến chỗ khác cũng chẳng hòa khí, đó chẳng phải là người ta đối với bạn không tốt, mà là chính bạn đối với người không tốt. Vì mình cảm thấy chẳng có duyên với bất cứ ai, cho nên người khác đối với bạn cũng chẳng có duyên. Vậy cảm thấy tốt cũng là khổ, cảm thấy không tốt vẫn là khổ, thì làm cách nào ? Phải hợp với trung đạo, đối với bất cứ việc gì cũng đừng thái quá, thái quá thì cũng như bất cấp. Sự khổ về ghét mà gặp nhau này kỳ quái như thế. Bạn càng không thích điều gì, thì điều đó lại đến; bạn chẳng muốn gặp người uống rượu, mà người đó suốt ngày ở bên cạnh bạn. Chẳng thích người hút thuốc, mà người hút thuốc cứ đến nhà bạn. Chẳng thích người đánh bạc, mà người đánh bạc mỗi ngày cứ đến tìm bạn. Tại sao ? Vì bạn có sự oán ghét, cho nên tụ lại một chỗ là khổ. Sự khổ về oán ghét gặp nhau, và ái biệt ly, đều là vì mình không minh bạch chân chánh về trung đạo, bị lệch về một bên, lệch về một bên nên mới có khổ. Nếu giữ trung đạo thì chẳng có khổ.
Tin rằng chẳng có ai nhàm chán oán ghét ‘’tiền bạc’’, song nếu bạn càng ghét tiền, càng ham nó, thì nó càng không đến. Ham thích mà nó chẳng đến, tức là ‘’khổ về cầu chẳng được’’.
Vừa mới nói ái là khổ, ghét cũng khổ, trong ái có sở cầu,
có sở cầu mà cầu chẳng được. Có người suốt đời muốn cầu phát tài, song lao lực
khổ nhọc, từ khi biết làm ăn cho đến già, đều muốn phát tài, nhưng đến khi chết
cũng chẳng phát tài, vẫn nghèo sơ nghèo xát, đó là khổ về cầu chẳng được. Có
người cảm thấy làm quan là tốt, do đó bằng mọi cách cầu làm quan, song cầu suốt
đời cuối cùng cũng chẳng được, đó cũng là khổ về cầu chẳng được. Có người suốt đời
cầu danh, song một đời cũng cầu chẳng được. Có người chẳng có con, thì muốn
sinh người con thông minh, xinh đẹp, song cầu tới cầu lui, cũng cầu chẳng được,
đó cũng là khổ về cầu chẳng được. Suốt cuộc đời không cầu cái này thì cầu cái
kia, song chẳng cầu được cái gì cả. Những người đi học thì mong làm bác sĩ,
song quá khứ chẳng tài bồi căn lành học vấn, nên học đến già mắt chẳng còn
thấy, tai chẳng còn nghe được nữa, học suốt đời cũng chẳng đậu được bác sĩ. Ở
Lại có khổ về năm ấm, tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Ở trong Tâm Kinh có
nói : ‘’Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức
là sắc.’’ Nếu bạn nhìn nó đều là không, thì chẳng có khổ. Năm ấm này thiêu đốt
rất là hừng hẫy, là khổ nhất, song ai ai cũng chẳng lìa được năm ấm này. Bảy
thứ khổ ở trên vừa nói là thuộc về cầu khổ; còn sắc, thọ, tưởng, hành, thức, này
có đủ ở trong tự tánh, luôn luôn đều bên cạnh bạn, muốn lìa cũng lìa chẳng được,
đây gọi là khổ về năm ấm thiêu đốt.
Quán chân quán thanh tịnh
Quán trí huệ rộng lớn
Quán bi và quán từ
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.
‘’Quán chân quán thanh tịnh’’: ‘’Quán chân’’ là gì ? Tức là quán chân không.
Chân không tức là chẳng có tướng người, tướng ta, tướng chúng sinh, tướng thọ
mạng, đó gọi là quán chân không. Tuy là chẳng có tướng ta, chẳng có tướng
người, chẳng có tướng chúng sinh, chẳng có tướng thọ mạng, nhưng cũng chẳng lìa
khỏi tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng. Do đó, ‘’vô tướng’’
chứ chẳng phải lìa khỏi ta, người, chúng sinh, thọ mạng, mới không có tướng, mà
là ở tại tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng, chẳng có
tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng, đây gọi là tại tướng
mà lìa tướng, tức cũng như lúc trước tôi thường nói:
‘’Mắt thấy hình sắc bên trong chẳng có,
Tai nghe việc đời tâm chẳng hay.’’
Minh bạch có hình có sắc, mà tại sao bên trong chẳng có ? Là vì chẳng chấp trước.
Đây là quán không, cũng giống như đại viên cảnh trí.
Trong đại viên cảnh trí, tuy nhiên có vật tất hiện, có tướng tất ứng, có cảnh giới
gì, thì hiện cảnh giới đó, song nó chẳng lưu lại dấu vết. Quán chân không của
Bồ Tát Quán Thế Âm cũng tức là như vậy.
Quán thanh tịnh : Thanh tịnh là đối với nhiễm ô mà nói. Nhiễm ô là gì ? Có sự chấp trước tức là mhiễn ô, có sự ái trước cũng là nhiễm ô, có sự tham trước cũng là nhiễm ô. Thanh tịnh là chẳng có mọi sự tham, sân, si, nếu có tham sân si thì chẳng thanh tịnh. Ví như sự bố thí, một số người bố thí thường phạm tư tưởng như vầy : ‘’Người này có chút quan hệ với tôi, anh ta là bạn thân của tôi, hoặc là ở gần tôi, tôi phải bố thí cho anh ta, giúp đỡ anh ta.’’ Đa số trước khi bố thí, đều so sánh người xa gần, có quan hệ, sau đó mới bố thí cho người xa. Đó là đã có tâm phân biệt xa gần thân sơ, có tâm chấp trước tướng, thì không thể vô tướng bình đẳng bố thí, đó cũng gọi là quán bất thanh tịnh.
Bố thí pháp của Bồ Tát Quán Thế Âm, là Ngài chẳng phân biệt ta người, chẳng phân biệt kẻ thân người lạ, chẳng phân biệt xa gần, chỉ vì bố thí mà bố thí. Bố thí gồm có bố thí tiền tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Bố thí tài lại có bố thí nội tài, và bố thí ngoại tài. Ngoại tài là vật ngoài thân, nội tài là vật trong thân. Khi Bồ Tát hành Bồ Tát đạo thì có tài thí, tài thí này hướng bên ngoài thí xả đất nước, vợ con, đem tất cả đất nước bố thí cho người khác, đem vợ của mình và con cái của mình, đều bố thí cho chúng sinh, đó mới là thật bố thí, thật xả bỏ, mới đến tất cả ruộng đất, nhà cửa, sự nghiệp, đều bố thí cho người có đạo đức, đây gọi là bố thí ngoại tài.
Bố thí nội tài : Tức là đem đàu, mắt, tủy, não, tính mạng của mình bố thí hết. Trong tâm thường nghĩ : ‘’Nếu có thể đem thân này để cứu tất cả chúng sinh trên thế giới, thì tôi sẽ đem thân thể này bố thí cống hiến cho thế giới. Cho đến quả tim của tôi cũng bố thí cho người, sinh mạng cũng bố thí cho người. Nếu như có người cần cái đầu của tôi, thì tôi chặt cái đầu này xuống để dâng cho họ.’’
Như Ngài Xa Lợi Phất khi thực hành Bồ Tát đạo, thì có người
xin Ngài một con mắt, Ngài Xá Lợi Phất bèn móc một con mắt ra bố thí cho anh
ta, song anh ta nói : ’’Ông lầm rồi, tôi chẳng muốn con mắt này, mà tôi muốn con
mắt kia.’’ Do đó, Ngài Xá Lợi Phất thối bồ đề tâm. Ngài nghĩ : ‘’Bồ Tát đạo rất
khó thực hành.’’ Ngài chỉ xả bỏ một nửa nội tài, còn nửa kia xả chẳng được.
Nhưng Bồ Tát thì nghĩ như vầy: ‘’Nếu có thể lấy não và cốt tủy của tôi làm thành
thuốc để cứu người, thì tôi cũng nguyện bố thí.’’ Đây gọi là bố thí nội tài. Phàm
là những gì thuộc về thân thể, trí huệ, tinh thần, đó đều gọi là nội tài.
Còn có bố thí pháp, tức là thuyết pháp giáo hóa chúng sinh. Sự bố thí này lớn hơn
hết, do đó:
‘’Trong các sự bố thí,
Bố thí pháp là hơn hết.’’
Bố thí pháp là quan trọng nhất. Cho nên hiện tại chúng ta ở tại Phật Giáo Giảng
Đường này, tuy giảng đường chẳng lớn, nhưng pháp lực cũng không nhỏ. Ngày thứ
năm do Quả Địa giảng, ngày thứ sáu do Quả Phổ giảng, ngày thứ bảy do Quả Toàn
giảng, ngày chủ nhật thì bắt đầu giảng Phẩm Phổ Môn.
Phật Giáo Giảng Đường này, hằng ngày đều bận rộn, vì pháp mà quên mình, vì Phật
pháp mà quên đi thân tâm tính mạng, chẳng lo cho sức khỏe của mình. Mỗi ngày ai
cũng đều làm việc, tôi là pháp sư cũng làm việc như nhau, tất cả mọi việc tôi
đều làm. Mấy ngày nay thân thể hơi đau, tối hôm qua tôi cũng lười một chút,
chẳng đến vì làm việc quá mệt nhọc khổ cực, song tôi làm khổ cực, lười một chút
cũng không sao, vì tôi đã học tập nhiều năm rồi, nên tôi lười biếng một chút
tình còn có thể tha thứ. Song, các vị là đệ tử thì không thể lười biếng, bất cứ
ai giảng kinh cũng đều phải đến nghe. Nghe pháp tức là biểu hiện hộ trì đạo
tràng. Mọi người đến đông thì pháp hội càng lớn, nếu chẳng có ai đến thì pháp
hội càng nhỏ. Do đó, muốn ủng hộ Phật Giáo Giảng Đường thì đến nghe giảng kinh.
Trong số các vị có hộ giáo sử, bố giáo sĩ, tuyên giáo sư.
Tuyên giáo sư tức giảng kinh thuyết pháp, bố giáo sĩ là phải đến các nơi truyền
bá cho Phật giáo rộng lớn. Hộ giáo sử tức là tận tâm ủng hộ đạo tràng, khiến
cho đạo tràng ngày càng phát triển, ngày càng phát dương quang đại. Hộ trì đạo
tràng tức là hộ trì Phật giáo, hộ trì Phật giáo tức cũng là hộ trì Phật Pháp
Tôi biết quá khứ tôi đã đi tuyên
Nhiều người như thế muốn xuất gia, muốn làm hòa thượng,
muốn làm Tỳ Kheo ni, đó thật là không thể nghĩ bàn. Hiện tại các bạn nên lập cơ
sở và quy cụ cho vững chắc, làm tiền đồ cho Phật giáo nước Mỹ, mỗi người đều
phải gánh lấy trách nhiệm, phải nghĩ như vầy: ‘’Tôi còn hơi thở, thì Phật giáo
là trách nhiệm của tôi.’’ Nếu người khác nói họ cũng muốn gánh một phần trách
nhiệm, như thế thì được, chứ chẳng phải nói tôi gánh trách nhiệm, thì bạn không
thể gánh trách nhiệm. Cho nên nói, trách nhiệm của Phật giáo là ai ai cũng có phần,
đừng thối thác, các bạn nên đứng vững dậy, lấy việc hoằng
Ngoài ra còn có bố thí vô úy (bố thí không sợ hãi). Bố thí vô úy như Bồ Tát Quán
Thế Âm cứu bảy nạn, giải trừ ba độc, ứng hai cầu, đều là một trong bố thí vô
úy. Bố thí vô úy tức là người nào đó, có sự sợ hãi kinh hoàng, khi sắp xả bỏ
tính mạng, mà bạn hiện thân vô úy, đem sự vô úy an ủi họ. Hiện thân vô úy là gì
? Ví như có người ở trong nạn lửa, sắp bị lửa thiêu đốt, vì bị khói mù dày đặc chẳng
biết đông tây nam bắc, đã chẳng biết lối nào thoát khỏi hầm lửa. Lúc đó bạn
chẳng sợ, dấng thân vào trong lửa để cứu họ ra, đó chẳng phải là việc dễ làm
được. Đây gọi là xả thân mạng để cứu hộ chúng sinh, tức cũng là bố thí vô úy.
Hoặc có người rớt vào trong biển, mắt trông thấy họ sắp bị chết đuối, bạn cũng
chẳng nghĩ đến tính mạng của mình, bèn nhảy xuống biển vớt người đó lên bờ. Chẳng
những nạn nước lửa, mà cho đến trong đao, binh, pháo lửa, có người bị pháo,
hoặc bị giáo thương làm tổn thương, trong chiến trận rất nguy hiểm, mà bạn cũng
chẳng màng thân tâm tính mạng của mình, xông vào nơi nguy hiểm nhất để cứu
người ra, đó gọi là bố thí vô úy. Tóm lại, tức là lúc người ta sợ hãi, gặp cảnh
giới nguy hiểm, mà bạn có thể dùng tâm từ bi, tâm dũng cảm, phát huy tinh thần
đại vô úy, tinh thần gì cũng chẳng sợ, đi cứu hộ tất cả chúng sinh. Như Ngài Bồ
Tát Trì Địa, tuy Ngài chẳng phải trực tiếp tu bố thí vô úy, mà là tu gián tiếp.
Tu như thế nào ? Ngài biết người qua sông thì cần phải có cầu, không có cầu thì
không thể qua sông được, do đó Ngài bèn dùng sức của mình làm chiếc cầu gỗ,
khiến cho người khi qua sông chẳng có nguy hiểm.
Song, tuy có cầu chẳng nguy hiểm nhưng nếu gặp lúc nước lớn
dâng lên, thì cũng rất nguy hiểm. Giống như Hòa thượng Hư Vân từ Cửu
Sau khi hòa thượng Hư Vân bị nước ngập chìm không chết, Ngài đến Chùa
Bồ Tát Trì Địa chuyên môn làm cầu sửa đường. Lúc Ngài Hư Vân đi đến Vân Nam, trên đường đi cũng gặp một vị hòa thượng sửa đường, suốt ngày đến tối cầm sẻn làm đường, cũng chẳng nói chuyện, đó cũng là hóa thân của Bồ Tát Trì Địa. Phàm là trên đường có ngói đá, mảnh chai, Ngài đều lượm nhặt để một chỗ bên lề đường, khiến cho đường xá tốt lành.
Suốt ngày Ngài khổ công làm như thế, vậy ai trả tiền công cho Ngài ? Chẳng có ai trả tiền công cho Ngài, bạn nói đó có phải là ngu si chăng ? Song vì Ngài làm công miễn phí, nên mới tu thành Bồ Tát Trì Địa, chứng được cảnh giới vị bất thối, niệm bất thối, hạnh bất thối, đó tức là tu bố thí vô úy. Pháp môn bố thí vô úy rất là rộng lớn. Tóm lại, lúc người ta sợ hãi thì bạn hãy làm bố thí.
Đây là những ví dụ dễ hiểu, nếu như có người đã mấy ngày chẳng có cơm ăn, gần chết đói, trong tâm sợ hãi hoang mang nghĩ rằng : ‘’Lần này chắc sắp chết mất, chẳng có tiền để mua vật gì ăn, đi ăn cắp chăng ? Lại phạm pháp !’’ Trong lúc tiến lùi đều khó khăn, nếu bạn biết được, thấy họ mặt mày vàng vọt ốm yếu, đôi chân chẳng còn sức, đi chẳng nổi, lúc đó bạn hỏi họ : ‘’Anh thế nào rồi ? Có phải bị bệnh chăng ?’’ Họ chắc chắn sẽ nói : ‘’Tôi đã bốn năm ngày chẳng có gì để ăn.’’ Bạn nói : ’’Được, để tôi về nhà lấy đồ ăn cho anh.’’
Người chẳng có quần mặc, chịu khổ về mùa đông lạnh lẽo, thì
bạn cho họ ít đồ để họ mặc; người chẳng có nhà ở, thì bạn cho họ nhà để ở, đây gọi
là bố thí vô úy. Song một hai ngày thì có thể, chứ không thể vĩnh viễn được, ở
Người nào gặp trường hợp bất đắc dĩ, xin người ta giúp đỡ thì được, nhưng nếu bạn còn hơi thở, thì hãy tự cường bất tức, vì thế giới này mà đem lại phước lợi, đừng tiêu hao vật chất của thế giới. Có nghĩa là mọi người đều trợ giúp thế giới này, đừng ỷ lại thế giới này. Trợ giúp cho thế giới như thế nào ? Tức là phải có ích lợi cho người khác, chứ chẳng phải là để cho người khác làm ích lợi cho mình. Nếu bạn có tâm hy vọng người khác lợi ích cho mình, thì đó là tâm ỷ lại mà chẳng có tâm tự cường. Mọi người đều nên có tâm tự cường bất tức, đừng ỷ lại người khác, đó là tông chỉ của tôi.
Quán thanh tịnh tức là sức quán thanh tịnh, tức là mọi phương
diện bố thí, đừng chấp trước về tướng bố thí, đó là quán thanh tịnh, mà chẳng
có pháp nhiễm ô. Bồ Tát Quán Thế Âm bố thí chẳng chấp tướng, đều lìa tất cả tướng,
cho nên thanh tịnh. Nếu chấp trước thì chẳng thanh tịnh.
‘’Quán trí huệ rộng lớn’’: Bồ Tát Quán Thế Âm có sức quán trí huệ rộng lớn, phổ
độ tất cả chúng sinh, giáo hóa chúng sinh.
‘’Quán bi và quán từ’’: Ngài còn có quán bi. Có người hiểu lầm nghĩa kinh nói: ‘’Bồ
Tát Quán Âm cũng thường thường khóc, chẳng hoan hỉ, vì Ngài bi quan’’. Đây là
sai lầm. Bi ở đây chẳng phải là bi thương, mà nghĩa là thương xót. Bồ Tát sinh
tâm thương xót đối với tất cả chúng sinh. Tâm thương xót là gì ? Bồ Tát luôn
luôn nghĩ rằng : ‘’Người này thật đáng thương ! Tôi phải dùng các phương pháp
để giáo hóa họ, mà họ vẫn không hiểu, vẫn điên điên đảo đảo.’’ Ngài thương xót chúng
sinh như thế, nên gọi là quán bi. Vì Ngài thương xót chúng sinh đó, cho nên
Ngài phải độ chúng sinh đó. Giống như bạn thấy đứa bé nọ rất là thiên chân hoạt
bát, ai thấy cũng thương. Tại sao được mọi người hoan hỉ ? Vì đứa bé được người
thương mến.
Sự thương xót này gọi là quán bi. chứ chẳng phải là Bồ Tát Quán Thế Âm suốt ngày đến tối chẳng hoan hỉ, thậm chí thường thường khóc lóc rơi lệ bi ai. Nếu bạn muốn học Bồ Tát Quán Thế Âm, thì đừng suốt ngày đến tối khóc lóc sầu muộn mà phải ‘’Rộng sinh hoan hỉ chẳng sinh buồn’’. Quán bi của Ngài như thế, chứ chẳng phải khóc lóc bi quan, do đó đừng nên hiểu lầm.
Quán từ, từ hay ban vui, bi hay cứu khổ. Quán bi tức là
giải trừ sự thống khổ của chúng sinh. Quán từ tức là ban cho chúng sinh sự an
vui. Sự ban cho niềm vui này, chẳng phải là sự an vui tạm thời, mà là sự an vui
vĩnh cữu, là sự an vui chân chánh chứ chẳng phải là sự an vui của thế gian. Sự
an vui gì ? Tức là ban cho tất cả các pháp, khiến cho chúng sinh thật sự hiểu
biết về Phật pháp, để không còn làm chuyện điên đảo thống khổ, đây gọi là ban vui.
Việc điên đảo là gì ? Giống như người thích uống rượu, uống say sưa thì cảm
thấy mình tựa như thành thần, đi thì nghiêng qua ngã lại, họ cho rằng như thế
là tốt nhất, tri giác của họ như khúc gỗ, thậm chí gì cũng chẳng biết. Bạn nói
đó chẳng phải là điên đảo chăng ? Một người có chút thông minh, nếu bị rượu chi
phối thì chẳng có việc gì mà chẳng làm, nào là giết người, phóng lửa.
Có một buổi sáng sớm nọ ở tại bến xe bus, có một gã say rượu xin tôi tiền để đi
mua rượu uống, vì gã chưa uống đủ. Tôi lại nghĩ ra một chuyện, cũng tại bến xe
bus, có một người da đen đi ngang qua chẳng nói gì cả, tôi cũng chẳng quen anh
ta, anh ta cũng chẳng quen tôi, không hiểu tại sao anh ta lại quỳ xuống lạy
tôi, lạy rồi cũng chẳng nói gì, đứng dậy bỏ đi. Người đó chẳng phải đến lạy để
xin tiền, ở trước mặt một đám đông lạy tôi, lạy xong rồi đi. Cũng chẳng biết
anh ta là quỷ hay là thần ? Thật là lạ kỳ, tôi thấy anh ta chẳng phải say rượu,
không biết có phải là một sự linh cảm nên anh ta lạy tôi. Đa số quỷ thấy tôi thì
lạy, và thần thấy tôi cũng lạy. Mà người đó lại xưng là hắc quỷ cung kính lạy
tôi, lạy xong cũng chẳng dám nhìn tôi, bèn bỏ đi. Tôi nghĩ đại khái là trên
thân của anh ta có quỷ.
Uống rượu là như thế, hút thuốc thì càng điên đảo hơn. Tại sao ? Bổn lai phổi của bạn sạch sẽ, mà làm cho nó do bẩn. Có người nói : ‘’Hòa thượng, thầy giảng sai rồi, trong phổi của tôi chẳng sạch sẽ.’’ Không sai ! Phổi của bạn chẳng sạch sẽ. Sự không sạch sẽ này vẫn không sao. Bạn dùng khói đem vào phổi, xông ướp phổi ngày càng đen, ngày càng nám, song bạn chẳng thấy nên không biết. Bạn hít vào một hơi khói, thì cũng giống như tấm gương phủ lên một lớp tro, lại hút một hơi nữa, lại phủ lên một lớp tro. Bổn lai phổi là sạch sẽ, song bạn muốn xông ướp những lớp bụi tro, đó chẳng phải là điên đảo chăng ?
Và còn hút nha phiến, á phiện, hút vào thì cảm thấy tinh thần lâng lâng, thậm chí như đi trên chín tầng mây. Khi hút ghiền rồi, thì khắp thân chẳng an vui, rất khó chịu. Cho nên tôi hy vọng những người hút thuốt hãy mau bỏ thuốc; người uống rượi hãy mau bỏ rượu; người siêng năng thì đừng học lười biếng. Nên làm nhiều việc thiện, làm việc thiện mới có công đức, nếu không làm thì chẳng có công đức. Công đức là từ việc thiện mà ra, cứ làm việc thiện thì tự nhiên sẽ có công đức, tự nhiên sẽ chẳng điên đảo nữa. Bạn không làm công đức, còn sử dụng tiền chẳng đúng chỗ thì đó gọi là điên đảo. Nếu bạn dùng tiền vào việc hữu dụng, thì đây chẳng phải là điên đảo, cho nên điên đảo rất là nhiều thứ.
Bồ Tát Quán Thế Âm, hay chỉ rõ hành vi điên đảo của bạn, kêu bạn đừng điên đảo, khiến cho bạn đắc được an vui thật sự, an vui vĩnh viễn, đây gọi là từ; bi hay cứu khổ, chẳng phải là cứu khổ tạm thời của bạn, mà là cứu khổ đời đời kiếp kiếp của bạn. Song, bạn phải sinh niềm tin. Bạn có niềm tin thì Bồ Tát Quán Thế Âm mới có tâm từ bi. Nếu bạn chẳng có niềm tin, thì quán từ và quán bi của Bồ Tát Quán Thế Âm với bạn, cũng như nước với lửa, nước và lửa chẳng dung hợp. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng từ bi rất lớn, để đối đãi bạn mà bạn lạnh lùng như băng chẳng hợp với Ngài.
Băng lạnh tức là chẳng có niềm tin. Nếu bạn có niềm tin,
thì càng hợp với quán từ và quán bi của Bồ Tát Quán Thế Âm. Hợp với nhau thì
bạn sẽ lìa khổ được vui.
Khổ là gì ? Phiền não của con người tức là khổ. Nếu bạn chẳng có phiền não thì sẽ
an vui. Tại sao bạn chẳng an vui ? Vì bạn có phiền não; chẳng có phiền não tức
là an vui. Bồ Tát Quán Thế Âm hay làm cho phiền não của bạn tiêu trừ, khiến cho
bạn đắc được an vui thật sự, đó tức là quán bi và quán từ.
‘’Thường nguyện thường chiêm ngưỡng’’: Tôi nguyện luôn luôn chiêm ngưỡng tướng mạo
từ bi của Ngài Quán Thế Âm, càng nhìn thì càng sinh tâm hoan hỉ, sinh tâm cung kính.
Lạy đại bi sám là một sự biểu hiện cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu bạn chẳng
lạy đại bi sám, thì cũng giống như người Mỹ chẳng muốn lạy đảnh lễ, cho đến một
cái cúi đầu cũng chẳng cúi, đó gọi là tin Phật gì ? Bạn tin ông Phật đó là Phật
gì ? Có người nói : ‘’Tôi tin ông Phật của tôi’’. Nếu bạn tin ông Phật của bạn
thì chẳng thể có. Vì bạn chẳng tìm được ông Phật của bạn, cho nên Phật bên
ngoài mà bạn cũng chẳng biết. Nếu tin ông Phật của mình, thì không thể không lạy
Phật. Lạy là biểu thị sự cung kính nhất, đây gọi là năm thể sát đất, cũng là một
thứ lễ mạo. Bạn chẳng có lễ mạo thì làm sao nói đến tin Phật ?
Trước kia có một vị bác sĩ, khắp nơi ai cũng đều tin ông ta, xem ông ta như sắp
thành Phật. Ông ta bèn kêu họ đừng lễ Phật. Mọi người thì lễ Phật, còn ông ta
thì đứng một bên, giống như khúc gỗ. Tại sao ? Vì tướng ta quá to lớn. Người
không lạy Phật, thứ nhất là ngã mạn, cảm thấy cái ta rất lớn, còn lớn hơn Phật
thì làm sao mà lạy Phật? Vì ông ta cống cao ngã mạn nên thấy Phật cũng chẳng lễ
bái. Như thế thì làm sao mà học Phật, tin Phật ? Căn bản ông ta chẳng hiểu gì
về Phật giáo, song ông ta đi khắp nơi giảng Phật pháp cho mọi người nghe, đó
thật là hại người không ít.
Quang thanh tịnh không dơ
Huệ nhật phá các tối
Hay phục nạn gió lửa
Chiếu sáng khắp thế gian.
Bốn câu kệ này thật diệu không thể tả. Diệu không thể tả như thế nào ? Bốn câu kệ
này hay chữa bệnh mắt. Nếu mắt của người nào bệnh, mà có thể luôn luôn niệm bốn
câu kệ này, thì bệnh mắt sẽ hết. Tuy bệnh mắt hết nhưng bạn vẫn phải sinh ra
trí huệ, thì mới trị hết triệt để. Nếu chẳng sinh ra trí huệ, thì chỉ hết tạm
thời thôi, tương lai sẽ tái phát.
Ở trong quyển Quan Âm Dị Ký có ghi là hay chữa trị bệnh mắt.
Vậy cứu kính thì chữa bệnh mắt như thế nào ? Đây là cảnh giới không thể nghĩ
bàn, đó là nhờ sức thần thông gia bị của Bồ Tát Quán Thế Âm. Tóm lại, bạn phải
tin kinh văn để ứng dụng vào bất cứ việc gì, thì đều rất linh nghiệm, có hiệu
dụng. Nếu bạn không tin thì chẳng có công hiệu. Cho nên Phật pháp như biển cả,
chỉ có niềm tin mới vào được. Pháp của Phật vô lượng vô biên như biển cả, chẳng
biết lớn cỡ nào, sâu cỡ nào. Nếu bạn có niềm tin, thì Phật sẽ có thể tiếp dẫn
bạn vào.
‘’Không nhơ quang thanh tịnh’’: Không nhơ là gì ? Nhơ la bụi bặm, cũng là vật không
sạch sẽ. Nếu bạn không có những bụi bặm không thanh tịnh, thì tự nhiên sẽ phóng
ra quang minh thanh tịnh. Quang minh thanh tịnh là đối với bụi bặm mà nói,
chẳng có bụi bặm thì sẽ có quang minh thanh tịnh; có bụi bặm thì chẳng có quang
thanh tịnh. Do đó, chẳng có bụi bặm dơ bẩn, thì sẽ phóng ra quang minh thanh
tịnh. Thế nào thì gọi là chẳng có bụi bặm ? Tức là chẳng còn vọng tưởng. Bạn
chẳng còn vọng tưởng thì chẳng có bụi bặm. Nếu bạn khởi một vọng tưởng thì có
một lớp bụi bặm, khởi ba lớp vọng tưởng thì có ba lớp bụi bặm. Khởi vọng tưởng
càng nhiều, thì bụi bặm tích lũy càng dày. Người tham thiền nói là ‘’Minh tâm
kiến tánh’’, minh tâm tức cũng là chẳng có bụi bặm, kiến tánh tức cũng là thấy
được quang minh thanh tịnh. Bạn chẳng có bụi bặm thì mới thấy được quang minh
thanh tịnh. Nếu có bụi bặm thì chẳng thấy được quang minh thanh tịnh. Cho nên
minh tâm kiến tánh tức là thấy rõ bản tâm mình, thấy được bản tánh mình.
Bản tâm tính tức là trong Kinh Lăng Nghiêm có nói: ‘’Thường
trụ chân tâm, tính tịnh minh thể’’. Thường trụ chân tâm tức là minh tâm; tính tịnh
minh thể tức là thanh tịnh minh thể, tức cũng là tính Như Lai tạng. Minh tâm
kiến tánh tức cũng là minh bạch tính Như Lai tạng của mình vốn có, đây gọi là
không nhơ.
‘’Huệ nhật phá các tối’’: Huệ nhật là trí huệ như mặt trời, chiếu phá tất cả chỗ
đen tối. Đen tối là gì ? Đen tối có rất nhiều, bây giờ nói đen tối ví như: Bạn chẳng
có niềm tin tức là đen tối, bạn chẳng có trí huệ tức la đen tối, bạn chẳng có
tâm nguyện cũng là đen tối, chẳng có tâm thực hành cũng là đen tối. Và nữa bạn
chẳng giữ giới luật tức là đen tối, bạn chẳng tu định lực là đen tối, bạn chẳng
tu huệ là đen tối. Bạn chẳng tu theo con đường giới định huệ, đó là đi trên con
đường đen tối. Bạn y theo giới định huệ tu hành tức là quang minh. Cho nên
‘’Huệ nhật phá các tối’’, trí huệ mặt trời chiếu phá tất cả sự đen tối. Bạn
muốn nghe Phật pháp, đó tứ là quang minh. Trong tâm bạn nói: ‘’Tôi nghe đã mấy
ngày rồi, cũng chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Vị pháp sư này ở trên pháp tòa giảng
đi giảng lại đều giảng về cái đó, tôi nghe đã nhiều lần rồi, đều kêu mọi người
trừ khử tham sân si, tu giới định huệ, tôi nghe đã nhàm quá rồi’’. Bạn nghe
nhàm rồi, tức là đen tối hiện tiền. Bạn nghe chẳng nhàm, nói : ‘’Vị pháp sư này
giảng càng nghe càng có ý nghĩa, càng nghe càng có vị đạo, thậm chí tôi nghe
tiếng nói và dáng cười của Pháp sư, sau khi nghe rồi mà pháp sư vẫn ở tại lỗ
tai tôi giảng kinh thuyết pháp, suốt ngày đến tối tôi đều nghe tiếng của pháp
sư đang nói pháp bên cạnh tôi’’. Đó tức là quang minh. Chẳng thích nghe tức là
đen tối.
Giảng đến đây, tôi nhớ ra một câu chuyện : Ở tại Hồng Kông có một vị nữ cư sĩ
đến gặp tôi, sau khi gặp tôi rồi, thì khi cô ta đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng
đều thấy tôi đang giảng kinh nói pháp ở đó, song vị nữ cư sĩ này nói như thế
nào ? Cô ta nói : ‘’Vị pháp sư Độ Luân này là ma ! Sao tôi luôn luôn đều thấy
ông ta ?’’ Cô ta thường thấy pháp sư thuyết pháp mà nói là ma. Nếu cô ta thấy
ma, chắc cô ta lại cho là Phật. Cho nên người đó thường thấy tôi, mà cứ nói là
thấy ma, lại chưởi mắng, lại muốn đánh, chưa đến mấy tháng thì vị nữ cư sĩ đó
bệnh ung thư chết. Bổn lai tôi muốn cứu cô ta, nhưng cô nói tôi là ma, nên tôi
cũng thương xót mà chẳng giúp được. Hôm nay tôi nhớ đến chuyện này, cho nên cô
ta thấy pháp sư mà nói là ma; nếu thấy ma thì cô ta lại thế nào ? Do đó, có rất
nhiều người thế gian đều nhận giả làm thật. Thật mà họ cho là giả, khi giả thì
họ nói là thật.
Trí huệ của Bồ Tát Quán Thế Âm như ánh sáng mặt trời, chiếu phá moị sự đen tối. Chiếu phá những đen tối gì ? Bồ Tát Quán Thế Âm tu quán chân không, chiếu phá đen tối thấy và nghĩ (kiến tư), chứng được đức Bát nhã. Kiến hoặc là gì ? Tức là mê lý khởi phân biệt. Bồ Tát Quán Thế Âm tu quán thanh tịnh, phá trừ đen tối trần sa, chứng được đức giải thoát. Bồ Tát Quán Thế Âm tu quán trí huệ, phá trừ đen tối vô minh, chứng được đức pháp thân.
Đây gọi là ba đức : Đức Bát nhã, đức giải thoát, đức pháp thân. Bồ Tát Quán Thế Âm tu ba quán (quán chân không, quán thanh tịnh, quán trí huệ), mà chứng được ba đức, đoạn trừ đen tối kiến tư, trần sa và vô minh. Cho nên nói huệ nhật phá các tối. Huệ ở đây tức là quán, quán tất cả huệ.
‘’Hay phục nạn gió lửa’’ : Bồ Tát Quán Thế Âm hàng phục được ba tai nạn, đó là nạn nước, gió, lửa. Lửa thiêu hủy đến cõi sơ thiền, nước ngập đến trời nhị thiền, gió thổi tan trời tam thiền. Tại sao trời sơ thiền bị lửa thiêu hủy ? Vì người trời ở cõi sơ thiền, vẫn còn có lửa phiền não, cho nên lửa trong tự tánh của họ dẫn khởi lửa ở thế gian. Lúc đó, trong hư không xuất hiện bảy mặt trời, thiêu sạch hết tất cả động, thực vật trong đại địa, sau đó thiêu cạn nước trong biển cả, thiêu sạch hết núi non, chẳng còn tồn tại vật gì.
Nạn lửa lớn như thế trải qua bảy lần, rồi sau đó phát sinh một lần nạn nước lớn. Nạn nước lớn ngập đến trời nhị thiền. Tại sao ? Vì người trời ở cõi nhị thiền vẫn còn đầy dẫy nước phiền não, do đó dẫn khởi nạn nước lớn ở thế gian, sóng dâng lên ngập chìm hết tất cả, chẳng còn nơi đất liền nào tồn tại, tất cả động vật và thực vật đều chẳng tồn tại.
Trải qua bảy lần nạn nước lớn rồi, thì phát sinh nạn gió
lớn. Nạn gió này còn lợi hại hơn, so với nạn lửa và nước vừa nói ở trên, chẳng
những thổi sơn hà đại địa ở thế gian nát thành bụi, mà còn thổi đến trời tam
thiền, khiến cho trời tam thiền cũng chẳng tồn tại. Có câu kệ nói rằng :
‘’Lục dục chư thiên cụ ngũ suy,
Tam thiền thiên thượng hữu phong tai,
Nhậm quân tu đáo Phi Phi Tưởng,
Bất như tây phương quy khứ lai.’’
Nghĩa là :
‘’Sáu cõi trời dục giới có năm tướng suy,
Trên trời tam thiền có nạn gió,
Cho dù tu đến trời Phi Phi Tưởng,
Chẳng bằng sinh về cõi tây phương.’’
Năm tướng suy là gì ?
1. Thứ nhất là mũ hoa trên đầu héo úa. Người trời dùng hoa làm mũ đội trên đầu,
thứ hoa này chẳng phải người trồng, mà là tự nhiên sinh ra làm mũ đội. Đến khi
năm tướng suy hiện ra thì hoa úa phai tàn. Lúc chẳng có năm tướng suy hiện ra,
thì hoa luôn luôn tươi tốt. Khi hoa bắt đầu phai tàn, thì họ biết tuổi thọ sắp
hết.
2. Thứ hai là quần áo dơ bẩn. Quần áo của người trời mặc, chẳng giống như quần áo
thế gian, mỗi tuần phải giặt một lần, hoặc hai tuần phải giặt một lần. Nếu
chẳng giặt thì chẳng sạch. Quần áo của người trời mặc, chẳng cần phải giặt, vì
nó chẳng dơ. Song, đến khi năm tướng suy hiện, quần áo của họ dơ bẩn, thì họ
biết tuổi thọ sắp hết. Giống như người chúng ta, khi hơi thở chưa tắt mà trên
thân có chỗ đã sinh trùng. Bình thường nó chẳng sinh trùng, đến khi hơi thở sắp
chấm dứt, thì trên thân rất nhiều chỗ đều có trùng. Quần áo của người trời dính
bụi cũng là nghiệp báo chiêu cảm. Tại sao trên thế giới của chúng ta có rất
nhiều bụi bặm ? Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói, vì trong tâm của chúng ta quá
nhiều vọng tưởng, cho nên bụi trên thế giới cũng biến thành nhiều. Vọng tưởng
của chúng ta như là bụi bặm, chẳng có gì khác biệt. Do đó, tất cả bụi bặm đều
do tâm vọng tưởng của chúng ta tạo thành. Năm tướng suy của người trời hiện tiền,
thì quần áo cũng có bụi bặm.
3. Thứ ba là hai nách ra mồ hôi, thân của người trời chẳng giống như thân của chúng ta, luôn luôn ra mồ hôi, họ chẳng bao giờ có mồ hôi, song, năm tướng suy hiện tiền thì hai nách ra mồ hôi.
4. Thứ tư là thân thể hôi hám. Thân của người trời suốt ngày đến tối, đều tỏa ra mùi hương thơm, chẳng phải họ xoa dầu thơm, mà là tự nhiên tỏa ra mùi thơm. Khi năm tướng suy hiện tiền, thì trên thân chẳng còn mùi thơm mà tỏa ra mùi hôi hám.
5. Thứ nămn là chẳng thích ngồi trên tòa nữa. Người trời thật là tự tại, suốt ngày đến tối đều thích ngồi thiền nhập định, chẳng có việc gì để làm. Khi năm tướng suy hiện tiền, thì họ ngồi chẳng yên, ngồi một chút lại đứng lên, đứng lên lại ngồi xuống, cứ đứng lên ngồi xuống như thế, một niệm mất đi tri giác thì sẽ đọa lạc, người trời hết tuổi thọ.
Đó là trời lục dục có năm tướng suy hiện, song trời sơ thiền thì có nạn lửa, trời nhị thiền thì có nạn nước, trời tam thiền thì có nạn gió, vì người trời cõi tam thiền có gió phiền não, cho nên tiếp xúc với luồng gió thế gian, mà dẫn đến nạn gió. Từ khi bạn sinh về cõi trời Phi Phi Tüởng, hưởng thọ phước trời tám vạn đại kiếp, song khi phước trời hết, thì vẫn bị đọa lạc vào nhân gian, hoặc đọa làm ngạ quỷ, súc sinh, hoặc đọa vào địa ngục, chẳng nhất định, cho nên rất là nguy hiểm.
Chẳng bằng tu vãng sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc Thế Giới,
sau đó trở lại con thuyền từ bi, giống như Bồ Tát Quán Thế Âm đến giáo hóa
chúng sinh.
‘’Chiếu sáng khắp thế gian’’: Trí huệ quang minh của Bồ Tát Quán Thế Âm chiếu soi
khắp thế giới Phàm Thánh Đồng Cư (thế giới người phàm và Thánh nhân ở với
nhau). Nơi hiện nay chúng ta đang ở gọi là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, tức là nơi
phàm phu và bậc Thánh đều ở. Bồ Tát Quán Thế Âm tu đại trí đại huệ, lại chiếu
soi khắp thế giới Phương Tiện Hữu Dư, tức là thế giới của hàng nhị thừa ở.
Phương tiện tức là thiện xảo phương tiện. Hữu dư là chỉ thế giới đó, phiền não
vẫn chưa đoạn sạch, còn dư thừa. Bồ Tát Quán Thế Âm đầy đủ đại trí huệ, lại
chiếu khắp thế giới Thật Báo
Bi thế giới lôi chấn
Ý từ diệu mây lớn
Rưới mưa pháp cam lồ
Dập tắt lửa phiền não.
‘’Bi thế giới lôi chấn’’ : Bốn câu kệ này là khen ngợi từ bi của Bồ Tát Quang
Thế âm. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng từ bi làm pháp thể của Ngài. Từ bi pháp thể của
Ngài từ đâu sinh ra ? Là từ giữ giới mà sinh ra. Lúc ban đầu Bồ Tát Quán Thế Âm
tu đạo, thì chuyên tu giới luật mà sinh ra đại từ bi rộng lớn, pháp thể vô
duyên đại từ. Thứ pháp thể này âm thanh lớn như là tiếng sét đánh, đánh thức tất
cả chúng sinh, người điết cũng nghe được, người ngu cũng nghe được. Cho nên câu
‘’Bi thế giới lôi chấn’’ này, là khen ngợi thân nghiệp của Bồ Tát Quán Thế Âm
không thể nghĩ bàn.
‘’Ý từ diệu mây lớn’’: Bồ Tát Quán Thế Âm dùng từ bi bình đẳng, mắt từ nhìn chúng sinh. Trong bổn kinh cũng nói : ‘’Mắt từ nhìn chúng sinh, biển phước tụ vô lượng.’’ Bồ Tát Quán Thế Âm tu phước đức vô lượng vô biên như biển cả. Ý niệm từ bi của Ngài bình đẳng ban vui cho chúng sinh, cảnh giới không thể nghĩ bàn này, giống như đám mây lớn ở trong hư không.
‘’Rưới mưa pháp cam lồ’’: Rưới nghĩa là mưa xuống, mưa xuống nước pháp cam lồ. Cam
lồ là gì ? Cam lồ tức là thuốc trường sinh bất lão ở trên trời, tuổi thọ của
người trời lâu như thế, là do uống thuốc trường sinh bất lão. Có người nói :
‘’Người trời cũng uống thuốc, khó trách người bây giờ muốn khai ngộ cũng uống
thuốc.’’ Song, thuốc trên trời là tự nhiên, là ở trên trời vốn có, chẳng cần
trải qua làm bằng tay, uống thứ thuốc bất lão này thì chẳng già. Mây lớn vi
diệu của Bồ Tát Quán Thế Âm, rưới xuống mưa pháp cam lồ, rưới xuống thuốc
trường sinh bất lão, khiến cho tất cả mọi người lìa khỏi khổ sinh già bệnh chết.
‘’Dập tắt lửa phiền não’’: Bồ Tát Quán Thế Âm dập tắt hết lửa phiền não của con
người trên thế gian, mỗi người đều có phiền não. Tại sao chẳng thành Phật ? Vì
có phiền não. Tại sao chẳng khai ngộ ? Vì có phiền não. Tại sao bạn chẳng được
giải thoát, chẳng được tự tại thật sự ? Cũng vì bạn có phiền não. Phiền não tức
cũng là chấp trước. Chấp trước tức là một tên khác của phiền não. Bạn có sự
chấp trước thì chẳng được giải thoát, có rất nhiều phiền não. Vậy chấp trước
lại từ đâu đến ? Là từ tâm ích kỷ lợi mình mà sinh ra. Nếu bạn chẳng có tâm ích
kỷ lợi mình, mà đại công vô tư, thì bạn lại có gì để chấp trước ? Nếu bạn chẳng
có tâm ích kỷ, thì chẳng có sự chấp trước. Chẳng chấp trước thì chẳng có phiền
não, chẳng phiền não thì giải thoát, đắc được giải thoát, thì khai ngộ cũng là
thành Phật. Cho nên, phiền não của chúng ta là một vật tệ nhất. Song, mỗi người
đều xả bỏ chẳng đặng vật tệ hại này, đều muốn đi đứng nàm ngồi với phiền não,
lìa chẳng khỏi, có người nói : ‘’Tôi luôn luôn an vui, đó gọi là chẳng có phiền
não.’’ Nếu bạn thật sự đắc được an vui, thì đương nhiên chẳng có phiền não. Nếu
chẳng đắc được an vui thật sự, thì tức là miễn cưỡng dùng tâm tạo tác để làm sự
an vui này, đó chẳng phải là an vui thật sự, vì phiền não vẫn ẩn tàng ở bên
trong. Một ngày nào đó nó sẽ phát tác, giống như dùng một hòn đá lớn đè lên cỏ,
tuy cỏ chẳng lớn, nhưng tương lai lấy hòn đá ra, thì cỏ sẽ lớn lên tươi tốt.
Trong bốn hoằng thệ nguyện, thì nguyện thứ nhất là : ‘’Chúng sinh thệ nguyện
độ.’’ Tại sao Bồ Tát Quán Thế Âm lại đến thế giới này ? Là vì : ‘’Chúng sinh vô
biên thệ nguyện độ.’’ ‘’Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn’’ : Bồ Tát Quán Thế Âm
có phiền não chăng ? Ngài đã đoạn sạch phiền não, song Ngài lấy phiền não của
chúng sinh làm phiền não của mình. Ngài thấy phiền não của chúng sinh chưa đoạn,
nên Ngài dùng đủ thứ pháp môn giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh đoạn
trừ phiền não. Phiền não thì chẳng cùng tận, giống như sóng biển, niệm trước
diệt thì niệm sau sinh ra; niệm sau diệt rồi, thì niệm sau nữa lại sinh, liên
tục không ngừng, phiền não cũng như thế. ‘’Pháp môn vô lượng thệ nguyện học’’: Phật
pháp có vô lượng vô biên pháp môn. Có người đọc một bộ kinh, hoặc đọc được hai
bộ kinh thì tự mãn, nói họ đã hiểu Phật pháp. Phật pháp mà họ hiểu, thật là
chẳng bằng một giọt nước trong biển cả. Giống như con kiến ra biển uống nước,
uống no nê đầy bụng rồi nói : ‘’Tôi đã uống cạn hết nước trong biển.’’ Nước ở
trong biển, nó chẳng uống được một giọt. ‘’Phật đạo vô thượng thệ nguyện
thành’’: Chẳng có gì cao hơn Phật đạo, do đó mỗi người nên phát nguyện thành
Phật, không nên coi mình quá nhỏ bé, phải xem mình bổn lai là Phật. Song, bổn
lai là Phật, chứ chẳng phải hiện tại là Phật. Bổn lai ban đầu chúng ta đều đầy
đủ Phật tánh như Phật, không hai không khác. Song, hiện tai chúng ta vì chẳng biết
tu hành, cho nên chẳng có ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu thông, đại bản lãnh
của Phật, đó là bốn thệ nguyện lớn. Bồ Tát Quán Thế Âm vốn chiếu theo bốn thệ
nguyện lớn này, để giáo hóa chúng sinh, cho nên rưới mưa pháp cam lồ, khiến cho
tất cả chúng sinh đắc được mát mẻ, chẳng còn phiền não. Đây gọi là ‘’Dập tắt
lửa phiền não.’’
Tranh kiện nơi quan tòa
Trong trận chiến sợ hãi
Nhờ sức niệm Quan Âm
Các oán địch lui tan.
‘’Tranh kiện nơi quan tòa’’. Tranh là đấu tranh. Vào thời mạt pháp là thời đấu
tranh kiên cố. Khi Phật còn tại thế là thời đại chánh pháp, sau khi Phật diệt
độ là thời đại tượng pháp. Sau khi Phật diệt độ trải qua hai ngàn năm, là thời
đại mạt pháp. Thời đại chánh pháp là thiền định kiên cố, ai ai cũng đều thích
tham thiền, tập định, tu định lực. Thời đại chánh pháp một ngàn năm. Từ khi Phật
ra đời đến Phật diệt độ một ngàn năm gọi là thời đại chánh pháp. Qua thời đại chánh
pháp thì đến thời kỳ tượng pháp, thời kỳ này là chùa chiền kiên cố, ai cũng
hoan hỉ phấn khởi làm chùa, tạo tượng Phật, cho nên trên thế giới có những nước
có rất nhiều chùa, thời đại tượng pháp là một ngàn năm. Qua một ngàn năm rồi,
thì đến thời đại mạt pháp, pháp đến đoạn cuối.
Thời đại mạt pháp gồm có mười ngàn năm, thời kỳ này chẳng phải thiền định kiên cố, cũng chẳng phải chùa chiền kiên cố, mà là đấu tranh kiên cố. Nước này với nước khác đấu tranh, nhà với nhà kia đấu tranh, người với người đấu tranh, súc sinh với súc sinh đấu tranh, quỷ với quỷ đấu tranh, khắp nơi đều đấu tranh. Tại sao phải đấu tranh. Vì thời đại mạt pháp, con người chỉ biết đấu tranh. Song, trong thời kỳ mạc pháp cũng có thời đại chánh pháp. Thời đại tượng pháp cũng có thời đại chánh pháp. Nghĩa là thời đại mạt pháp, cũng không thể nói là không có sự tham thiền đả tọa. Giống như hiện tại chúng ta, mỗi người đều bận rộn, hoặc sáng sớm, hoặc buổi tối, hoặc buổi trưa, tranh thủ tu hành, tham thiền đả tọa, đây cũng là thời đại chánh pháp, bất quá một phần ít trong thời đại mạt pháp, ít lại càng ít. Cho nên trong thời đại mạt pháp, chúng ta vẫn giảng kinh thuyết pháp, còn có người rất bận rộn, thậm chí chẳng ngủ, chẳng ăn để nghe kinh, đây cũng là chánh pháp trong thời đại mạt pháp. Bây giờ, mọi người đều đề xướng làm chùa, thành lập đạo tràng, đây cũng là việc làm của thời đại tượng pháp. Cho nên thời đại mạt pháp cũng có thời đại tượng pháp, cũng có thời đại chánh pháp. Thời đại tượng pháp cũng có thời đại chánh pháp, cũng có thời đại mạt pháp. Vì thời đại tượng pháp cũng có người chẳng làm chùa, chẳng tin Phật pháp, đó cũng giống như mạt pháp. Tại sao thời đại tượng pháp phải làm chùa ? Làm chùa có thể khiến cho mọi người tụ lại một chỗ để dụng công tu hành, đây cũng là thời đại chánh pháp. Trong thời đại chánh pháp cũng có tượng pháp và mạt pháp. Thời đại chánh pháp cũng có người làm chùa, giống như thời đại tượng pháp. Thời đại chánh pháp cũng chẳng phải ai ai cũng học Phật pháp, có người học chút chút Phật pháp, sau đó chẳng học nữa, thì nói chi đến nghiên cứu, đó cũng là mạt pháp ở trong thời đại chánh pháp. Ở trong mỗi thời kỳ, đều có đủ chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp.
Hiện tại thời đại mạt pháp này là đấu tranh kiên cố, mà chúng ta có thể duy trì Phật pháp, khiến cho Phật pháp trụ lâu ở đời, mỗi ngày tụng trì Chú Lăng Nghiêm đều có lợi ích rất lớn đối với thế giới. Tại sao ? Vì nếu trên thế giới chẳng còn ai tụng trì Chú Lăng Nghiêm, thì thế giới này sẽ sớm hủy diệt. Lúc đó yêu ma quỷ quái, tất cả lị mị vọng lượng đều xuất hiện. Tại sao bây giờ chúng chẳng dám xuất hiện ? Vì trên thế giới này còn có người tụng trì Chú Lăng Nghiêm, tu bốn mươi hai tay và mắt của Chú Đại Bi, tu pháp môn thiên thủ thiên nhãn, cho nên yêu ma quỷ quái chẳng dám xuất hiện hoành hành.
Kiện tụng là đến tòa án để nói lý lẽ. Nói lý lẽ phải mời luật sư. Luật sư có thể nói người có lý lẽ thành người chẳng có lý lẽ. Người chẳng có lý lẽ thì có thể nói họ thành có lý lẽ. Đây gọi là điên đảo thị phi. Trước đây mấy tháng, có một phụ nữ giết chồng, song cô ta giàu có bèn ra điều kiện với luật sư, nếu luật sư có thể tẩy sạch tội của cô ta, đánh bại ông tòa, thì cô ta sẽ cho ông ta một số tiền. Vị luật sư đó biết cô ta là người giết chồng, song ở tại tòa án thì ông ta cường từ đoạt lý, biện luận thế cho cô ta, mà chẳng bắt cô ta phải đền mạng. Bạn nói như thế có lý lẽ chăng ? Chỉ cần có tiền thì dù giết người cũng chẳng có tội, đây tức là kiện tụng. Tức nhiên chẳng có tội, chẳng cần đền mạng, thì thử hỏi trên thế giới này còn có chân lý chăng ? Bổn lai muốn ra tòa án là để nói lý lẽ, song đến đó thì luật sư vì người biện luận có lý lẽ thì biến thành chẳng có lý lẽ, chẳng có lý lẽ cũng biến thành có lý lẽ, chẳng có lý lẽ cũng biến thành có lý lẽ. Bạn nói thế giới này chẳng phải là thế giới đen tối chăng ?
‘’Nơi quan tòa’’: Quan tòa là nơi nói lý lẽ, xem thử ai phải ai trái. Song, lúc đó dù bạn đúng mà chẳng có tiền thì cũng thành có tội. Nếu bạn sai mà bạn có tiền thì cũng thành vô tội. Cho nên trên thế giới này, con người vẫn bị tiền chi phối, làm cho lương tâm con người mất đi.
‘’Trong trận chiến sợ hãi’’: Khi gặp hoàn cảnh sợ hãi, thì
bạn nên niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì ‘’các oán địch lui tan’’, tất cả
các oán hận đều lui tan. Kiện tụng và ở trong trận chiến đấu tranh với nhau,
đều do đời đời kiếp kiếp kết oán quá nhiều, cho nên mới tụ hội lại một chỗ,
cùng nhau trả quả báu.
Song, nếu bạn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì những quả báo đó đều sẽ giảm bớt, nặng
biến thành nhẹ, nhẹ thì biến thành không có gì cả. Nêu chẳng niệm Bồ Tát Quán
Thế Âm, thì vấn đề đó sẽ nghiêm trọng, nếu bạn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ
giảm nhẹ. Do đó, cảnh giới của Bồ Tát Quán Thế Âm không thể nghĩ bàn, chẳng
phải một số người biết được.
Vào thế chiến thứ hai, ở Thượng Hải có một vị cư sĩ tên là Phí Phàm Cảnh, bình thường
ông ta đều niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, vào thời kỳ Nhật Bản chiếm
Do đó có thể chứng minh, cảnh giới của Bồ Tát Quán Thế Âm
thật là cao sâu khó dò, con người chẳng dễ gì hiểu được. Trong những hoàn cảnh
đó, Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ bảo hộ người niệm danh hiệu của Ngài, cho nên mỗi
người chúng ta, nên sinh niềm tin chân thành niệm Bồ Tát Quán Thế Âm.
Các oán địch, tức mới vừa nói nước này với nước kia đấu tranh, nhà với nhà đấu
tranh, người với người đấu tranh, quỷ với quỷ đấu tranh, đó đều là do nghiệp
lực của chúng sinh sở cảm, mà tạo thành cục diện như thế. Bây giờ có rất nhiều
nước, song bạn đừng cho rằng trong những nước đó đều là người. Có những bầy
chuộc đi đầu thai làm người mà trở thành một nước, nhiều ếch nhái cũng đầu thai
làm người, và trở thành một nước. Mùa xuân năm nay, có người đem đến tin tức
trong báo nói rằng : Ở Thái Lan có mấy chục ngàn con ếch nhái tự sát. Tại sao ?
Vì nước đó cũng là nước có nhiều ếch nhái, cho nên chúng tự sát có thể đi đầu
thai làm người. Người trong mỗi nước đều đồng một giống loài, giống loài đó
kiếp trước đa số là một loài súc sinh, cho nên cùng nhau làm dân trong một quốc
gia. Mùa xuân năm nay tôi nói về vấn đề này thì có người hỏi : ‘’Đa số người Mỹ
là từ giống gì tái sinh ? Là giống loại gì mà thành một nước ? ‘’Tôi trả lời : ‘’Người
và súc sinh đều có, vì nước Mỹ là do các nước di dân đến, là người và súc sinh tạp
nhạp với nhau.’’ Đây là sự thật chứ chẳng phải nói đùa. Nếu các bạn mở ngũ
nhãn, thì sẽ biết người của thế giới này, chẳng nhất định là người, mà đủ loại.
Làm sao nhìn thấy được ? Nếu bạn có mắt Phật, khai mở mắt trí huệ, muốn biết
người đời trước là gì ? Ở đời trước làm gì ? Thì bạn có thể nhìn hình dáng phía
sau của người đó, hình dáng kiếp trước đó, đời này vẫn theo họ. Nếu kiếp trước
là người, thì hình dáng là người, nếu là súc sinh thì hình dáng là súc sinh,
nếu là yêu quái thì có hình dáng yêu quái. Chỉ có người khai mở ngũ nhãn, thì
mới có thể nhìn thấy rõ ràng. Nếu người chẳng khai mở ngũ nhãn, thì chẳng phân
biệt được.
Cho nên bạn thấy người đừng cho rằng đó là người. Làm thế
nào biết được những vấn đề đó ? Nếu bạn đắc được thiên nhãn thông thì sẽ biết
dễ dàng. Chỉ cần bạn chân thật dụng công tu hành, thì muốn biết gì cũng đều
được. Còn có nước (chẳng phải là tôi chưởi người) rất nhiều người đều là chuột
biến thành, bất quá, tuy có rất nhiều chuột, nhưng trong nước đó cũng có rất nhiều
người, cũng có rất nhiều quỷ và súc sinh. Tóm lại, mỗi nước đều có trâu ngựa dê
gà chó heo, đủ thứ loại. Con người cũng do những chúng sinh đó biến thành. Đạo
lý này nói ra thật là vi diệu. Một số người chẳng chứng thật về việc này cho
nên không tin. Muốn chứng thật về việc này, thì phải cước đạp thật địa dụng
công tu hành, đắc được thần thông thì sẽ nói : ‘’Trước kia có một vị pháp sư
nói về đạo lý này, thật chẳng sai chút nào, sao việc vi diệu như thế, Ngài đều có
thể nói ra’’, lúc đó bạn sẽ biết.
Tiếng diệu Quán Thế Âm
Tiếng phạm tiếng hải triều
Hơn hẳn tiếng thế gian
Cho nên thường phải niệm.
‘’Tiếng diệu Quán Thế Âm’’: Bài kệ ở trước là: ‘’Quán chân quán thanh tịnh,
quán trí huệ rộng lớn, quán bi và quán từ, thường nguyện thường chiêm ngưỡng.’’
Tức là nói về chữ ‘’quán’’. Bây giờ là nói về chữ ‘’tiếng’’ (âm). ‘’Tiếng’’ này
là tiếng diệu Quán Thế Âm. Tiếng của Quán Thế Âm là tiếng vi diệu, âm thanh vi
diệu này tức là Quán Thế Âm.
‘’Tiếng phạm tiếng hải triều’’: Âm thanh của Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng những vi diệu,
mà còn thanh tịnh, như tiếng hải triều. Khi biển đến lúc nhất đînh, thì sẽ phát
sinh hải triều. Tiếng thanh tịnh của Bồ Tát Quán Thế Âm như tiếng hải triều.
‘’Hơn hẳn tiếng thế gian’’: Âm thanh của Bồ Tát Quán Thế Âm, hơn hẳn mọi âm thanh
của thế gian.
‘’Cho nên thường phải niệm’’: Vì vậy, cho nên chúng ta mỗi người, đều phải thường
niệm Bồ Tát Quán Thế Âm.
Niệm niệm chớ sinh nghi
Quán Thế Âm tịnh Thánh
Khi khổ não nạn chết
Hay làm nơi nương tựa.
‘’Niệm niệm chớ sinh nghi’’: Khi chúng ta niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì đừng bao
giờ sinh tâm nghi ngờ, đừng nghĩ như vầy: ‘’Niệm có ích gì? Niệm Bồ Tát Quán
Thế Âm, chẳng phải là chẳng có ý nghĩa gì chăng ?’’ Hằng ngày niệm Bồ Tát Quán
Thế Âm mà bạn sinh tâm hoài nghi. Quan trọng nhất là đừng sinh tâm nghi ngờ,
trong một niệm cũng đừng sinh tâm hoài nghi, phải sinh niềm tin.
‘’Quán Thế Âm tịnh thánh’’: Bồ Tát Quán Thế Âm là bậc Thánh thanh tịnh.
‘’Khi khổ não nạn chết’’: Khi bạn có khổ não đau đớn, hoặc khi gặp nguy hiểm
sắp chết.
‘’Hay làm chỗ nương tựa’’: Lúc đó Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ bảo hộ bạn. Bạn có thể
đem thân tâm tính mạng giao cho Bồ Tát Quán Thế Âm, thì Ngài nhất định sẽ trợ
giúp bạn.
Đủ tất cả công đức
Mắt từ trông chúng sinh
Biển phước tụ vô lượng
Cho nên phải đảnh lễ.
‘’Đủ tất cả công đức’’: Bồ Tát Quán Thế Âm đầy đủ tất cả thần thông diệu dụng, đầy
đủ tất cả các thứ công đức, tất cả thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn đều không
thiếu.
‘’Mắt từ trông chúng sinh’’: Bồ Tát Quán Thế Âm đều dùng mắt cha lành nhìn
chúng sinh. Bất cứ chúng sinh có lỗi gì, hoặc chẳng có lỗi lầm, có tội nghiệp,
hoặc chẳng có tội nghiệp, Ngài đều từ bi đến cứu độ như nhau.
‘’Tụ biển phước vô lượng’’: Vì Bồ Tát Quán Thế Âm dùng đại từ bi bình đẳng phổ độ
chúng sinh, cho nên phước báu của Ngài tu lớn như biển cả, vô lượng vô biên,
sâu không thể dò.
‘’Cho nên phải đảnh lễ’’: Vì công đức của Bồ Tát Quán Thế Âm đều đầy đủ, cho
nên chúng ta mỗi người, đều nên đảnh lễ Bồ Tát Quán Thế Âm.
Bây giờ đã giảng xong phần bài kệ. Chúng ta có cơ hội được nghe toàn bộ Kinh
Pháp Hoa, thật là khó được gặp gỡ. Hiện tại đừng nói là nước Mỹ, dù ở
Bấy giờ, Bồ Tát Trì Địa bèn từ tòa ngồi đứng dậy, đến trước đức Phật bạch rằng
: Đức Thế Tôn ! Nếu có chúng sinh nghe được Phẩm Bồ Tát Quán Thế Âm này, nghiệp
tự tại phổ môn thị hiện sức thần thông, thì nên biết người đó công đức chẳng
ít. Khi đức Phật nói Phẩm Phổ Môn này, thì có tám vạn bốn ngàn chúng sinh ở
trong chúng, đều phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Bấy giờ là lúc đó, tức là sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong phần bài kệ.
Bồ Tát Trì Địa tức là Bồ Tát Trì Địa mà trong Kinh Lăng Nghiêm có nói đến. Vị
Bồ Tát này, ở trong vô lượng kiếp về trước, là một vị chẳng đọc sách, chẳng
biết chữ, nhưng sức lực của Ngài rất lớn. Sức của Ngài chẳng những mạnh, mà còn
vô cùng vô tận. Có đồ vật mà một số người chẳng khiên nổi, mà Ngài một mình vác
nổi, có đồ vật mà một số người gánh chẳng nổi, mà Ngài gánh nổi, việc mà một số
người chẳng làm được, mà Ngài làm được. Ngài làm gì ? Tức là tu sửa đường bằng phẳng,
làm đường, làm cầu. Có khi xe qua cầu mà qua chẳng được, Ngài bèn giúp họ đẩy
xe. Có người gánh đồ khổ cực, thì Ngài giúp họ gánh đồ. Song, Ngài chẳng đòi
giá cả, chẳng đòi tiền công. Ngài thực hành khổ hạnh như thế rất lâu. Có một
lần nọ, gặp Đức Phật Phù Xá Lô, Phật hỏi Ngài :
- ‘’Tại sao con phải tu sửa đường bằng phẳng?’’
- Ngài nói : ‘’Con tu sửa đường bằng phẳng, là để cho những người đi được an
toàn.’’
- Phật Phù Xá Lô nói: ‘’Con làm đường bằng phẳng là bỏ gốc theo ngọn, đây là dụng
công phu trên ngọn ngành, chỉ tu hành ở ngoài da.’’
- Phật Phù Xá Lô nói tiếp: ‘’Con muốn tu sửa đường bằng phẳng, thì trước hết
phải tu sửa "đất tâm" cho bằng phẳng. Tại sao đường xá chẳng bằng
phẳng? Thế giới có núi cao, có đất bằng, có biển cả, là vì tâm của con người chẳng
bằng phẳng. Trong tâm của con người có núi cao, cho nên đất chẳng bằng chẳng.
Nếu đất tâm của con bằng phẳng, thì thê giới chẳng có chỗ nào mà không bằng phẳng.’’
Bồ Tát Trì Địa nghe Phật Phù Lô Xá giáo hóa rồi, bèn tu pháp môn "đất
tâm", làm bằng phẳng mảnh đất trong tâm, tu thành chứng quả, đắc được quả
vị Bồ Tát. Do đó, Ngài có tên là ‘’Bồ Tát Trì Địa.’’
Bồ Tát, ở trên đã có nói rồi, tức là giác hữu tình, giác ngộ hữu tình chúng sinh. Cũng là một bậc giác ngộ ở trong chúng sinh. Bồ Tát Trì Địa bèn từ tòa ngồi của Ngài đứng dậy, hướng về Đức Phật nói : ‘’Đức Thế Tôn ! Nếu như có chúng sinh nào nghe được Phẩm Bồ Tát Quán Thế Âm nghiệp tự tại, phổ môn thị hiện ba mươi hai ứng thân, bốn vô úy thần thông lực như thế, thì nên biết công đức của người đó chẳng ít, công đức họ nghe được Phẩm Phổ Môn không thể hạn lượng.’’ Không ít tức là nhiều, chẳng có số lượng, vô lượng vô biên. Khi Đức Phật Thích Ca diễn nói Kinh Pháp Hoa, nói đến Phẩm Phổ Môn, thì ở trong chúng có tám vạn bốn nghìn chúng sinh, đều phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, tức là A nậu đa la tam miệu Tam bồ đề.
‘’Tám vạn bốn nghìn chúng sinh là gì ? Tám vạn bốn nghìn chúng
sinh ở đây, tức cũng là tám vạn bốn nghìn phiền não của chúng ta. Mỗi một phiền
não là một chúng sinh, hơn nữa ở trong thân của mỗi người chúng ta, đều có tám vạn
nghìn vi sinh vật, vi sinh vật tức là vi khuẩn. Trong thân của chúng ta đều có
vi trùng. Con người chúng ta là trùng lớn, ở trong thân trùng lớn này, có trùng
nhỏ, ở trong máu, ở trong thịt, trong ngũ tạng, chẳng biết có bao nhiêu vi
trùng ? Con người chúng ta làm thế nào mà có thể sinh tồn ? Tức cũng là thân
trùng lớn nuôi dưỡng những trùng nhỏ, trùng nhỏ trợ giúp cho trùng lớn. Bạn cho
rằng con người là gì ? Ở trong thân thể có vô lượng vô biên vi sinh vật (sinh bật
nhỏ bé).
Một vi sinh vật là một chúng sinh. Vậy có bao nhiêu vi sinh vật ? Có nhiều đếm
không hết được. Tóm lại, thì có tám vạn bốn nghìn. Kỳ thật, chẳng phải chỉ tám
vạn bốn nghìn, hoặc là mười vạn tám nghìn, cũng chẳng nhất định. Trong tự tánh
của mỗi người chúng ta, đều đầy đủ tám vạn bốn nghìn chúng sinh. Tám vạn bốn
nghìn chúng sinh ở trong pháp hội đó, tức cũng là tám vạn bốn nghìn thứ niệm ở trong
tâm, niệm niệm sinh diệt, niệm niệm chẳng ngừng, niệm sinh tức là một chúng sinh,
niệm diệt cũng là một chúng sinh. Sinh sinh diệt diệt có tám vạn bốn nghìn chẳng
lìa khỏi tự tánh. Tám vạn bốn nghìn chúng sinh đều phát tâm vô đẳng đẳng, chẳng
có gì có thể bằng tâm, chẳng có gì có thể sánh với tâm, tức là tâm vô thượng
chánh đẳng chánh giác.
A nậu đa la tam miệu tam bồ đề là tiếng phạn. A dịch là vô, nậu đa la dịch là thượng, tam dịch là chánh, miệu dịch là đẳng, bồ đề dịch là giác, hợp lại là vô thượng chánh đẳng chánh giác. ‘’Vô thượng’’ là chẳng có gì cao hơn nữa. ‘’Chánh đẳng’’ là chân chánh đồng với Phật. ‘’Chánh giác’’ là giác ngộ của Phật. Chân chánh đồng quả vị giác ngộ của Phật, tức cũng là phát tâm thành Phật. Có tám vạn bốn nghìn chúng sinh phát tâm thành Phật. Phát tâm thành Phật rồi, sau đó mới đắc được quả vị. Trong pháp hội đó, có tám vạn bốn nghìn chúng sinh nghe Phẩm Phổ Môn rồi, đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, đó là nhân duyên rất thù thắng.
Hiện tại chúng ta đang giảng Phẩm Phổ Môn, ở trong Phật Giáo Giảng Đường có hơn hai mươi người đến nghe kinh. Hơn hai mươi người này, mỗi người đều có tám vạn bốn nghìn chúng sinh, bạn tính xem nó bao nhiêu vạn chúng sinh ? Nhưng bao nhiêu vạn chúng sinh đó, có phải đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác ? Tôi tin rằng tuy chẳng phát tâm như thế, đa số cũng phát tâm muốn thành Phật. Ở trong hội Pháp Hoa này, người nào nghe được Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì tương lai đều có phần sẽ thành Phật. Hiện tại chúng ta nghe được Phẩm Phổ Môn của Bồ Tát Quán Thế Âm, đều do trong quá khứ đã trồng căn lành, cho nên bây giới cũng có nhân duyên, để tụ lại một chỗ cùng nghiên cứu Phật pháp, đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
A Nậu Đa
Ngài Lão tử có nói : ‘’Nước khéo lợi ích vạn vật mà chẳng
tranh, ở nơi mà mọi người không thích ở.’’ Nước lợi ích cho tất cả vạn vật mà
chẳng tranh. Vật tức là chỉ phi tiềm động thực, hết thảy tứ sinh (thai noãn
thấp hóa), đều cần nước bồi dưỡng tưới tẩm, song bản thân của nước chẳng bao
giờ có tư tưởng như vầy : ‘’Hết thảy những vạn vật của các vị, đều do tôi lợi
ích cho các vị, do tôi đến trợ giúp các vị.’’ Chẳng tranh gì ? Tức là chẳng kể công,
chẳng tuyên truyền với mọi người rằng : ‘’Việc đó là do tôi làm, công đức đó là
do tôi làm thành, ngôi chùa đó là do tôi làm, cái cầu kia là do tôi xây’’,
chẳng bao giờ có tâm như thế, nó chẳng ích kỷ, chẳng tư lợi, cho nên Lão tử mới
nói, nên học tập giống như nước. Nước khéo lợi ích vạn vật mà chẳng tranh,
chẳng kể công, chẳng tranh danh, chẳng tranh lợi. ‘’Ở nơi mà mọi người không thích
ở’’ : Nước ở chỗ thấp, chẳng ở trên cao. Có người nói : ‘’Sao nước lại chẳng ở trên
cao ? Khi trời mưa thì nước từ trên cao mưa xuống !’’ Không sai, bạn nói rất có
lý, trời mưa xuống là từ trên cao mưa xuống. Vậy nó làm thế nào mà đi lên cao ?
Nó từ nơi thấp mà đi lên cao, chứ chẳng phải nguyên lai là ở trên cao. Nó ở
trên cao vẫn phải rơi xuống đất thấp, ở dưới đất thấp lại chảy vào biền, vào
sông, vào suối, vẫn chảy xuống chỗ thấp, bất quá tạm thời ở trên cao mà thôi.
Cho nên nước ở chỗ mà chúng sinh chẳng thích, ở chỗ mà con người chẳng hoan hỉ.
Tại sao người tu đạo chẳng ở nhà tốt ? Suốt ngày đến tối ở trong sơn động ? Tức
cũng là học giống như nước, ở chỗ thấp. Vì nước ở chỗ mà chúng sinh chẳng
thích, nên hợp với đạo. Bạn muốn thành vô thượng chánh đẳng chánh giác cũng như
thế, cũng phải từ chỗ thấp mà hướng đi lên, chẳng phải từ trên cao mà rớt
xuống, cũng chẳng phải một đời sinh ra, thì được vô thượng chánh đẳng chánh
giác. Bạn muốn thành Phât, thì trước hết phải làm chúng sinh cho thật tốt. Làm
chúng sinh tốt như thế nào ? Tức là bất cứ làm việc gì, đều phải làm việc thiện
việc lành, chớ đừng làm ác, do đó có câu :
‘’Lựa việc thiện mà theo,
Việc ác thì sửa đổi’’.
Con đường lành thì nên làm, đường chẳng lành thì sửa đổi, phải sửa lỗi làm mới lại,
phải đạo thì tiến tới, trái với đạo thì thối lùi, hợp với đạo thì tiến bước về
trước, chẳng hợp với đạo thì lùi về sau, như thế mới có thể đắc được vô thượng
chánh đẳng chánh giác.
Chỗ diệu của Phẩm Phổ Môn là vô cùng vô tận, chẳng phải thời gian ngắn mà nói hết được. Tương lai khi nào có cơ hội sẽ nghiên cứu sâu hơn bước nữa. Thứ bảy này là ngày vía Bồ Tát Quán Thế Âm thành đạo, bây giờ chúng ta đã giảng xong Phẩm Phổ Môn, Biết được thần thông diệu dụng của Bồ Tát Quán Thế Âm, thì đến ngày đó mọi người phát tâm cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, và lạy đại bi sám cầu nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm hiển hiện diệu dụng không thể nghĩ bàn. Ai có sở cầu thì có thể âm thầm cầu Ngài gia bị, tin tưởng Ngài, thì nhất định sẽ khiến cho bạn toại tâm mãn nguyện. Kinh Pháp Hoa là kinh thành Phật, ai nghe được Kinh Pháp Hoa, thì sẽ có phần thành Phật, cho nên đây là cơ hội rất khó được gặp.