KINH DIỆU
PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN
Đại Sư Khuy Cơ biên
soạn – Việt dịch: Cố Hòa thượng Thích Chân Thường
Biên soạn: Giáo
sư Trương Đình Nguyên – Tu chỉnh và hiệu đính: Tỳ kheo: Thích Đồng Bổn
Nhà Xuất Bản Tôn
Giáo, Hà Nội 2005
Sa môn KHUY CƠ, chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn.
PHẨM PHƯƠNG TIỆN
Lược kê ba môn
:
I . LAI Ý (dụng ý của phẩm Phương Tiện).
II . THÍCH
DANH (giải thích danh từ trong phẩm Phương Tiện).
III. XUẤT THỂ.
I . LAI Ý , có ba :
1. Trong việc y
vào tám phẩm làm chính tông thì Liên hoa có hai đức : xuất thủy và khai phô;
Diệu pháp có hai năng là : Quả tốt và Hạnh cao. Thêm nữa, trong kinh nói rằng :
“nay trong kinh này chỉ thuyết nhất thừa”, nên lấy việc đả phá nhị thừa, hội
nhị thừa qui về ở nhất thừa làm chính chủ (mục đích chủ yếu) của Pháp Hoa. Cho
nên ba lượt thuyết pháp là nhằm vào ba loại căn cơ.
Phẩm này thoạt đầu
thuyết về nhất thừa để làm lợi cho Thu Tử. Thu Tử là bậc thượng căn, thoạt tiên
đã lĩnh giải ở trong phẩm Thí Dụ, đã được Phật thụ ký cho. Cho đến “Thiên tử
thuyết kệ xong”. Đó là lượt thứ nhất.
Trong phẩm Thí Dụ,
Xá Lợi Phất thưa : “Tôi nay không còn nghi hối nữa...”, Phật thuyết thí dụ làm
lợi cho hạng trung căn. Hạng trung căn có bốn người tín giải. Phật thuyết phẩm
Dược Thảo Dụ để nhắc lại thành tựu đó, rồi thụ ký cho họ. Đó là lượt thứ hai.
Phẩm Hóa Thành Dụ
nói về các duyên kết tập được xưa kia như Hóa thành chẳng thực. Đó là để làm
lợi cho hạng hạ căn. Mãn Từ Tử lĩnh giải, Phật ấn thuật xong liền thụ ký cho 500
đệ tử cùng các hạng hữu học và vô học. Đó là lượt thứ ba.
Từ đó trở xuống
không còn có chỗ nào thuyết về nhất thừa nữa. Song nhất thừa là thể của Pháp
Hoa. Nay chúng đã tập duyên và việc cảnh tỉnh họ đã xong, cơ duyên căn khí phù hợp
đáng để trình bày về tông chỉ. Vả lại pháp thuyết nhất thừa là để lợi cho hạng
thượng căn, cho nên tiếp sau phẩm Tựa thì đến phẩm Phương Tiện.
2. Trong việc y
vào 19 phẩm làm chính tông, 12 phẩm đầu kể từ phẩm Phương Tiện thuyết minh về
Cảnh nhất thừa; các phẩm An Lạc, Dũng Xuất thuyết minh về Hạnh nhất thừa. Còn
từ Như Lai Thọ Lượng tới Thường Bất Khinh cả năm phẩm này đều thuyết minh về
Quả nhất thừa. Thuyết về Cảnh để khiến họ biết thừa nào là quyền, Thừa nào là thực
và khuyên họ nên bỏ quyền mà lấy thực. Thanh văn giác ngộ được điều này, liền
được thụ ký.
Ở trong đây chia
làm ba :
a) 8 phẩm đầu
chính nhằm thuyết minh vần đề quyền thực.
b) 3 phẩm sau khen
người khen pháp, khuyến khích việc trì hành.
c) 1 phẩm Khuyến
Trì sau cùng, nói về ý vâng mệnh bỏ quyền thừa, trì hành thực pháp.
Việc phân tích giải thích 8 phẩm đầu không khác gì trước kia. Cho nên tiếp sau phẩm Tựa là đến phẩm Thí Dụ.
3. Luận nói
rằng : từ đây trở xuống thị hiện Sở thuyết nhân quả tướng. Câu này ý nói từ sau
phẩm Tựa đầu tiên, về sau là phần thuyết minh về tông chỉ của kinh, tức là về
Sở thuyết nhân quả thể tướng, tướng trạng.
Ở đây có ba điều
giải thích :
1) Sở thuyết chư Phật trí tuệ là Quả. Năng thuyên trí tuệ giáo môn là Nhân, như cửa là lối để vào buồng, nên Giáo là chỗ để nêu rõ Lý. Cho nên Liên Hoa chỉ thuyết hai nghĩa Nhân và Quả, đó tức là Trí và Thuyên.
2) Sau ba lần thỉnh Phật. Phật thuyết minh về một đại sự : Khai Thị Ngộ Nhập. Ba thứ đầu là Quả, một thứ sau là Nhân. Đó chính là tông chỉ của nhất thừa. Thoạt đầu nêu lên cái ý về Trí và Môn, vì muốn khêu gợi sự hoài nghi của bọn ông Thu Tử, khiến họ cố nài xin Phật thuyết về nhất thừa. Hai nghĩa của Liên hoa tuy giải thích cho Kinh Vô Lượng Nghĩa, song Quả đẹp, Nhân nở, đó cũng chẳng sai trái với lý chung. Do đó tức là lấy Khai Thị Ngộ Nhập làm Quả và Nhân.
3) Đầu tiên là
Trí và Môn. Môn là Nhân và Trí là Quả. Khai Thị Ngộ hợp ba quả. Nhập là nhân,
vì Giáo Lý Hạnh Quả đều là Pháp Hoa, để cho biết rằng xưa kia Giáo Hạnh vì phương
tiện mà phải thuyết tam thừa. Nay bàn về thể của thừa, Lý Quả chỉ là một : nghe
Giáo của tam thừa hiển Lý của nhất thừa; hành Nhân của tam thừa; chứng Quả của nhất
thừa. Đó là dụng ý của Kinh Pháp Hoa. Điều này như ở trên đã giải thích rồi.
Phẩm này thuyết
minh đầy đủ về Nhân và Quả trong tôn chỉ Sở thuyết. Cho nên tiếp sau phẩm Tựa
là đến phẩm Phương Tiện.
II. THÍCH DANH
* Chữ (便 ) Tiện : có âm đọc là phiên thiết của Phương Liên. Nay đọc khứ
thanh (Tiện).
Phật trí có hai
loại :
A - Chân thực trí.
B - Phương tiện trí.
A - Chân thực trí:
Có hai loại :
• Một là thực
pháp,
• Hai là thực trí.
A.I - Thực
pháp có hai :
1. Thể thực,
tức là hữu vi, vô vi.
2. Chân thực,
tức là chân như diệu lý.
A.II - Thực trí
cũng có hai :
1. Như thể
thực trí, tức quán thể thực vô lậu chân trí, đối chiếu với Phàm vọng trí bất
tri, đó gọi là Thực trí. Đó là có đủ Căn bản trí và Hậu đắc trí, cả hai loại.
2. Chứng chân
thực trí, chỉ là Chính thể trí.
Đây có năm đối :
1) Đối tri vọng,
đó gọi là Thực trí.
2) Đối tri sự, đó
gọi là Thực trí.
3) Đối tri tướng,
đó gọi là Thực trí.
4) Đối tri thuyên,
đó gọi là Thực trí.
Bốn loại Thực trí
này đều là duy quán Chân trí thứ tư. Ngoài ra bốn sở đối khác theo như thứ tự
đều là bốn Thế tục trí.
5) Đối tri quyền
trí, đó gọi là Thực trí.
Có nghĩa là lý trí
nhất thừa đối Tri nhị quyền trí. Đây là căn cứ vào Chứng trí, đem Chân trí thứ
tư mà đối ba Tục trí cuối. Nếu y vào Thú nhập trí thì lấy Chân trí thứ ba mà
đối Tục trí thứ ba.
B. Phương tiện trí
:
Chia làm 3 hoặc 4
loại :
B.I – Chia làm 4
loại :
1) Tiến thú phương
tiện, chỉ Phương tiện trí trước kiến đạo. Tiến thú hướng quả gọi là Phương
tiện. Sở học có phép tắc thì gọi là Phương. Tùy theo địa vị mà thích nghi thì
gọi là Tiện.
2) Thi vi phương
tiện, chỉ Phương tiện thiện xảo Ba la mật đa. Hậu trí diệu dụng, năng hành nhị
lợi, nên gọi là Phương tiện. Loại này có ba :
a) Giáo hành
phương tiện : ngôn ngữ âm thanh đáng làm phép tắc thì gọi là Phương. Vâng theo
giáo hóa, chứng được an lạc thì gọi là Tiện.
b) Chứng hành
phương tiện : trực chứng lý không thì gọi là Phương; trí thuận chính lý thì gọi
là Tiện.
c) Bất trụ phương
tiện : ở Chân mà hợp với Tục thì gọi là Phương; tự tha đều lợi thì gọi là Tiện.
Ba thứ nói trên
đều thuộc loại thứ hai là Thi vi phương tiện.
3) Tập thành
phương tiện, các pháp cùng một thể, tập thành khéo léo lẫn cho nhau, nên gọi là
Phương tiện. Hơn nữa trong chân như có đủ hằng sa Phật pháp, vì lấy Trí làm
Môn, lấy Thức làm Môn, đều thu nhiếp hết thảy.
Bồ Tát Địa luận
nói rằng : “Pháp này thiện xảo thành, vậy nên gọi là Phương tiện”. Thập Địa
luận nói: “Tổng thì đồng thì thành; Biệt thì dị thì hoại, lấy Tổng để đối đãi
với Biệt, đó là Phương tiện”. Bao gồm các Tổng có phép tắc thì gọi là Phương;
lấy ít chứa nhiều thì gọi là Tiện.
4) Quyền xảo
phương tiện, thực ra không có sự việc đó, vì thích ứng với ngoại vật mà quyền
nghi thị hiện, nên gọi là Phương tiện. Có nghĩa là dùng phương tiện ba nghiệp
mà hóa độ. Đây là đối thực trí thì gọi là Phương tiện. Làm lợi cho muôn vật có
phép tắc thì gọi là Phương; tùy thời mà tế độ thì gọi là Tiện. Loại này xuất
phát từ trong Thi vi phương tiện, chứ không có nghĩa gì khác. Nên Phương tiện
trí chỉ có ba.
B.II – Chia làm 3
loại :
- Một là Tiếp hạ
phương tiện : chỉ dẫn ở dưới.
- Hai là Hiển
thượng phương tiện : chỉ hiển hiện thâm diệu.
- Ba là Thông
chươngï phương tiện : khắp cả trên dưới.
1) Tiếp hạ phương
tiện :
Trong kinh này nói
: “Trong mười phương cõi Phật chỉ có pháp nhất thừa, không có nhị thừa cũng
không có tam thừa, trừ khi Phật phương tiện thuyết”. Còn nói : “Chính trực bỏ phương
tiện, chỉ thuyết đạo Vô thượng”. Ở trong bốn thứ trên, đó là phương tiện quyền
xảo. Đây chính là có ba :
+ Thân phương tiện
: đó là như chuyện Già Da thành đạo v.v… cầm đồ hốt phân và mặc áo bẩn.
+ Ngữ phương tiện
: như ở dưới nói rằng “Chín bộ pháp này của ta lấy việc chứng nhập đại thừa làm
gốc”. Thêm nữa, như việc Phật đến Ba La Nại chuyển pháp luân Tứ đế v.v…
+ Ý phương tiện :
như ở dưới nói rằng “Sau lại nhớ tới lực phương tiện mà Phật quá khứ đã
dùng, ta nay chứng được đạo cũng nên thuyết tam thừa” v.v… đó là trên thì giống
với Phật xưa, dưới thì thuận theo hữu tình.
Phật Địa luận nói
: “Thành sở tác trí, khởi tam nghiệp hóa” giống hệt như đây. Căn cứ vào đây thì
giải thích rằng : Thi vi đáng để làm phép tắc thì gọi là Phương; khéo thích nghi
với căn cơ thì gọi là Tiện.
Vãng Sinh luận nói
: “Chính trực gọi là Phương. Đặt mình ra ngoài là Tiện. Phương là Phương thuật.
Tiện là ổn tiện. Phương thuật ổn tiện gọi là Phương tiện”.
2) Hiển thượng
phương tiện :
KinhVô Cấu Xưng
nói : “Có phương tiện thì Giải (giải thoát), không phương tiện thì Phược (bị
trói buộc)”. Trong kinh này nói : “Ta đặt ra phương tiện này để khiến cho được nhập
Phật tuệ. Hết thảy các Như Lai đều dùng vô lượng phương tiện mà độ thoát cho
các chúng sinh nhập trí vô lậu của Phật”. Thoạt đầu đặt ra phương tiện để sau
đó tỏ rõ Phật trí, đó tức là Thi vi phương tiện trong bốn loại phương tiện. Lý
diệu đáng noi theo thì gọi là Phương. Xảo dụng năng hiển thì gọi là Tiện. Nghĩa
thì sâu xa, lời thì xảo diệu, tiện thông giáo lý. Phương pháp tiện lợi nên gọi
là phương tiện.
3) Thông chương
phương tiện :
Trong kinh, đại
chúng nghi ngờ nói : “Cớ sao Thế tôn lại ân cần khen ngợi phương tiện mà nói
lời này : Pháp mà Phật chứng được rất sâu, khó hiểu. Những lời nói ra, ý chỉ khó
biết”. Phương tiện là Tổng (nói chung). Hai câu dưới là Biệt (nói riêng). “Pháp
mà Phật chứng được” là hiển thượng, nói rõ nay là nhất Thực. “Những lời nói ra”
là tiếp hạ, nói rõ trước kia là tạm Quyền.
Lại nói : “Phật
biết tất cả những điều đó rồi, bèn dùng các duyên thí dụ, ngôn từ, phương tiện
lực để khiến cho hết thảy đều hoan hỉ”. Vì Tiếp hạ Hiển thượng cả hai đều
thông, đó tức là 12 loại phương tiện thiện xảo Ba la mật đa, tùy theo sự thích
ứng mà phối nhiếp.
Phương là phép tắc
để tất cả chúng sinh đủ loại căn cơ noi theo. Tiện là thích nghi chủ yếu với
cái lý cứu giúp chúng sinh.
* Phương : chỉ
phương quĩ, phương pháp. Tiện : chỉ yếu tiện, nghi tiện. Tình : chỉ hữu tình.
Cơ : chỉ cơ yếu.
Tất cả phép tắc
thu nhiếp cơ trí của loài hữu tình đủ mọi căn cơ, đó gọi là Phương, bởi vì quán
thông cả người cả pháp.
* Vật : chỉ nhân
vật. Lý : chỉ đạo lý.
Thích nghi chủ yếu
với đạo lý cứu giúp làm lợi ích cho nguời cho vật, thì gọi là Tiện, vì giúp ích
cho cả người và pháp.
Ở đây muốn nêu rõ
cái phép tắc giúp ích cho người, cho pháp nên gọi là Phương tiện. Vừa phương
vừa tiện nên gọi là Phương tiện. Do nghĩa này mà suy thì mới thông được ba điều
giải thích. Ba loại gộp lại là 12 loại phương tiện thiện xảo Ba la mật đa, tùy
theo sự thích ứng mà phối nhiếp.
Du Già luận quyển
45 nói rằng : Trong 12 loại đó, sáu loại đầu dựa vào sự tu chứng ở bên trong,
sáu loại sau y vào sự thành thục ở bên ngoài.
12 a loại Phương tiện thiện
xảo Ba la mật đa :
- Sáu loại bên
trong là :
1) Bi tâm cố
luyến.
2) Liễu tri chư
Hành.
3) Ưa Phật diệu
trí.
4) Chẳng bỏ sinh
tử.
5) Luân hồi chẳng
nhiễm.
6) Dũng mãnh
tinh tiến.
- Sáu loại bên
ngoài là :
7) Khiến dùng ít
điều thiện như thí v.v… mà cảm được vô lượng quả.
8) Khiến dùng ít
lực như giới v.v… mà dẫn được thiện căn lớn.
9) Những kẻ ghét
Thánh giáo thì trừ bỏ được sự thù ghét.
10) Những kẻ đã
trụ trong Thánh giáo thì khiến họ tiến nhập.
11) Những kẻ đã
tiến nhập thì khiến họ thành thục.
12) Những kẻ đã
thành thục thì khiến được giải thoát.
Ở đây Tiếp hạ tức
là ngoại thành thục, Hiển thượng tức là nội thành thục. Thông chương là
nội ngoại gộp lại là 12 loại. Trong 12 loại, để thành 4 loại sau, còn phải tu 6
loại phương tiện thiện xảo :
6 a loại Phương tiện thiện
xảo :
1/ Tùy thuận hội
thông :
Định thuyết pháp
cho ai thì trước tiên thị hiện thân đẹp đẽ, lời nói nhu nhuyễn khiến họ sinh
lòng yêu kính, thích được nghe pháp, sau đó dần dà mới thuyết cho họ. Nếu
họ chẳng hiểu được mật ý của Không, thì dùng ngôn ngữ giáo hóa họ rằng : Hết
thảy mọi pháp đều không có Tự tính không có Sự tướng, không sinh không diệt,
như huyễn như mộng v.v… như Lý hòa hợp.
Kinh kia chẳng nói
hết thảy pháp đều không hiện hữu mà chỉ là không có cái gì để chấp vào đó mà
nói có Tự tính. Căn cứ vào đệ nhất nghĩa thì chẳng phải là tự tính của nó. Tính
Sự của nó đều không có gì cả thì làm gì còn có Sự sinh diệt ? Hơn nữa, nó như
huyễn mộng v.v… chẳng phải như hiển hiện. Và chẳng phải là các Sự tướng đó
đều không có gì cả, nên nói là như huyễn để họ liễu tri.
2/ Cung lập yến
khế :
Có người đến cầu
pháp, trước hết dạy họ các điều kiện chung sống và các việc cần phải làm, khiến
họ biết ân đức, cúng dàng cung kính, trì tịnh giới v.v… rồi sau mới thuyết pháp
cho.
3/ Dị phân ý lạc :
Đã dạy họ điều
kiện chung sống và các việc cần phải làm rồi mà kẻ đó chẳng thực hành ngay, thì
với dụng ý là làm lợi cho hắn, cho nên trước hết chẳng thí pháp cho hắn mà tùy
thuận giáo hóa dẫn đạo cho thân hữu. Nếu kẻ đó thấy vậy mà chẳng theo học, thì
thị hiện tướng giận dữ. Nếu hắn làm việc sai trái, thì giả vờ chẳng tùy giúp gì
cho hắn.
Những việc đó là
lúc quyền nghi tạm thời bề ngoài thị hiện ra vẻ ruồng bỏ chứ chẳng phải là
trong lòng chẳng muốn cứu vớt hắn.
4/ Bức bách sở tác
:
Khi đã có sực tự
tại, đối với thân thuộc v.v… thì có thể răn dạy một cách chính quy. Nếu là kẻ
hủy giới chẳng biết ân đức v.v… thì có khi phải đoạn tuyệt với điều sở cầu của
y, xua đuổi, đánh mắng y, bắt y phải thực sự tu tập theo quy củ.
5/ Thi ân báo ân :
Đối với những
người đã từng có ân đức lớn với mình, mà họ mong được báo đáp, thì khuyên họ tu
thiện, đó gọi là Đại báo ân.
6/ Cứu cánh thanh
tịnh :
Khi đạo quả mãn
rồi thì trụ ở Tri Túc thiên cho đến lúc hạ sinh thành bậc Đẳng chính giác. Vì
muốn cho chúng sinh ưa thích nên giáng sinh theo đức Như Lai xuống cõi trần,
thỉnh chuyển pháp luân để làm lợi ích rộng rãi cho chúng sinh. Đó tức là phương
tiện được nêu lên ở đây.
Trong sáu loại
trên tùy thuận hội thông, có nghĩa là hội ba Quyền thừa xưa kia để thông một
Thực thừa ngày nay.
Quyết Trạch Duy
Thức luận còn nói là có hai loại :
1 - Bạt tế phương
tiện thiện xảo, tức là sáu loại bên ngoài.
2 - Hồi hướng
phương tiện thiện xảo, tức là sáu loại bên trong.
Theo như sự thích
ứng của các phương tiện đó mà đều được thu nhiếp vào đây.
III. XUẤT THỂ
Tính có nghĩa
là phương tiện lấy trí tuệ làm tính. Trong Vô phân biệt trí, dung nạp theo chân
cảnh. Trong Hậu đắc trí, dùng để lợi tha thuyết pháp, vì có khả năng khởi diệu
dụng phương tiện, nên lấy Hậu đắc trí làm tính.
Duy Thức v.v… nói
rằng năm Ba la mật đa sau đều là Hậu đắc trí, vì là tính. Năng thuyên, Sở
thuyên về tính đó lại có sự phân biệt nhân trí mà hiển lộ. Nay theo Căn bản
trí, nên trí là tính.
Phần dưới là giải
thích bản văn.
Trong lượt một có
bốn ý :
1. Thế tôn hiểu
dụ.
2. Thu Tử lĩnh
giải.
3. Như Lai thuật
thành.
4. Phật thụ ký
cho.
Và văn nói về
trung hạ căn chia làm bốn : trong bốn chỗ này, chỗ đầu là phẩm Phương Tiện, ba
chỗ sau đều ở trong phẩm Thí Dụ.
Trong mục Thế tôn
hiểu dụ, Luận lại phân tích làm 5 phần :
1) Tán thán Pháp
thắng diệu. Đó là đoạn “Ta từ khi thành Phật”.
2) Tán thán công
đức Pháp sư. Đó là đoạn “Bấy giờ, A la hán lậu tận trong chúng”.
3) Đại chúng định
nghi. Đó là đoạn “Phật bảo Xá Lợi Phất : Thôi thôi ! Chẳng cần nói nữa, nếu nói
sự này thì hết thảy thế gian đều sẽ kinh nghi”.
4) Định ký. Đó là
đoạn “Này Xá Lợi Phất ! Chư Phật xuất hiện ở đời ác thế ngũ trược”.
5) Đoạn nghi. Đó
là đoạn “Pháp là thầy chư Phật, người do pháp mà thành đức. Vì người là năng
hiển, pháp nhờ người mà truyền rộng”.
Đầu tiên khen pháp
hay, sau đó khen người giỏi. Các Thanh văn v.v… đối với những pháp bản thân
chứng được, cho rằng đó là quyết định, nghe thấy tán thán những điều sở thuyết,
bèn đâm nghi ra nghi ngờ, cho nên có phần Định nghi.
Những điều định
làm, đức Phật vốn đã định trước trong tâm rồi, song ngài bảo “Thôi”, là cốt để
Xá Lợi Phất cố nài xin và cũng là để những kẻ ác phải rút lui. Đã giải thích
nghĩa đó rõ ràng như vậy, cho nên có phần Định ký.
Trong chúng nhân
được nghe những điều đã nói trước kia, vẫn còn có kẻ nghi ngờ, Phật phải giải
thích lại, nên có phần Đoạn nghi. Thế là thành ra năm phần.
a Chia làm hai phần :
- Phần đầu là phần
tán thán Pháp và Sư (chúng tăng) thắng diệu, chúng bèn sinh nghi.
- Phần sau là phần
Phật lại Định ký và giải thích cho. Chúng vẫn còn nghi, Phật lại giải mối nghi
đó.
Vì vậy chia làm
hai phần.
Trong l phẩm này, nay phân tích
làm bốn nội dung :
1) Hai thậm thâm,
đề xướng cảnh tỉnh trước, để quan sát cái tâm của chúng sinh.
2) Bốn chúng kinh
nghi, phát dương sự thưa thỉnh của Thu Tử.
3) Mở ra Thực
tướng này, giải thích Quyền môn kia.
4) Khuyến phát hỷ
tâm, khiến chúng sinh thích làm Phật.
Đó là ba hàng tụng
ở cuối phẩm.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “điều chẳng thể biết”.
Tán rằng :
hai thậm thâm trước tiên nêu lời cảnh tỉnh quan sát tâm của chúng sinh.
Trong văn có hai :
đầu là trường hàng, sau là kệ tụng. Trường hàng có hai phần :
- Phần đầu là tán
thán pháp sở chứng sở thuyết diệu mầu.
- Phần thứ hai “Từ
khi ta thành Phật” trở đi, tán thán thân Như Lai – Pháp sư năng chứng năng
thuyết thắng diệu.
Trong phần đầu lại
có hai phần :
+ Đầu tiên nêu
chung về Thắng diệu.
+ Sau đến “Sở dĩ
như vậy là vì sao?” giải thích sự Thắng diệu ấy.
Phần đầu tiên nay
lại chia làm 2 phần :
a) Phần đầu nói rõ
Phật tự tại từ Định mà khởi dậy.
b) Phần sau bảo
Thu Tử đó là chính thức trình bày pháp sở thuyết.
An : có nghĩa là
từ từ.
Tường : có nghĩa
là rành mạch.
Luận giải thích
rằng : ở nơi Như thực trí quán, từ Tam muội từ tốn tỉnh táo mà trỗi dậy, trỗi
dậy rồi bảo với Xá Lợi Phất, đó là để thị hiện Như Lai đắc Tự tại lực, Như Lai
nhập định thì không ai có thể làm kinh động khiến ngài xuất định. Quán Vô lượng
nghĩa xứ Định, đó gọi là Như thực trí quán.
Phật g định thù thắng có hai
nghĩa :
1) Phật đã nhập
định rồi thì những người khác chẳng thể làm kinh động khiến Phật từ Định mà
khởi dậy. Nếu chẳng phải là Phật tự xuất định thì những người khác chẳng thể
khiến Phật xuất định. Cho nên Phật tự mình từ Định mà trỗi dậy.
2) Hơn nữa còn thể
hiện Phật ở trong Định tùy ý nhập xuất vì được tự tại.
Tức là do hai
nghĩa trên nên từ Định mà trỗi dậy. Tuy là Vô lượng nghĩa xứ Tam muội nhưng
phần nhiều là Đệ tứ thiền, vì công đức thù thắng.
“Chẳng g bảo người khác, chỉ bảo
một mình Xá Lợi Phất, vì tương ứng với Như Lai về trí tuệ sâu” :
Có nghĩa là Xá Lợi
Phất là bậc tối thượng trong hàng Thanh văn, trí tuệ lợi căn vừa nghe đã hiểu,
là người ngộ nhập đầu tiên. Phật phàm thuyết pháp ắt phải ứng với căn cơ. Do Xá
Lợi Phất là bậc trí tuệ đệ nhất, căn pháp phù hợp với nhau, nên gọi là tương
ứng.
Tương ứng có nghĩa
là Tùy thuận. Chẳng phải là trí tuệ tương tự thì gọi là tương ứng. Căn hợp với
Phật pháp thì gọi là tương ứng. Cho nên chẳng bảo với Bồ tát. Luận có năm nghĩa
:
1/ Vì đó là việc
mà các Thanh văn phải làm. Diệu Pháp Liên Hoa là để thuyết cho hàng Thanh văn,
vì việc Thanh văn phải làm là bỏ quyền thừa, đó chẳng phải là việc của Bồ tát.
2/ Để cho các
Thanh văn hồi hướng đại bồ đề, khiến họ phát tâm hướng tới quả đại thừa.
3/ Gia hộ cho các
Thanh văn vì sợ họ khiếp nhược. Nếu bảo với Bồ tát thì các Thanh văn nghe thấy
sẽ cho rằng nhất thừa này chẳng phải phần mình, tâm sinh khiếp nhược, chẳng thể
tiến tu. Nay bảo Thanh văn, để họ trừ bỏ ý đó : “Đấy là phần của các ngươi, hãy
trừ bỏ tâm khiếp nhược”.
4/ Để cho những
người khác suy ngẫm cho tốt, để khiến cho các vị Thanh văn khác suy ngẫm cho
tốt. Nghĩ rằng “Xá Lợi Phất kia đã được Phật bảo cho. Ta là người cùng bọn ông
ấy, chắc cũng được bảo”, rồi sinh ra tin tưởng ngưỡng mộ sâu sắc, khởi tâm tu
tập.
5/ Để cho các
Thanh văn chẳng khởi tâm, cho rằng những việc phải làm đã làm xong. Xưa kia các
Thanh văn cho rằng họ chứng được Diệt đế, về quả đã mãn, đã chứng trọn vẹn, những
gì cần làm đã làm xong. Nay tán thán pháp diệu mầu, bảo họ là chẳng biết,
khiến họ bỏ cái tâm tiểu thừa.
Bồ tát đối với năm
sự nói trên hoàn toàn chẳng tương ứng, nên tuy lợi căn mà Phật chẳng trực tiếp
dạy họ, chỉ gián tiếp dạy họ, như vậy cũng chẳng sai, vì dạy cho người trong ba
thừa hễ ai có điều nghi hối thì khiến họ đều đoạn trừ, vì trực tiếp dạy hạng
Bất định tính thì cũng là dạy luôn cho cả các hạng khác.
Pháp g được tán thán đại để
gồm 2 loại :
- Một là Trí tuệ.
- Hai là Trí tuệ
môn.
Cho nên luận nói
rằng có hai thứ thậm thâm (rất sâu) :
1) Chứng thậm thâm
(chứng rất sâu) chỉ trí tuệ.
2) A Hàm thậm thâm
(A hàm rất sâu) chỉ trí tuệ môn.
Trí tuệ môn tức là
Giáo năng thuyên.
Trí tuệ thậm thâm
(trí tuệ rất sâu) là Lý sở thuyên.
Tiếng Phạm : A Cấp
Ma, ở phương đây gọi là Giáo. Hoặc dịch là Truyền, vì là chư Phật thượng cổ
truyền tới ngày nay. Nghĩa thậm thâm này chung cho cả Giáo và Lý.
Song chính ra Lý
mới được gọi là thậm thâm. Môn thâm thì chỉ gọi là khó thấy, khó giác ngộ v.v…
Sự chẳng biết của nhị thừa cũng chung cho cả hai thứ này. Ngoài ra phân biệt thuộc
về hai pháp Lý, Giáo. Ý của luận là như vậy.
Luận nói rằng :
Trí tuệ là Nhất thiết chủng, Nhất thiết trí trí nghĩa. Trí của người Nhất thiết
trí gọi là Nhất thiết trí trí.
Thể nghiệm thông
suốt tính tướng thì gọi là Nhất thiết chủng. Đó tức là Phật quả vị Niết bàn Bồ
đề. Hoặc Nhất thiết trí có nghĩa là Vô phân biệt trí. Lặp lại chữ Trí đó là Hậu
đắc trí. Nghĩa đây là cảnh, tức là cảnh của Nhất thiết trí trí, nên gọi là Nhất
thiết trí trí nghĩa. Cảnh đó là gì ? Đó là chỉ Nhất thiết chủng.
Nhất thiết chủng có
nghĩa là tất cả dù là Không
hay là Hữu, là hữu
vi hay vô vi, là hữu lậu hay vô lậu, là Giáo hay Lý đều gọi là Nhất thiết
chủng. Chủng có nghĩa là chủng loại. Pháp thể chủng loại rất nhiều, chẳng phải chỉ
có một loại. Thu nhiếp hết thảy thì gọi là Nhất thiết chủng, có nghĩa là Nhất
thiết chủng này là cảnh của Nhất thiết trí trí. Thế thì Nhất thiết chủng cảnh này
gọi là Trí tuệ Sở thuyên.
Nay g căn cứ vào lý mà xét
đến cùng, thì Trí tuệ có 5 thứ thu nhiếp hết thảy các pháp mới gọi là Nhất
thiết chủng :
1. Trí tuệ tính :
chỉ chân như, nên đoạn dưới của kinh nói rằng : “Chỉ có Phật mới rốt ráo hết
thực tướng các pháp”. Luận tự giải thích rằng : Như Lai tạng tính là thể, bao
gồm mọi pháp, tác thành cho người. Sự tác thành cho người tức là trí tuệ. Nên
dẫn ở dưới ra làm chứng.
2. Trí tuệ tướng :
tức hai trí Vô lậu năng quán, chính thể Hậu đắc, là thể. Kinh nói rằng :
“Phương tiện tri kiến đều đã đầy đủ, suy nghĩ hết mức, cùng nhau ước đoán mà
chẳng thể lường được Phật trí v.v…”. Đó chính là nói về điều này.
3. Trí tuệ bạn
(bạn của trí tuệ) : đó là trần sa vạn đức, công đức hữu vi. Kinh nói rằng :
“Như Lai tri kiến rộng lớn sâu xa, vô lượng, vô ngại lực, vô sở úy đều đầy đủ
v.v…”. Đó chính là nói về điều này.
4. Trí tuệ nhân
(nhân của trí tuệ) : đó là chỉ Giáo năng thuyên cùng vạn hạnh. Chính là thứ mà
kinh nói rằng : “Trí tuệ môn ấy khó lý giải, khó ngộ nhập”.
Luận rằng : A hàm
thậm thâm. Thêm nữa luận còn dẫn kinh nói : “Như Lai có thể thuyết minh mọi
pháp, mọi loại ngôn từ”. Lại nói : tu hành hết vô lượng đạo pháp của chư Phật.
5. Trí tuệ cảnh
(cảnh của trí tuệ) : chỉ mọi cảnh của Không hoặc Hữu, hữu vi hay vô vi, tục đế
hay chân đế. Kinh nói : “Tướng như vậy, tính như vậy v.v…”. Đó chính là
nói về thứ này.
Nay Trí tuệ môn
tức là phương tiện, vì Giáo năng thuyên sâu, nên Lý sở thuyên sâu. Ngay bốn tuệ
khác, nghĩa tuy có thể như thế, nhưng y vào các Giáo, trong năm thứ thậm thâm,
phần nhiều chỉ lấy tuệ tính chân như làm thể, nhờ A hàm thậm thâm tức ba giáo
xưa kia mà Chứng thậm thâm tức là nhất thừa thể; Vô thượng thậm thâm tức là đại
Bồ đề.
Cho nên trong Kinh
Thắng Man nói : “Thể của nhất thừa chỉ là chân như ”. Đó tức là Bảo sở trong
phẩm Hóa Thành. Nay trong kinh này y vào Thực thắng tuệ, chỉ lấy trí tính trí tướng
làm thể.
Bồ đề, Bồ đề đoạn
đều gọi là Bồ đề; Trí và Trí xứ đều gọi Bát nhã, vì thu nhiếp hết thảy, vì nhà
lửa xe trâu tức là Trí tướng, vì xe trâu ý nói chỗ làm (sở tác) tuy khác nhau,
nhưng chỗ được cho (sở dự) là một.
Bảo sở : sẵn có từ
lâu đời, vì đó tức là trí tính, vì chúng cùng nhiếp thủ, vì Thị Ngộ tri kiến
tức là hai thứ. Do hai thứ này có, nên ba thứ khác tự thành.
Dưới nói : “một
đại sự nhân duyên”, tức là chỉ có hai thứ đó, dù là Nhân hay Quả. Có
nghĩa là trí tuệ này là chân lý nhất thừa, Trí tuệ môn ấy là quyền giáo tam thừa.
Nêu chung hai loại thực và quyền, về Lý và Giáo hai thứ có sự phân biệt, muốn
khiến nhị thừa bỏ quyền lấy thực, tu hành cái Nhân để chứng cái Quả. Vậy nên
Kinh Thắng Man do đó mới nói rằng : “bọn nhị thừa v.v… bốn trí cứu cánh, chứng
được Niết bàn”. Đó là Phật phương tiện, vì muốn khiến bỏ hai quyền thừa mà lấy
một thực thừa.
Chứng a thậm thâm.
Luận nêu hai nghĩa
: một là Thể diệu, hai là Nan liễu (khó hiểu) :
- Thể diệu : Luận
giải thích rằng : Chứng thậm thâm có năm loại.
- Nan liễu : Luận
rằng : Thậm thâm hơn nữa, vì đó là thứ mà hết thảy Thanh văn, Bích chi Phật đều
chẳng thể biết.
Năm t thứ thậm thâm đó xưa
nay chỉ y vào chân như mà giải :
1) Nghĩa thâm, đó
là nghĩa sai biệt.
2) Thể thâm, đó là
thể tự tính.
3) Nội chứng thâm,
vì chính trí nội chứng, các trí khác chẳng chứng đắc.
4) Y chỉ thâm, vì
pháp giới pháp tính là gốc của chư Phật.
5) Vô thượng thâm,
vì thể tối thắng, chỉ đại Bồ đề tức là quả Vô thượng Chính đẳng Chính giác
chứng được.
Nếu t kiêm cả Quán chiếu Trí
tính Trí tướng nữa, thì gọi gộp là Ngũ chứng thậm thâm :
1/. Nghĩa thậm
thâm : là tác dụng (công năng) rất sâu như bản thân nó của Chính trí như.
2/. Thể thậm thâm
: chỉ chân như, vì đó là bản tính của pháp.
3/. Nội chứng thậm
thâm : nêu rõ thêm về Chính trí. Vì như như sâu xa bên trong, bởi vậy gọi là
Thâm (sâu).
4/. Y chỉ thâm :
nêu rõ thêm về chân như. Vì là gốc của mọi đức, bởi vậy gọi là Thâm.
5/. Vô thượng thâm
: chỉ đại Bồ đề. Đại Bồ đề là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề mà Như Lai chứng
được.
Kim Cương Bát Nhã
luận của ngài Vô Trước nói rằng : Vô thượng Bồ đề là Lý của pháp thân. Tam miệu
Tam Bồ đề là Trí của báo thân. Cho nên đó tức là thuyết minh chung cho cả hai
loại này.
Thể hơn hết thảy,
bởi vậy gọi là Thâm. Đó là bản ý. Nếu giải thích theo nghĩa chung thì hoặc tùy
theo sở ứng, sở thuyên, bốn tuệ đều có bốn thâm : Nghĩa, Thể, Chứng, Y; Hoặc
bốn pháp : Trí tuệ tướng, Trí tuệ tính, Trí tuệ bạn, Trí tuệ cảnh, theo như thứ
tự lần lượt phối với bốn loại thậm thâm đầu. Chỉ có Vô thượng thâm là tại đại
Bồ đề, vì là chủ của mọi đức. Thêm nữa, vì chẳng phải là Dụ, Sở dụ, Tư nghị, Sở
tư nghị, nêu gọi là Thậm thâm (ý nói : chẳng thể thí dụ, chẳng thể nghĩ bàn).
Trên đây giải
thích nghĩa của Thâm, mới chỉ nói về Trí tuệ, chứ chẳng phải nói chung cho cả
Tuệ môn.
Nếu căn cứ vào
luận giải của kinh thì Tuệ môn cũng có năm. Luận gọi tổng hợp các câu (tổng cú)
là A hàm thâm, nên đó tức là năm thứ khó hiểu rõ ở văn kế dưới đây :
Vô lượng :
có nghĩa là Trí tính, Trí tướng, Trí bạn, Trí cảnh. Theo như thứ tự, về Thể thì
khắp, về Dụng thì rộng, về Đức thì đủ, về Pháp thì phổ biến rộng, vô hạn ä như
hư không, số đức vô cùng, cuối ắt vô tận, nên gọi là Vô lượng.
Song nay chỉ nói
Trí tính, Trí tướng, hai loại trí tuệ đó gọi là Vô lượng, vì Thể, Đức,
Dụng đều là vô hạn, vô cùng tận.
Trí a tuệ môn thậm thâm.
Cũng có hai
nghĩa : một là Thể diệu, hai là Nan liễu.
- Thể diệu, thì
luận dẫn kinh nói rằng : Trí tuệ môn đó nan kiến, nan giác, nan tri, nan giải,
nan nhập (khó nhìn thấy, khó cảm thấy, khó biết, khó hiểu, khó ngộ nhập). Có đủ
năm thứ khó đó.
- Nan liễu (khó
hiểu rõ), vì hạng nhị thừa chẳng biết khó ngộ bởi vì 5 lý do :
a) Do Trí nghĩa
thâm, nên môn đó nan kiến.
b) Do Trí thể
thâm, nên môn đó nan giác.
c) Do Trí nội
chứng thâm, nên môn đó nan tri.
d) Do Trí y chỉ
thâm, nên môn đó nan giải.
e) Do Trí vô
thượng thâm, nên môn đó nan nhập.
Đó là đem năm thứ
khó về Giáo mà lần lượt phối hợp với năm loại thậm thâm của Trí tuệ.
Thêm nữa, Trí có
hai :
1. Phàm trí.
2. Thánh trí.
Phàm trí có hai :
1. Hiện trí.
2. Tỉ trí.
Phàm Hiện trí
chẳng biết thì gọi là Nan kiến (khó thấy). Tỷ trí chẳng biết thì gọi là Nan
giác.
Thánh trí có hai :
1. Hữu lậu.
2. Vô lậu.
Hữu lậu thế tục
trí chẳng liễu ngộ được thì gọi là Nan tri (khó biết).
Vô lậu trí có hai
thứ :
1. Căn bản
trí.
2. Hậu đắc trí.
Vô lậu trí đầu
chẳng biết thì gọi là Nan giải (khó hiểu). Vô lậu trí sau chẳng biết thì
gọi là Nan nhập (khó ngộ nhập).
* Nhập : có nghĩa
là Chứng giải.
Nay trong kinh này
chỉ có hai Vô lậu trí chẳng biết, cho nên nói là nan giải nan nhập. Nêu chung
cả hai thứ Chứng Giáo đều nan liễu, nói : “Vì hết thảy Thanh văn Bích chi Phật
đều chẳng biết, chỉ có Phật mới biết được”.
Tại a sao tán thán 2 thứ Thậm
thâm ?
Sở dĩ ngày nay
Phật tán thán hai thứ thậm thâm, luận tự giải rằng : vì đó là để cho đại chúng
sinh tâm tôn trọng, rốt cuộc muốn nghe Như Lai thuyết pháp. Vì đó là cái cách
dắt dẫn dần dà cho phần ở dưới Phật sẽ nói rằng : “nhất thừa chân thực, pháp mà
Phật chứng đắc rất sâu, khó hiểu”.
Trước tiên tán
thán Trí thâm, là cốt để tỏ rõ cái cách dẫn dắt dần dà cho phần sau Phật tán
thán có những ngôn thuyết ý nghĩa khó biết, nhị thừa chỉ là quyền thừa.
Thứ đến, tán thán
Môn thâm làm cho đại chúng phát tâm muốn nghe pháp. Chẳng thế thì chỉ cần tán
thán Trí tuệ thậm thâm, bao gồm chung cả muôn đức để thành Phật.
*
-Kinh văn : “Sở dĩ
vì sao ?” tới “ý hướng khó hiểu”.
Tán rằng :
đây giải thích “A hàm thậm thâm” đã nêu ra ở trên. Trong này có hai phần
: đầu là hỏi, sau là đáp.
-HỎI : “Sở dĩ vì
sao ?” nghĩa là muốn hỏi rằng :
Ý $ đầu : pháp mà Phật
chứng đắc, được gọi là giải thoát, ba thừa cùng ngồi ở giường giải thoát, nhị
thừa cũng chứng đắc, ngôn giáo phương tiện họ cũng đã y theo mà tu học ; Cớ sao
nay lại nói hai loại này nhị thừa chẳng biết ?
Chẳng biết tức là
nghĩa của “Sở dĩ vì sao ?”.
Ý $ sau : thêm nữa, ý hỏi
này muốn nói : trí tuệ của Phật, nhị thừa chưa có được, nên có thể gọi là thậm
thâm. Còn trí tuệ môn, nhị thừa đã đắc, vì sao gọi là thậm thâm, vì sao nói là
nhị thừa chẳng biết ?
ĐÁP : Nếu căn cứ
vào ý hỏi đầu để giải thích “Sở dĩ vì sao ?” thì về giải thoát chứng được, ba
thừa tuy giống nhau, nhưng Bát nha,õ Pháp thân, Tướng, Tính, Trí tuệ là những thứ
mà nhị thừa chưa chứng được, chắc chắn là họ chẳng biết. Vả lại Trí tuệ môn họ
cũng chưa hiểu thấu. Từ đây trở xuống chỉ giải thích tám loại rất sâu của A hàm,
muốn nêu bật cái ý: “nhị thừa ngay đến sự thậm thâm của Giáo họ còn chẳng thể
biết, huống nữa là trí tuệ Phật”.
- Nếu căn cứ vào ý
hỏi sau để giải thích “Sở dĩ vì sao ?”, thì câu hỏi vì sao Giáo môn thâm trước
kia, nay sẽ giải đáp đầy đủ. Cho nên từ đây trở xuống chỉ giải đáp rõ ràng về
Giáo thâm. Luận giải thích kinh có tám câu. Nay văn ở đây chỉ có sáu câu. Cứ
theo như luận thì phải nói rằng : “Phật đã từng thân cận trăm ngàn vạn ức vô số
chư Phật, tu hành hết vô lượng đạo pháp của chư Phật, dũng mãnh tinh tiến, danh
tiếng vang khắp, thành tựu được pháp thậm thâm vị tằng hữu (rất sâu chưa từng
có), pháp khó hiểu Như Lai biết được, những điều ngài tùy nghi mà nói ra, ý thú
khó hiểu, đó là những điều mà hết thảy Thanh văn Bích chi Phật đều chẳng
thể biết được”.
Thêm vào trong
kinh hiện nay câu thứ sáu “Pháp
khó hiểu, Như Lai
biết được” và thêm câu thứ tám “hết thảy Thanh văn Bích Chi Phật đều chẳng thể
biết được”, cho nên thành ra tám Thâm :
•Câu thứ nhất “Phật đã từng thân cận trăm ngàn vạn ức vô số chư Phật”, đó là Thụ trì đọc tụng
thậm thâm. Vì đây nêu bật việc Thế tôn trải ba đại kiếp cúng dàng 26 hằng hà sa
Phật, thụ trì đọc tụng pháp môn này ở nơi chư Phật đó, bởi vậy rất sâu, chẳng
phải như pháp môn của nhị thừa kia mới lướt qua đã có thể hiểu ngay được, cho
nên gọi là Thậm thâm.
•Câu thứ hai “Tu hành hết vô lượng đạo pháp của chư Phật”, đó là Tu hành thậm thâm. Vì
Trí Phúc nhị lợi đạo hạnh của chư Phật đều tu hết, chẳng phải như nhị thừa mới
tu sơ qua về nhân, cho nên gọi là Thậm thâm. Trong đó thảy đều biết một cách
đúng đắn.
•Câu thứ ba “Dũng mãnh tinh tiến”, đó là Quả hành thậm thâm. Quả có nghĩa là quả quyết.
Tinh thuần dũng hãn, chịu nổi mệt mỏi, làm gì đều thành, đó gọi là quả quyết. Hoặc
do tinh tiến, làm gì cũng khéo thành, nay được thắng quả gọi là Quả thậm thâm.
Vì Phật lúc còn Bồ tát tu nhân, đã vì một câu mà nhảy vào lửa, vì nửa bài kệ mà
liều xả thân, sáu năm khổ hạnh, bảy ngày kiễng chân chứ chẳng phải là chẳng
chuyên tinh, cần lao mà chứng được.
•Câu thứ tư “Danh
tiếng vang khắp”, đó là Tăng trưởng công đức tâm thậm thâm. Do danh vang dội,
phàm thánh đều biết, càng giúp động viên bản thân thêm siêng tu đoạn, cái công đức
tâm của bản thân càng tăng trưởng thêm gấp bội. Hoặc danh vang dội, người khác
nghe thấy nên đều tăng trưởng cái công đức tâm, hết thảy đều nghe tiếng đều
biết tiếng nên thành Thậm thâm.
•Câu thứ năm
“Thành tựu pháp thậm thâm vị tằng hữu”, đó là Khoái diệu sự tâm thậm thâm. Do
pháp thành tựu được là vị tằng hữu khoái diệu thắng sự (sự tốt đẹp khoái diệu
chưa từng có), nên cái tâm năng thành cũng là khoái diệu. Dùng khoái diệu tâm
mà thuyết, nên Giáo khó biết.
•Câu thứ sáu “Pháp
khó hiểu, Như Lai cũng biết được”, đó là Vô thượng thậm thâm. Do pháp cực kỳ
khó hiểu, Như Lai cũng biết được, nên pháp môn đó thành vô thượng, hoặc
pháp thể nan giải tức là vô thượng, chỉ có Phật mới biết, nên gọi là Thậm thâm.
•Câu thứ bảy
“Những điều mà Phật tùy nghi nói ra, ý thú khó hiểu”, đó là Nhập thậm thâm.
Nhập thậm thâm có nghĩa là ý của danh tự chương cú khó thể nắm được. Vì Phật tự
trụ trì nhập giải ý đó, khác với ngoại đạo tự mình chẳng hiểu được thì làm sao
mà khiến kẻ khác hiểu, cho nên nói rằng pháp nhân duyên cực Thậm thâm.
Nhập có hai nghĩa
:
- Một là vì khó
nhập giải, chỉ riêng Phật tự giải.
- Hai là vì điều
Phật tùy nghi nói ra khiến người khác nhập pháp, ý thú khó giải , gọi là thậm
thâm.
•Câu thứ tám “Điều
mà hết thảy Thanh văn Bích chi Phật chẳng thể biết được”, đó là Bất cộng Thanh
văn Bích chi Phật sở tác trụ trì thậm thâm. Chẳng giống với sở tác của nhị
thừa. Ngoài lợi sở tác, trong lợi trụ trì, nên thành Thậm thâm.
Trên đây tóm lại
thì do gần chư Phật, thụ trì, đọc tụng, tu hành, quả quyết, tăng trưởng công
đức tâm, chứng khoái diệu sự, thành vô thượng pháp, nên những điều mà Phật tùy
nghi thuyết khó thể hiểu được, nhị thừa chẳng hiểu thấu Trí tuệ môn đó, gọi là
Thậm thâm vì khó liễu giải, ngộ nhập. Huống hồ là trí tuệ của Phật há chẳng
phải là Thậm thâm sao !
*
-Kinh văn : “Xá
Lợi Phất” tới “nhiều loại thí dụ”.
Tán rằng :
trên tán thán pháp sở chứng sở thuyết thắng diệu, dưới tán thán Như Lai là Pháp
sư năng chứng năng thuyết thắng diệu.
Theo luận giải
thích kinh thì đây phải nói là : “Vì sao vậy ? Xá Lợi Phất ! Vì chư Phật Như
Lai tự tại thuyết nhân thành tựu. Này Xá Lợi Phất ! Như Lai thành tựu nhiều
loại phương tiện, nhiều loại tri kiến, nhiều loại niệm quán, nhiều loại ngôn từ
”. Phần trên ở đây là phần tổng quát, phần dưới giải thích những lời ở phần
trên.
“Này Xá Lợi
Phất ! Ta từ khi thành Phật tới nay đã ở khắp nơi diễn rộng ngôn giáo, đã dùng
vô số phương tiện dẫn đạo chúng sinh khiến họ lìa các thứ chấp trước v.v…” Xoay
vần ý lời, do bản thân Như Lai đối với Lý sở chứng thành tựu tự tại thuyết nhân
viên mãn, bởi vậy nay ngài nói về Trí tuệ và Trí tuệ môn mà ngài đã chứng được,
cả hai thứ đó đều rất sâu.
Những gì được gọi
là Thuyết nhân thành tựu ? Đó là nhiều loại phương tiện, nhiều loại tri kiến,
nhiều loại niệm quán, nhiều loại ngôn từ. Ba loại đầu trong này gộp lại gọi là
nhân duyên. Nhân duyên tức là đạo lý vậy. Ngôn từ gọi là thí dụ, vì ngôn từ
phần nhiều để nói các thí dụ.
Theo luận giải
thích kinh, thì từ “thí dụ” trở lên gọi là Tổng cú, từ “diễn rộng”
trở xuống gọi là Biệt cú, xoay vần giải thích. Luận có ba điều giải thích :
1) Luận tự giải
thích riêng bốn câu đầu.
2) Luận đem các
câu trong kinh hai phen ghép với bốn câu đó.
3) Trong hai phen
thì một chỗ thuyết minh về ba nghĩa đầu, một chỗ thuyết minh về nghĩa thứ
tư.
Phen đầu giải
thích riêng rằng : vì Như Lai thành tựu bốn loại công đức, nên có khả năng hóa
độ chúng sinh :
1/ Vãng thành tựu.
Chỉ việc Phật dùng nhiều loại phương tiện từ cõi trời Đâu Suất lui xuống thế
gian cho tới thị hiện nhập Niết bàn, đã đến được mười phương gây nền giáo hóa
khó thể nghĩ bàn : Tám tướng thành đạo, Lợi ích chúng sinh, Quyền xảo trí dụng,
nên gọi là Phương tiện.
Về Tám tướng thì
Kinh Đại Bát Nhã quyển 568 nói rằng :
1- Từ cõi
trời Đâu Suất lặn đi rồi liền nhập
thai tướng.
2- Anh nhi
(trẻ sơ sinh).
3- Đồng tử
(trẻ con).
4- Khổ hạnh.
5- Thành đạo.
6- Hàng ma.
7- Chuyển
pháp luân.
8- Nhập Bát
Niết bàn.
Vì cớ gì mà thị
hiện tám tướng ? Kinh đó nói rằng : “Bấy giờ Tối Thắng thiên vương lại bạch
Phật rằng : cớ sao Bồ tát tu hành Bát nhã thậm thâm mà lại thị hiện các tướng để
độ cho hữu tình ? Phật bảo Tối Thắng rằng : tướng của Bát nhã thậm thâm chẳng
thể chứng được, các tướng của Bồ tát cũng chẳng thể chứng được. Song nhờ uy lực
phương tiện thiện xảo mà vì loài hữu tình thị hiện nhiều loại hóa tướng từ Nhập
thai cho tới Niết bàn. Chư thiên chấp Thường, cho rằng không đọa lạc. Vậy nên
Bồ tát để phá chấp đó đã thị hiện Nhập thai, nhân đấy mà khiến cho chư thiên đó
khởi niệm Vô thường. Bậc tối thắng trong thế gian đối với Dục chẳng nhiễm, mà
còn có lúc đoạ lạc, huống hồ thiên chúng khác mà được Thường ư ?
Cho nên chớ có
phóng dật, càng phải siêng tinh tiến, luôn nhớ tới việc tu đạo. Như thấy mặt
trời còn có lúc lặn thì biết rằng lửa đom đóm chẳng được trụ lâu. Lại có chư thiên
phóng dật ham vui, chẳng tu chính pháp, mặc tình chơi giởn, dẫu với Bồ tát cùng
ở Thiên cung, nhưng chẳng đến lễ bái, chẳng học hỏi pháp, ai nấy nghĩ rằng :
sáng nay vui vậy, ngày mai tới chỗ Bồ tát sẽ thụ pháp bảo. Cùng bảo nhau rằng :
Ta với Bồ tát thường xuyên cùng ở đâyï, tu hành nào có muộn gì ! ” Vậy nên Bồ
tát như cứu lửa cháy đầu, phá thói phóng dật, thị hiện đọa lạc.
Thị hiện như vậy
có hai nhân duyên :
a) Để khiến chư
thiên lìa thói phóng dật.
b) Để khiến hữu
tình đều được nhìn thấy.
Cho đến tướng thứ
tám : “Lại có các trời, người thích nghe nói về viên tịch, Bồ tát bèn vì họ mà
thị hiện Niết bàn”. Nhiếp Đại Thừa luận trong quyển thứ 9 có chỗ hơi khác.
Trong Kinh Hoa Nghiêm thị hiện 10 tướng, đều rộng như luận đó.
2/ Giáo hóa thành
tựu, chỉ nhiều loại tri kiến, thị hiện các nhân Nhiễm Tịnh. Do có đủ tri kiến
nên ở ngay nơi hóa thân có thể thị hiện Tập có mọi Nhiễm nhân có thể chuốc khổ;
Đạo có mọi Tịnh nhân có thể chứng Diệt. Hoặc thị hiện quy luật của các pháp
Nhiễm Tịnh. Nhân, có nghĩa là nguyên nhân, là quy luật. Trước thị hiện thân phù
hợp, thân thị hiện quy luật nhiễm tịnh của các pháp. Trong luận giải thích
thành tựu này có sự khác biệt với thành tựu thứ tư. Thành tựu này y vào Chứng
pháp. Còn thành tựu kia y vào Thuyết pháp.
3/ Công đức tất
cánh thành tựu, chỉ nhiều loại quán niệm. Vì thuyết pháp kia, thuyết nhân duyên
thành tựu, tương ứng như pháp. Câu này ý nói : vì thuyết nhiều loại pháp quán niệm
v.v… các pháp quán niệm đó Phật đều thành tựu. Như pháp sở thuyết nhân duyên
trước sau đều tương ứng. Nói tương ứng có nghĩa là khế hội với chứng nghĩa.
4/ Thuyết thành
tựu, chỉ nhiều loại ngôn từ. Dùng bốn vô ngại : Y vào những gì ? Những danh tự
chương cú nào ? Tùy thuận những gì ? Những chúng sinh nào có thể lĩnh thụ để mà
thuyết cho ?
“Y vào những gì?”
: có nghĩa là những nghĩa gì ? Đó tức là Nghĩa vô ngại giải.
“Những danh tự
chương cú nào” : có nghĩa là danh tự chương cú thuộc loại nào ? Đó tức là Pháp
vô ngại giải.
“Tùy thuận những
gì” : có nghĩa là tùy thuận ngôn ngữ âm thanh của chúng sinh ở những phương nào
để mà thuyết cho họ . Đây là Từ vô ngại giải.
“Những chúng sinh
nào có thể lĩnh thụ để mà thuyết cho họ” : có nghĩa là căn khí của những chúng
sinh nào có thể lĩnh thụ, Phật bèn thuyết cho. Đây là Biện tài vô ngại giải.
Trong bốn thứ
thành tựu này thì :
+ Loại thứ nhất
Năng khởi hóa thân, tám tướng thành đạo.
+ Loại thứ hai
Năng thị hiện quy luật nhiễm, tịnh của các pháp.
+ Loại thứ ba Như
pháp sở thuyết đều được rốt ráo.
+ Loại thứ tư đủ
bốn Vô ngại.
Do Phật Pháp sư đủ
bốn loại thuyết nhân thành tựu này mà thành thắng diệu, nên pháp mà ngài thuyết
cũng là thắng diệu. Luận giải bốn câu rồi, lại giải thích thêm về sự khác biệt
giữa câu thứ 2 và câu thứ 4 và nói : Giáo hóa thành tựu y vào Chứng pháp.
Thuyết thành tựu y vào Thuyết pháp.
- Y vào quy luật
nhiễm tịnh của pháp Khổ Tập Diệt Đạo mà tự mình chứng được, lần lượt thuyết cho
người khác thì gọi là Giáo hóa thành tựu, đó là câu thứ hai.
- Y vào thuyết
pháp, thuyết Nghĩa Pháp Từ Biện mà lần lượt thuyết cho người khác thì gọi là
Thuyết thành tựu, đó là câu thứ tư. Vì đều không loạn.
Hoặc bốn loại trên
được phân chia như sau :
Câu thứ nhất là
Hóa thân đức.
Câu thứ hai là Báo
thân đức.
Câu thứ ba là Pháp
thân đức.
Câu thứ tư là Tứ
biện cụ túc.
Do ba thân Tứ biện
cụ túc này, nên có thể khởi thuyết. Ba thân có đủ, nên Trí tuệ thậm thâm. Bốn
biện có đủ, nên Tuệ môn thậm thâm. Cho nên nhân duyên đó tức là ba loại :
Phương tiện, Tri kiến, Quán niệm đã nói ở trên. Thí dụ, tức là nhiều loại ngôn
từ.
*
-Kinh văn : “Diễn
rộng ngôn giáo” tới “khiến lìa tâm chấp trước”.
Tán rằng :
trên theo lời văn của luận một phen phân biệt giải thích bốn câu tổng quát
xong, luận lại đem các câu trong kinh ở dưới đây để phối với bốn câu này trong
phen thứ hai :
a) Đây tức là câu
thứ nhất : “Nhiều loại phương tiện”.
b) “Sở dĩ như vậy
là vì sao ? Như Lai phương tiện, tri kiến Ba la mật đều đã đầy đủ” . Đó là câu
thứ hai : “Nhiều loại tri kiến”.
c) “Này Xá Lợi
Phất ! Như Lai tri kiến” tới “Giải thoát tam muội”. Đó là câu thứ ba : “Nhiều
loại quán niệm”.
d) “Thâm nhập vô
tế ” cho đến “Bản mạt cứu cánh v.v…”. Đó là câu thứ tư : “Nhiều loại ngôn từ ”.
Luận tuy lấy kinh
văn ở dưới phối với bốn câu tổng quát ở trên, song đầu tiên hai phen giải thích
ba câu trên xong, lại hai phen giải thích một câu sau. Luận đó văn dài, mới xem
khó hiểu. Nên đọc theo đây.
Trong này phen đầu
giải thích rằng : “Lại có nghĩa nhiều loại phương tiện”, có nghĩa là thị hiện
đủ thứ sai trái của tà pháp ngoại đạo, đủ thứ công đức của chính pháp chư Phật.
Như kinh nói : “Này Xá Lợi Phất ! Ta từ khi thành Phật tới nay đã diễn rộng
ngôn giáo, dùng vô số phương tiện để dẫn đạo chúng sinh ở các nơi đến khiến họ được
giải thoát”. Văn tuy hơi khác, nhưng đại ý cũng giống nhau.
Giải thích vô số
phương tiện, lại có bốn phen :
a) Phương tiện tức
là phương tiện để khiến chúng sinh nhập các thiện pháp.
b) Để đoạn các
nghi.
c) Để khiến nhập
Tăng thượng Thắng trí.
d) Để y vào bốn
Nhiếp pháp mà nhiếp thủ chúng sinh khiến họ được giải thoát.
Nhiều loại phương
tiện ở đây phân làm sáu điều giải thích này :
1) Tránh tà. 2) Nhập chính.
3) Tiến thiện. 4) Phá ác.
5) Tự nhập thắng
trí.
6) Khiến cho người
khác được giải thoát.
Cứ theo thứ tự mà
ghép vào, dùng phương tiện này mà dẫn dắt thu nhiếp hết thảy chúng sinh
khiến
họ lìa bỏ các
Trước. Trước là gốc của Chấp, vì là gốc rễ của Ái nhiễm sinh tử.
Luận rằng : các
trước có nghĩa là chốn chốn đều trước (vướng mắc), hoặc trước giới, trước địa,
trước phận, trước thừa.
+ Trước giới : có
nghĩa là chấp trước tam giới.
+ Trước địa : tức
là chấp trước Giới thủ, tam muội Sơ thiền định địa, cho đến Phi tưởng phi phi
tưởng, Diệt tận định địa, tức là coi chín định theo thứ tự là Địa. Giới thủ,
Kiến thủ, Chấp tam muội, đó nên gọi là Trược địa.
+ Trước phận : có
nghĩa là chấp trước phận tại gia, coi đó là đồng loại mà làm mọi loại nghiệp tà
kiến v.v… ; chấp trước phận xuất gia danh tiếng lợi dưỡng, hay khởi đủ mọi loại
giác sát phiền não v.v…
+ Trước thừa : có
nghĩa là nếu chấp trước Thanh văn thừa thì thích trì giới tiểu thừa, cầu bốn
quả v.v… . Chấp trước đại thừa có nghĩa là chấp trước lợi dưỡng, cúng dàng,
cung kính v.v… , do chấp trước vào quán phân biệt mọi loại pháp tướng cho đến
phân biệt Phật địa.
*
-Kinh văn : “Sở dĩ
như vậy là vì sao ?” tới “đều đã đầy đủ” .
Tán rằng :
đây là câu thứ hai. Phen đầu luận giải thích rằng : “Lại nữa nhiều loại tri
kiến” có nghĩa là vì tự thân thành tựu cảnh giới bất khả tư nghì, dạy cho Thanh
văn Bồ tát. Như kinh nói rằng : “Này Xá Lợi Phất ! Như Lai tri kiến, phương
tiện tới bờ bên kia”. Đến bờ bên kia có nghĩa là hơn hết thảy các Bồ tát khác.
Văn tuy hơi khác,
mà nghĩa không khác. Tri kiến là thể của hai trí Chân và Tục. Căn bản trí gọi
là Tri. Hậu đắc trí gọi là Kiến. Phương tiện nghĩa là trí này diệu dụng phương tiện
thiện xảo. Do tự thành tựu cảnh giới Bất khả tư nghì nên có đủ Tri kiến, dạy
cho Thanh văn v.v… đó gọi là phương tiện.
“Ba la mật” : có
nghĩa là tới bờ bên kia, nói rõ Phật thành tựu thể của hai thắng trí, nên có
thể thành tựu được cảnh giới bất khả tư nghì, đã tới bờ bên kia rồi thì hơn hết
thảy. Do có đầy đủ phương tiện, diệu dụng của hai trí, còn có thể khiến cho
người khác tới được bờ bên kia nên có thể dùng tri kiến cảnh giới bất khả tư nghị
này mà còn dạy cho Thanh văn Bồ tát.
*
-Kinh văn : “Xá
Lợi Phất” tới “giải thoát tam muội”.
Tán rằng :
đây là câu thứ ba. Luận phen đầu giải rằng : “Lại còn nhiều loại quán niệm”.
Như kinh nói : “Này Xá Lợi Phất ! Như Lai tri kiến rộng lớn sâu xa không chướng
không ngại, Lực, Vô sở úy, Bất cộng pháp, Căn lực, Bồ đề phần, Thiền định, Giải
thoát, Tam muội, Tam ma bạt đề đều đã đầy đủ”.
Văn ý về đại thể
thì giống nhau, song ít nhiều có chỗ khác biệt. Nay nói Tri kiến rộng có nghĩa
là vô biên, lớn có nghĩa là vô thượng, sâu có nghĩa là khôn lường, xa có nghĩa thời
gian dài vô cùng trong vị lai.
Trên đây chính là
Tổng cú (câu tổng quát) về các đức. Hai trí là Tính, nên gọi là Tri kiến. Hơn
nữa các đức này cũng là những thứ được quyến thuộc của hai trí nhiếp thu, nên
gọi là Tri kiến.
Từ “Vô lượng” trở
xuống là Biệt cú (câu riêng biệt) về các đức. Theo văn kinh này thì :
- Vô lượng : đây
là Bốn vô lượng. Cứ theo luận giải kinh, thì là Vô chướng.
- Vô ngại : chỉ
bốn Vô ngại giải.
- Lực : chỉ Thập
lực.
- Vô sở úy : chỉ
bốn Vô sở úy.
+ Bất cộng pháp :
luận giải thích Bất cộng pháp trong kinh là 18 bất cộng pháp.
+ Căn : chỉ ngũ
căn.
+ Lực : chỉ ngũ
lực.
+ Bồ đề phần : chỉ
37 Bồ đề phần.
Bốn loại trên đây,
kinh vốn không có.
- Thiền : chỉ bốn
tĩnh lự ở Sắc giới.
- Định : chỉ bốn
Vô sắc định.
- Giải thoát : chỉ
tám Giải thoát.
- Tam muội : chỉ
tam muội.
+ Tam Ma Bạt Đề :
chỉ chín Đẳng chí. Một loại này trong kinh cũng không có.
Luận giải trong
kinh có 13 môn. Nay trong kinh này gộp lại có tám môn công đức, gọi là Quán
niệm, thể của nó được giải thích là Tuệ ghi nhớ rõ, nên chẳng thể giải thích
rộng. Nghĩa môn đều nên phân biệt sơ qua.
1. Bốn vô
lượng.
Được phân biệt
bằng 5 môn : Liệt danh; Thích danh; Biện hành tướng; Xuất thể tính; Biện sai
biệt.
1.1- Liệt danh
(liệt kê tên gọi) : chỉ Từ vô lượng, Bi vô lượng, Hỉ vô lượng, Xả vô lượng.
1.2- Thích danh
(giải thích tên gọi) :
•1 - Vì duyên vào
Vô lượng cảnh, duyên vào hết thảy hữu tình mà khởi lên bốn thứ này.
•2 - Vì khởi Vô
lượng hành, hành giải cũng lại cực rộng lớn.
•3 - Vì cảm Vô
lượng quả, được phúc Đại Phạm thành Như Lai.
•4 - Nhiều thứ kèm
theo, nhiều sự giải thích.
1.3- Biện hành
tướng (phân biệt hành tướng) : pháp giới hữu tình tóm lại làm ba loại :
•1 - Loại không
khổ không sướng thì không điên đảo mà cho họ sướng, thế gọi là Từ. Không sân là
thể.
•2 - Loại có khổ
thì giúp diệt khổ, thế gọi là Bi. Chẳng hại là thể.
•3 - Loại có sướng
thì giúp họ vui mừng, đó gọi là Hỉ. Chẳng ghét thiện căn là thể.
Lại còn gây cho
loại không khổ không sướng tư tưởng lìa Si, gây cho loại có khổ tư tưởng lìa Sân;
gây cho loại có sướng tư tưởng lìa Tham, bình đẳng muốn khiến họ lìa các điều ác,
nên gọi là Xả. Khiến xả bỏ điều ác, cho nên khéo Xả là thể.
1.4- Xuất thể tính
(thể hiện tính chất của thể) thì bằng ba pháp : đó là Không sân, Chẳng hại và
Xả. Thể của chẳng ghét là không sân, vì không còn pháp nào khác.
1.5- Biện sai biệt
(phân tích sự khác biệt) thì ở đây mỗi thứ đều có ba :
•1 - Hữu tình
duyên, khởi hữu tình tưởng.
•2 - Pháp duyên,
chẳng thấy Hữu tình, chỉ khởi pháp tưởng.
•3 - Vô duyên, vì
đối với các pháp lại lìa tâm phân biệt mà khởi chân như tưởng, nên gọi là Vô
duyên. Hoặc pháp vô lượng duyên các giáo pháp.
Trong ba duyên
này, duyên đầu chung với ngoại đạo, duyên thứ hai chung với nhị thừa, duyên sau
chỉ có Bồ tát.
Ba loại Vô lượng
đầu là an lạc, một loại Vô lượng sau là lợi ích. Cảm quả có thể biết được.
Bốn loại Vô lượng
này có sự khác biệt với bốn loại Đại từ, Đại bi, Đại hỉ, Đại xả kia. Vì bốn
loại kia chỉ là Thực quán, chỉ có Phật mới khởi lên được và duyên vào Tam giới
sinh và không có Si kèm theo. Còn bốn loại này chung cho cả giả và thực, cả
phàm và thánh đều khởi được, duyên Giới bất định và chẳng phải là không có Si
kèm theo.
2. Bốn Vô ngại
giải.
Được phân biệt
bằng ba môn : Liệt danh, Biện tướng, Xuất thể :
2.1- Liệt Danh thì
có : một là Pháp vô ngại giải, hai là Nghĩa vô ngại giải, ba Từ vô ngại giải,
bốn là Biện tài vô ngại giải.
2.2- Biện tướng
(phân tích về tướng) thì : Pháp chỉ Văn giáo danh cú năng thuyên; Nghĩa chỉ Đế
lý chân tục sở thuyên; Từ chỉ âm thanh (tức ngôn ngữ) các phương; Biện tài chỉ bảy
loại biện tài. Duyên vào bốn trí này không có gì mắc mớ trở ngại thì gọi là Vô
ngại giải. Có nhiều sự sai biệt như Quyết Trạch Bồ Tát Địa luận và Thập Địa
luận đã nói.
2.3- Xuất thể (thể
hiện về thể) : bốn Vô ngại giải này lấy Vô lậu hậu đắc trí làm thể, vì chẳng
phải là chứng Chân. Nghĩa vô ngại giải cũng thông với Chánh trí. Trí này thì Sơ
địa được một phần, Cửu địa thì nhậm vận mà lìa chướng viên thành, Phật quả thì
đầy đủ.
3. Thập lực.
Đại khái được phân
biệt bằng 5 môn : Biện danh, Xuất thể, Hành tướng, Thứ đệ (thứ tự), Các môn.
3.1- Biện danh
(phân tích về danh) thì có hai : một là Liệt danh, hai là Thích danh.
+ Liệt danh (liệt
kê tên gọi) thì có :
1/ Xứ phi xứ trí
lực.
2/ Tự nghiệp trí
lực, Kinh Đại Bát Nhã quyển 53 gọi là Nghiệp dị thục trí lực.
3/ Tĩnh lự giải
thoát đẳng trì đẳng chí trí lực, còn Đại Bát Nhã thì gọi là Tĩnh lự giải thoát
đẳng trì đẳng chí tạp nhiễm thanh tịnh trí lực.
4/ Căn thắng liệt
trí lực.
5/ Chủng chủng
thắng giải trí lực.
6/ Chủng chủng
giới trí lực.
7/ Biến thú hành
trí lực, Đại Bát Nhã gọi là Biến hành trí lực.
8/ Túc trụ tùy
niệm trí lực.
9/ Sinh tử trí
lực.
9/ Lậu tận trí
lực.
+ Thích danh (giải
thích tên gọi) thì đầu tiên là gọiø chung, sau đó là gọi riêng.
- Giải thích chung
:
Lực : có nghĩa là
có khả năng diệt trừ oán địch, có nghĩa là chẳng thể khuất phục. Du Già Bồ tát
Địa quyển thứ 49 và 50 cùng Quyết Trạch quyển 57, Kinh Bồ Tát Tạng quyển 5,
Hiển Dương quyển 4, Đối Pháp quyển 14, Kinh Đại Bát Nhã đều giải thích tướng
này là Đại uy lực, tương ứng với mọi loại công năng làm lợi ích cho hữu tình,
rốt ráo chiến thắng hàng phục được mọi ma oán, cho nên gọi là Lực. Vì uy thế có
khả năng diệt trừ được những thứ khó khuất phục nên gọi là Lực.
Đối Pháp nói rằng
: khéo hàng phục được các ma, giỏi ghi nhớ luận bàn về các vấn đề nên gọi Thập
lực.
Thập (mười) : là
số. Vì tác dụng của Lực khác nhau, có 10 loại nên gọi Thập lực. Theo trong Lục
Thích, thì đây là giải thích kèm theo số vậy.
- Giải thích riêng
:
Về giải thích các
tên riêng thì :
1/ Xứ phi xứ trí
lực : nhân quả tương đương gọi là Xứ. Nếu chẳng tương đương thì gọi là Phi xứ.
Cho nên Du Già nói rằng : quả tịnh hay bất tịnh chẳng phải là Bất bình đẳng.
Như thực chuyển nhân, đó gọi là Xứ. Xứ có nghĩa là kiến lập (dựng lên),
là y (dựa vào), là khởi (gây nên), năng kiến lập quả là y, vì năng khởi quả
pháp. Vì lập, nên gọi là Xứ. Bất bình đẳng trái với loại trên thì đó gọi là Phi
xứ.
Nhất thiết trí vô
trệ trí, và Thanh tịnh trí lìa Tăng thượng mạn, đối với hai loại này thì gọi là
Trí. Lực : nghĩa như trên.
2/ Tự nghiệp trí
lực : ba nghiệp ba đời tự mình gây ra của mỗi người hoặc thuận hiện thụ, thuận
sinh thụ, hoặc thuận hậu thụ, bất định thụ thì gọi là Tự nghiệp. Biết đúng
(chánh tri) về nghiệp này thì gọi là Tự nghiệp trí lực.
Lực này ở ngay nơi
quả Dị thục của các nghiệp thiện ác mà sinh Trí giải, nên cũng gọi là Nghiệp dị
thục trí lực.
3/ Tĩnh lự giải
thoát đẳng trì đẳng chí trí lực : Tĩnh lự : chỉ Bốn tĩnh lự. Giải thoát : tức
Tám giải thoát. Đẳng trì : tức là Nhất thiết hữu tâm định. Đẳng chí : tức là
Nhất thiết hữu tâm vô tâm định. Biết đúng về loại này thì gọi là Tĩnh lự giải
thoát đẳng trì đẳng chí trí lực.
Các thứ định này
chung cả hữu lậu vô lậu cho nên thêm vào đó tên gọi là Tạp nhiễm, Thanh tịnh
thì gọi là Tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí tạp nhiễm thanh tịnh trí lực.
4/ Căn thắng liệt
trí lực : là chỉ Ngũ căn gồm Tín v.v…. Ở đây nói về mức độ của ngũ căn,
non yếu bậc trung thì gọi là Thắng; non yếu bậc thượng thì gọi là Liệt. Biết
đúng về điều này thì gọi là Căn thắng liệt trí lực.
Nếu theo tha tín
coi đó là đầu, hoặc quán các pháp coi đó là đầu, thì thành Căn thắng liệt.
5/ Chủng chủng
thắng giải trí lực : ưa thích thắng giải, gọi là chủng chủng thắng giải. Biết
đúng về điều này thì gọi là Chủng chủng thắng giải trí lực.
6/ Chủng chủng
giới trí lực : nếu rộng kiến lập chủng chủng tính hoặc một thừa, hoặc ba thừa,
hoặc bốn thừa, hoặc năm thừa, hoặc các phần hành như Tham Sân Si v.v… cho
đến 80.000 hành thì gọi là Chủng chủng giới, vì Giới là Tính. Biết đúng về điều
này thì gọi là Chủng chủng giới trí lực.
7/ Biến thú hành
trí lực : nếu như trong các Thú môn mà tùy thuận chính hành, như tham hành thì
tu Bất tịnh quán v.v… , thế thì gọi là Biến thú hành. Hoặc các hành hướng tới tất
cả ngũ thú, hoặc các hành thuộc đủ mọi phẩm loại khác nhau của sa môn ngoại
đạo, của Bà la môn, hoặc Vô tội thú hành của đời này của đời khác, đó gọi là
Biến thú hành. Biết đúng về điều này thì gọi là Biến thú hành trí lực.
+ Biến hành hành
trí lực : vì có khả năng biết rõ các hành biến hành trong khắp mọi nẻo, nên
cũng còn gọi là Biến hành hành trí lực.
8/ Túc trụ tùy
niệm trí lực : nếu đối với mọi loại hữu tình, dùng ngôn ngữ bốn phương mà giả
thiết an lập thành các phẩm loại khác nhau, tùy theo tất cả tự thể thời quá khứ
trước kia thuyết minh bằng 8 câu :
a) Như thị danh
(tên gọi như vậy).
b) Sinh loại (loại
chúng sinh).
c) Chủng tính
(chủng tộc, giòng họ).
d) Ẩm thực (ăn
uống).
e) Thụ khổ lạc
(thụ báo là khổ hay sướng).
f) Trường thọ
(sống lâu).
g) Cửu trụ (trụ
lâu).
h) Thọ lượng biên
tế (giới hạn tuổi thọ).
Ở trong tám thứ
này, có sáu thứ tùy niệm là Lược sở hành hành và có Vô lượng chủng túc trụ tùy
niệm. Sáu Lược hành gồm :
1) Hô triệu giả
danh (tên giả lập ra để gọi).
2) Sát đế lợi đẳng
sắc loại sai biệt (các đẳng cấp khác nhau như Sát đế lợi).
3) Cha mẹ.
4) Ẩm thực phương
quĩ (cung cách ăn uống).
5) Hưng suy
(thịnh suy).
6) Thọ lượng
(tuổi thọ).
Các Túc trụ này là
cảnh quá khứ vì trụ ở đời trước kia. Đối với Túc trụ này mà khởi lên Tùy niệm,
niệm đủ Hành Trí thì gọi là Túc trụ tùy niệm trí lực.
8/ Sinh tử trí lực
:
Các loài Hữu tình
lúc sắp mất thì gọi là Tử thời (lúc chết), lúc trụ tại Trung hữu thì gọi là
Sinh thời (lúc sống). Đối với nẻo thiện nẻo ác, tử thời sinh thời đều có thể
biết đúng thì gọi là Sinh tử trí lực.
10/ Lậu tận trí
lực :
Hết thảy mọi pháp
lậu cùng Tùy miên đều đoạn hẳn không sót thì gọi là Lậu tận. Biết đúng về điều
này thì gọi là Lậu tận trí lực.
Trí là thể, Lực là
tác dụng, song Trí tức là Lực, không còn có biệt tính khác. Trong này Túc trụ
tùy niệm tương ứng trí lực là Lân cận thích (dựa vào các yếu tố gần gũi mà giải
thích). Những thứ khác từ thứ đầu tiên là Xứ phi xứ cho đến Lậu tận là cảnh sở
quán, Trí lực là trí năng quán. Xứ phi xứ trí lực cho đến Lậu tận trí lực là Y
chủ thích (dựa vào chủ thể mà giải thích). Túc trụ là cảnh. Tùy niệm tương ứng
trí lực là Năng quán, cũng Y chủ thích.
3.2- Về Xuất
thể :
Quyết Trạch Phần
quyển 57 nói : Phật có đủ tri căn tuệ căn là Thể. Đối Pháp luận nói : như Định
như Tuệ cùng các Tâm, Tâm sở tương ứng đó. Bồ Tát Địa luận nói rằng : chỉ chung
Ngũ căn là tự tính của nó. Tuy ba lời văn đó khác nhau nhưng Thể có năm :
1) Tối thắng thể :
nên Quyết Trạch phần nói rằng Phật có đủ Tri căn, Tuệ căn là Tính.
2) Dẫn sinh thể :
nên Đối Pháp nói rằng như Định như Tuệ.
3) Khắc thực thể :
Bồ tát Địa luận nói rằng Ngũ căn là tính, do Tuệ thắng trội. Hơn nữa còn nói :
Thập lực Tuệ là Tự tính, bởi vậy chỉ nói Xứ phi xứ trí lực v.v… chẳng nói tới
Tín lực, Tinh tiến lực v.v… Cứ theo như đây thì hợp với lời văn của Quyết
Trạch.
4) Tương ứng thể :
Đối Pháp còn nói rằng cùng các Tâm, Tâm sở tương ứng đó, bốn uẩn là Tính.
5) Quyến thuộc thể
: năm Uẩn là Tính. Định với Đạo cùng Vô lậu sắc v.v… vì Trợ là Thể.
Đây tuy không có
lời văn nói rõ, nhưng lý ắt phải thế, vì sự ngăn ngừa việc phạm giới sẽ giúp
cho việc hàng phục ma oán.
Còn ba môn khác
thì như trong Vô Cấu Xứng sớ quyển 2 đã nói.
4. Bốn vô sở úy.
Dùng 5 môn để phân
biệt : Biện danh, Xuất thể, Hành tướng, Thứ đệ, Các môn. Cũng như Bồ tát Tạng
kinh quyển 5, Đại Bát Nhã quyển 53, Hiển Dương quyển thứ 4, Du Già quyển 50, Đối
Pháp quyển 14.
4.1- Biện danh, có
hai mục : Liệt danh, và Thích danh.
a. Liệt danh gồm :
1) Chính đẳng giác
vô úy.
2) Lậu tận vô úy.
3) Chướng pháp vô
úy.
4) Xuất khổ đạo vô
úy.
b. Thích danh
(giải thích tên gọi) có hai mục :
1) Tổng (Giải
thích tên gọi chung).
2) Biệt (Giải
thích tên gọi riêng).
Về Tổng danh thì
Bốn (tứ) là số. Vô sở úy tức là ở bốn xứ này có khả năng tự mình liễu tri (biết
rõ) thản nhiên không sợ. Tâm không khiếp sợ yếu kém, không có điều nghi ngờ lo
âu, hoàn toàn không hốt hoảng sợ hãi, nên gọi là vô úy.
Về biệt danh thì
Chính giác chư pháp, Đẳng giác chư pháp, đó là Chính đẳng giác. Các phiền não
Lậu chủng hiện đều đoạn cả thì gọi là Lậu tận. Nói Chướng ngại pháp : có nghĩa
là Nhiễm ắt là Chướng, nên gọi là Chướng pháp. Nói Xuất ly đạo : có nghĩa là
các thánh tu tập quyết định xuất ly khỏi khổ, gọi là Xuất khổ đạo, ở trong bốn thứ
này mà chứng đắc Vô sở úy. Thế là đều Y chủ thích (điều giải thích chính).
4.2- Về Xuất thể
tính.
Quyết Trạch Phần
quyển 57 nói rằng : lấy Tín, Tiến, Niệm, Định, Tuệ cùng đầy đủ Tri căn làm
Tính. Đối Pháp nói : như Định hay Tuệ cùng các Tâm, Tâm sở tương ứng đó. Lại nói
: nếu khởi tác dụng thì Hậu đắc trí là Tính, nếu trụ tự tính thì Chính trí là
Thể.
Thể này có năm căn
cứ : Hai Thắng trí là Thể, Phát khởi định tuệ là Thể, Đàm thực ngũ căn là Thể,
Tương ứng tứ uẩn là Tính, Quyến thuộc ngũ uẩn là Thể.
4.3- Về Hành
tướng.
Như kinh đã nói rằng
: “Thế tôn tự xưng : ta là đấng Chính đẳng giác. Khi có sa môn hoặc những người
chẳng phải là sa môn từ phương khác tới, Phật thăm hỏi họ rằng : Trụ có an lạc
không ? Khất thực có được không ?
Thế là trong đám
này có kẻ đã đặt câu vấn nạn rằng : gọi là Chính đẳng giác thì không có gì là
chưa biết. Thế mà nay lại hỏi người khác, sao mà trái ngược làm vậy ? . Ta đối
với lời vấn nạn này chính kiến không núng, được an lạc trụ, không hoảng không
sợ, tự xưng ta ở địa vị tôn quí của bậc đại tiên. Sở dĩ ta hỏi là vì sao ? Đó là
để chinh phục kẻ đến, khiến họ phát tâm thắng trội, nghe Phật thăm hỏi sẽ phát
đạo tâm. Đó là vì muốn khiến mọi người xét kỹ về sự: Phật biết mà còn hỏi,
huống hồ các người khác chẳng biết và cũng để làm khuôn mẫu cho người sau, thấy
người ta đến phát tâm thì nên dẫn nhiếp, chứ chẳng phải là Phật chẳng biết mà
vẫn gọi là Đẳng giác”.
Thêm nữa, như kinh
nói rằng :
“Ta khi chư lậu đã
tận, Thiên Thụ làm các điều ác, Phật thường mắng mỏ; còn Chấp Nhật điều thuận,
Phật thường nói ngọt. Thế là có kẻ vấn nạn rằng : nói là các lậu hết, phiền não
đều hết ! Thế mà mắng mỏ Thiên Thụ, nói năng âu yếm với Chấp Nhật, tham sân
chưa diệt thì lậu làm sao mà hết được ! Sao mà trái ngược làm vậy ? Ta đối với câu
vấn nạn này chính kiến chẳng núng, vẫn được an lạc trụ , không hoảng không sợ.
Tự xưng : ta cư xử
ở địa vị cao quý của bậc đại tiên ! Thiên Thụ ví như con ngựa ác, phải đánh đau
mới điều phục được. Nếu chẳng quát mắng thì y lại nói là “sợ ta”. Còn Chấp Nhật
ví như con voi tinh khôn biết chiều theo lòng người, nên chỉ nói ngọt mà có thể
thuần phục ngay được, thế thì chẳng phải là (ta) còn có tham sân và lậu chẳng
hết”.
Lại nữa như kinh
nói rằng : “Phật giảng cho đệ tử về Chướng ngại pháp. Nói Nhiễm ắt là Chướng.
Nhưng lại chẳng ngăn các hạng Dự lưu, Nhất lai kia có vợ con. Thế là có kẻ vấn
nạn nói : Nhiễm ắt là Chướng, thế mà thánh lại nuôi vợ con, sao mà trái ngược
làm vậy ? Ta đối với lời vấn nạn này chính kiến không núng, yên ổn không hoảng,
ở ngôi vị tôn quý của bậc đại tiên. Tà hạnh gây chướng cho đạo các thánh. Có vợ
gây chướng cho đạo lìa dục. Song, người đắc hai quả đầu vẫn chưa lìa dục nhưng
Tính; Giới đã thành tựu được từ lâu, nên trừ được Tà hạnh mà vẫn chẳng đoạn
tuyệt với vợ con, như vậy thì có gì là sai trái ? Cho nên các Nhiễm pháp chẳng phải
là chướng ngại vậy.
Lại nữa, như kinh
nói rằng : “Ta giảng cho đệ tử về đạo xuất ly, rằng các thánh tu tập quyết định
xuất ly, quyết định thông đạt. Lại có bậc vô học là Ca Lưu Đà Di bị chôn dưới
hầm phân, Ương Quật Ma La bị lửa ngục đốt thân. Thế là có lời vấn nạn rằng :
đạo thánh tu lâu những mong lìa được các nỗi khổ. Bậc vô học mà vẫn phải quay trở
về thụ khổ, thế thì còn cần gì mà tu đạo nữa ! Sao mà trái khoáy làm vậy ? Ta
đối với lời vấn nạn này chính kiến không núng, yên ổn không sợ, ở ngôi đại
tiên”.
Thực sự chứng được
bậc vô học, khổ quả nhất định không còn. Vì hiện ác nhân nên ắt có khổ báo. Do
đó bậc thánh có khi thị hiện thụ khổ để gây nền giáo hóa cho người sau. Hoặc
khổ dị thục, bậc vô học chẳng thụ vì nghiệp ác đã hết. Nếu còn có ắt gây chướng
cho quả, chẳng thành bậc vô học. Kẻ kia nói rằng bậc vô học còn phải thụ khổ
đó, như vậy có nghĩa là hiện vẫn còn đang ở địa vị hữu học, vẫn chưa lìa dục.
Nếu nhất định thành bậc vô học, thì mới được tên gọi đó. Còn dẫu có được thần
thông cũng chẳng phải là bậc Bất hoàn (tức không quay trở lại thế gian mà thụ
khổ), vì thần thông ấy chỉ là năm phép thần thông của thế gian.
Hoặc đối với bậc
vô học thì khổ chẳng phải là do nghiệp báo vì ắt đã xuất ly mọi Dị thục khổ.
Như Kinh Niết Bàn quyển thứ 29 giải thích : đối với nghiệp ba thời, tức địa vị
vô học thì trừ được các nghiệp ác hết thảy chẳng thụ. Còn nói rằng chưa nhập
thánh thì gọi là định nghiệp, nếu đã nhập thánh rồi thì chẳng gọi là định
nghiệp. Giải thích rộng ra thì như kinh đó đã nói. Cho nên bậc A la hán nhất
định không bị khổ quả.
Hai môn sau cũng
như giải thích trong quyển thứ hai của Kinh Vô Cấu Xưng.
5. Thiền :
Chỉ Bốn tĩnh lự
của Sắc giới gồm :
• Thứ nhất là Tĩnh
lự có Tầm có Tứ.
• Thứ hai là Hỉ
lìa Tầm tứù
• Thứ ba là Lạc lìa hỉ.
• Thứ tư là Tĩnh
lự thanh tịnh xả niệm đã lìa
Hỉ lạc.
6. Định :
Là Bốn vô sắc, gồm
: Không xứ ; Thức xứ ; Vô sở hữu xứ ; Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
7. Giải thoát :
Chỉ tám giải
thoát, dùng ba môn để phân biệt : Liệt danh tự (liệt kê tên gọi), Hiển Hành
tướng (nêu rõ hành tướng), Xuất thể tính (nêu ra thể tính).
7.1- Liệt danh tự
:
Theo như Du Già
quyển thứ 12, 15, 73 ; Nhiếp Sự Phần quyển 4 ; Đối Pháp quyển 13 ; Hiển Dương
quyển 4, 2 và 20 ; Kinh Bồ Tát Tạng quyển 4 v.v… đã nói. Đó là :
1/ Hữu sắc quán
chư sắc giải thoát.
2/ Nội vô sắc
tưởng quán ngoại chư sắc giải thoát.
3/ Tịnh giải
thoát, thân tác chứng cụ túc trụ.
4/ Không vô biên
xứ giải thoát.
5/ Thức vô biên xứ
giải thoát.
6/ Vô sở hữu xứ
giải thoát.
7/ Phi tưởng phi
phi tưởng xứ giải thoát.
8/ Tưởng thụ diệt
giải thoát, thân tác chứng cụ túc trụ.
7.2- Hiển hành
tướng :
+ Giải thoát đầu :
Câu Xá quyển thứ
29 nói : “Trong có sắc tưởng, quán các sắc ở ngoài, đó là Sơ giải thoát. Trong
chưa trừ kiến giả sắc tưởng, quán các sắc bên ngoài cho là bất tịnh, đó gọi là
Quán ngoại sắc”. Nay thì chẳng thế. Cứ theo lời văn của Đối Pháp, người mà
nghiệp tu còn mới, thân tại Dục giới, đã lìa Dục giới dục, nhưng chưa có thể
dựa vào Vô sắc định để hàng phục, phá trừ kiến giả sắc tưởng, bởi chưa lìa Sắc
giới dục.
Nếu là nghiệp tập
lâu đã lìa Sắc giới dục lìa kiến giả sắc tưởng, an lập hiện tiền mà quán hết
thảy mọi sắc trong ngoài của Dục giới, khởi Quang minh tưởng. Do ba giải thoát
trước dẫn phát Thắng xứ, Biến xứ v.v… dựa vào quán sắc ít nhiều v.v… của Thắng
xứ nhiếp thu mà khởi Quang minh tưởng. Do trừ biến hóa chướng, nên khởi Quang minh
tưởng, chẳng trừ tham dục nên chẳng khởi Bất tịnh tưởng.
+ Giải thoát thứ
hai :
Du Già chỉ nói :
“Chưa được Vô sắc định, chưa lìa Sắc giới nhiễm, quán các ngoại sắc đó là Sơ
giải thoát”, đó là chỉ căn cứ vào Sơ nghiệp mà nói. Cho nên về giải thoát thứ
hai, Câu Xá Luận nói : “Trong đã phục
trừ được kiến giả sắc tưởng, chỉ quán ngoại cảnh là bất tịnh, đó gọi là trong
không sắc tưởng, quán các ngoại sắc”.
Đại thừa thì không
thế, căn cứ vào Đối Pháp nói rằng : người mà nghiệp tập lâu đã dựa vào Vô sắc
định mà phục trừ kiến giả sắc tưởng. Người mà nghiệp tu mới, kiến giả sắc tưởng
an lập hiện tiền mà quán ngoại sắc khởi tưởng thành nhiều ít v.v… khác với Sơ
quán nội ngoại sắc đều thành Quang minh, đó là vì chưa tự tại.
Nay đây, chỉ đã
lìa dục là quán sắc khởi tưởng nhiều ít v.v… gọi là quán ngoại sắc. Vì đã lìa
nhiễm, nên gọi là ngoại, vì quán tâm dần dần thắng trội, là vì quán sơ qua dần
dần vậy.
Du Già nói : lại
chẳng tư duy về minh tướng của tưởng kia, chỉ khởi Thắng giải về ngoại sắc, tức
là quán nhiều ít v.v… , chẳng khởi Quang minh tưởng v.v… . Nếu đã được ly dục ở
xứ này thì nói xứ kia là Ngoại. Cho nên chỉ đã lìa nhiễm sắc mà quán xứ kia gọi
đó là ngoại.
Lại nữa, do Sơ
giải thoát quán sắc thì chẳng nói là ngoại. Trong ấy có sắc cũng chẳng nói là
Nội. Duyên chung các sắc nội ngoại như căn trần v.v… khởi Quang minh tưởng cho
nên nay loại thứ hai nầy trong có sắc, có các căn như sắc thì quán ngoại sắc
chỉ là quán ngoại trần khởi tưởng là nhiều ít v.v… vì chẳng duyên vào các căn
mà quán tưởng là nhiều ít v.v…
Du Già còn nói :
Vô sắc giới định chẳng hiển hiện. Đó là nói quán ngoại sắc chẳng dựa vào Vô sắc
định, vì Vô sắc định chẳng duyên vào ngoại sắc. Hoặc đã lìa Sắc giới dục, chẳng
dựa vào Vô sắc định mà phục trừ sắc tưởng, chỉ dựa vào Sắc giới định. Cái thấy
không có sắc tưởng mà hiển hiện, nên nói như vậy.
Hai giải thoát
trên, thứ đầu thì khởi Quang minh tưởng, thứ sau thì khởi Thiểu đa tưởng, đầu
rộng, sau hẹp, hai quán khác nhau.
Hiển Dương quyển
20 nói : hai giải thoát này trừ được Biến hóa chướng vì được tự tại đối với
Biến hóa, vì biến hóa là chung cho cả bốn Tĩnh lự đều có. Hai giải thoát đầu
đều cùng dựa chung vào bốn Tĩnh lự, đầu tiên khởi lên phần nhiều dựa vào hai
Định đầu mà có, nhưng chỉ tại căn bản, chứ chẳng phải là Cận phần địa. Kia thì hăm
hở tu mà đều không thông được với quả. Đây thì từ tốn tu mà có thông với quả.
Khác với Câu Xá luận nói : hai Tĩnh lự đầu có khả năng đoạn trừ Dục giới, trong
Tĩnh lự đầu thì lòng tham sắc tỏ rõ, nên phải Quán bất tịnh.
+ Giải thoát thứ
ba :
Câu Xá Luận
nói : tướng Thanh tịnh chuyển thành tướng Tịnh quang minh tươi sáng vì hành
tướng chuyển. Chỉ có Tĩnh lự thứ tư là lìa được Tám tai hoạn (tai vạ, hoạn
nan), vì Tâm trong lắng thanh tịnh. Các địa vị khác tuy có giải thoát tương tự,
nhưng chẳng đặt ra vì chẳng phải là tăng thượng.
Nay thì đại thừa
bảo rằng : nếu như có được một lần thanh bạch do đã đạt đến Xả niệm viên mãn,
thì lấy đó làm chỗ dựa để tu tập thánh hạnh thanh tịnh viên mãn. Đối với các
sắc tịnh hay bất tịnh ở trong đều đã được Triển chuyển tương đãi tưởng, Triển
chuyển tương nhập tưởng, Triển chuyển nhất vị tưởng. Đó là hành tướng của giải
thoát thứ ba.
- Thứ đối đãi với
các tịnh sắc ở trong sắc khác, đó gọi là bất tịnh, chẳng phải là chẳng đối đãi
với nhau. Nếu chỉ thấy một loại vì không có hai cảm giác tịnh và bất tịnh, thì
đó gọi là Tưởng ban đầu (Triển chuyển tương đãi tưởng).
- Còn ở trong Tịnh
thấy có Bất tịnh tính, ở trong Bất tịnh thấy có cái thích ứng với Tịnh tính, do
bị che phủ bởi lớp màng mỏng của Chướng thì cũng gọi là ở trong đó có Tịnh, vì
hiện có 36 loại vật bất tịnh. Đó là Tưởng thứ hai (Triển chuyển tương nhập
tưởng).
- Cứ xoay vần như
vậy, thâu tóm mọi sắc gộp lại thành Nhất vị thanh tịnh tưởng giải, đó là Tưởng
thứ ba (Triển chuyển nhất vị tưởng).
Chỉ có địa vị Tĩnh
lự thứ tư mới gọi là Thành tựu, vì có Xả niệm tịnh. Vì Luận nói là vượt mọi khổ
lạc, vì mọi động loạn đều đã tịch tĩnh, vì khéo mài giũa cho trong sáng. Các
địa vị khác chẳng thế, nên chỉ có Tĩnh lự thứ tư. Đây cũng là trong không có
sắc tưởng mà quán ngoại sắc. Vì trên đã nói rồi, nên lược đi chẳng bàn mà đặt
tên khác.
+ Bốn Vô sắc giải
thoát :
Câu Xá Luận nói
rằng : lấy bốn Vô sắc định mà Thiện là Tính chứ chẳng phải là Vô ký nhiễm, vì
đã giải thoát, cũng chẳng phải là Tán thiện vì tính của Tán thiện nhỏ nhoi kém
cỏi.
Cận phần giải
thoát đạo cũng được gọi là Giải thoát. Vô gián thì chẳng thế vì sở duyên thấp
kém. (Câu Xá Luận) đó đòi hỏi phải trái ngược với hạ địa thì mới gọi là Giải
thoát. Cho nên phần nhiều chỉ nói tới căn bản, vì cận phần chẳng phải là thứ
hoàn toàn.
Nay $ thì đại thừa đều đã lìa
Tự địa dục, y vào Tự căn bản địa mà quán sát lại Tự địa cảnh, tư duy thắng giải
khiến chướng càng xa, dẫn sinh thắng đức, cho rằng nếu có một lần ở Không xứ
kia đã được lìa dục, tức ở Không xứ tư duy thắng giải thì đó gọi là hành tướng
của Không xứ giải thoát.
Ở $ Thức xứ kia đã được lìa
dục, tức ở Thức này tư duy thắng giải thì đó gọi là hành tướng của Thức xứ giải
thoát.
Ở $ Vô sở hữu xứ đã được
lìa dục, ở Thức vô biên xứ tư duy thắng giải, đó gọi là hành tướng của Vô sở
hữu xứ thắng giải.
Không, Thức hai
tên được gọi theo hành tướng mà Tự địa duyên vào. Vô sở hữu xứ lấy Thức vô hữu
làm tên Tự địa, nên ở Thức xứ mà tư duy thắng giải.
Ở $ Hữu đỉnh địa đã được
lìa nhiễm, chẳng còn ở chỗ nào khác mà sinh thắng giải. Cho đến khắp ở Tưởng
khả sinh xứ, tức ở xứ này mà làm thắng giải. Vô sở hữu xứ gọi tên là Tưởng khả
sinh xứ. Nay duyên vào tâm, tâm sở Vô sở hữu này thì gọi là Phi tưởng phi phi
tưởng xứ. Cho nên khắp cả ở đây mà tư duy thắng giải. Tới phần dưới sẽ biết.
Trên nói lìa nhiễm
là căn cứ vào bậc vô học mà nói. Cho nên Du Già nói rằng : bảy giải thoát trước
là ở địa vị đã giải thoát mà sinh thắng giải. Thân chứng thì được.
Nếu y theo Duy
thức thì có thuyết về Diệt định của hai đại sư :
- Một thuyết cho
rằng : điều phục được nhiễm từ Sơ định trở lên thì đắc Diệt định.
- Thuyết thứ hai
cho rằng : điều phục được nhiễm từ Đệ tứ định trở lên thì là đắc Diệt định.
Nhiễm : từ Vô sở
hữu xứ trở xuống có thể có nghĩa điều phục, khiến chướng chuyển xa, dẫn sinh
thắng đức. Riêng một địa là Hữu đỉnh địa thì Định chưa thể điều phục được. Cho
nên theo Du Già quyển thứ 12 thì đối với Không, Thức, hai giải thoát có lời nói
tới lìa Tự địa nhiễm, hai địa trên không có chữ nào nói tới lìa Tự địa nhiễm, vì
hàng hữu học vô học mới nói lướt qua. Chỉ tại căn bản, cũng chẳng phải là cận
phần.
Diệt tạân giải
thoát : thì đại thừa tiểu thừa đều nói tới, tức là Diệt tận định mà không có
Hành tướng vì bỏ Tưởng, Thụ. Song lúc sắp nhập thì có hai Hành tướng : đó là y vào
Phi tưởng phi phi tưởng xứ và Vô tướng giới tưởng, vì hàng Sơ tu, nên lâu thành
thục hai loại Nhập đặc biệt.
7.3- Xuất thể
tính.
Câu Xá Luận nói :
ba loại đầu là Vô tham tính. Loại quyến thuộc là Ngũ uẩn tính. Thứ đến Tứ vô
sắc định thì Thiện là Tính. Loại thứ tám là Diệt định tính.
Trong Nhiếp Đại
Thừa quyển 73 giải năm pháp nói rằng :
Chính trí Thế gian
Xuất thế gian là Thể. Hữu lậu thì lấy Chính trí thế gian trong phân biệt làm
Thể. Vô lậu thì tức là Vô phân biệt trí và Hậu đắc trí, chỉ có Tuệ là Tính, vì
nó duyên vào Sắc, Phi sắc cùng Chân như cảnh, lìa các Định chướng, dẫn sinh thắng
đức, còn các thứ khác không có khả năng đó.
Nếu là Tương ứng
thể thì bảy loại đầu lấy Bốn uẩn làm tính. Quyến thuộc thì Ngũ uẩn là tính. Nên
Đối Pháp nói : Như Định hay Tuệ cùng các tâm, tâm sở tương ứng, vì trong Vô sắc
giới kể có Định đạo, Vô biểu sắc.
Giải thoát thứ tám
thì lấy 22 pháp chủng tử Thượng yếm tâm công năng làm Thể, tức Bất tương ứng
hành uẩn sở nhiếp.
Tam muội là tiếng
Phạm, ở đây gọi là Đẳng trì, tức là Ba đẳng trì, chỉ : Không, Vô tướng, Vô
nguyện. Ba đẳng trì tới phần dưới sẽ giải thích, vì như Kinh Bát Nhã quyển 53
đã nói : ba cảnh đều cùng duyên vào Không. Song theo luận dẫn kinh thì lại còn
có năm đức, nhưng vì ngại rườm rà nên chẳng thuật lại.
Luận có hai lần
giải thích ba câu trên. Sau đây là phen thứ hai giải thích lại ba câu trên
:
- Thứ nhất là
Thành tựu chúng sinh khả hóa, nhờ y chỉ vào bậc thiện tri thức. Có nghĩa là có
khả năng dẫn đạo được những kẻ chưa phát tâm trong số chúng sinh khả hóa, có Bồ
đề tính khiến họ y chỉ vào bậc thiện hữu mà lìa chấp trước. Đó gọi là phương
tiện dẫn đạo chúng sinh.
- Thứ hai là Thành
tựu chúng sinh căn thục, khiến họ được giải thoát. Có nghĩa là khiến những
người đã phát tâm tu lâu được giải thoát. Đó gọi là Phương tiện tri kiến ba la
mật.
- Thứ ba là Thành
tựu Lực, Gia, Tự tại, Tịnh, Hàng phục. Có nghĩa là Phật trong thì thành tựu vô
vàn công đức, cho nên ngoài đã có thể khuất phục được phiền não, uẩn, tử, thiên
ma. Đó gọi là Lực. Thiền định v.v… của Phật đều là chỗ ở của Thế tôn, nên gọi
đó là Gia (nhà). Do Lực tự tại, nên có khả năng hàng phục. Do Gia tự tại, nên
tịnh được các chướng. Thêm nữa do nương náu ở các Thiền định là Gia, nên được
Tự tại thần thông nghiệp v.v… . Do thành tựu được Vô lượng, Vô ngại, Lực v.v… nên
có khả năng Tịnh trừ được các chướng, Hàng phục được ngoại đạo v.v… . Đó gọi là
Như Lai tri kiến quảng đại thâm viễn (Tri kiến Phật rộng lớn, sâu xa).
Theo Luận bản, hai
lần giải thích ba câu trên trong kinh xong, sau đó lại dùng bảy câu dưới trong
kinh để giải thích các loại ngôn từ trong câu nêu lên thứ tư ở trên, cũng là
hai phen giải thích : đầu tiên phối hợp với kinh, sau đó là giải thích lại.
*
-Kinh văn : “Thâm
nhập không bờ bến” tới “pháp vị tằng hữu”.
Tán rằng :
dùng bảy câu để giải thích ngôn từ câu thứ tư. Kinh này chỉ có năm câu đầu. Câu
thứ sáu khuyết. Câu thứ bảy thiếu. Văn tới sẽ rõ.
Luận rằng : câu
thứ tư nói thành tựu có bảy loại. Đó là các loại thành tựu đã nói ở câu đầu :
Lý sự, Không hữu, Thế gian Xuất thế gian. Vì pháp Vị tằng hữu đều thâm nhập cả,
vì thấu hiểu vô bờ nên có thể khởi được nhiều loại ngôn từ kia.
* Tế : tức bờ,
bến.
*
-Kinh văn : “Này
Xá Lợi Phất” tới “làm vui lòng chúng ”.
Tán rằng :
câu thứ hai này, Luận gọi là Ngữ ngôn thành tựu, vì Phật đã có được năm loại âm
thanh mỹ diệu để thuyết các pháp. Đại Trí Độ luận nói năm loại âm thanh từ
miệng Phật nói ra :
• Một là rất sâu
như sấm.
• Hai là trong
trẻo vang xa, ai nghe cũng ưa thích.
• Ba là nhập tâm,
kính ái.
• Bốn là rạch ròi
dễ hiểu.
• Năm là người
nghe không chán, phân biệt được
các nghĩa hữu
lậu, vô lậu v.v…
Rất sâu như sấm :
đó gọi là phân biệt được đủ mọi điều về các pháp.
Rạch ròi dễ hiểu :
đó gọi là khéo thuyết các pháp, các pháp nói đây thông với sự phân biệt ở trên.
Từ bi mẫn niệm, người nghe không chán, gọi là ngôn từ nhu nhuyễn.
Trong trẻo vang xa
: ai nghe cũng ưa thích đó gọi là làm vui lòng vừa ý mọi người.
Ba thứ đầu mỗi thứ
tương ứng với một loại âm thanh. Một thứ sau bao gồm cả hai loại.
*
-Kinh văn : “Này
Xá Lợi Phất” tới “chẳng cần nói nữa”.
Tán rằng :
đây là câu thứ ba, Luận nói là Tướng thành tựu. Nhưng Luận dẫn kinh văn chẳng
lấy đoạn từ “Lấy điều cốt yếu mà nói” trở xuống đến “Phật đều thành tựu”.
Chỉ có đoạn từ “Thôi” trở xuống.
Luận rằng : vì
chúng sinh có pháp khí tâm đã đầy đủ nên gọi là Tướng thành tựu.
Pháp khí có hai loại
: một là Chân, hai là Giả. Chân là các ông Xá Lợi Phất v.v… , Giả : chỉ hạng
Tăng thượng mạn.
Vì hạng Chân pháp
khí chúng sinh, tâm thánh đã đầy đủ, tâm ưa diệu pháp, nên Phật hiện tướng bảo
“ Thôi” để khiến họ nài xin, vì họ nghĩ rằng : Phật nay bảo thôi đừng nói nữa,
là đừng nói những pháp nào vậy?
Còn hạng Giả pháp khí chúng sinh thì tự cho là mình tâm thánh đã đầy đủ, tâm chẳng ưa pháp, nhưng vẫn ngồi đó chưa đi, Phật hiện tướng bảo “Thôi” khiến họ phải đứng lên bỏ đi. Vì họ nghĩ rằng : các pháp giải thoát ta đều chứng được cả rồi, còn có pháp gì nữa mà bảo thôi đừng nói, cho nên gọi là Tướng.
Như người thế gian cùng nhau hội họp ở một chỗ, có kẻ thích nghe cũng có kẻ chẳng thích nghe khi người ta nói, biết dùng lời lẽ bảo : thôi chẳng cần nói, nói có ích chi ! Như thế là để khiến cho kẻ thích nghe thì nài xin nói nữa, kẻ chẳng thích thì đứng dậy bỏ đi.
Nay vì hạng trước là hạng Chân pháp khí mà khiến cho họ phải hỏi lấy đạo nhất thừa, nên gọi là Tướng.
*
-Kinh văn : “Sở dĩ như vậy là vì sao ?” tới “pháp khó hiểu”.
Tán rằng : đây là câu thứ tư. Luận gọi là Kham thành tựu, vốn không có lời hỏi, vì hết thảy chúng sinh khả hóa đều biết Như Lai thành tựu công đức hiếm có, kham nổi việc thuyết pháp, có nghĩa là những người thiện căn đã thành thục như Xá Lợi Phất v.v… , đó gọi là loại chúng sinh khả hóa (loại chúng sinh có thể giáo hóa được), họ biết rằng Phật đã thành tựu được công đức hiếm có khó hiểu đệ nhất, kham nổi việc thuyết pháp.
*
-Kinh văn : “Chỉ có Phật với Phật” tới “thực tướng các pháp”.
Tán rằng : đây là câu thứ năm. Luận gọi là Vô lượng chủng thành tựu thuyết bất khả tận (vô lượng loại thành tựu nói chẳng thể hết).
Thực tướng : chỉ Thể của Pháp thân Như Lai tạng, vì tính chẳng đổi. Phật trí biết rõ Thực tướng Thể này, biết hết ngọn nguồn nên gọi là Cứu tận.
Chẳng những Phật thành tựu vạn đức hữu vi, mà ngài còn cứu tận vạn đức vô vi. Cho nên nói là Vô lượng chủng thành tựu thuyết bất khả tận.
Kinh này mất câu thứ sáu nói về Giác thể thành tựu : Như Lai biết được mọi pháp, vì Phật tự chứng được.
Kinh này cũng thiếu câu bảy nói về Thành tựu tùy thuận ý chúng sinh mà thuyết cho họ về pháp tu hành, vì Như Lai thuyết được mọi pháp, như trong kinh này đã nói các pháp có tướng như vầy v.v… . Các pháp đã nói trong câu thứ bảy này đều là pháp mà Phật hiện đang thấy, không gì không thấy.
Trên đây luận giải bảy câu ngôn từ trong kinh xong, Luận lại dùng bảy câu để giải thích các loại ngôn từ một lượt thứ hai, để phối với bảy câu này và nói :
• Thứ nhất là dùng nhiều loại pháp môn để nhiếp thủ chúng sinh nhập vào Phật pháp, nên họ thâm nhập vô bờ bến.
• Thứ hai là khiến họ an trụ chẳng tán loạn, vì dùng giáo hóa để quán thông với chúng sinh khiến họ chẳng tán loạn, chuyên tâm trụ cảnh, mong muốn được nghe, nên có thể phân tích rạch ròi phân biệt các pháp.
• Thứ ba là để khiến họ phải tranh thủ, khiến những người căn đã thành thục hỏi lấy nhất thừa, nên Phật đã nói : “Thôi ! Chẳng cần nói”.
• Thứ tư là để khiến được giải thoát, khiến người căn cơ thành thục được giải thoát, Phật đã thành tựu pháp khó hiểu.
• Thứ năm là khiến họ tu hành thành tựu được pháp đối trị, khiến người tu hành có được pháp đối trị, đối với Chân tế tính (tức là đối với thực tế), vì Phật đã cứu tận được thực tướng các pháp.
• Thứ sáu là có thể khiến tu hành tiến thú thành tựu, vì khiến người tu hành tiến thú thành tựu được Tịnh diệu trí. Do đó mà Như Lai biết được các pháp.
• Thứ bảy là khiến được tu hành chẳng thoái thất, vì khiến họ tu hành được đầy đủ, lại vì họ mà thuyết chẳng mất lợi ích. Vì Phật hay thuyết những điều quan trọng nhất của mọi pháp.
Do Phật tự mình thành tựu được bảy loại này, nên đã có thể khiến chúng sinh dần dần theo đó mà làm. Đem luận mà phối với bảy câu trên trong kinh thì sẽ thấy móc xích với nhau, cứ theo thực lý thì phải biết rằng : bốn câu đầu là trụ Quyền, hai câu sau là trụ Thực, câu cuối cùng là ngoại hóa.
- Vì sao mà còn phối với ba câu Phương tiện, Tri kiến, Quán niệm để giải thích thêm lần thứ ba ?
Luận rằng : để cho Giáo hóa thành tựu. Vì căn cứ vào việc chứng pháp, nên trình tự như vậy.
Gọi là Phương tiện, có nghĩa là khiến các chúng sinh khả hóa nhưng căn cơ chưa thành thục, y vào thiện hữu.
Còn Tri kiến, thì có nghĩa là khiến chúng sinh căn cơ thành thục, được giải thoát.
Còn Quán niệm, thì khiến chúng sinh đã được giải thoát sẽ thành tựu được các công đức Lực, Gia. Đó là căn cứ vào trình tự chứng pháp mà thuyết để giáo hóa chúng sinh.
- Vì sao lại phải phối với bảy câu ngôn từ trong kinh để mà thuyết lần ba ?
Luận rằng : đó là vì thuyết theo trình tự thuyết pháp. Trình tự ấy như trên đã nói, cứ theo thứ tự có thể biết được. Vì ngại rườm rà, nên chẳng thuật lại.
Cho nên Luận nói rằng : để cho Giáo hóa thành tựu, vì y theo trình tự chứng pháp. Lại còn Thuyết thành tựu vì y theo trình tự thuyết pháp. Hai loại pháp này như trên đã nói.
Luận rằng : hai loại pháp này có thứ tự ra sao để y vào đó mà tu hành cho đúng ? Đó là hỏi về trình tự của Chứng và Thuyết để y vào đó mà tu hành. Cần phải biết rằng đó tức là điều mà câu văn trước kia đã nói đi nói lại.
Ở phần trước Luận đã hai lần thuyết về ba loại Phương tiện, Tri kiến, Quán niệm, căn cứ vào trình tự của Chứng đã hai lần giải thích thứ tự của bảy câu ngôn từ . Theo trình tự của Thuyết, nên có thứ tự như vậy. Thuyết đã như vậy, y theo đó mà tu học thì tức là trình tự của Chứng. Đó là kết luận về nghĩa trên. Khuyên người học nên biết.
Hoặc đây giải thích trong bốn câu Biệt giải lượt đầu : câu thứ hai về Giáo hoá thành tựu, câu thứ tư về Thuyết thành tựu, hai loại này khác biệt nhau.
*
-Kinh văn : “Gọi là các pháp” tới “cứu cánh v.v…”.
Tán rằng : ở đây nêu rõ câu thứ bảy, pháp mà Phật thuyết là y vào Chứng mà thuyết, nên Luận dẫn kinh năm câu : Những pháp gì ? Pháp như thế nào? Pháp tựa gì ? Pháp tướng gì ? Pháp thể gì ? Luận có bốn cách giải thích :
• Lượt thứ nhất : căn cứ vào ý nghĩa bỏ quyền lấy thực thừa mà giải thích.
1. Thuyết minh về ba thừa, đó gọi là Những pháp gì ? .
2. Thuyết minh về các sự được khởi lên ở mỗi một thừa, đó gọi là Pháp thế nào ? .
3. Y vào pháp môn ba thừa mà tu hành thanh tịnh, đó gọi là Pháp tựa gì ? .
4. Cứu cánh chỉ có một Phật thừa không có nhị thừa thể, nên gọi là Pháp thể gì ? .
• Lượt thứ hai : giải thích pháp theo cách xoay vần giải thích lẫn nhau :
- Những pháp gì ? : chỉ pháp hữu vi và pháp vô vi.
- Pháp thế nào ? : chỉ nhân duyên, phi nhân duyên v.v… lấy Nhân duyên sinh mà giải thích hữu vi. Lấy Phi nhân duyên sinh mà giải thích vô vi.
- Pháp tựa gì ? : chỉ Thường pháp và Vô thường pháp v.v… lấy Thường để giải thích Phi nhân duyên sinh, Vô thường giải thích Nhân duyên sinh.
- Pháp tướng gì ? : chỉ ba tướng pháp hữu sinh v.v… và ba tướng pháp Bất sinh v.v… lấy pháp hữu sinh mà giải thích Vô thường nói trên, lấy Bất sinh v.v… mà giải thích Thường.
- Pháp thể gì ? : chỉ Ngũ uẩn thể pháp và Phi ngũ uẩn thể pháp. Ngũ ấm tức là sinh v.v… Phi ấm là Phi sinh v.v…
• Lượt thứ ba : chỉ giải ba câu sau, chỉ y vào hữu vi mà giải thích. Còn hai câu đầu chẳng khác gì ở trên, bởi vậy chẳng giải.
Luận rằng :
- Pháp tựa gì ? : có nghĩa là chỉ Vô thường hữu vi nhân duyên pháp.
- Pháp tướng gì ? : là chỉ Khả kiến tướng pháp v.v… .
- Pháp thể gì ? : là chỉ Ngũ ấm năng thủ, sở thủ. Vì Ngũ ấm vừa là Khổ, Tập Thể, vừa là Đạo đế.
Cứ theo đúng như Luận thì có thể hiểu được.
• Lượt thứ tư : là căn cứ vào Pháp dụng thuyết pháp mà nói.
- Những pháp gì ? : đó là dùng danh tự câu cú mà thuyết.
- Pháp thế nào ? : thì dựa vào pháp Như Lai đã thuyết mà thuyết.
- Pháp giống tựa gì ? : tức là có khả năng giáo hóa được các chúng sinh có thể giáo hóa.
- Pháp tướng gì ? : thì y vào âm thanh mà tiếp thu. Có nghĩa là khiến người nghe dựa vào âm thanh ngôn ngữ mà tiếp thu pháp sở thuyên.
Vì Pháp tính lìa ngôn ngữ, nên cái sở thuyên mượn danh tự để thể hiện pháp, chứ chẳng phải là
pháp thực (thực chất của pháp), chẳng để người nghe cứ y vào lời văn mà sinh ra chấp trước. Song kinh văn ngày nay, sợ người ta chẳng hiểu nên nhà phiên dịch đã dùng cách giải thích xoay vần của lượt thứ hai để mà giải thích.
Tuy nhiên nếu có chỗ hơi lộn xộân thì lấy nghĩa mà chấn chỉnh lại để chẳng trái với thánh giáo. Nếu giải thích bằng nghĩa khác thì là nhân tình chứ chẳng phải là thánh giáo.
a Thập Như Thị phối hợp 5 câu.
“Tướng như vậy, Tính như vậy” gộp lại là câu thứ nhất : Những pháp gì ? , vì Tướng là hữu vi, Tính là vô vi.
“Thể như vậy” : là câu thứ năm : Pháp thể gì ? , chỉ Ngũ uẩn thể và Phi ngũ uẩn thể.
“Lực như vậy, Tác như vậy” gộp lại đó là câu thứ ba : Pháp tựa gì ?.
Lực : chỉ Thường pháp vì thường pháp có Lực năng.
Tác : chỉ Vô thường pháp vì có tạo tác.
“Nhân như vậy, Duyên như vậy, Quả như vậy, Báo như vậy”, gộp lại là câu thứ hai : Pháp thế nào ? . Trong nhân duyên quả báo, hữu vi là Nhân duyên sở sinh pháp, vô vi là Phi nhân duyên sở sinh pháp. Cái tạo ra quả thì gọi là Nhân. Cái tạo nên báo thì gọi là Duyên. Thân đắc quả thì gọi là Nhân, Sơ đắc quả thì gọi là Duyên. Tứ quả gọi là Quả. Dị thục gọi là Báo.
“Gốc ngọn như vậy”, là câu thứ tư : Pháp tướng gì? . Ba
tướng pháp (hữu) sinh v.v… là Ngọn, vì Thể là sự. Ba tướng Bất sinh v.v… là
gốc, vì Thể là lý.
“Cứu cánh v.v…” :
giải thích lại gốc lý, đó là Cứu cánh của pháp tính. Luận này giải thích bằng
năm nghĩa tiếp theo nhau : Những gì ? Thế nào ? Tựa gì ? Tướng gì ? Thể gì ? .
Phật một lần nữa dùng câu kinh này để nêu bật năm nghĩa trên, chứ không còn có
lý gì khác.
KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN
QUYỂN THỨ BA -
PHẦN TRƯỚC
ĐÃ XONG
Ngày 24 tháng 10 năm Bảo An thứ ba viết xong. Cùng năm di điểm xong, tàng bản ở Viên Như phòng, chùa Hưng Phúc, Sư Tăng Giác chùa Pháp Long đem in .
- để pháp được trụ lâu dài -
QUYỂN THỨ BA (PHẦN
SAU)
Sa môn KHUY CƠ,
chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn.
PHẨM PHƯƠNG TIỆN (tiếp theo)
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “không thể ước lường”.
Tán rằng : dưới
đây là 21 bài tụng, chia làm hai phần :
•Phần đầu gồm 17
bài rưỡi tụng về hai Diệu trước đây.
•Phần sau gồm 3
bài rưỡi nhằm khuyến phát tín tâm, nói rõ nay thuyết về thực thừa.
Trong phần đầu
lại chia làm hai :
- 2 tụng đầu là
tổng tụng về hai Diệu.
- 15 bài tụng rưỡi
sau là biệt tụng về hai Diệu.
Đây tức là phần
đầu. Một bài đầu tán thán chung về Pháp sư diệu. Một bài sau tán thán chung về
Pháp diệu. Đó là tán thán chung về Phật thân cùng công đức mà Phật thành tựu
Pháp thể diệu.
*
-Kinh văn : “Vốn
từ vô số Phật” tới “khó thấy khó thể biết”.
Tán rằng : dưới là
15 bài rưỡi biệt tụng về hai Diệu. Trong này chia làm hai :
- 14 tụng đầu tụng
về Pháp diệu
- 1 tụng rưỡi sau
tụng về Pháp sư diệu.
Trong phần đầu lại
chia làm năm :
a) 1 bài ca tụng :
Đọc tụng, Tu hành hai thứ thậm thâm.
b) 1 bài ca tụng :
Quả hành, Tăng trưởng công đức, Khoái diệu tâm, ba thứ thậm thâm.
c) 1 bài ca tụng :
Vô thượng thậm thâm.
d) 1 bài rưỡi tụng
: về Nhập thậm thâm.
e) 9 bài rưỡi tụng
: về chẳng chung với nhị thừa, Trụ trì thậm thâm.
Đây là phần
đầu.
Chẳng tụng về văn
nêu (kinh văn), chỉ tụng về hai thứ thậm thâm. Vốn từ vô số Phật (mà) thụ trì,
là Đọc tụng thậm thâm. Tu hành đầy đủ các đạo, là Tu hành thậm thâm. Do hai thứ
thậm thâm này nên Trí tuệ môn của Phật khó thấy khó biết.
*
-Kinh văn : “Ở vô
lượng ức kiếp” tới “ta đều đã thấy biết”.
Tán rằng : đây là
ca tụng Quả hành, Tăng trưởng công đức, Khoái diệu tâm, ba thứ thậm thâm.
Do tinh tiến dũng
mãnh ở vô lượng kiếp thực hành các đạo này, Quả hành thậm thâm, tiếng lành vang
xa, tăng công đức tâm, đạo tràng đắc quả, ta đều biết đều thấy, nên gọi là
Khoái diệu tâm thậm thâm vì Thậm thâm hy hữu pháp đều thành tựu.
*
-Kinh văn : “Quả
báo lớn như vậy” tới “mới biết được sự này”.
Tán rằng : đây là
tụng về Vô thượng thậm thâm.
Tính : chỉ đạo lý.
Tướng : chỉ sự. Nghĩa : có nghĩa là pháp khó hiểu thì Như Lai biết được. Trước
giản lược điều này, nay đầy đủ điều này .
*
-Kinh văn : “Pháp
này chẳng thể bày” tới “hạng tín lực kiên cố”.
Tán rằng : đây là
tụng về Nhập thậm thâm.
Thậm thâm (rất
sâu) là vì danh tự chương cú mà Phật thuyết pháp ý khó nắm bắt, nên cuối cùng
khó thâm nhập lý giải, cho nên gọi là Nhập. Thêm nữa Phật tự trụ trì trong thâm
pháp này, nên gọi là Nhập. Chẳng giống ngoại đạo, tuy thuyết các pháp, mà chẳng
thể tự nhập.
Do Phật Thế tôn
nói về lý nhân duyên, chỉ có Phật tự nhập, người khác chẳng thể biết được, ý
nghĩa khó lý giải, nên gọi là Nhập thâm.
Luận rằng : Phật
tự trụ trì, chẳng giống ngoại đạo, thuyết pháp nhân duyên rất sâu. Kinh này nói
rằng : “Pháp này chẳng thể bày, vì tướng ngôn từ tịch diệt, đạo lý nhân duyên đoạn
tuyệt với ngôn ngữ, các loài chúng sinh chẳng thể lý giải được, trừ bậc tín lực
kiên cố trong các Bồ tát”.
Từ Sơ địa trở lên
được bốn loại Chứng tịnh vì họ tin Phật Pháp Tăng Giới, nên họ có thể tin diệu
pháp nhưng chưa viên chứng hai Diệu như vậy. Cho nên dưới đây nói rằng : Bồ tát
bất thoái cũng chẳng thể biết. Chẳng thể biết có nghĩa là chẳng thể viên chứng,
chứ chẳng phải là chẳng tín tri (do tin mà biết). Bồ tát trước khi Kiến đạo,
tuy do suy lường tin tưởng thì cũng biết, song chẳng phải là Chứng tín. Đã
chẳng phải là hạng kiên cố, bởi vậy chẳng nói tới.
*
-Kinh văn : “Các
chúng đệ tử Phật” tới “Lực họ chẳng kham nổi”.
Tán rằng : dưới có
9 bài tụng rưỡi tụng về Sở tác trụ trì thậm thâm chẳng chung cùng nhị
thừa.
Trong đó chia làm
ba :
• 4 tụng đầu tụng
: Thinh văn chẳng biết.
• 2 tụng tiếp tụng
: Bích chi chẳng biết.
• 3 tụng rưỡi cuối
tụng : Bồ tát chẳng biết.
Trường hàng chỉ có
“nhị thừa chẳng biết”, nhân nêu rõ họ chẳng biết, cũng nói Bồ tát chẳng biết.
Trong mục Thinh
văn chẳng biết, chia làm ba phần :
a) 1 tụng rưỡi,
tụng chung về hết thảy Thinh văn chẳng biết.
b) 1 tụng, tụng
riêng về hàng Thinh văn “đều như Lợi căn Thu Tử chẳng biết”.
c) 1 tụng rưỡi,
tụng riêng nêu bật Thinh văn “đều Lợi căn như Thu Tử và các đệ tử khác cùng
nhau suy lường mà cũng chẳng biết.
Đây là phần
đầu.
Từng gần thiện
hữu, các lậu đều hết, trụ A la hán, thân cuối cùng này có ba đức ấy mà Trí tuệ
lực chẳng thể biết được.
*
-Kinh văn : “Giả
sử khắp thế gian” tới “chẳng lường được Phật trí”.
Tán rằng : ở đây
nói rõ thế gian đều như Thu Tử lợi căn đệ nhất dốc hết tâm trí cùng nhau suy
lường cũng chẳng thể biết. Vì đã chẳng biết Phật trí, nên Trí tuệ môn khó giải
khó nhập.
* Chữ [盡] đọc là Tẫn, có nghĩa như chữ Nhậm (tha hồ) chữ Cùng (dốc hết).
Hoặc đọc bản âm là Tận (có nghĩa là Hết).
* Chữ [思] đọc là Tứ, không đọc là Tư. Nếu không nghĩa sẽ không khác nghĩa
của từ Đạc lượng (suy lường).
*
-Kinh văn : “Dù
cho cả mười phương” tới “cũng vẫn chẳng biết được”.
Tán rằng : mười
phương đều lợi căn như Thu Tử và các đệ tử khác, khắp cả mười phương cùng nhau
suy lường cũng chẳng biết.
*
-Kinh văn : “Bích
chi Phật lợi trí” tới “chẳng biết được ít phần”.
Tán rằng : tụng
này nói về Bích chi chẳng biết.
Bích chi so với
Thinh văn, được gọi là lợi căn. Lân giác so với Bộ hành, được gọi là lợi căn,
nhưng cũng vẫn chẳng biết. Nếu chưa nhập Quyết trạch phần của Thinh văn, mà
khéo tu Độc giác thì thành Lân giác. Sau khi đã nhập Quyết trạch phần rồi mà tu
thì đều thành Bộ hành. Tại Giải thoát phần lúc chưa định sinh thì có thể thành
Lân giác, vì số sinh nhiều. Đã định sinh rồi thì cũng thành Bộ hành vì số sinh
ít.
*
-Kinh văn : “Bồ
tát tân phát ý” tới “chẳng biết được Phật trí”.
Tán rằng : dưới là
3 tụng rưỡi nói Bồ tát chẳng biết. Trong đó chia làm hai :
• 2 tụng rưỡi đầu
nói hạng phàm Bồ tát chẳng biết.
• 1 tụng sau nói
bậc thánh trên Thập địa cũng chẳng thể biết.
Đây là phần
đầu. Bồ tát tân phát ý có đủ sáu loại đức :
1. Thân cận.
2. Đạt nghĩa.
3. Thiện thuyết
(khéo thuyết pháp).
4. Số chúng
(số đông).
5. Nhất tâm.
6. Trường thời.
Loại này suy lường ước tính cũng vẫn chẳng biết.
* Chữ [剎] (sát, sái) tức Sát đa la trong tiếng Phạm, ở phương đây gọi là
Điền, điền thổ. Cũng có chỗ dịch là Quốc (nước), là Thổ (đất), đấy là dịch
nghĩa mà thôi, chứ trong Tự thư không có chữ này. Trong sách Thuyết Văn, chữ này
viết là [ ] Âm đọc là Sất, âm Thử, thanh Thất, có
nghĩa là tiếng dao cắt vật.
*
-Kinh văn : “Các
Bồ tát bất thoái” tới “cũng vẫn chẳng thể biết”.
Tán rằng : đây là
tụng nói rằng Địa thượng thánh chẳng biết.
Hoặc :
- 2 tụng rưỡi nói
trước Thất địa chẳng biết, từ Sơ địa trở lên cũng gọi là Tân phát ý, vì chứng
phát 10 loại tâm.
- 1 tụng sau nói
về hạng từ Bát địa trở lên chẳng biết, hạng này cũng gọi là Bất thoái.
Môn thậm thâm đã
nói ở trước có 8 loại này. Nay trong loại thứ 8 tán thán Phật trí, tỏ rõ Trí
thâm, nên môn ấy cũng thâm.
Hoặc trong 15 tụng
rưỡi tán thán riêng Pháp diệu, thì :
- 6 tụng đầu tán
thán Trí môn diệu, cứ theo cách giải thích trước kia mà ghép vào.
- 1 tụng rưỡi sau
nói về Bất cộng thâm.
- 8 tụng kế tán
thán Trí thâm.
Vì ba thừa chẳng
biết Phật trí tuệ, nên cứ theo nghĩa mà giải thích tụng thì chắc chắn có thể
biết được.
*
-Kinh văn : “Lại
bảo Xá Lợi Phất” tới “mười phương Phật cũng thế”.
Tán rằng : 1 tụng
rưỡi này tán thán chung Pháp sư diệu, không có biệt tụng.
*
-Kinh văn : “Xá
Lợi Phất nên biết” tới “sẽ phải thuyết chân thực”.
Tán rằng : dưới
đây là 3 tụng rưỡi khuyên phát tín tâm, nói rõ nay sẽ thuyết thực thừa. Trong
chia làm hai :
• 1 tụng rưỡi đầu
: chỉ bảo riêng Thu Tử, tỏ rõ nay thuyết thực thừa.
• 2 tụng sau : bảo
khắp cả nhị thừa, nói rõ ban đầu là phương tiện.
Đây là ban
đầu : “Các ông đã chưa chứng điều mà ta nói, (thế thì) đối với điều mà ta nói
hãy sinh tín tâm”.
*
-Kinh văn : “Bảo
các chúng Thinh văn” tới “dẫn họ khiến được xuất”.
Tán rằng : hai
tụng này bảo khắp nhị thừa, chia làm hai :
- 1 tụng đầu, tụng
về bảo khắp tới Niết bàn.
- 1 tụng sau, nói
rõ ý Phật giáo hóa bằng ba thừa.
Do nhị thừa chỗ
nào cũng chấp, chấp Giới địa, nên Phật dẫn họ khiến họ xuất ly, lại thuyết ba
thừa về lý chỉ có một. Hội này chỉ có cực quả Thinh văn, còn Duyên giác thì không
có. Nên kinh nói “Cùng người cầu Duyên giác thừa”. Thinh văn thì chẳng thế.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ trong đại chúng” tới “mọi người đều nghĩ
rằng”.
Tán rằng : dưới
đây là đoạn thứ hai nói về bốn chúng kinh nghi, nêu lên việc Thu Tử thỉnh tới
ba lần.
Vì thỉnh Phật ba
lần, nên Phật cũng bảo “Thôi” ba lần. “Thôi” đều ở trước, thỉnh đều ở sau. Luận
giải thích ba lần bảo “Thôi” như sau :
•Lần bảo “Thôi”
đầu, là thị tướng, khiến phải hỏi lấy nhất thừa.
•Lần bảo “Thôi”
sau, đó là muốn khiến đại chúng suy tìm Thâm cảnh, khao khát muốn được nghe.
•Lần bảo “Thôi”
cuối cùng, là muốn khiến kẻ xấu rút lui đi.
Tới phần dưới sẽ
biết.
Thêm nữa, trong ba
lần thỉnh thì :
- Lần đầu là mang
theo mối nghi ngờ của bản thân và của người khác mà thỉnh.
- Lần thứ hai thì
trình bày rõ đại chúng đã trồng nhân ở nơi Phật khác, nên nài thỉnh.
- Lần cuối cùng
thì tường thuật rõ bản thân và người khác đã theo sự giáo hóa của Phật nay kham
nổi việc nghe pháp, nên cố nài thỉnh.
Trong năm đoạn
luận, từ đoạn thứ ba nói về phần Đại chúng Định nghi ở dưới : đại chúng đối với
điều tự mình chứng được, tâm sinh quyết định, đối với điều Phật thuyết thì lại
sinh nghi. Vì chúng kinh nghi, nên Thu Tử phát thỉnh.
Thỉnh đã tới ba
lần, văn theo đó mà có ba đoạn :
a) Lần bảo “Thôi” đầu
thuộc mục xướng xuất nhất thừa ở trên.
b) Hai lần bảo
“Thôi” sau nhiếp thuộc trong văn thỉnh này.
Lần thỉnh đầu
chia hai phần : đầu tiên là đại chúng sinh nghi, sau đó là Thu Tử thỉnh.
Luận nói đoạn thứ
ba, nói về phần Định nghi rằng : “Từ đây trở xuống y vào ba loại nghĩa mà thị
hiện” :
1- Quyết định.
2- Nghi.
3- Y vào sự gì mà
nghi ?
Hai nghĩa đầu
trong mục Đại chúng nghi. Nghĩa Y vào sự gì mà nghi trong mục Thu Tử nghi.
Mục Đại chúng nghi
có hai phần : đầu tiên nêu lên Chúng nghi, sau đó nói rõ Ý nghi. Đây là phần
đầu.
*
-Kinh văn : “Nay
đức Thế tôn” tới “không thể sánh kịp”.
Tán rằng : dưới
đây là nói rõ về Ý nghi. Có hai phần : đầu tiên nhắc lại duyên do sở nghi, sau
đó chính thức nói rõ cái ý định nghi.
Đây là phần nhắc
lại duyên do nghi điều Phật thuyết trước đó :
- “Pháp mà Phật
chứng đắc thậm thâm nan giải”, nhắc lại điều Phật thuyết trước đây : “Chư Phật
trí tuệ thậm thâm vô lượng”.
- “Có điều ngôn
thuyết ý thú khó biết”, giải thích điều Phật thuyết trước đây : “Trí tuệ môn
khó hiểu, khó nhập”.
Do hai thứ thậm
thâm này, nên nhị thừa chẳng biết.
Trước là thuyết
minh rõ phần trên, sau là để nối tiếp với phần dưới, gộp lại gọi là “phương
tiện”.
“Cớ sao mà Phật
tán thán” , đó là Ý nghi ngờ.
*
-Kinh văn : “Phật
thuyết một nghĩa giải thoát” tới “nghĩa này tới
đâu”.
Tán rằng : đây là
nói rõ cái Ý định nghi.
Có nghĩa là “đến
Niết bàn” trở lên, thì gọi là Quyết định nghĩa. Đối với quả pháp hữu vi vô vi
mà tự mình chứng được, quyết định đã lâu, không còn nghi ngờ, “mà nay lại chẳng
biết nghĩa này tới đâu” thì gọi là Nghi nghĩa.
Có nghĩa là đối
với điều Phật nói trước đây rằng : “Pháp mà Phật chứng được rất sâu khó hiểu,
có điều dùng ngôn ngữ mà thuyết minh thì ý thú cũng khó biết”, trong đây chẳng
biết nghĩa ngài nói đây nhằm đi tới đâu, ý thú ra sao, nhằm nói tông chỉ gì, vì
vậy cho nên gọi là Nghi nghĩa.
* Chữ [ 趣 ] Thú có hai âm Thú và Xúc. Đây lấy âm đầu.
Nghi ý, tức là có
ý nghi rằng : nếu nói giải thoát thì ta đã được rồi. Lại nói khó biết, thế thì
dụng ý định thuyết pháp gì ?
Luận nói rằng
: Quyết định nghĩa, ý nói có Thinh văn phương tiện chứng được Thâm pháp, sinh
tâm quyết định, vì họ ở trong đạo Thinh văn mà đắc Phương tiện và Niết bàn
chứng. Hai loại pháp như vậy thị hiện pháp hữu vi và pháp vô vi. Như đoạn trong
kinh “Bấy giờ trong đại chúng” cho tới “cũng được pháp này, đến Niết bàn”.
Nói hai pháp, đó
là chỉ Phương tiện và Niết bàn chứng. Phương tiện là Đạo hữu vi năng chứng Sinh
không trí, Niết bàn là Lý vô vi sở chứng Không lý. Từ đó năng đắc năng tu, vì
hai pháp này thích hợp đắc quyết định.
Luận rằng : gọi là
Nghi nghĩa là vì Thinh văn, Bích chi Phật chẳng thể biết được, vậy nên sinh
nghi, như đoạn trong kinh nói rằng “mà nay lại chẳng biết nghĩa này tới đâu”.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Xá Lợi Phất” tới “pháp khó hiểu”.
Tán rằng : dưới
đây là Thu Tử thỉnh. Trong đó có hai phần : đầu là trường hàng, sau là kệ
tụng.
Trường hàng lại
chia làm hai : đầu nêu mối nghi, sau xin giải quyết.
Đây là phần đầu.
Theo luận thì đây là nghĩa thứ ba : Y vào sự gì mà nghi ?
Về nghĩa “Y vào sự
gì mà nghi?” Như Lai nói sự giải thoát của Thinh văn chẳng khác gì sự giải
thoát của ta, vì ba thừa cùng ngồi trên một giường giải thoát. Bởi vậy sinh
nghi.
Sinh nghi đây là
sinh nghi ngờ về cái nhân.
Nhân : chỉ lý
do. Vì sao mà Như Lai bao lần tuyên thuyết cảnh giới thậm thâm. Trước nói thậm
thâm, sau lại nói thậm thâm chẳng giống Thinh văn. Thinh văn với Phật,
giải thoát đã bằng nhau, thế thì còn có gì chẳng giống ? Ngoài sự này ra, còn
có pháp gì chẳng giống ? Do lý do này mà sinh nghi hoặc.
Đại bát Niết bàn
có ba sự : Ma ha Bát nhã, Giải thoát và Pháp thân. Giải thoát tuy giống. Nhưng
Bát Nhã và Pháp thân tức là Tính tướng trí tuệ, Quả thể nhất thừa của Phật là những
thứ họ chưa chứng được, bốn chúng chẳng hiểu, bởi vậy sinh nghi, như đoạn trong
kinh nói rằng “Bấy giờ Xá Lợi Phất” cho tới “mà thuyết kệ rằng”.
“Nhân gì ? ” : có
nghĩa là do bởi đạo lý gì.
“Duyên gì ? ” : có
nghĩa là duyên do bởi sự gì.
“Chư Phật phương
tiện đệ nhất” : đây là tổng cú (câu khái quát chung).
Đây là phần thuyết
minh riêng : thứ “thậm thâm vi diệu” này tức là Trí tuệ Phật.
“Pháp khó hiểu” :
tức là Trí tuệ môn, vì phần này nhằm giải thích hai thứ nói trên. Cái nghi này
ở đây là loại pháp chấp, dị thục sinh nhiếp.
*
-Kinh văn : “Con
từ xưa đến nay” tới “pháp khó hiểu”.
Tán rằng : đây là
giải thích về việc xin giải quyết mối ngờ. Bản thân đã chưa được nghe, bốn
chúng lại nảy mối ngờ, cho nên xin Phật giảng giải cho.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Xá Lợi Phất” tới “pháp bất khả tư nghị”.
Tán rằng : trong
11 hành tụng (tụng lại lần nữa), chia làm bốn phần :
•3 tụng rưỡi đầu,
tụng về việc ca ngợi chư Phật phương tiện đệ nhất, pháp rất sâu vi diệu khó
hiểu trong lần hỏi trước.
•3 tụng kế, tụng
về bốn chúng trước đây đều có mối nghi.
•1 tụng rưỡi tụng
về ý tự nghi “con từ xưa tới nay chưa được nghe”.
•4 tụng cuối tụng
về việc thỉnh “chỉ xin Thế tôn giảng giải sự này”.
Trong phần đầu lại
chia làm ba :
a) Một tụng rưỡi,
tụng về ý trước đây Phật tự bảo rõ rằng : Như Lai biết thấy rộng lớn, sâu xa,
vô lượng, vô ngại v.v… , đó là Pháp sư diệu.
b) Một tụng, tụng
về pháp chứng được trước đây khó hiểu, pháp được thuyết trước đây khó biết, đó
là Pháp diệu.
c) Một tụng, tụng
gộp về việc tán thán Pháp và Pháp sư diệu.
Không hỏi mà tự
nói, đây là phần đầu.
“Tuệ Nhật đại
thánh tôn” (bậc đại thánh chí tôn có trí tuệ ví như mặt trời) : gọi như vậy vì
trí tuệ của Phật ví như mặt trời. Kinh Niết Bàn nói : Ví như mặt trời mới
mọc ánh sáng rực rỡ vừa có thể tự soi lại vừa diệt hết mọi tối tăm, hai lợi của
Phật cũng giống y như vậy.
Kinh Tăng Nhất A
Hàm nói : Mặt trời mọc có bốn sự :
1) Khi mặt trời
mọc thì các bóng tối đều bị tiêu trừ.
2) Nông phu làm
mùa.
3) Trăm chim đều
hót.
4) Con nít khóc
nhè.
Phật bảo các
Tỳ kheo rằng : “Như khi mặt trời mọc thìø bóng tối bị xua tan, đó là ví với
Phật ra đời trừ khử ngu si tăm tối, không chỗ nào không được soi sáng”.
“Nông phu làm mùa”
có nghĩa là khắp cả loài người đều cùng nhau làm ruộng, đó là ví với việc đàn
việt thí chủ tùy lúc mà cung cấp các thứ áo quần, đồ ăn thức uống, giường chiếu
chăn đệm, thuốc men chữa bệnh.
“Trăm chim đều
hót” ví với việc các bậc cao đức pháp sư v.v… năng vì bốn chúng mà thuyết pháp
vi diệu.
“Con nít khóc
nhè”, đây là ví với ma tệ thấy Phật xuất thế thì tâm rất sầu não. Cũng giống
như trong kinh có bài kệ tán thán Phật rằng :
Như Lai sắc
vàng như vua núi.
Như mặt trời
mọc chiếu thế gian,
Cứu chúng sinh
khỏi khổ đêm dài,
Nên con đỉnh
lễ vua ba cõi.
Cho nên nay ca
ngợi Phật, gọi Phật là Tuệ Nhật vậy.
“Lâu mới thuyết
pháp này” : Phật thành đạo đã nhiều năm, nhưng chẳng hề nói rõ, nay mới nói ra,
cho nên gọi là “lâu”.
Hai câu trên này
là phần nêu. Dưới là một tụng, tụng về việc Phật thuyết các loại quán niệm
trước đây.
*
-Kinh văn : “Pháp
ứng ở đạo tràng” tới “cũng không ai biết hỏi”.
Tán rằng : nửa
tụng trên tụng về Bồ đề Niết bàn khó hiểu chứng được trước đây, Trí tuệ thậm
thâm.
Nửa tụng dưới tụng
về những điều đã thuyết trước đây khó biết, Trí tuệ môn thậm thâm. Vì nhị thừa
chẳng biết nên thảy đều không ai có thể hỏi cả.
*
-Kinh văn : “Không
hỏi mà tự nói” tới “sở đắc của chư Phật”.
Tán rằng : nửa
trên tụng chung, tán thán hai Diệu.
“Không hỏi mà tự
nói” : vì từ tam muội trở dậy liền lập tức bảo ngay.
Câu thứ ba nói về
Pháp diệu.
Câu thứ tư nói về
Pháp sư diệu.
*
-Kinh văn : “Các
La hán vô lậu” tới “xin Phật giải thuyết cho”.
Tán rằng : dưới
đây là 3 tụng về bốn chúng nghi hoặc, có hai phần :
•1 tụng đầu, tụng
về mối nghi của các hạng vô học, hữu học trong hàng Thinh văn.
•2 tụng sau, tụng
về việc các chúng Duyên giác v.v… xin Phật thuyết pháp.
“Nghi” : ví với
mạng lưới, vì đã sinh thì khó thoát ra.
* “Do dự” : sách
Thuyết Văn nói rằng miền Lũng Tây gọi chó con là con “do”, vì tính của con do
thường hay ngập ngừng e ngại khi đứng trước mặt người, cho nên phàm điều gì
chẳng quyết thì gọi là “do dự”.
Sách Nhĩ Nhã nói :
Con do nom giống như con khỉ giỏi leo cây. Quách Phác cũng nói: Đó là loài giỏi
leo cây.
*
-Kinh văn : “Ở các
chúng Thinh văn” tới “là đạo sở hành này”.
Tán rằng : đây là
tụng về nỗi nghi ngờ của bản thân (tự nghi).
Trí chứng đắc
trước kia của bản thân mình là Quả pháp này, là Nhân đạo này. Nếu là quả này,
thì điều sở đắc đã mãn. Nay còn tán thán thứ gì ? Nếu là nhân này, thì còn phải
hướng cầu thành quả của nhân đó.
Trước nói : chúng
nhân đã sinh tâm quyết định đối với điều sở đắc của mình và nghi ngờ điều Phật
thuyết. Nay thì Thu Tử không có ý quyết định, đối với những điều sở đắc của
mình cũng sinh ra nghi hoặc.
Thêm nữa, đối với
những điều được nghe trước đây, bản thân còn có ý quyết định, nhưng nay nghĩ
lại cũng sinh ra nghi ngờ đối với điều sở đắc của mình. Cho nên chẳng trái gì
nhau.
*
-Kinh văn : “Con
từ miệng Phật sinh” tới “đúng thời thuyết như
thực”.
Tán rằng : dưới
đây tụng về việc thỉnh Phật thuyết pháp chia làm hai phần :
• 1 tụng đầu, tụng
về việc đệ tử Thinh văn thỉnh.
• 2 tụng sau, tụng
về việc các chúng khác thỉnh.
Đây là phần
đầu.
Vâng theo ngôn
giáo của Phật, đạo thánh mới khởi lên được. Giáo từ miệng mà ra, nên gọi là từ
miệng sinh, vì lựa lọc từ tinh huyết của thai tạng khác mà thành.
*
-Kinh văn : “Ma
trời rồng quỉ thần” tới “muốn nghe đạo đầy
đủ”.
Tán rằng : đây là
tụng về việc các chúng khác thỉnh.
Cõi này Phật ra
đời, không có Chuyển luân vương, nên nói là có các Chuyển luân vương của các
nước tới.
“Đạo đầy đủ”
: đó là lý đại thừa.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật bảo” tới “đều sẽ kinh nghi”.
Tán rằng : dưới
đây là đoạn thứ hai, có hai phần : phần đầu là bảo “Thôi”, phần sau là nài
thỉnh. Đây là phần bảo “Thôi”.
Phần thứ tư ở dưới
của Luận là phần giải thích về Định ký.
Ký : là ký biệt,
phân minh ký biệt nghĩa thâm mật gọi là ký biệt. Đó tức là thứ được gọi là Ký
Biệt Kinh trong 12 bộ kinh. Ký Biệt Kinh có ba loại :
1. Ghi lại sự khác
biệt về công đức, lỗi lầm của đệ tử thời quá khứ .
2. Thụ ký cho các
bậc đại nhân thành Phật.
3. Phân minh ký
biệt nghĩa thâm mật, như trong chương 12 phần giáo ở dưới sẽ nói rõ.
Đây tức là loại Ký
Biệt Kinh thứ ba.
Luận rằng : từ dưới
cứ y vào bốn loại sự mà thuyết :
• Một là Quyết
định tâm.
• Hai là Nhân thụ
ký.
• Ba là Thủ thụ
ký.
• Bốn là Dữ thụ
ký.
1) Quyết định tâm
: có nghĩa trong tâm của Phật vốn đã có sự quyết định về những người sẽ thực
hành đạo Đại thừa. Do đó mới có việc bảo “Thôi” và thuyết pháp sau này. Vì vậy
về Quyết định tâm, luận chẳng phối thuộc vào kinh, vì thông với ý hạ văn.
Luận rằng : thế
nào là Quyết định tâm? Có nghĩa là đối với những kẻ đã nảy sinh ra tâm lý kinh
sợ thì khiến cho họ khỏi kinh sợ. Để làm lợi ích cho hai loại người, nên Như Lai
có Quyết định tâm.
Kinh d sợ có năm loại :
1/ Tổn kinh bố :
như loại đã từng được nghe giáo thanh của Phật, cứ chấp thủ cho đó là thực, hủy
báng cho là không có Đại thừa và nói rằng: Như Lai nói rằng A la hán cứu cánh
Niết bàn, ta cuối cùng đã đạt được Niết bàn như vậy. Cho nên A la hán chẳng
nhập Niết bàn. Đó tức là Quyết định chủng tính Thinh văn.
Thinh văn tức là
loại coi giáo thanh đã được nghe là cách để chứng thực quả cứu cánh. Ta cuối
cùng đã có được Niết bàn như vậy, quả đã cứu cánh. Nghĩ thế nên họ hủy báng cho
là không có đại thừa, chẳng kham nổi việc nghe Phật ngày nay thuyết giảng cho
họ về lý đại thừa. Nếu nghe nay nói rằng quả kia chẳng phải là cứu cánh
thì họ sẽ kinh sợ nghi ngờ rằng A la hán đều rốt ráo không nhập Niết bàn. Vì
trái đạo sinh nghi nên gọi là Tổn.
2/ Đa sự kinh bố :
vì chúng sinh đại thừa sinh tâm như vầy : “Ta trong vô lượng vô biên kiếp, tu
hành hạnh Bồ tát, chịu đựng khổ sở vất vả đã lâu, vì vậy mà sinh tâm kinh sợ,
khởi tâm muốn theo thừa khác”. Đó gọi là loại Bất định tính Địa tiền Bồ tát.
Hạng này trụ trong
đại thừa đã trải qua nhiều kiếp tu hành hạnh Bồ tát, gọi là hạng Đa sự. Vì sợ
họ khởi tâm thoái chuyển chạy theo thừa khác, nên nay thuyết cho họ khiến họ
chẳng thoái chuyển.
3/ Điên đảo kinh
bố : vì hạng này phân biệt ngã, ngã sở, thân kiến bất thiện pháp. Đó là hạng
phàm phu định tính căn chưa thành thục. Hạng này phiền não rất nặng, chẳng đáng
để thuyết pháp cho. Nếu thuyết cho họ thì họ lại càng sinh phiền não, điên đảo
kinh sợ.
4/ Hối kinh bố :
đó là hạng nếu thuyết cho họ thì họ sẽ nghĩ : “Đại đức Xá Lợi Phất ! Ta chẳng
nên chứng pháp tiểu thừa như vậy, hãy tự thôi tiểu quả mà qui hướng đại thừa”.
Vì Hối tâm đó nên gọi là kinh bố.
5/ Cuống kinh bố
(kinh sợ cho là Phật nói dối) : đó là loại nếu thuyết cho họ thì vì họ là kẻ
tăng thượng mạn nên sẽ nói rằng : “Cớ sao Như Lai lại lừa dối chúng ta”. Vì tự
cho rằng đạo đã viên mãn không còn sót gì nữa.
- Thinh văn có hai
loại :
a) Định tính.
b) Bất định tính.
- Phàm phu có hai
loại :
a) Loại chưa được
bảo là được.
b) Loại có phiền
não nặng.
- Bồ tát có hai
loại :
a) Loại thoái vị.
b) Loại chẳng
thoái vị.
+ Hạng định tính
Thinh văn : tức là loại Tổn kinh bố.
+ Hạng Bất định
tính Thinh văn : tức là loại Hối kinh bố.
+ Hạng phàm phu
chưa được bảo là được : tức là loại Cuống kinh bố.
+ Hạng phàm phu
sẵn có phiền não : tức là loại Điên đảo kinh bố.
+ Hạng Bồ tát
thoái vị : tức là loại Đa sự kinh bố.
Còn Bồ tát Bất
thoái vị chẳng phải là hạng ởõ trong năm loại này, vì họ bỏ quyền theo thực,
thích tới Phật vị, nên mới thuyết nhất thừa cho họ.
Ở đây thuyết nhất
thừa chẳng nhằm vào căn khí của họ.
Luận rằng : chính
vì lợi ích cho hai hạng người nên Như Lai có Quyết định tâm. Hai hạng chỉ Đa sự
kinh bố và Hối kinh bố. Vì làm lợi ích cho hạng Hối kinh bố thì sẽ kéo theo cả
loại kia, làm lợi ích cho hạng Đa sự thì sẽ nhậm trì loại còn lại.
Nay đây bảo
“Thôi”, và phần chính thuyết ở dưới, tâm Phật đã định trước là vì hai loại
người này, chứ chẳng phải chính là vì các loại khác còn lại. Đó tức là hai
nghĩa đầu trong mười nghĩa thuyết nhất thừa.
Xem ý văn này thì
loại Đa sự, nếu chẳng thuyết thì họ sẽ có sự kinh sợ, nếu thuyết thì sẽ không
còn kinh sợ. Còn bồn loại còn lại, nếu thuyết thì họ sẽ kinh sợ, nếu chẳng
thuyết thì họ sẽ không kinh sợ. Nên Luận nói chung là những kẻ đã sinh ra kinh
sợ thì khiến họ khỏi kinh sợ.
2) Nhân thụ ký :
thì như đoạn kinh văn có hai chữ thôi : “Thôi ! Thôi ! Chẳng cần nói nữa”
cho tới “ trời, người đều sẽ kinh sợ ”. Đó là hai nghĩa của Nhân đối với hạng
đáng được nghe pháp. Vì những kẻ chẳng kham nổi việc nghe pháp rút lui, nên gọi
là Nhân.
Nhân thụ ký đều
sinh kinh sợ, có ba loại nghĩa :
a/ Vì muốn đại
chúng suy nghĩ tìm tòi cảnh giới thậm thâm.
b/) Vì muốn khiến
đại chúng sinh tâm tôn trọng, rốt cuộc muốn nghe.
Hai nghĩa trên là
đối với hạng đáng được nghe pháp.
c/ Để khiến cho kẻ
tăng thượng mạn lìa khỏi pháp tòa mà đi, tức là những kẻ không kham nổi việc
nghe pháp thì rút lui.
Nay đây là lần bảo
“Thôi” thứ hai, chỉ là hai nghĩa vì những người đáng được nghe, tới lần bảo
“Thôi” thứ ba mới là để cho những kẻ chẳng đáng được nghe rút lui.
3) Thủ thụ ký :
thì như trong kinh đoạn từ “Bấy giờ Thế tôn” trở xuống, tức là Phật bằng lòng
nhiếp thụ, hứa sẽ thuyết pháp cho.
4) Dữ thụ ký : thì
như trong kinh đoạn từ “Phật bảo Xá Lợi Phất” trở xuống, tức là Phật chính vì
hạng đáng được nghe mà giải thích nhất thừa v.v…
Trong bốn sự Định
ký :
a) Quyết định
tâm, là lý do bảo “Thôi” và thuyết pháp.
b) Nhân thụ ký,
chỉ là lý do bảo “Thôi” đừng thỉnh.
c) Thủ thụ ký, là
phần hứa khai thị giải thích.
d) Dữ thụ ký, là
phần chính thức khai thị trần thuyết.
Nay nói kinh nghi,
có nghĩa là khiến những người đáng được nghe kinh ngạc nghi hoặc, suy tìm thâm
pháp, tôn trọng muốn nghe.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi
Phất” tới “xin thuyết giảng cho”.
Tán rằng : dưới
đây là lần thỉnh thứ hai.
Luận rằng : vô
lượng Phật thời quá khứ đã thị hiện giáo hóa chúng sinh. Phần đầu là trường
hàng, phần sau là kệ tụng. Trường hàng có hai :
1) Tổng thỉnh.
2) Kham nghe.
Đây là thỉnh vậy.
*
-Kinh văn : “Sở dĩ
như vậy là vì sao?” tới “thì có thể kính tin”.
Tán rằng : đây nói
có ba nguyên nhân có thể kham nổi việc nghe pháp :
• Một là gặp được
duyên lành, từng thấy chư Phật.
• Hai là tính
thông minh, căn mạnh mẽ lanh lợi.
• Ba là hiểu biết
chân nghĩa, trí tuệ sáng láng.
Cho nên có thể
nghe tin.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Xá Lợi Phất” tới “có người biết kính tin”.
Tán rằng : đây
tụng về ý “có thể biết được”.
*
Kinh - văn : “Phật lại bảo :
Xá Lợi Phất ! Thôi” tới “sẽ sa xuống hố
lớn”.
Tán - rằng : đây là đoạn thứ
ba. Có hai phần : đầu là Phật bảo “Thôi”, sau là Thu Tử nài thỉnh.
Trong “Thôi” có
hai : trường hàng và tụng.
Đây là phần
đầu.
Nhân việc những kẻ
chẳng kham nổi việc nghe pháp rút lui, e rằng hạng tăng thượng mạn được pháp
Tĩnh lự thứ tư của thế gian rồi, bèn cho đó là quả A la hán mà sinh ra phỉ báng
sẽ bị đọa xuống địa ngục, gọi là sa xuống hố lớn. Đây đều là phàm phu, nên sa
xuống hố lớn, chứ chẳng phải là hàng thánh hữu học.
Du Già luận nói :
Hết thảy thánh nhân đều biết quả của mình đã chứng được, không tự cho rằng mình
đã đắc thánh quả ở địa vị sau mà mình chưa chứng, tức là chẳng sinh tăng thượng
mạn, bởi không có tà kiến, nên chẳng tạo nghiệp để phải đọa vào địa ngục nữa.
Cho nên hạng Tỳ
kheo tăng thượng mạn chứng đắc pháp Tĩnh lự thứ tư của thế gian rồi, sau khi
mệnh chung do báng giải thoát, khởi tà kiến, nên phải sinh trong địa ngục mà
các Luận nói tới, đó tức là loại này.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “nghe ắt chẳng kính tin”.
Tán rằng : pháp
diệu, khó hiểu. Hạng thấp kém ngu si nghe xong sẽ nảy ra ý báng bổ, sẽ chẳng
kính tin, bởi vậy sợ rằng sẽ bị sa xuống hố lớn.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Xá Lợi Phất” tới “có nhiều điều lợi ích”.
Tán rằng : dưới
đây là lần thỉnh thứ ba. Có hai phần : đầu là trường hàng, sau là kệ tụng.
Trường hàng có hai
phần : đầu là Tổng thỉnh, sau là Kham nghe.
Thu Tử lợi căn, tự
biết mạng xưa, cũng biết được những người khác đời trước đã từng theo Thích Ca
thụ hóa, căn thành, đạo mãn, nghe ắt có thể tin theo, ắt sẽ được yên ổn lợi ích
trong đêm dài sinh tử, nên nay thỉnh Phật thuyết pháp.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Xá Lợi Phất” tới “xin thương phân biệt
thuyết”.
Tán rằng : dưới là
4 tụng, chia làm ba phần :
• Đầu là 1 tụng,
tự xưng là trưởng tử để thỉnh Phật giải quyết.
• Thứ đến 1 tụng
rưỡi, trình rõ đại chúng theo sự giáo hóa của Phật đã lâu, để thỉnh Phật thuyết
pháp.
• Cuối cùng là 1
tụng rưỡi, trình bày rõ bản thân cùng những người khác nghe pháp ngộ giải thì
sinh hoan hỉ, để mà thỉnh Phật thuyết pháp.
Đây là phần
đầu.
Phật là đấng tôn
quý trong hết thảy các loài Nhị túc, Đa túc, Vô túc. Nay gọi là Lưỡng túc tôn
vì ở trong ba loài trên, Lưỡng túc là quý vì năng nhập đạo, gọi là Nhân thiên lọai.
Phật cũng lưỡng túc nên gọi là Lưỡng túc tôn.
Trong chúng Thinh
văn , Thu Tử là đệ nhất, nên gọi là trưởng tử.
*
-Kinh văn : “Vô
lượng chúng hội này” tới “muốn nghe lời Phật dạy”.
Tán rằng : 1 tụng
rưỡi này trình bày về việc đại chúng từ lâu đã theo sự giáo hóa của Phật, Nhân
xưa nay đã thành thục, nên thỉnh Phật thuyết pháp cho.
*
-Kinh văn : “Chúng
con ngàn hai trăm” tới “thì sẽ rất hoan hỉ ”.
Tán rằng : một
tụng rưỡi này trình gộp cả hai ý bản thân và người khác nếu được nghe pháp sẽ hoan
hỉ, để thỉnh Phật thuyết.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “phân biệt thuyết giải”.
Tán rằng : trong
đoạn thứ tư nói về phần Định ký của Luận, thì từ đây là sự thứ ba Thủ thụ ký :
Phật bằng lòng nhiếp thụ mà thuyết pháp cho.
Cho nên Luận
nói rằng : “Thủ thụ ký” có nghĩa là vì nhóm các ông Xá Lợi Phất muốn được thụ
ký, như kinh chép rằng : “Phật bảo Xá Lợi Phất : ông đã thỉnh ba lần, lẽ nào lại
chẳng thuyết …” nên Phật hứa nhiếp thụ Thủ.
Nếu căn cứ
vào Luận tự giải thích, thì dưới đây là đoạn thứ ba : mở bày đây là Thực tướng,
kia là Quyền môn. Ở trong này có hai phần :
• Phần đầu thuyết
minh về nhị Ký
(hai loại
thụ ký).
• Phần sau thuyết
minh về ngũ trược
(năm thứ
ô trược).
Dưới mới phá bốn
nghi.
Nhị ký có hai :
đầu tiên là Thủ ký, sau là Dữ ký.
Trong phần Thủ ký
có hai :
+ Phần đầu là Phật
bằng lòng nhiếp thụ.
+ Phần sau là kẻ
ác rút lui.
Đây là phần
đầu.
Bồ Tát Địa luận
nói rằng : “Nghe pháp thì phải lắng tai nghe giảng, tẩy rửa (tà kiến),
nhiếp trì (chính pháp)”.
Trí Độ luận
cũng nói: “Người nghe phải nhìn thẳng như (đang) đói khát, nhất tâm thâm nhập
vào trong ngữ nghĩa, hăm hở nghe pháp, tâm sinh bi hỉ. Người như vậy mới đáng
thuyết cho”.
Nhìn thẳng có
nghĩa là chú ý quan sát. Nếu chẳng dặn dò bọn chúng sinh kia khiến họ chú ý
lắng nghe, e rằng tâm họ chẳng ổn định, tuệ giải chẳng sinh, nên bảo phải chú ý
lắng nghe.
*
-Kinh văn : “Lúc
nói lời ấy” tới “lễ Phật rồi rút lui”.
Tán rằng : dưới
đây là việc kẻ ác rút lui. Có bốn phần :
1) Nói rõ việc (kẻ
ác) bỏ đi.
2) (Phật) chẳng
ngăn lại.
3) (Phật) dặn dò
(những người ở lại).
4) Những người ở
lại kính vâng (lời Phật).
Trong phần đầu lại
có hai mục : đầu là nêu lên, sau là giải thích. Đây là mục nêu.
*
-Kinh văn : “Sởõ
dĩ như vậy là vì sao?” tới “bởi vậy chẳng trụ”.
Tán rằng : đây là
phần giải thích lý do kẻ xấu đứng lên bỏ ra đi.
Đây tự hỏi rằng :
“có năm điều khó được :
1) Được làm thân
người : khó.
2) Được sinh ở nơi
trung tâm của đất nước : khó.
3) Được các căn
đầy đủ : khó.
4) Được gặp lúc
Phật ra đời : khó.
5) Được nghe chính
pháp : khó.
Năm ngàn đồ đệ đã
có đủ bốn thứ đầu, cớ sao lúc Phật sắp thuyết diệu pháp lại rời chiếu đứng lên
bỏ đi ? Nguyên nhân vì sao lại có sự bỏ đi đó ?”
Nay giải thích có
hai ý :
• Một là họ tội
căn sâu nặng.
• Hai là họ có
thói tăng thượng mạn.
* Chữ Bối [輩] ở đây đọc là Bối, có nghĩa là Bọn, Bè lũ, Sách Thuyết Văn giải
thích theo quân pháp thì một trăm xe được điều động thì gọi là Bối. Sách Quãng
Nhã v.v… thì giải thích Bối có nghĩa là Loại. Theo sách Ngọc Thiên thì chữ này
thuộc bộ Tỉ [比 ] và cũng có nghĩa là loại.
“Tội” : có nghĩa
là đáng chê đáng trách đáng sợ đáng ghét. Dù nhân hay quả nếu đáng chê đáng
ghét thì đều gọi là Tội.
- Nếu theo tiểu
thừa thì tội đó rất nhiều, loại nặng có ba :
1) Phiền não
chướng.
2) Nghiệp chướng.
3) Dị thục
chướng.
Tất cả mọi loại
phiền não đều chia làm hai loại :
a) Loại khởi lên
luôn luôn thì gọi là Cần.
b) Loại khởi lên
mạnh mẽ thì gọi là Lợi.
Trong đây chia làm
bốn câu :
1) Cần mà chẳng Lợi.
2) Lợi mà chẳng
Cần.
3) Vừa Cần vừa
Lợi.
4) Chẳng Cần chẳng
Lợi.
Nay lấy loại đầu
và loại thứ ba, gọi là Phiền não chướng.
Ngũ vô gián nghiệp
gọi là Nghiệp chướng.
Ba đường tám nạn
gọi là Dị thục chướng.
Ba loại chướng này
gây chướng cho nghiệp nhập thánh đạo, nên gọi là tội nặng (trọng tội).
- Nay theo đại
thừa thì chướng có hai loại :
1. Phiền não
chướng.
2. Sở tri
chướng.
Sở tri chướng là
loại tùy theo sở ứng mà gây chướng cho việc nhập thánh vị đại thừa.
Phiền não chướng
là loại tùy theo sở ứng mà gây chướng cho việc nhập thánh vị tam thừa.
- Theo Phật Địa
luận thì Phiền não chướng có ba loại :
1) 128 phiền não
và tùy phiền não.
2) Sở phát nghiệp.
3) Sở đắc quả.
Đây có ý nói là
tên gọi chung của các phẩm loại đó gọi là Chướng, chứ chẳng phải cứ là loại
trọng chướng.
- Theo Đại Bát
Nhã, trọng chướng có bốn loại :
1) Phiền não
chướng, 3) Dị thục chướng.
2) Nghiệp chướng, 4) Pháp chướng.
1) Phiền não
chướng, chỉ 128 căn bản phiền não cùng các tùy phiền não đẳng lưu của chúng,
tùy theo sở ứng của chúng mà có thể gây chướng cho bậc thánh giả, đó đều gọi là
loại chướng này, vì nếu có đủ chúng
sẽ tùy theo sở ứng
mà gây chướng cho vị thánh đó.
2) Về nghiệp
chướng, cứ theo Kinh Tát Già Ni Kiền Tử có năm loại nghịch :
1/ Phá hoại chùa,
tháp, trộm cắp và dùng của cải Tam bảo.
2/ Phỉ báng pháp
tam thừa, nói đó chẳng phải là thánh pháp, gây chướng ngại khó dễ, giấu giếm
bưng bít.
3/ Đối với mọi
người xuất gia dù có giới, không giới, trì giới, phá giới mà đánh chửi, mắng mỏ
họ, kể lể tội lỗi của họ, giam hãm họ trong tù ngục, hoặc lột áo cà sa , bức họ
hoàn tục, bắt họ sưu dịch, xua đuổi họ khiến họ phải dời chỗ, đoạn mệnh căn của
họ.
Kinh Đại Tập nói :
Tội kể lể lỗi lầm của một Tỳ kheo phá giới còn nặng hơn tội làm đổ máu vạn ức
thân Phật.
4/ Giết cha hại
mẹ, giết A la hán, làm đổ máu thân Phật phá hòa hợp Tăng.
5/ Khởi tà kiến
lớn, phỉ báng nói là không có nhân quả, suốt đêm dài (sinh tử) thường làm mười
nghiệp chẳng lành.
Năm loại này chỉ ở
đại thừa, gọi là Ngũ nghịch nghiệp chướng. Cũng có chỗ nói là bảy bậc, nhưng
chẳng quá năm loại này, bởi vậy chẳng giảng.
3) Dị thục chướng,
là các dị thục quả có thể gây chướng cho thánh đạo, tức là ba ác thú, tám vô hạ
v.v… Trong khoảng này, trước Phật sau Phật khó ứng với trước pháp sau pháp, vì
trước sau Phật pháp ấy chẳng đắc quả thánh.
4) Pháp chướng, có
nghĩa là ở đời trước gây chướng cho người khác khi họ làm điều thiện, tạo nên
nghiệp Quỹ pháp (nghiệp bị thiếu thốn chính pháp), trong đời nay chẳng được nghe
pháp, thiếu thốn chính pháp. Đó là loại chướng thuộc hai quả Đẳng lưu, Tăng
thượng, trong năm quả. Tội căn sâu nặng thì cảm nghiệp Quỹ pháp. Vì tội căn này
nên hiện chẳng nghe pháp. Vì tội thể này cho nên là chướng thứ tư.
* Chữ Mạn [ 慢 ] theo sách Ngọc Thiên có nghĩa là khinh khi, chẳng (nể) sợ, ngạo
nghễ. Có chỗ viết làø (嫚 ] , Sách Thiết Vận giải là (khinh) khi
và viết làø (謾]. Và cho rằng chữ [ 慢 ] (thuộc bộ Tâm đứng) có nghĩa là Chậm.
Tướng của mạn là
tự cao, cậy mình lấn lướt người khác.
Du Già v.v… nói
mạn bảy loại :
1) Mạn. 5)
Tăng thượng mạn.
2) Quá mạn. 6) Ti
mạn.
3) Mạn quá
mạn. 7) Tà mạn.
4) Ngã mạn.
1) Mạn : là đối
với người kém mình, cậy mình hơn người, đối với người bằng mình, cậy mình bằng
người.
2) Quá mạn : có
nghĩa là đối với người bằng mình thì chấp là mình hơn người; hoặc đối với người
hơn mình, vẫn chấp là mình bằng người.
3) Mạn quá mạn :
có nghĩa là đối với người hơn mình, vẫn chấp là mình hơn người.
4) Ngã mạn : có
tướng là tự cao, cậy vào sở chấp ngã.
5) Tăng thượng mạn
: có nghĩa là mình thực ít đức, cứ bảo là mình nhiều đức.
6) Ti mạn : có
nghĩa là người khác nhiều phần hơn mình, nhưng mình cứ chấp là chỉ kém người
khác chút ít.
7) Tà mạn : là
mình hoàn toàn không có đức, nhưng cứ bảo là mình có đức.
“Tăng thượng mạn” ở đây tức là loại thứ năm : mình thực ít đức mà bảo là mình nhiều đức. Đắc
thiền định, Niết bàn thế gian v.v… (nên) chưa đắc nhiều, (vậy mà cứ) bảo là
nhiều đức, chưa chứng nhiều vậy mà cứ bảo là chứng nhiều.
“Đắc” : chỉ Hữu vi
đạo.
“Chứng” : chỉ Vô
vi diệt.
Đó là tướng của
Tăng thượng mạn. Chứ chẳng phải là hoàn toàn chưa đắc, mà nay bảo là đắc. Nếu
chẳng thế thì chẳng phải là tướng Tăng thượng mạn mà là tướng của Tà mạn, loại
mạn thứ bảy.
Cho nên vì có hai
loại lực của loại Phiền não chướng này và loại Pháp chướng nói trên mà chẳng
kham nổi việc nghe pháp.
Hỏi - : bọn năm ngàn người đã
chẳng kham nổi việc nghe pháp, thế thì vì nguyên nhân gì mà mắt họ thấy thần
quang, tai họ nghe diệu xướng, nhìn hoa trời mà cứ lặng im, thấy đất động mà
không kinh sợ ?
Đáp - : phóng quang, động đất
chưa làm thay đổi được cái tâm phàm phu dung tục của họ. Diễn thuyết diệu pháp,
tuyên thuyết nan pháp lại trái với ý thức nông cạn của họ.
Nghe lời vấn đáp
trong phần Tựa là “sơ nhân đại tiệm”. Nghe lời thuyết trình sâu sắc về những
điều trong tông chỉ thì họ lại càng tăng thêm mê hoặc mà đâm ra phỉ báng, bởi
vậy phải bẻ bỏ cành lá, quạt loại tấm cám đi.
*
-Kinh văn : “Thế
tôn lặng im mà chẳng ngăn lại”.
Tán rằng : đây là
phần thứ hai : Phật chẳng ngăn lại.
* Mặc : nghĩa là
Tĩnh (im). Thường viết là [ ] .
Các Luận đều nói
rằng có 2 loại quyết định mà Phật lực chẳng bài trừ được :
1) Thụ dị thục
quyết định.
2) Tác nghiệp
quyết định.
Tội căn sâu nặng
là Thụ quả định loại. Tăng thượng mạn là Tác nghiệp định loại. Do đó mà bọn năm
ngàn người từ tòa đứng lên, Phật tuy có thần lực cũng chẳng ngăn lại. Hơn nữa
thà để họ đi để chẳng bị đọa xuống hố lớn, chẳng thể ngăn họ gây nghiệp nặng,
nên Phật chẳng ngăn. Họ nếu phát tâm, định nghiệp có thể chuyển được. Tâm họ
chẳng thay đổi, nên Phật lực chẳng bài trừ được.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật bảo” tới “sẽ thuyết cho ông”.
Tán rằng : đây là
phần thứ ba : Phật dặn dò những người ở lại.
Gió giật thì hạt
mẳn rớt, sương sa hạt chắc vẫn còn. Phật hứa thuyết pháp thì kinh động tâm họ,
chấn uy thần mà khiến họ đứng dậy bỏ đi. Cho nên để cành lá rút là hay, bảo
hạng hạt chắc trụ lại mà hứa thuyết cho họ. Hạng khinh bạc hư sơ thì ví như
cành lá. Người đôn hậu kiên cố lại ví như hạt chắc.
* Âm của chữ Giai
là phiên thiết của hai chữ Cổ Hài, có nghĩa là lành, tốt. Chữ Hài
[ ] có âm đọc là phiên thiết của Hộ Giai. Hài
[ ] : có nghĩa Thịt, Ruốt thịt, món ăn bằng thịt,
người phương Nam gọi [ ] Hài là Lưỡng
[ ].
*
-Kinh văn : “Xá
Lợi Phất nói” tới “nguyện vui lòng muốn nghe”.
Tán rằng : đây là
phần thứ tư : những người ở lại kính vâng lời Phật dạy.
* Chữ [ 唯 ] có hai cách đọc Duy và Dụy, là từ chỉ ý kính vâng. Chữ [ 然 ] đọc là Nhiên (phải, vâng) là từ chỉ ý thuận tòng.
“Nguyện lạc” (nguyện
vui lòng, xin sẵn lòng) : chỉ ý mong mỏi được giải đáp.
“Dục văn” (muốn
nghe) : cũng chỉ bản tâm hy vọng được nghe.
*
-Kinh văn : “Phật
bảo Xá Lợi Phất” tới “thỉnh thoảng mới xuất hiện một
lần mà thôi”.
Tán rằng : dưới
đây thuyết minh về mục Dữ thụ ký (Phật thụ ký cho), Phật giải thích cho nhóm
các ông Xá Lợi Phất.
Luận nói rằng có
sáu phần :
1. Chưa nghe khiến
nghe. Chính là đoạn kinh văn này, cho đến “nói chẳng hư dối”.
2. Thuyết. Đó là
đoạn từ “Này Xá Lợi Phất ! Chư Phật tùy nghi mà thuyết” trở xuống.
3. Y vào những
nghĩa gì. Đó là đoạn từ “Vì sao như vậy ? Chư Phật Thế tôn chỉ vì một đại sự”
trở xuống.
4. Khiến trụ. Đó
là đoạn từ “Này Xá Lợi Phất ! Như Lai chỉ vì một Phật thừa nên đã thuyết pháp
cho chúng sinh” trở xuống.
5. Y pháp. Đó là
đoạn từ “Này Xá Lợi Phất ! Pháp của hết thảy mười phương chư Phật cũng như vậy”
trở xuống.
6. Già (ngăn
chặn). Đó là đoạn từ “này Xá Lợi Phất ! Trong mười phương thế giới vẫn không có
nhị thừa” trở xuống.
Sau đây là giải
thích từng phần :
- Chưa nghe khiến
nghe, đây là tán thán pháp hy hữu (hiếm có), tỏ ý muốn khiến họ nghe.
- Thuyết : tức là
thuyết minh rằng pháp sở thuyết này ý khó biết.
- Y vào những
nghĩa gì : chỉ chưa nghe khiến nghe, và điều sở thuyết chỉ là phương tiện.
- Y vào những nghĩa
nào : chỉ pháp thâm diệu khó hiểu mà Phật đã chứng được.
- Khiến trụ : đây
có nghĩa là khuyên đến trụ trong nhất thừa.
- Y pháp : đây chỉ
nghi quỹ pháp thức mà Phật ba đời mười phương đều cùng thi hành. Đầu tiên thì
tùy nghi mà thuyết, lâu dần về sau sẽ khiến họ đạt được Phật chủng trí.
- Già : đây tức là
Già phá nhị chấp (ngã chấp, nhân chấp), già khiển nhị chân (hai loại chân như),
khiến họ tán thán pháp hy hữu.
- Phần “Chưa nghe
khiến nghe” có ba ý :
1) Tán thán pháp
hy hữu.
2) Nêu thí dụ.
3) Khuyến tín.
Đây là hai ý
đầu.
Đây nếu thuyết
luôn thì hạng vô trí sẽ chẳng thích, tới đúng lúc mới thuyết thì kẻ ngu người
trí đều cùng ưa thích.
- Từ “Ô Đàm Bát
La” trong tiếng Phạm, ở phương đây gọi là hoa Thụy Ứng (ứng với điềm lành). Kim
luân vương ra đời thì biển lớn cạn. Xe Kim luân xuất hiện thì hoa này mới nở.
Vì ứng với việc xe Kim luân ra ngự ở đời, nên gọi là hoa Thụy Ứng.
Kinh Pháp Hoa này,
ví như Pháp luân vương xuất thế thì biển sinh tử cạn, đạo nhất thừa hiển dương.
Đúng thời Phật mới thuyết pháp này, cho nên nêu lên làm thí dụ để tán thán pháp
hy hữu.
Pháp này Thu Tử
kiếp xưa chưa từng được nghe, nay khiến nghe, khiến phải khao khát.
*
-Kinh văn : “Xá
Lợi Phất” tới “nói chẳng hư dối”.
Tán rằng : đây là
Khuyến tín.
Kẻ trí giải hạn hẹp
thì chưa thể chứng đạt, nên nêu rõ là “chẳng hư dối” để khuyến khích họ sinh
tín tâm.
*
-Kinh văn : “Xá
Lợi Phất” tới “ý nghĩa khó hiểu”.
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ hai thuyết minh về Thuyết.
Có hai ý : đầu là
nêu lên, sau là giải thích. Đây là phần nêu lên.
*
-Kinh văn : “Vì
sao như vậy” tới “mới có thể biết được”.
Tán rằng : đây là
phần giải thích.
Luận giải thích
“nhiều thứ nhân duyên” : đó là chỉ pháp ba thừa. Pháp ba thừa đó chỉ là thuyết
danh tự chương cú, chứ chẳng phải là có thực nghĩa, vì thực nghĩa đó là bất khả
thuyết (chẳng thể thuyết minh được). Trong này ý nói : Ta dùng phương tiện mà
thuyết pháp ba thừa. Pháp này chỉ có danh tự chương cú, không có ba thể khác
nhau, ta tùy nghi mà thuyết ba, đó chẳng phải là thứ mà hạng nhị thừa v.v… có
thể suy lường hiểu được, chỉ có Phật mới biết được.
Ở đây nói rằng trí
môn nêu ra trước đây khó thể liễu giải được, vì thực nghĩa ba thừa tức là chân
như, là thứ Bất khả thuyết.
“Dựa vào những
nghĩa gì” : tức Phật trí tuệ.
*
-Kinh văn : “Vì
sao như vậy” tới “xuất hiện ở đời”.
Tán rằng : từ đoạn
văn ở dưới là loại thứ ba : Y vào những nghĩa gì ?
Có hai phần : phần
đầu là nêu sơ lược, phần sau là giải thích rộng.
Đây là phần
đầu.
Nhân đoạn văn
trước khởi lên, nên mượn hình thức hỏi để hiển lộ.
- Có nguyên nhân
gì ?
Đó là vì ngôn từ
khó hiểu, chỉ Phật mới biết.
- Căn cứ vào những
nghĩa gì mà nói như vậy ?
“Chư Phật Thế tôn”
: là nói chung chư Phật ba đời mười phương.
“Chỉ vì một đại
sự” : sự ở đây tùy theo ngữ cảnh thích ứng có thể hiểu là sự vật, thể sự, sự
nghĩa, đạo lý đều được. Phật vì nhân duyên đại sự này mà xuất hiện ở thế gian,
tự xưng đức hiệu, làm lợi ích rộng rãi cho chúng sinh.
Chẳng thế thì như
nhị thừa nhập diệt, do đại sự này, nên Phật tùy nghi mà thuyết, ý hướng khó
biết.
*
-Kinh văn : “Xá
Lợi Phất” tới “xuất hiện ở đời”.
Tán rằng : dưới
đây là phần giải thích rộng, có hai phần : đầu là hiển lộ riêng, sau là giải
thích ý.
Phần hiển lộ riêng
có ba : một là Hỏi, hai là Giải thích, ba là Kết.
Đây là Hỏi.
*
-Kinh văn : “Chư
Phật Thế tôn” tới “xuất hiện ở đời”.
Tán rằng : đây là
Giải thích. Thể của đại sự tức là tri kiến, chư Phật Thế tôn xuất thế vì đại sự
này. Dùng bốn nghĩa mà thuyết minh vấn đề này, đó là Khai, Thị, Ngộ, Nhập.
Luận rằng : một
đại sự thì dựa vào bốn loại nghĩa cần phải biết.
“Phật tri kiến” :
có nghĩa là Như Lai năng chứng như thực, biết nghĩa kia. Đây có ba cách giải
thích :
1. Cách giải thích
thứ nhất :
Pháp tính chân như
gọi là như thực. Pháp chân tính nêu đó tức là Sở chứng.
Nghĩa lý, cảnh
giới đều gọi là nghĩa. Thể của Chánh trí gọi là năng chứng, vì có khả năng biết
được nghĩa lý, chứng được chân cảnh.
Chánh trí năng
chứng, chân như sở chứng này, năng sở tri kiến đều gọi là tri kiến.
Như : là tính của
tri kiến.
Trí : là dụng của
tri kiến.
Tính tướng tri
kiến đều gọi là tri kiến.
Bát Nhã Luận của
ngài Vô Trước nói rằng : Vô thượng Bồ đề là Pháp thân. Chính đẳng Bồ đề là Báo
thân.
Kinh Giải Thâm Mật
nói rằng : Bồ đề, Bồ đề đoạn đều gọi là Bồ đề.
Trí Độ Luận nói
rằng : Thuyết trí và trí xứ đều gọi là Bát nhã.
Hoặc là, Tri : chỉ
Chiùnh thể trí. Kiến : chỉ Hậu đắc trí. Hai trí này là dụng, vì có thể soi dọi
được hai loại cảnh chân tục. Bản tính hai thứ này chính là Chân như, gọi gộp lại
là Tri kiến. Dùnh tính để tới tướng, nên gọi là Tri kiến, vì muốn khiến nhị
thừa cầu chủng trí.
Kinh Thắng Man nói
rằng : “Nhất thừa tức Phật thừa. Phật thừa tức là đại thừa”.
Nhiếp Đại Thừa
luận nói : Vừa là thừa lại vừa là lớn, nên gọi là đại thừa, đó là vạn hạnh.
Hoặc Thừa có đại tính, nên gọi là đại thừa, đó là Chân như.
Cho nên biết rằng
nhất thừa Phật quả, thừa thể thông suốt cả Lý và Trí, đáng làm tông nghĩa.
Ngụ ý của nhà lửa,
xe trâu là ở Dụng của Trí, vì xe trâu v.v… là do ta đặt ra.
Ngụ ý của đường
hiểm, bảo sở (nơi chứa của báu) là ở Tính của Trí, vì gọi Hóa là Thành, chẳng
phải là bảo sở. Do đó gộp hai thứ lại thì gọi Tri kiến.
Bản luận nói rằng
: những gì là bốn ?
1) “Khai”, có
nghĩa là vô thượng vì ngoài Nhất thiết trí trí ra không còn có sự nào khác.
Nhất thiết trí đó là Phật vậy.
Lại nói trí đây là
Căn bản trí và Hậu đắc trí. Hai thứ này là Dụng. Tính của hai trí này tức là
Chân như. Dù là Dụng hay là Tính đều gọi gộp là Trí. Trí của bậc Nhất thiết trí
gọi là Nhất thiết trí trí. Thêm nữa, Nhất thiết trí này là Căn bản trí. Trí nói
lập lại (chỉ Nhất thiết trí trí) là Hậu đắc trí. Hai Trí được nêu ra này duy
trì Trí tính Chân như Diệu lý.
Lại nữa, Nhất
thiết trí là Trí dụng Bồ đề. Lại nói Trí là Trí tính Niết bàn.
Hai l loại Như Lai tạng : nay
nói rõ cả hai loại này đều vô thượng, khen là thắng diệu, để khiến ưa thích.
Song thể của Bồ đề này là chủng tử vốn có, là hữu vi, do nghe nhiều, nên huân
tập, nhân tu mà sinh trưởng. Thể ấy tức là Bốn trí.
Kinh Lăng Già nói
rằng : Thức A lại da gọi là Không Như Lai tạng, huân tập đầy đủ pháp vô lậu nên
gọi là Bất không Như Lai tạng.
Tạng thức hữu lậu
vốn là hư vọng chẳng thực, nên gọi là Không. Có thể hàm tàng chứa đựng hết thảy
Vô lậu chủng, nên gọi là Như Lai tạng.
Thể của chủng tử
Bốn trí là vô lậu, chẳng phải là pháp hư vọng, do gần thiện hữu, nghe nhiều
huân tập dần dần sinh trưởng mới thành Bốn trí.
Nhân của Bốn
trí gọi là Bất không Như Lai tạng. Tạng là hàm tàng chứa đựng, là nghĩa của
Nhân tính, giống như trồng cây sinh trưởng viên mãn. Thể tính Niết bàn đó là vô
vi, vốn đã sẵn có tự tính thanh tịnh, sau gặp thiện hữu, đoạn chướng mà được
hiển lộ. Tuy cùng một chân như, gặp duyên khác nhau, nên chứng khác nhau và gọi
là Bốn Niết bàn.
Kinh Thắng Man nói
rằng : “Có hai loại Như Lai tạng Không trí :
- Không Như Lai
tạng , là hết thảy phiền não tạng, dù Ly hay Thoát, dù Đoạn hay Dị.
- Bất Không Như
Lai tạng , là bất tư nghị pháp chẳng ly chẳng thoát, chẳng đoạn chẳng dị (chẳng
khác)”
Phiền não hữu lậu
vốn là hư vọng chẳng thực, hay che chân như, đó gọi là Không Như Lai tạng.
Niết bàn vô lậu
thể là vô vi, chẳng phải là pháp hư vọng, do gần thiện duyên, đoạn các phiền
não, dần dần Trí khởi, phương tiện hiển chứng, đó gọi là Niết bàn.
Thể tính chẳng
phải là Không, nhân Không mà hiển lộ, vì tính của Không, Phiền não che đậy ngôi
vị, gọi là Không Như Lai tạng, vì Tạng có nghĩa là che đậy giấu kín Nhân tính. Cho
nên ngôi vị trong Phiền não triền (trong vòng trói buộc của phiền não) gọi là
Như Lai tạng.
Lúc xuất ly khỏi
phiền não thì gọi là Pháp thân, tức là Pháp thân này nhân Không mà hiển lộ, vì
bản tính Không, nên cũng gọi là Bất Không Như Lai tạng, như ngọc báu Đao Đề Da Quật
được hiển lộ.
Còn A lại da thức
cùng các phiền não gọi là Như Lai tạng thì như Kinh Niết bàn đã nói : “Lúc chưa
đắc A nậu đa la Tam miệu Tam Bồ đề, thiện pháp hay bất thiện pháp đều gọi là
Phật tính”.
Kinh Vô Cấu Xưng
nói : “Chủng tính ngụy thân, thất thức trụ, tham dục, sân khuể, ngu si, thập
Bất thiện nghiệp đạo đều là Như Lai chủng”.
Đó chỉ là vì lời
văn khác nhau, nhưng cùng nhằm giải thích Như Lai tạng. Tức trước Bồ đề gọi là
Báo thân. Báo thân tu sinh, Pháp thân tu hiển, vì Pháp thân chứng nhân chứng,
Báo thân sinh nhân sinh.
Tạng l có bốn nghĩa :
1/ Năng hàm tàng :
Tạng chỉ A lại da thức ví như kho tàng v.v… (có khả năng chứa đựng).
2/ Năng sinh đức :
Tạng chỉ Báo thân chủng tử, ví như hạt thóc giống (có khả năng sinh trưởng
giống đức).
3/ Năng phú tàng :
Tạng chỉ phiền não v.v… ví như đất che đậy vật (có khả năng che đậy, cất giấu).
4/ Năng hiển đức :
Tạng chỉ Pháp thân Phật tính ví như tính chất của vàng ròng v.v… (có thể tỏ rõ
đức).
Về đại thể mà nói,
Sở tri chướng đoạn thì chứng Phật báo thân, Bồ đề viên mãn; Phiền não chướng
đoạn thì chứng Phật pháp thân, Niết bàn viên mãn.
Chư Phật ra đời,
muốn khiến cho chúng sinh đoạn Sở tri chướng, cùng Sở phát nghiệp gộp Sở đắc
quả, hết thảy đều hết, viên chứng Bồ đề, khai Tri kiến tướng, khiến được thanh
tịnh, vì chướng hết Trí viên thì gọi là thanh tịnh. Muốn khiến cho chúng sinh
đoạn Phiền não chướng cùng Sở phát nghiệp gộp Sở đắc quả, hết thảy đều hết,
viên chứng Niết bàn, khai Tri kiến tính, khiến được thanh tịnh, vì chướng hết
Lý tỏ thì gọi là thanh tịnh. Duyên tri kiến ấy, nên xuất thế gian.
Tóm lại, Khai : ở
đây có nghĩa là xuất sinh, hiển chứng, vì xuất sinh Bồ đề, hiển chứng Niết bàn.
Trừ hai loại này ra không có sự gì khác hơn được hai pháp ấy, nên gọi là vô
thượng.
2) Thị : đồng
nghĩa với khai, vì Pháp thân ba thừa Thinh văn, Bích chi Phật và Phật bình
đẳng. Pháp thân bình đẳng vì Phật tính Pháp thân không có gì khác biệt.
Kinh Niết Bàn nói
: “Ví như bò sữa có nhiều màu lông khác nhau, nhưng vắt sữa của chúng để ở một
chỗ thì đều màu trắng không khác”. Phật tính cũng thế. Chúng sinh tuy có nhiều
loại khác nhau , nhưng Phật tính thì không khác biệt.
Ý ở đây nói rằng :
Pháp thân ba thừa vốn dĩ bình đẳng, nhưng chúng sinh chẳng biết, chẳng chịu tu
chứng Pháp thân viên mãn. Chư Phật ra đời muốn khai thị cho chúng sinh thấy tính
của Phật tri kiến này, ba thừa cùng có sự bình đẳng không hai, khiến họ cùng
chứng mãn để thành Pháp thân.
)3 Ngộ : đây có nghĩa là
chẳng biết. Vì hết thảy Thinh văn, Bích chi Phật chẳng biết Chân thực xứ đó.
Chẳng biết Chân thực xứ có nghĩa là chẳng biết cứu cánh chỉ một Phật thừa. Như
có người đến nhà bạn thân, say rượu nằm kềnh, người bạn đem viên ngọc vô giá
buộc vào trong áo, lúc đầu người ấy chẳng biết sau này tỉnh ngộ mới biết.
Đây ý nói rằng :
nhị thừa chẳng biết cứu cánh chỉ một Phật thừa thể, tức là Bốn trí Bồ đề, bởi
vậy chẳng tu Báo thân viên mãn. Phật ra đời là muốn cho chúng sinh giác ngộ về
Bồ đề trí : cứu cánh chỉ một Phật thừa này, khiến họ tu sinh trưởng.
Ba loại trên :
- Khai, thì song hiển (thuyết minh cả hai thứ)
Pháp thân-Báo thân, Niết bàn-Bồ đề hai loại vô thượng, tán thán sự thù thắng
của các loại đó khiến chúng sinh ưa thích.
- Thị, thì biệt hiển (thuyết minh riêng từng thứ
một) Pháp thân Niết bàn, ba thừa không khác, vốn dĩ đã có, khiến họ tu chứng.
- Ngộ, thì biệt hiển Báo thân Bồ đề đệ nhất cứu
cánh, vốn có chủng tử khiến trụ quả sinh, thuyết minh cả Đoạn đức và Trí đức
trong quả. Đã chứng hai thứ này thì lợi lạc quần sinh, ứng với vật mà hiện
hình, ứng với cơ mà thuyết pháp; đó là Hóa thân cùng Tha thụ dụng gọi là Ân
đức.
4) Nhập, có nghĩa
là vì muốn khiến chúng sinh chứng đắc Bất thoái chuyển địa mà thị hiện ra với
vô lượng Trí nghiệp. Ba thứ Khai, Thị, Ngộ, ở trên hoặc tổng hiển (thuyết minh chung)
hoặc biệt hiển (thuyết minh riêng), tuy đã hiển lộ Phật quả vô thượng, đồng
chứng thù thắng nhưng chưa biết làm như thế nào mà có thể chứng được. Nay nói
rõ cái nhân của Năng chứng, Năng đắc, nên gọi là Nhập.
Theo bản luận này,
thì Sơ địa trở lên gọi là Bất thoái địa. Vì Thể Dụng của Nhất thiết trí trí
trong quả vị Phật to lớn, nên gọi là Vô lượng trí. Còn nghiệp đây tức là Nhân
vậy. Phật ra đời để thuyết về cái Nhân khiến hạng Sơ địa trở lên có thể chứng
được Phật quả Nhất thiết trí, cho nên gọi là Nhập. Phật thuyết về Nhân này là
muốn khiến cho các hạng hữu học, vô học của nhị thừa cùng hạng trước Sơ địa
chứng đắc Bất thoái chuyển địa từ Sơ địa trở lên.
“Nhập Biến dịch
sinh,
Tu chủng trí nhân,
Quan sát Trí tính,
Nhạâp Phật nhị
quả”û.
Bốn câu này
nói : Phật ra đời là muốn cho chúng sinh đoạn hết hai chướng, khai tri kiến
Phật Bồ đề, Niết bàn, khiến họ chứng Thanh tịnh, Phật tán thán hai thứ Vô
thượng là cốt để khuyến khích họ khiến họ ưa thích. Phật nói rõ Pháp thân đồng
hữu, là để khiến họ tu chứng, giác ngộ cho họ về duy nhất Phật thừa trí mà họ
chẳng biết, để khiến họ tu sinh. Phật đã nói rõ thể tính thù thắng của Phật quả
Bồ đề Niết bàn và nói rõ cái Nhân của nó để khiến họ thú nhập.
Có nghĩa là dụng ý
của Phật ra đời là để thuyết về nhất thừa, dù là Quả hay Nhân. để khiến các
chúng sinh tu nhân chứng quả đều được thành Phật, chứ chẳng vì mục đích
gì khác.
Trước tán thán Trí
tuệ và Trí tuệ môn, tức là Giáo và Lý nhất thừa. Nay thuyết Hạnh và Quả. Cho
nên biết rằng Bốn pháp nhất thừa gọi là Pháp Hoa.
Hoặc là, Bất thoái
có nghĩa là Bát địa trở lên tu hành bất thoái. Các Luận nói rằng vì thụ Biến
dịch sinh, nên tuy nhị thừa hồi tâm, nhưng chưa tới ngay được địa vị đó. Tam
thừa đều đồng, sau mới quyết định được xuất Phân đoạn tử, nhập Biến dịch sinh.
Cho nên mới có thuyết này.
Lại nữa, nhị thừa
là hạng phiền não bất thoái, trải ba đại kiếp, đều gọi là Bất thoái địa.
Lại nữa, nhất thừa
là hạng tu hạnh nhất thừa hoặc Tín hoặc Vị hoặc Chứng hoặc Hành, nay ở trong
này đều khiến nhập cả. Nên đều gọi là Bất thoái. Hoặc Thực thể nhất thừa quả
nhân này là Trí tuệ và Trí tuệ môn của chư Phật đã nói trước đây, tức là Quyền
Giáo tam thừa đã thuyết trước đây, khiến hạng nhị thừa bỏ Quyền lấy Thực, tu
Nhân nhất thừa, hướng Quả nhất thừa. Đó là bản ý kinh này.
Những điều nói
chung và nói riêng về Quả -Nhân trên đây là để giải thích về bốn loại (Khai,
Thị, Ngộ, Nhập). Cứ theo ở dưới thì trong Phật pháp ba đời, chẳng thuyết về
loại Khai đầu tiên, chỉ nói về Thị, Ngộ và Nhập. Cho nên biết rằng chỉ nên
thuyết như vậy mới tốt, vì Thị, Ngộ thuyết minh riêng về hai Quả đã đầy đủ,
chẳng cần phải nêu lên nữa, vì nêu lên hai loại này là đã bao quát hết thảy muôn
đức hữu vi vô vi của Phật.
Phẩm Phương Tiện
của kinh này, thuyết pháp nhất thừa, chỉ là để cho hạng thượng căn. Do đó mà
phân tích chung rằng Bồ đề Niết bàn dù Nhân hay Quả, đều coi đó là nhất thừa.
Phẩm Thí Dụ
cốt nhằm vào hạng trung căn, chỉ thuyết về Ngộ : Ngưu xa (xe trâu), Bồ đề trí
đức nhất thừa, hạng này chỉ mê mờ về Nhân trí, chẳng mê mờ về Nhân lý và Quả
trí.
Phẩm Hóa Thành
Dụ là để cho hạng hạ căn, chỉ thuyết về Thị : Bảo sở, Niết bàn đoạn đức nhất
thừa, vì hạng này chỉ mê mờ về Quả lý, chẳng mê mờ về Quả trí, Nhân lý trí. Đối
với mỗi hạng đều tùy theo sự thích nghi của họ mà đoạn trừ chướng cho họ, khiến
họ tiến nhập, nên chỉ thuyết riêng về nhất thừa.
Hoặc đối với hai
hạng trung hạ, thuyết hai môn Nhân quả trí và Nhân quả lý đan xen vào nhau, ánh
chiếu cho nhau để cho họ hiểu. Riêng một phẩm này thuyết minh chung cả Nhân quả
Giác tịch nhất thừa, lý nghĩa đầy đủ. Cho nên trong bản luận đã giải thích cặn
kẽ phẩm này.
Các phẩm khác chỉ
giải thích tóm tắt đại ý vì chẳng khác gì ở đây. Nếu giải phẩm này thì là giải
cả một bộ rồi.
Song xét hạ văn
thì Ngưu xa (xe trâu) tại Quả, tức là Bồ đề. Hạ văn chỉ thuyết minh về cái Trí
trong Nhân, vì tam thừa nhờ đó mà tới đạo tràng. Thêm nữa Lý tuy rằng thế, song
trong các kinh luận như Vô Lượng Nghĩa phần nhiều thuyết về Niết bàn Lý tính
trí tuệ, coi đó là nhất thừa vì là gốc của nhất thừa.
2. Cách giải thích
thứ hai :
Nay bốn nghĩa này
đều dựa chung vào Phật tính, Pháp thân, Trí thể lấy đó làm nhất thừa.
Kinh Niết bàn nói
rằng : “Đại sự đây là chỉ Phật tính. Hơn nữa Rốt ráo (tất cánh) có hai loại
:
a) Rốt ráo trang
nghiêm.
b) Rốt ráo cứu
cánh.
Rốt ráo trang
nghiêm là chỉ sáu Ba La Mật. Rốt ráo cứu cánh là nhất thừa sở đắc của hết thảy
chúng sinh. Nhất thừa đây tức là Phật tính. Vì nghĩa này nên ta nói rằng hết thảy
chúng sinh đều có Phật tính, đều có nhất thừa, vì bị vô minh che lấp nên chẳng
thể thấy được. Cho nên biết rằng Phật tính tức là tri kiến, tức là nhất thừa”.
- Thuyết rằng các
chúng sinh đều có Phật tính, đó gọi là Khai.
- Phân biệt cặn kẽ
rõ ràng, gọi là Thị : đây là Pháp Phật tính, đây là Báo Phật tính, đây là Nhân
tính, đây là Duyên tính, đây là Lý tính, đây là Hành tính, đây là Thiện căn nhân
tính, đây là Bất thiện căn nhân tính. Tất cả những điều giải thích như thế thì
gọi là Thị.
Cho nên Kinh Niết
Bàn nói rằng : “Như trong nhà cô gái nghèo có chôn giấu nhiều vàng, người nhà
lớn bé không ai biết cả. Bấy giờ có một người lạ giỏi biết phương tiện bèn tới
ngay nhà đó đào lên được số vàng chôn giấu. Cô gái thấy thế rồi tâm sinh hoan
hỉ, nảy ra tư tưởng cho là kỳ lạ đặc biệt và rất tôn sùng hâm mộ người này. Này
Thiẹân nam tử ! Phật tính của chúng sinh cũng giống y như vậy mà hết thảy chúng
sinh chẳng thể thấy được. Cũng giống như chỗ vàng chôn giấu kia mà cô gái nghèo
chẳng biết. Này Thiện nam tử ! Ta nay nói rõ cho tất cả biết là hết thảy chúng
sinh đều có Phật tính”.
Người giỏi phương
tiện tức là Như Lai. Cô gái nghèo tức là hết thảy vô lượng chúng sinh. Vàng
ròng chôn giấu tức là Phật tính.
- Phân biệt mọi
điều, khiến họ hiểu ra, đó gọi là Ngộ.
- Khuyên họ khởi
tu, khiến họ nhập chứng, đó gọi là Nhập.
Nếu theo cách giải
thích này thì câu “xe trâu cho tất cả, ta chế tạo cho các ngươi” trong phẩm Thí
Dụ sẽ chẳng phải là nghĩa này.
3. Cách giải thích
thứ ba :
Ba loại đầu thì
căn cứ vào Phật quả, tức là ba sự của Đại bát nhã và Niết bàn, mà lý giải.
Kinh Niết Bàn
quyển thứ hai nói : “Ta nay sẽ khiến hết thảy chúng sinh cùng con ta, bốn bộ
chúng tất cả đều an trụ ở trong Bí mật tạng. Ta cũng sẽ an trụ ở trong đó mà
nhập Niết bàn. Thế nào gọi là Bí mật tạng ? Giống như ba chấm của chữ Y, nếu
cùng dàn thành một hàng thì chẳng thành chữ Y, nếu thẳng một hàng dọc cũng
chẳng thành. Phải viết như ba mắt trên mặt Ma Hê Thủ La mới thành được chữ Y. Ba
chấm nếu tách riêng từng chấm cũng chẳng thành chữ Y. Ta cũng như vậy : riêng
pháp Giải thoát cũng chẳng phải là Niết bàn. Thân Như Lai cũng chẳng phải là
Niết bàn. Đại Bát nhã cũng chẳng phải là Niết bàn. Ba pháp mỗi thứ mỗi khác
cũng chẳng phải là Niết bàn. Ta nay an trụ ở ba pháp như vậy mà vì chúng sinh,
cho nên gọi là Nhập Niết bàn cũng giống như chữ Y của thế gian”.
Trong này ý nói
:
- Chữ Y trong
tiếng Phạm trên có hai chấm, dưới có một chấm, giống như chữ Phẩm [品] lộn ngược.
- Chữ Tịnh : nghĩa
như chữ Hoành, nghĩa là Ngang, chỉ Tiền Hậu chứng.
- Chữ Tung : nghĩa
là Dọc, chỉ ba phẩm.
Thế gian nói tung
hoành tức như đây nói dọc ngang đều chẳng phải là chữ Y. Ba chấm đặt riêng ra
cũng chẳng phải là chữ Y. Cả ba phải hòa hợp, chẳng ngang chẳng dọc, cũng chẳng
xa lìa riêng biệt, hòa hợp ba chấm chẳng một chẳng khác, như ba mắt trên mặt
của Đại Tự Tại thiên trên trán có một, dưới lông mày mỗi bên có một.
Phật nhập Niết bàn
cũng giống y như vậy. Ma ha Bát nhã là Trí năng chứng. Thân Như Lai là Pháp
thân sở chứng. Giải thoát có nghĩa là do lúc Trí năng chứng chứng được Lý sở
chứng pháp thân, thì Hai chướng diệt, tận Nhị tử, sau này Hậu hữu chẳng còn
tiếp tục, không còn có sự trói buộc nào nữa và giả danh là Trạch diệt, đó tức
là giải thoát.
Cho nên Tạp Tập
nói rằng : Diệt đế gồm ba thứ : Năng diệt, Sở diệt và Diệt tính. Đó tức là ba
thứ được nói đến trong Kinh Đại Bát Niết Bàn : Bát nhã ở trên là Đạo năng chứng,
như mắt trên trán. Pháp thân, Giải thoát đều ngang hàng ở dưới vì là Sở chứng,
giống như hai mắt ở dưới lông mày. Dùng Trí chứng Lý khiến Hoặc khổ sau này đều
đoạn, chẳng sinh, đó gọi là Nhập Niết bàn. Đó là Phật an trụ Bí mật tạng, chẳng
giống với trí nhị thừa chỉ liễu ngộ về Sinh không, chẳng phải là lý Đại tuệ.
Nếu chỉ là
lý Sinh không vô ngã thì chẳng gọi là Pháp thân, chỉ đắc Giả trạch diệt : Hoặc
chủng, cùng Phân đoạn tử thiểu phần chẳng sinh, mà chẳng đắc Thắng giải thoát tập
khí cùng Trí chướng diệt, hai Phân đọan tử Biến dịch tử đều tận. Như tung như
hoành chẳng phải là đại Niết bàn. Thiêu thân diệt trí, nhị thừa gọi đó là Nhập.
Không có Hiện thân trí, sao được gọi là Đại ? Phật nay chẳng thế, nên gọi là
Đại.
Gọi là Bí tạng,
người xưa có giải thích chỉ y vào Chân như cho là Ba sự, gọi là Đại Niết bàn,
thế thì không có nghĩa Nhập. Thường trụ chẳng hoại để làm lợi cho hữu tình; dùng
Trí mà chứng Chân, giải thoát khỏi Hoặc khổ, thế mới gọi là Nhập. Đó là ý của
Phật nên chẳng giống với nhị thừa không có Thân trí mới gọi là Nhập. Cho nên
Phật tự nói rằng : “Giả sử quạ, cú …” cho đến “…vĩnh viễn nhập Niết bàn”.
Nay đưa ra cách
giải thích này khéo thuận với kinh đó, cứ đọc kỹ kinh văn sẽ tự biết hết.
Ma - ha Bát nhã : tức là
Khai Phật tri kiến. Nên Luận nói rằng trừ Nhất thiết trí trí ra không còn có sự
gì khác.
Nhất thiết trí là
trí chứng nhị Không. Trí được lập lại (nhất thiết trí trí) là trí chứng chư
Hữu. Trí này tối thắng diệu nên gọi là Vô thượng, vì không có gì hơn được.
Pháp - thân : tức là Thị Phật
tri kiến. Nên Luận nói rằng : Ba thừa bình đẳng vì Phật tính Pháp thân không có
gì khác biệt.
- Giải thoát : tức là Ngộ Phật Tri kiến. Hai
Chướng đều diệt, hai Tử đều tận là Chân giải thoát. Nhị thừa chỉ đắc một Chướng
một Tử diệt tận vô dư, chẳng biết thứ giải thoát này. Cho nên Luận nói rằng:
Nhị thừa chẳng biết Chân thực xứ, nên khiến họ tỏ ngộ.
Ba sự trên đây tức
là Chứng nhập Đại bát Niết bàn. Đây ắt có Nhân, thuyết thêm nghĩa Nhập, nên
Luận nói :
- Nhập : thị hiện Bất thoái chuyển địa và Vô
lượng trí nghiệp. Phật ra đời là muốn khiến cho hữu tình ba thừa đều tu Bất
thoái địa nghiệp, an trụ Bí mật tạng, nhập Đại Niết bàn, chẳng vì sự gì khác.
Đây với Niết bàn về danh tự tuy khác, nhưng thể tính không khác, vì hết thảy đều
muốn tu hành cái Nhân, chứng nhập Phật quả vị.
Nếu giải thích như
thế thì vừa hợp với việc rời Hóa thành mà tới Bảo sở, hợp với việc cởi xe trâu
mà rời nhà lửa. Thể đức nhất thừa đã gọi là Đại bát Niết bàn : hai thân Pháp,
Báo, Chính giác và Viên tịch nhất nhất đều thâu tóm đầy đủ. Thế thì còn có lý gì mà chẳng nói đến nữa !
Nay ba cách giải
thích này chỉ lấy Trí tuệ sở thuyên gọi đó là nhất thừa. Thế thì Giáo môn năng
thuyên là ở dưới thuyết trên, vì là tùy nghi sở thuyết, ý thú khó hiểu.
Thêm nữa, lấy Liên
hoa (hoa sen) mà ví với Diệu pháp, ắt gồm cả hai nghĩa : Khai phô (khai hoa) và
Tú xuất (kết quả), Quả tú Nhân phô. Như vậy cũng không có gì sai trái.
Song Kinh Thắng
Man v.v… và hạ văn kinh này phần nhiều nói đến Chân lý, coi đó là nhất thừa, là
cái gốc của thừa. Thực thông hai loại, gồm hết mọi nghĩa.
Ba loại Khai Thị
Ngộ nói rõ Phật quả thừa.
Một loại Nhập nói
rõ Phạât nhân thừa. Nhân thừa tuy thông cả ba vô số kiếp, nhưng nay ở đây chỉ
lấy sau kiếp thứ hai.
Luận nói rằng :
khiến chứng Bất thoái vị, vì như trong Kinh Lăng Già, Thập Địa chia làm ba loại
Ý sinh thân và giải thích từng loại.
Thêm nữa, phẩm sau
nói rằng : Thinh văn, Duyên giác và Bồ tát Bất thoái cưỡi Bảo thừa này thẳng
tới đạo tràng.
Kinh Thắng Man nói
: “Vô minh là duyên, nghiệp Vô lậu là nhân mà sinh ra ba loại Ý sinh thân của A
la hán, Bích chi Phật và Đại lực Bồ tát”.
Trước Sơ địa thực
ở trong ba cõi Phân đoạn tử, chưa ra khỏi nhà lửa, vì vẫn còn ở trong cửa sẽ bị
thiêu đốt, nên chẳng cho tên gọi là nhất thừa. Hoặc sau Bát địa gọi là Bất
thoái địa.
Du Già luận nói :
sau Bát địa là Ý sinh thân, đắc quyết định.
Hỏi - : quả vị Dương Lộc (chỉ
quả vị Thinh văn, Duyên giác) của loại vô học nhị thừa mà còn ở trong Phân đoạn
(tử), theo lý mà nói, là còn ở trong cửa; như loại tiểu Bồ tát, theo lý mà nói
chẳng phải là Xuất trạch (ra khỏi nhà lửa - chỉ giải thoát).
Đáp - : nếu còn ở trong Phân
đoạn thì theo lý mà nói, chẳng phải là Xuất trạch. Ngoài ra, nếu là vĩnh diệt,
đã đắc Niết bàn, thì gọi là ở ngoài cửa, chẳng giống với loại đó.
Hỏi - : cớ sao Nhị tử chạy
tới chỗ Ngưu, Dương, Lộc (3 xe) mà gọi là Xuất trạch. Còn Đại tử (chỉ người tu đại
thừa) cũng chạy tới chỗ Ngưu xa mà Bồ tát lại chưa Xuất trạch ?
Đáp - : nhị thừa mà Hoặc
chủng tận, đắc diệt thì gọi là Xuất trạch. Còn Bồ tát mà sơ kiếp Hoặc vẫn hiện
hành thì làm sao gọi là Xuất trạch được ? Hơn nữa Thất địa mà Phân đoạn tử tận
ở lần sinh này thì cũng gọi là Xuất trạch vì giống nhị thừa. Trước đó thì chẳng
phải vì còn nhiều lần sinh, vì giống loại hữu học. Cho nên Xuất trạch rồi mới
thượng Ngưu xa (chỉ đắc quả vị đại thừa).
Như vậy trong phần
Khai đầu tiên của kinh văn này, đầu tiên nêu chung Thắng trí (tức quả vị tốt
đẹp sẽ đạt tới) khiến cho được ngôn giáo thanh tịnh. Sau đó thuyết minh riêng về
ba thứ, nên chỉ lược qua mà chẳng thuyết.
*
-Kinh văn : “Xá
Lợi Phất” tới “xuất hiện ở đời”.
Tán rằng : đây là
phần thứ ba : phần kết.
*
-Kinh văn : “Phật
bảo Xá Lợi Phất” tới “thị ngộ chúng sinh”.
Tán rằng : đây
giải thích ý ở trước có những ý gì?
Trong thân chúng
sinh đều có Phật tính, nên sự giáo hóa của Phật chỉ là hóa cho Bồ tát. Mọi việc
Phật làm thường là sự này : chỉ dùng tri kiến của Phật mà Thị Ngộ cho chúng
sinh.
Luận phen thứ hai
giải thích về Thị Ngộ Nhập nói rằng :
Thêm nữa, Thị có
nghĩa là các Bồ tát nếu ai có điều nghi ngờ thì khiến cho họ biết như thực mà
tu hành. Có nghĩa là nếu có Bồ tát nào nghi rằng không có Phật tính, chẳng chịu
tu hành thì nay Thị sở hóa, chỉ hóa Bồ tát, khiến họ biết ba thừa cùng có Phật
tính, đoạn trừ mối nghi cho họ để khiến họ như thực mà tu hành.
Thêm nữa, Ngộ Nhập
có nghĩa là :
- Kẻ chưa phát tâm thì khiến họ phát tâm, đó là giải nghĩa Ngộ.
- Kẻ đã phát tâm rồi thì khiến họ Nhập pháp, đó
là giải nghĩa Nhập .
Thuyết minh về
Nhân quả đã hết.
Lại giải thích một
lần nữa về Ngộ Nhập rằng :
- Ngộ là khiến chúng sinh ngoại đạo giác
ngộ.
- Nhập là khiến
người đắc quả Thinh văn nhập đại Bồ đề, bỏ Tà nhập Chính, bỏ Quyền lấy Thực.
KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN
QUYỂN THỨ BA -
PHẦN SAU
ĐÃ XONG
Niên hiệu Bảo
An năm thứ ba, tháng tư ngày 23 viết xong. Giao cho Sư Tăng Giác chùa Pháp Long
đem in.
Ngày 26 tháng
10 cùng năm đó, di điểm xong, dùng bản của Viên Như phòng, chùa Hưng Phúc đem
in.
“ để pháp được trụ lâu dài ”
Sư Tăng Giác in ở Đông Bắc viện, đọc bản, điểm bản, hiệu điểm cũng xong v.v…