KINH DIỆU
PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN
Đại Sư Khuy Cơ biên
soạn – Việt dịch: Cố Hòa thượng Thích Chân Thường
Biên soạn: Giáo
sư Trương Đình Nguyên – Tu chỉnh và hiệu đính: Tỳ kheo: Thích Đồng Bổn
Nhà Xuất Bản Tôn
Giáo, Hà Nội 2005
QUYỂN THỨ TÁM (PHẦN
TRƯỚC)
Sa môn KHUY CƠ,
chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn.
*
-Kinh văn : “Các
tỳ kheo” tới “thâm nhập thiền định”.
Tán rằng : trên là
thuyết minh về nhân xưa khiến rút lui khỏi đại thừa mà theo tiểu thừa. Dưới là
nói rõ quả nay khiến biết bỏ quyền mà lấy thực. Văn chia làm ba :
1. Pháp. 2.
Dụ. 3. Hợp thuyết.
Phần đầu lại chia
làm hai :
- Đầu tiên là
thuyết minh về vấn đề nay là thực (thừa).
- Sau đó giải
thích lý do vì sao trước kia là quyền (thừa).
Phần đầu lại chia
làm hai phần :
- Phần đầu : biết
rõ chúng sinh căn cơ đã chín muồi.
- Phần cuối :
thuyết minh về nhất thừa.
Đây là phần đầu :
căn cơ chín muồi, có năm ý :
1/ “Giờ Niết bàn
đã đến” : chúng sinh căn cơ chín muồi, sợ Phật Niết bàn, nên nghe pháp thì thâm
tín.
2/ “Chúng lại
thanh tịnh” : vì phiền não chỉ nhỏ bé, bởi đã ly nhiễm. Đầu tiên thuyết về tam
thừa để ra khỏi cõi đời nhơ bẩn, chúng sinh cấu uế nặng nề. Nay đã giáo
hóa cho họ lâu dần dần khiến họ lìa cấu nhiễm, cho nên gọi là thanh tịnh.
3/ “Tín giải kiên
cố ” : hai thứ chứng giải, chứng tín đều kiên cố, chẳng thể trở hoại.
4/ “Liễu đạt Không
pháp” : Không pháp có hai :
Sinh không và Pháp
không. Sinh không là sở chứng; Pháp không là sở tri. Đã chứng Sinh không rồi,
sau đó nghe Bát nhã mà biết Pháp không.
5/ “Thâm nhập
thiền định” : vì đều có thể xuất nhập tứ thiền cửu định.
Đây là căn cứ vào
hạng Thanh Văn v.v… vốn đã thoái chuyển, rồi lại phát tâm mà nói. Cần phải có
đủ 5 điều này thì mới biết nhị thừa là quyền thừa và mới quy y nhất thừa. Nếu
làm khác đi thì chẳng đúng.
*
-Kinh văn : “Bèn
tập hợp các Bồ tát” tới “được diệt độ mà thôi”.
Tán rằng : đây là
thuyết về nhất thừa. Thừa đã thuyết tứ mới là liễu nghĩa, thuyết nhất chỉ là
phương tiện.
Giải Thâm Mật nói
: “Tướng, Sinh, Thắng nghĩa, đều không có tự tính. Như thế ta đều đã hiển thị”.
Nếu chẳng biết mật ý này của Phật, thì hỏng mất chính đạo chẳng tới được. Ở
trong đó lập ra nhất thừa, chẳng phải là loài hữu tình về tính chất không có sự
phân biệt.
Kinh Thắng Man
cũng nói : “những thiện nam tử nhiếp thụ chính pháp có thể gánh vác nổi bốn
loại gánh nặng vượt qua đại địa đó. Có nghĩa là (đối với) loại chúng sinh vô văn,
phi pháp (chẳng nghe pháp, chẳng đúng pháp) thì dùng thiện căn của người, trời
mà thành thục cho họ”. Tức là đây thuyết tam thừa thì đối với các hạng trung
thảo, tiểu thảo “hạng nào cầu Thanh văn thì truyền thụ cho Thanh văn thừa, hạng
nào cầu Duyên giác thì truyền thụ cho Duyên giác thừa”, hai hạng này gộp lại là
hạng trung thảo. Còn “hạng cầu đại thừa thì truyền thụ cho đại thừa”, tức là hạng
đại thảo”.
Lại nói rằng “nếu
Như Lai tùy theo ý muốn của họ mà phương tiện nói thì chỉ có nhất thừa, không
có thừa nào nữa”. Cho nên biết rằng theo lý thì thuyết nhất là quyền, thuyết tứ
là thực.
Giải Thâm Mật nói
: “vì chẳng phải là loài hữu tình về tính chất không có sự sai biệt”.
Nay trong kinh này
để giáo hóa loại đã thoái chuyển rồi lại phát đại tâm, cho nên nói nhất (thừa)
là thực, nhị (thừa) là quyền. Chờ khi căn cơ chín muồi, mới nói : “không có nhị
thừa nào mà được diệt độ, chỉ một Phật thừa là được diệt độ mà thôi”.
Trong kinh Niết
Bàn nói : “Nói rằng các Thanh văn đều được thành Phật, hoặc là đều chẳng thành
Phật, Thế tôn đều nói là chẳng hiểu ý ta”. Cho nên mới có thể biết rõ ý kinh
như vậy, cũng cần khéo tùy thuận tâm của Phật Bồ tát. Song nay trong hội này
phần đông là thoái tính, cho nên nói nhất thừa là thực, nhị thừa là quyền.
*
-Kinh văn : “Tỳ
kheo nên biết” tới “thì liền tín thụ”.
Tán rằng : đây
giải thích vì sao trước kia là quyền.
Dùng phương tiện
trí chứng nhập chúng sinh căn tính, thắng giải. Do chúng sinh ý thích Tiểu
(quả), vốn chấp trước ngũ dục; để tạm thời diệt trừ nỗi khổ sinh tử cho
họ, nên ta dùng Tiểu pháp mà truyền thụ cho họ, khiến họ lìa bỏ ngũ dục. Ngũ
dục tức là tham ái duyên vào năm cảnh.
Cho nên đầu tiên
thuyết về Niết bàn, đặt ra hóa thành để đỡ khổ. Đã được Niết bàn, rồi thì người
này nếu nay nghe nói nhất thừa dẫn tới bảo sở, sẽ lập tức tín thụ ngay.
*
-Kinh văn : “Thí
dụ như năm trăm” tới “tới chỗ châu báu”.
Tán rằng : dưới là
dụ thuyết, trong ấy có hai :
- Đầu là dụ thuyết
về xưa là quyền.
- Sau là dụ thuyết
về nay là thực. Đó là đoạn từ “bấy giờ đạo sư biết đám người này …” trở
xuống.
Phần đầu có bốn dụ
:
- Dụ thứ nhất :
đầu tiên dẫn đưa lìa khỏi chỗ hiểm.
- Dụ thứ hai : nửa
đường mới lùi. Đó là đoạn từ “đám người được dẫn đưa” trở xuống.
- Dụ thứ ba : vì
họ mà đặt ra hóa thành. Đó là
đoạn từ “Đạo sư
nhiều các phương tiện” trở xuống.
- Dụ thứ tư : mọi
người mệt mỏi đều nghỉ. Đó là đoạn từ “bấy giờ đám người cực kỳ mệt mỏi” trở
xuống.
Dụ về xưa là quyền
trong phẩm Tín Giải trước kia có sáu. Nay đây tức là các dụ trong phẩm đó,
nhưng không có hai dụ đầu vì lúc mới thoái chuyển vẫn chưa hướng theo tiểu thừa.
(Phật) chưa đặt ra hóa thành, bởi vậy nay lược đi, chỉ giống bốn dụ sau.
Hoặc dụ thứ nhất
“thoạt đầu đưa ra khỏi chỗ hiểm” ở đây bao gồm các dụ thứ nhất, thứ ba trong
phẩm đó. Dụ thứ hai ở đây bao gồm cả dụ thứ hai, thứ tư trong phẩm đó.
Hai dụ cuối ở đây bao gồm hai dụ cuối ở đó. Tách ra, gộp vào tuy có sự khác
nhau, nhưng nghĩa không khác nhau. Dụ đầu có bốn ý :
1/ Muốn vượt qua
chốn ác.
2/ Dẫn đưa tới chỗ
báu.
3/ Thương chủ
thuộc đường.
4/ Mới đi dẫn
đường.
Đây là hai ý đầu :
“Năm trăm do tuần”
: Chính Pháp Hoa nói : năm đường sinh tử đó gọi là “đường ác nguy hiểm nhiều
nạn”.
* Chữ Khoáng [曠], có nghĩa như các chữ Không, Sơ, Cửu, Viễn (rỗng, thưa, lâu,
xa). Chữ Tuyệt [絕] nghĩa như chữ Quýnh [迥] (tột bực, tót vời).
Trong vòng sinh tử
vốn không có bậc thánh trí, như “chỗ trống rỗng thưa thớt lâu la xa xôi tít mù,
không người”, thật đáng kinh sợ. Năm bố úy v.v… thì gọi là “Bố úy xứ”
(chốn ghê sợ). Nay lại giải thích là : trong Chính Pháp Hoa chỉ đưa ra
cái thể của hiểm đạo, chứ chẳng phải là giải thích về số của hiểm đạo đó.
Nói “năm trăm” có
nghĩa là nói Phân đoạn sinh tử có Hoặc, Nghiệp, Khổ là ba trăm ; Biến dịch sinh
tử có Vô minh, Khổ là hai trăm. Mười phiền não, mười nghiệp đạo : vì mười phẩm
loại quả sở cảm đều hỗ trợ cho nhau. Gộp lại mà thành năm trăm.
Dưới nói qua ba
trăm do tuần, mới lập ra hóa thành. Nếu tính về số của năm đường thì tức là
năm. Qua ba đường ác, mới nhập kiến đế, chưa thấy hóa thành, sao mà lại gọi là nhập
được ? Bởi vậy, nên theo cách giải thích sau.
“Trân bảo xứ”
(chốn châu báu) : đó là chỉ quả vị Phật : Đại bát Niết bàn. Đây là dụ cho việc
vượt qua vòng sinh tử nguy hiểm mới tới được Phật vị.
*
-Kinh văn : “Có
một vị đạo sư” tới “muốn vượt qua nạn này”.
Tán rằng : trong
này có hai ý :
a) Thương chủ
thuộc đường.
b) Mới đi
dẫn đường.
“Đạo sư” : chỉ
Phật, đây đủ năm đức :
1) Thông minh
lợi căn.
2) Có trí
tuệ biết lựa lọc đúng sai.
3) Xét tỏ
chân tục.
4) Thông đạt,
không gì không biết.
5) Giỏi biết
tướng trạng thông suốt hay bế tắc của hiểm đạo.
“Đạo” : chỉ “chư
thú” (các nẻo chúng sinh).
“Thông” : tức là
đoạn năm trụ.
“Tắc” : tức là
khởi hai chướng. Vì có Hoặc, nghiệp cho nên tắc ; khổ nhân mà hết thì
thông.
“Mới đi dẫn đường”
: ý văn có thể biết rõ.
*
-Kinh văn : “Đám
người được dẫn đường” tới “nay muốn lùi
về”.
Tán rằng : đây là
dụ thứ hai : nửa đường mới lùi.
Tu nhân của đại
thừa chưa qua 60 kiếp đã mệt mỏi trong việc tu hạnh Bồ tát, nên gọi là “nửa
đường mỏi mệt”.
Hạnh đại thừa khó
tu, phải trải qua đủ mọi điều gian khổ, nên gọi là “mỏi mệt hết mức”. Vì thời
gian mỏi mệt dài, nên gọi là “mỏi mệt hết mức”.
Sợ biển thánh
hạnh, hãi việc tiến tu, cho nên gọi là “Bố úy” (sợ hãi); do sợ việc tu hạnh đại
thừa, nên gọi là “Bố úy”.
“Chẳng thể tiến
lên” cầu quả Bồ đề, trải qua ba đại kiếp, “con đường phía trước còn xa”, thoái
lui khỏi đại thừa chẳng học nữa, quay về trụ ở vòng sinh tử, nên gọi là “nay
lùi quay về”.
Đây chính là căn
cứ vào nghĩa mà nói, chứ thực ra chẳng phải là nhị thừa thời xưa đã bạch Phật
rồi mới lui về trụ ở tiểu thừa.
*
-Kinh văn : “Đạo
sư có nhiều phương tiện” tới “hóa làm một tòa
thành”.
Tán rằng : dưới là
dụ thứ ba : vì chúng sinh mà bày ra (một) tòa thành. Có bốn ý :
1) Giả tư
niệm.
2) Đặt hóa
thành.
3) Khuyên trụ,
đừng sợ.
4) Thuyết minh về
lợi ích của việc nhập thành.
Đây là hai ý
đầu.
Nhiếp Đại Thừa
luận nói : trống trời Mạt ni vô tư mà làm thành công việc của mình, vì tuy
không có Miễn lệ tư (ý nghĩ phải cố gắng) nhưng cũng có Nhiệm vận tư (ý nghĩ
phó mặc cho sự xoay vần), tuy không có Thực tư (sự suy nghĩ thật sự), nhưng có
thứ giả xưng là Tư ; vì chư Phật sáu lần quay lại, ngày đêm quán sát chúng
sinh, nghĩa cũng giống như Tư.
“Qua ba trăm do
tuần” : nếu nói năm nẻo (ngũ thú) là năm trăm thì đây là qua Phân đoạn sinh tử,
ra khỏi ba cõi (dục giới, sắc giới và vô sắc giới). Hoặc khiến vĩnh viễn
ra khỏi ba nẻo ác ; gọi là “ba trăm”. Giống như ba món sau của Ngũ hạ phần Kết
là Thân kiến v.v… thì bấy giờ mới nói, nhưng thực ra ngay lúc đầu đã đoạn trừ
rồi. Phân đoạn (sinh tử) tuy loài người, loài trời có thể xuất ly ; nhưng Biến
dịch (sinh tử) thì loài người, loài trời vẫn còn, cho nên chẳng gọi là
xuất.
Nếu y vào chính
thuyết thì Phân đoạn sinh tử có Hoặc, Nghiệp, Khổ. Xuất ly ba thứ này cho nên
gọi là “qua ba trăm do tuần”, vì Niết bàn tại ở (quả) vị vô học.
“Hóa làm một
tòa thành” : bản luận nói : đó là Chư thiền tam muội thành. Qua thành đó rồi,
khiến nhập đại Niết bàn thành, cho nên Phật nói là “bày đặt”; vì vốn không có thực
thể, cho nên gọi là “hóa làm”. Thành đó, tâm chứng Diệt tương ứng thiền định,
đầy đủ khinh an, có thể dẹp các thứ (phiền não) to nặng, nhờ Phật giáo hóa mà có
được, cho nên gọi là “hóa làm” (hóa tác).
“Một” (tòa thành)
: lý Diệt không hai, đối với chủng trí xa (tức Phật thừa) mà nói, cho nên gọi
là “Một”. Thêm nữa, tuy là giả, mỗi người mỗi khác, nhưng vì nghĩa giả giống nhau,
cho nên gọi là “Một”. Thêm nữa, vì (căn) cơ (tu) học nhị thừa chứng khác, cho
nên câu kệ ở dưới nói rằng : “là chốn (tạm) nghỉ cho nên nói là hai” (tức xứ cố
thuyết nhị). Vì giả đối đãi với chân, chân đã chẳng hai, giả lẽ nào lại chẳng
phải là một. Đây là dụ ví với hữu dư Niết bàn, vì Hoặc nghiệp đoạn, cho nên sự khổ
sau này sẽ chẳng sinh, thực sự được vô dư (Niết bàn). Dư thân trí vẫn
còn, nên chưa gọi là chứng. Hậu thân trí mất rồi, mới gọi là chứng. Như Tưởng
thụ diệt là vô vi, đó là căn cứ vào chỗ cuối cùng viên mãn mà nói.
*
-Kinh văn : “Bảo
mọi người rằng” tới “cũng có thể được đi”.
Tán rằng : trong
này có hai ý :
a) Khuyên trụ,
chớ sợ.
b) Nói về
lợi ích của việc nhập thành. Đó là đọan từ “nếu nhập thành này” trở
xuống.
Chẳng cần sợ đại
thừa mà chẳng chịu tu. Hơn nữa, nhập thành này thì làm gì tùy ý, tu gì tùy sức.
Tạm dẹp lại ý nghĩa hiển lộ về chân thừa, bí mật đặt ra phương tiện quyền thừa.
Lợi ích của việc
nhập thành có hai :
1) Được niềm vui
yên ổn và dẹp được những nỗi khổ.
2) Hướng tới Phật
vị : sau đó có thể dần dần tu được.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ đám người cực kỳ mỏi mệt” tới “tưởng là được yên
ổn”.
Tán rằng : đây là
dụ thứ tư : mọi người mỏi mệt đều nghỉ ngơi. Có hai đoạn :
- Đoạn đầu : thoạt
tiên là ở địa vị hữu học, vừa lòng hoan hỉ. Ýù nói khen tâm hoan hỷ, khuyên
tránh đường nguy hiểm.
- Đoạn sau : sau
đó thành đạo vị vô học giải thoát.
Trước tiên là
“nhập hóa thành”, chứng được Hữu dư diệt, “nảy sinh cảm tưởng đã được diệt độ”,
vì đã vượt được sinh tử, lìa được khổ tập, nhưng Biến dịch sinh tử thực ra chưa
lìa được.
Nói “nảy sinh cảm
tưởng đã được diệt độ, nảy sinh cảm tưởng đã được yên ổn” vì được đạo vị vô
học, vì chứng Diệt đạo, nhưng chưa được đại Niết bàn yên ổn thực sự, cho nên
nói là sinh ra cảm tưởng đã được yên ổn. Thế rồi nảy sinh bốn trí : “sự sinh
của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng thụ hậu hữu”.
Kinh Thắng Man nói
: “vì A la hán chẳng thành tựu mọi vô lượng công đức; cho nên nói đắc Niết bàn,
đó là phương tiện của Phật”. Lại nói “bốn trí cứu cánh, được chỗ nghỉ ngơi cho
lại sức, đó cũng là Phật đã dùng phương tiện mà thuyết về hữu dư (Niết bàn) Bất
liễu nghĩa”.
Cho nên hóa thành
này là do Phật quyền nghi mà bày đặt ra. Chính thức khởi Sinh không trí, chứng
được Sinh không lý, sau đó Hoặc chẳng sinh, thế gọi là “nhập thành”. Giữa lúc
bấy giờ không có hai tưởng này (Dĩ độ tưởng và An ổn tưởng). Sau nhập thế tục
định, nhìn lại đạo vị trước mới sinh ra hai tưởng này.
Vì nhị thừa chứng
Niết bàn giả diệt, cho nên nói : trước khi nhập ở hóa thành, vốn không có nhị
xa (tức nhị thừa) chủng trí. Nhị tử (chỉ người tu theo nhị thừa) xuất trạch (ra
khỏi hỏa trạch rồi) chẳng lên xe. Xe (thừa) là ý chẳng bắt buộc. Ra khỏi nhà
lửa rồi tìm đến thành. Thành được bày đặt ra ở trên đường, cho nên nói là “đi
thẳng vào” (tiền nhập). Những thắc mắc này đều giải đáp như trước kia.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ đạo sư” tới “là dừng lại nghỉ mà thôi”.
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ hai là dụ chỉ rõ nay thuyết về thực thừa. Có hai mục :
1) Đầu tiên nêu
lên việc diệt hóa.
2) Sau đó chính
thức bảo rõ chân (thừa).
“Diệt hóa” : có
nghĩa là dẫn tới đại thừa, thuyết rõ Niết bàn nhị thừa là giả trạch diệt, cho
nên gọi là “diệt hóa”. Chẳng phải là thực dùng thần lực để diệt hóa thành đó.
Trong kinh nói : “bảo rằng : hãy đi tới ! Thành lớn là do ta biến hóa ra”. Ý
nói “nói câu đó tức là diệt hóa thành”.
“Đến chỗ báu gần
đây” (khứ lai bảo xứ tại cận) : đó là mách bảo về chân thừa. Tuy vẫn là hạng vô
học tu hạnh đại thừa một cách quanh co, chậm hơn hạng đốn ngộ, nhưng so với
hạng hữu học hồi tâm thì lại cực kỳ nhanh chóng, cho nên nói là “gần” (tại
cận).
*
-Kinh văn : “Các
tỳ kheo” tới “nên đi nên độ”.
Tán rằng : dưới là
phần hợp thuyết. Có hai mục :
• Mục đầu : hợp
thuyết về xưa là quyền.
• Mục sau : từ
“Nếâu các chúng sinh trụ ở nhị địa” trở xuống : đó mới là hợp thuyết về nay là
thực.
Mục đầu có ba ý
:
1) Hợp thuyết về
thọat đầu dẫn ra khỏi chỗ nguy hiểm.
2) Hợp thuyết về
nửa đường mới thoái lui. Đó là đoạn từ “nếu chúng sinh chỉ nghe” trở
xuống.
3) Hợp thuyết về
việc Phật vì họ mà thuyết về hóa thành. Đó là đoạn : từ “Phật biết tâm lý ấy”
trở xuống.
Chẳng hợp thuyết
về dụ thứ tư “chúng mệt đều nghỉ”. Muốn thuyết minh về hai đạo quyền thực,
chẳng muốn chính thức thuyết minh về sự nghỉ ngơi cho đỡ khổ.
Đây là ý đầu.
“Đi” (khứ) : hướng
tới Niết bàn.
“Độ” : vượt khỏi
vòng sinh tử.
*
-Kinh văn : “Nếu
chúng sinh” tới “mới có thể đặng thành”.
Tán rằng : đây là
hợp thuyết về “nửa đường mới thoái lui”.
Nếu chỉ khen ngợi
Phật thừa, thì chúng sinh không thể nhờ đó mà được độ. Vì phải “lâu ngày chịu
cần cù” bèn thoái thất.
“Phật đạo dài xa”,
thời gian mệt mỏi kéo dài, vì phải “lâu ngày chịu cần cù”, cho nên sợ tu hành
đại thừa.
*
-Kinh văn : “phật
biết tâm lý ấy” tới “nói hai thứ Niết bàn”.
Tán rằng : đây là
hợp thuyết việc Phật vì họ mà thuyết về hóa thành.
“Phật biết tâm lý
khiếp nhược” trước đại thừa, “hạ liệt” thích tiểu thừa ấy, cho nên “ở giữa
đường, nói hai thứ Niết bàn”.
Hai thứ trí sở
chứng của hai thứ căn cơ tu học, gọi là “hai thứ Niết bàn”. Hai thứ Niết bàn
này đều chỉ là hữu dư. Chẳng phải nói hai thứ là hữu dư và vô dư.
Như trên đã nói
“một thành”, vì lấy Giả đối với Chân, hóa là một vì lấy Lý đối Sự. Về lý chẳng
khác, cho nên nay đối căn cơ tu nhân chứng trí, gọi là hai thứ Niết bàn, cũng
chẳng trái nhau.
*
-Kinh văn : “Nếu
chúng sinh trụ ở nhị địa” tới “phân biệt
nói thành ba”.
Tán rằng : đây là
hợp thuyết về nay là thực.
Có hai phần :
- Phần đầu : Pháp
thuyết diệt hóa nói chân.
- Phần sau : Hợp
thuyết diệt hóa nói chân.
Đây là phần đầu,
có hai ý :
+ Đầu : thuyết kia
chẳng phải chân.
+ Sau : thuyết ý
nhị thừa.
“Chỗ tu của các
ông chưa xong” : Kinh Thắng Man nói : “Ala hán, Bích chi Phật vì còn sinh pháp
tàn dư chưa diệt tận nên còn có sự sinh ; vì còn phạm hạnh dư tàn chưa thành
tựu nên không thuần nhất ; vì phận sự không cứu cánh nên còn có những điều cần
làm ; vì chưa vượt qua cái kia (Biến dịch sinh tử) nên còn có những cái phải
đoạn trừ. Vì không đoạn trừ nên cách Niết bàn giới còn xa”.
“Chỗ tu chưa xong”
: tức là còn những điều cần tu ở Đạo thánh đế, vì còn có Trí pháp không, thuộc
về Đạo đế, là điều cần tu. Nên cái này là bao gồm các cái khác, những điều cần
phải tu học.
“Chỗ địa vị mà các
ông trụ” (nhữ sở trụ địa) : phạm hạnh của các ông đã lập tức là Trí, thuộc về
Diệt đế, chứng địa vị hữu dư Niết bàn.
“Gần vói Phật tuệ”
: nghĩa là chỗ chứng đắc chưa phải chân.
Vì còn có phạm
hạnh tàn dư chưa thành tựu, cho nên chẳng thuần nhất, nghĩa là sở tri chướng
chưa diệt.
Vì chưa đắc vô trụ
Niết bàn, cho nên “cần phải quan sát trù lượng” hai trí nhận thức về Khổ đế và
Tập đế cũng lại chẳng phải chân, “cái Niết bàn mà các ông đắc đó chưa phải là
chân thực”.
Huống chi ban đầu
thuyết nhị thừa, ý nói “chỉ là sức phương tiện của Như Lai”.
*
-Kinh văn : “Như
đạo sư kia” tới “ta hóa tác thôi”.
Tán rằng : đây là
hợp thuyết diệt hóa nói chân.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “mưa thêm thứ tươi đẹp”.
Tán rằng : dưới là
49 tụng rưỡi, chia làm hai phần :
• Phần đầu gồm 30
tụng rưỡi : tụng về việc trước đây đầu tiên đã nói về sự tích Đại Thông Trí
Thắng Như Lai, nói về nhân xưa, khiến nhớ lại việc thoái lui khỏi đại thừa để
theo tiểu thừa.
• Phần sau gồm 19
tụng : tụng về sự lấy thí dụ hóa thành để nêu rõ quả nay, khiến bỏ quyền (thừa)
mà lấy thực (thừa).
Phần đầu lại chia
làm hai phần :
- Phần 1 : gồm 28
tụng rưỡi, tụng về nhân duyên xưa.
- Phần 2 : gồm 2
tụng, kết luận khuyên chớ nên sợ hãi.
Phần 1 lại
chia làm hai phần :
a) Phần đầu : gồm
27 tụng rưỡi, tụng hội tự thân sự.
b) Phần sau : gồm
1 tụng, tụng hội đệ tử sự.
Phần đầu, trường
hàng có hai :
+ Mục đầu : thuyết
về Phật diệt cách đây bao lâu.
+ Mục sau : chính
thức thuyết minh về sự tích Phật ấy.
Nay ở đây chỉ tụng
về mục sau, vì mục đầu đã tụng rồi. Về sự tích Phật ấy, trường hàng có bốn
phần. Nay đây cũng thế (cũng chia làm 4 đoạn) :
1/ Đoạn đầu : gồm
4 tụng, nói rõ Phật thọ thành đạo.
2/ Đoạn 2 : gồm 13
tụng, nói về việc (Phật) chính thức chuyển pháp luân.
3/ Đoạn 3 : gồm 9
tụng rưỡi, con nối truyền đăng.
4/ Đoạn 4 : có 1
tụng, hội thành Phật ngày nay.
Đoạn đầu có hai
phần :
- 3 tụng đầu :
tụng về pháp chẳng hiện tiền.
- 1 tụng sau :
thuyết minh việc Phật thành đạo.
Chẳng tụng về
Phật thọ (bao lâu). Phần đầu này lại chia làm hai :
- 1 tụng đầu :
pháp chẳng hiện tiền.
- 2 tụng sau :
cúng dàng hoa, nhạc.
Đây tức là văn hai
mục này. Chẳng tụng về việc bày tòa. Trường hàng chỉ có Phạm thiên mưa hoa. Đây
thêm Bát bộ.
*
-Kinh văn : “Mười
sáu con Phật đó” tới “chấn động khắp hết thảy”.
Tán rằng : dưới là
đoạn hai gồm 13 tụng, tụng về việc chuyển chính pháp luân. Có hai phần
:
- 8 tụng đầu là
phần thỉnh.
- 5 tụng sau là
phần chính chuyển.
Trong phần thỉnh
lại có hai :
- 3 tụng đầu : 16
con thỉnh. Không có cúng dàng.
- 5 tụng sau
: các Phạm vương thỉnh.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Các
thế giới phương đông” tới “được thỉnh, ngồi im
lặng”.
Tán rằng : dưới là
5 tụng, tụng về việc Phạm vương thỉnh :
- 3 tụng đầu :
phương đông.
- 2 tụng sau :
phương khác.
Đây là phần đầu.
Văn cũng có 4. Cứ theo như trước có thể biết được.
*
-Kinh văn : “Ba
phương cùng bốn góc” tới “chuyển pháp luân vô
thượng”.
Tán rằng : đây là
các phương khác thỉnh.
*
-Kinh văn : “Thế
tôn vô lượng tuệ” tới “các ngươi cần phải biết”.
Tán rằng : dưới là
5 tụng, tụng về chính chuyển.
Có hai phần
:
• 2 tụng đầu :
Phật ưng thuận thuyết pháp cho.
• 3 tụng sau :
chúng sinh được lợi ích.
Đây là phần
đầu.
“Vô minh tới Lão
tử,
Đều từ sinh
duyên hữu”.
Đây là giải thích
nghĩa Vô minh duyên vào Hành, Hành duyên vào Thức. Cho đến Sinh duyên Lão tử
trong văn trường hàng.
Sinh nói ở đây
chẳng phải là chi Sinh (trong 12 nhân duyên), mà đó là chữ sinh trong từ “năng
sinh”. Chữ hữu ở đây chẳng phải là chi Hữu, mà là hữu của “hữu vô” (có và
không).
Ý nói chi Hành từ
duyên năng sinh của chi Vô minh, cho nên mới có. Thể của chi Thức từ duyên năng
sinh của chi Hành trước nó, cho nên mới có. Cho đến Lão tử cũng từ duyên năng
sinh của chi Sinh trước nó, cho nên mới có, chẳng phải là sự sinh khởi từ vô
nhân, bất bình đẳng nhân, mà đều là từ duyên sinh. Tức là nói rõ Vô minh từ cái
duyên năng sinh của Lão tử mà có, (cứ như vậy) luân chuyển vô cùng vô tận cho
nên gọi là Duyên khởi.
*
-Kinh văn : “Lúc
tuyên thuyết pháp này” tới “chẳng thể được bờ
ấy”.
Tán rằng : đây là
nói về chúng sinh được lợi ích :
a) Tụng đầu : hội
thứ nhất.
b) Tụng sau : hội
thứ hai.
c) Tụng cuối : hội
thứ ba, hội thứ tư.
* Chữ
[ ] đọc là Cai, là số từ. Theo Phong Tục Thông,
thì 10 ngàn là vạn, 10 vạn là ức, 10 ức là triệu, 10 triệu là kinh, 10 kinh là
cai (tức 100 triệu).
Cai còn chỉ số
lớn. Tức như trong văn trường hàng ở đằng trước có nói đến số 600 vạn ức Na do
tha. Na do tha tức là cai vậy.
*
-Kinh văn : “Thời
mười sáu vương tử” tới “tuệ nhãn thanh tịnh
nhất”.
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ ba. Nói về con nối tiếp việc truyền đăng. Trường hàng có 5 phần, trong
đây chỉ có 4 phần :
- 2 tụng đầu :
xuất gia khải thỉnh.
- 2 tụng rưỡi sau
: Phật hứa chính (thức) thuyết (pháp).
- 4 tụng sau nữa :
các con truyền đăng.
- 1 tụng cuối :
người được giáo hóa thường xuyên được lợi ích.
Đây là phần đầu,
chỉ thiếu mục thứ tư nói về Phật đứng dậy khen ngợi.
“Doanh vệ dực
tòng” : tức là chỉ các bề tôi phò tá.
*
-Kinh văn : “Phật
biết tâm trẻ nhỏ” tới “ như hằng hà sa kệ”.
Tán rằng : đây là
phần thứ hai : Phật hứa chính thuyết.
*
-Kinh văn : “Phật
đó thuyết kinh rồi” tới “hằng hà sa số chúng”.
Tán rằng : đây là
phần thứ ba : các con truyền đăng. Có ba phần nhỏ :
- 1 tụng đầu :
Phật nhập tịch định.
- 2 tụng sau : các
con truyền đăng.
- 1 tụng cuối :
nói về số chúng sinh được độ nhiều ít là bao nhiêu.
*
-Kinh văn : “Sau
khi Phật đó diệt độ” tới “thường cùng sinh với
thày”.
Tán rằng : đây là
phần thứ tư : người được giáo hóa thường được ích lợi.
*
-Kinh văn : “Mười
sáu Sa di đó” tới “đều được thành chính giác”.
Tán rằng : đây là
1 tụng : hội thành Phật nay.
Bốn đoạn trên đây
gồm 27 tụng rưỡi, gộp lại thành hội thứ nhất : sự tích bản thân (Phật).
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ người nghe pháp” tới “dần giáo hóa đạo Phật”.
Tán rằng : đây là
1 tụng : hội sự tích đệ tử.
Gộp với các tụng
trên gồm 28 tụng rưỡi, tụng về nhân duyên xưa : lùi khỏi đại thừa, đi theo tiểu
thừa.
*
-Kinh văn : “Ta
trong số mười sáu” tới “cẩn thận đừng sợ hãi”.
Tán rằng : đây là
2 tụng : kết luận việc thuyết nay, khuyên chớ sợ hãi.
Trên gồm 30 tụng
rưỡi nói về nhân duyên xưa, khiến nhớ lại việc thoái lui khỏi đại thừa mà theo
tiểu thừa. Đó là thuyết minh về sự tích Phật Đại Thông.
*
-Kinh văn : “Ví
như đường hiểm ác” tới “ở chỗ hiểm cứu nạn”.
Tán rằng : dưới là
đoạn lớn thứ hai, có 19 tụng nói rõ quả nay, để khiến họ biết bỏ quyền mà lấy
thực. Đó là sự Hóa thành dụ, chia làm hai phần :
- 11 tụng rưỡi :
tụng dụ thuyết.
- 7 tụng rưỡi :
tụng hợp thuyết. Chẳng tụng pháp thuyết.
Phần đầu lại chia
làm hai phần nhỏ :
- 9 tụng : tụng về
dụ “xưa thuyết quyền (thừa)”.
- 2 tụng rưỡi : tụng
về dụ “nay thuyết thực (thừa)”.
Văn phần nhỏ
đầu lại có 4 mục :
+ 3 tụng đầu : dụ
về “thoạt đầu dẫn họ lìa chỗ hiểm”.
+ 1 tụng sau : dụ
về “nửa đường mới lui”.
+ 4 tụng sau nữa :
dụ về “vì họ mà đặt ra Hóa thành”.
+ 1tụng cuối : dụ
về “mọi người mệt đều nghỉ”.
Mục đầu này lại
chia làm ba :
+ 1 tụng : nói về
đường hiểm lắm nạn.
+ 1 tụng : muốn
vượt qua, nhưng đường xa.
+ 1 tụng : đạo sư
cứu nạn.
“Có nhiều thú dữ”
: chỉ phiền não, Ác nghiệp quả.
“Không có nước” :
chỉ không có Phật pháp giáo.
“Không có cỏ” :
chỉ không có Phật lý nghĩa.
Phật là bậc đại
đạo sư ở tại đường hiểm sinh tử để cứu giúp mọi người bị hoạn nạn.
*
-Kinh văn : “Mọi
người đều mệt mỏi” tới “ở đây muốn lùi về”.
Tán rằng : đây là
mục hai : dụ về nửa đường mới lùi.
*
-Kinh văn : “Đạo
sư nghĩ như vầy” tới “mà mất châu báu lớn”.
Tán rằng : đây là
mục thứ ba, có 4 tụng, là dụ về vì họ mà đặt ra hóa thành. Chia làm ba :
- 1 tụng đầu :
khởi niệm.
- 2 tụng sau : hóa
tác.
- 1 tụng cuối :
khuyến nhập (khuyên vào hóa thành) .
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Lát
sau nghĩ phương tiện” tới “nam nữ đều đầy rẫy”.
Tán rằng : đây là
mục hóa tác (hóa làm tòa thành).
“Thành quách” :
chỉ hữu dư Niết bàn. Thành tức là quách. Trong đó chúng sinh lấy “Tất cánh Không”
làm nhà cửa.
Kinh Vô Cấu Xưng
nói :
“Nhà, là thắng
nghĩa Không;
Trang nghiêm hoa
giác phẩm.
Vườn tược là tổng
trì;
Đại pháp là cây
cối,
Chín định là sông
ngòi.
Tám giải là ao
tắm;
Tam giải (thoát
môn) là Trùng môn”.
“Trùng môn” : tức là
lầu gác cao, vì cao hơn ngoại đạo, vượt hẳn sinh tử; vì nhập Không xá.
Chân thực đế pháp
là “nam”, đó là Sinh không chân trí, vì từ bi tâm là “nữ”, vỗ về nuôi dưỡng
chúng sinh.
Căn cứ vào Kinh Vô
Cấu Xưng để mà giải thích nghĩa này.
*
-Kinh văn : “Hóa
ra thành đó rồi” tới “ai nấy tùy ý thích”.
Tán rằng : đây là
mục thứ ba : khuyến nhập (khuyên vào hóa thành).
*
-Kinh văn : “Mọi
người đã vào thành” tới “tự cho đã được độ”.
Tán rằng : đây là
mục thứ tư : dụ về mọi người mệt đều nghỉ ngơi.
*
-Kinh văn : “Đạo
sư biết nghỉ xong” tới “sẽ cùng tới chỗ báu”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ hai tụng về dụ “nay thuyết thực (thừa)”.
- Đầu tiên là 1
tụng : nêu rõ phải diệt hóa (thành).
- Sau đó là 1 tụng
rưỡi : chính thức bảo cho biết chân (thừa).
*
-Kinh văn : “Ta
cũng lại như vậy” tới “việc làm đều đã xong”.
Tán rằng : dưới là
đoạn lớn thứ hai, có 7 tụng rưỡi, là hợp thuyết. Trong chia làm hai phần :
- 2 tụng rưỡi đầu
: tụng về hợp thuyết “xưa thuyết quyền thừa”.
- 5 tụng sau : tụng
về hợp thuyết “nay thuyết thực thừa”.
Đây là phần đầu.
Có 3 ý :
+ Nửa tụng đầu :
thoạt tiên dẫn họ lìa chỗ nguy hiểm.
+ 1 tụng sau : nửa
chừng mới lùi.
+ 1 tụng cuối : vì
họ mà đặt ra hóa thành.
*
-Kinh văn : “Đã
biết tới Niết bàn” tới “thuyết cho pháp chân
thực”.
Tán rằng : dưới có
5 tụng, tụng về hợp thuyết “nay thuyết thực (thừa)”. Có ba phần :
- 1 tụng đầu : nêu
lên việc nay thuyết thực (thừa).
- 3 tụng sau :
khuyên bỏ quyền lấy thực.
- 1 tụng cuối :
kết luận.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Chư
Phật phương tiện lực” tới “mới là chân thực
diệt”.
Tán rằng : đây là
khuyên bỏ quyền để theo thực :
- 1 tụng đầu :
khuyên bỏ quyền.
- 1 tụng rưỡi sau
: khuyên lấy thực.
*
-Kinh văn : “Chư
Phật là đạo sư” tới “dẫn vào nơi Phật tuệ”.
Tán rằng : đây là
kết luận về phần trên.
PHẨM NĂM TRĂM
ĐỆ TỬ THỤ KÝ
Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có bốn ý :
1. Hạng thượng căn
một lần nghe pháp là được thụ ký. Hạng trung căn hai lần nghe pháp là được thụ
ký. Nay hạng hạ căn sau ba lần nghe pháp đã có thể giải ngộ được rồi, bởi vậy
thụ ký cho. Chính vì thế mà có phẩm này.
2. Luận nói rằng
để trừ cho hạng thứ năm là hạng người vô định trong bảy loại chúng sinh có đủ
phiền não tính, bảy loại tăng thượng mạn. Hạng thứ năm này vì tâm kém cỏi, sinh
hư vọng giải, khởi tăng thượng mạn, (Phật) đã thuyết thí dụ về buộc châu báu
cho hạng này. Có nghĩa là hạng này tâm tán loạn, thực sự không định, thời quá
khứ tuy có thiện căn đại thừa mà chẳng tự thấy biết. Hạng đó chẳng cầu đại
thừa, ở tâm thấp kém, sinh hư vọng giải, cho đó là đệ nhất thừa. Để đối trị
loại đó, nên thuyết về dụ buộc châu báu.
Cho nên luận lại
nói : đối với hạng thứ năm này thì chỉ rõ cho họ thiện căn thời quá khứ của họ,
khiến họ nhớ lại, dạy họ nhập tam muội. Đó là các hạng hữu học và phàm phu,
chấp trước cho nhị thừa là cứu cánh, chẳng biết thiện căn đại thừa thời quá
khứ, nay khiến họ nhập định nhớ lại thiện căn đại thừa thời đó. Ví như bí mật buộc
châu báu vào người say rượu nằm kềnh. Vì thế cho nên có phẩm này.
3. Trong mười điều
vô thượng, điều thứ tư là Khiến lĩnh giải vô thượng, cho nên thuyết dụ buộc
châu báu. Có nghĩa là thuyết về duyên xưa, khiến sinh giác giải, biết có thứ diệu
bảo là thiện căn đại thừa. Bởi vậy nên có phẩm này. Đây là nghĩa tàn vậy.
4. Luận giải thụ
ký có sáu chỗ thị hiện :
1) Biệt ký
(thụ ký riêng biệt) : nhu trường hợp Xá Lợi Phất và bốn vị Đại Thanh Văn.
2) Đồng ký
(thụ ký đồng loạt) : như trường hợp năm trăm (đệ tử) là Phú Lâu Na v.v…
cùng một ngàn hai trăm (người khác) có cùng chung một danh hiệu, đó
là điều mà mọi người chẳng biết, những người nói trên đồng
thời được thụ ký. Vì thế cho nên có phẩm này.
Song Mãn Từ tên
gọi là Pháp Minh, những người khác tên gọi là Phổ Minh. “Minh” nghĩa giống
nhau, nên nhiều. Cùng tên như nhau nên gọi là Đồng ký.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
* Chữ [受] đọc là Thụ. Sách Ngọc Thiên giải thích chữ này có nghĩa như các
chữ Dung, Nạp, Lĩnh, Đắc.
“Năm trăm” chỉ
số.
“Đệ tử” chỉ
người.
“Thụ ký” chỉ
sự.
Từ ba thứ trên mà
được tên : năm trăm đệ tử thụ nạp Phật ký.
Thụ nạp Phật ký :
đó gọi là “Thụ ký”. Đó là Y chủ thích (căn cứ vào điều chủ yếu mà giải thích).
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
-Hỏi 1 : trong
mười thứ vô thượng, trong thất dụ đều nói tới việc buộc châu báu, sao chẳng lấy
đó là tên gọi (của phẩm) mà lại gọi tên (phẩm) là Thụ Ký ?
Đáp : căn thục,
phát tâm thì ký biệt cho rồi sau mới thuyết dụ “buộc châu báu”. Đặt tên gọi
theo việc ban đầu, cho nên gọitên phẩm là Thụ Ký.
-Hỏi 2 : hạng
thượng căn v.v… trước khi thụ ký đều lĩnh ngộ rồi, vì sao mà năm trăm đệ tử lại
lĩnh ngộ sau khi thụ ký ? Ý nói việc buộc châu báu chính là sự lĩnh ngộ của
năm trăm đệ tử.
Đáp : các hạng
thượng căn, trung căn chẳng đợi thụ ký, nghe thuyết đã lĩnh giải rồi. Còn hạng
hạ căn thì bản tính vốn đã trì độn, nhân ký rồi mới sinh hỷ ý : hỷ ý đã phát,
mới tỏ rõ sự lĩnh ngộ. Cho nên sự lĩnh giải của hạng này chẳng giống hai hạng
trên.
Thêm nữa, hạ căn
Mãn Từ đã lĩnh ngộ từ trước rồi. Còn năm trăm đệ tử hạ căn thụ ký xong mới nói
rõ thêm bản ý, vì sự lĩnh ngộ là sâu nặng, chẳng phải đến lúc đó mới lĩnh ngộ
mà là trước đó đã lĩnh ngộ rồi.
-Hỏi 3 : trong
phẩm này Mãn Từ với một ngàn hai trăm người cùng đều được thụ ký. Cớ sao chỉ
lấy việc thụ ký của năm trăm (đệ tử) làm tên gọi (phẩm này)?
Đáp : có bốn cách
giải thích :
1) Năm trăm (đệ
tử) tại hội, hiện tiền được thụ ký. Một ngàn hai trăm người kia chẳng tại hội,
chẳng hiện tiền.
2) Năm trăm (đệ
tử) được Phật đích thân thụ ký cho. Còn một nghìn hai trăm người kia, thì Phật
khiến truyền thụ ký cho ở trong kệ.
3) Năm trăm người
đó được Phật thụ ký riêng, có nghĩa là lần lượt thụ ký cho và nói riêng tướng
mạo của họ. Còn một ngàn hai trăm người kia thì Phật chỉ thụ ký chung, chẳng
nói rõ riêng về tướng mạo.
4) Năm trăm người
ấy năng sinh lĩnh giải, thuyết dụ “buộc châu báu”. Một ngàn hai trăm người kia
không có lĩnh giải riêng. Một mình Mãn Từ là số ít, cho nên chỉ lấy năm trăm (đệ
tử) làm tên gọi của phẩm, vì là toàn số. Chẳng lấy một ngàn hai trăm làm tên
gọi của phẩm, vì số chẳng toàn.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phú Lâu Na” tới “lực thần thông”.
Tán rằng : đây là
đoạn văn lớn trong phẩm, chia làm ba phần, vòng thuyết pháp thứ ba có bốn :
trên kia là Phật thuyết, cho nên dưới còn ba :
- Đầu tiên là Mãn
Từ tâm niệm lĩnh giải.
- Thứ đến đoạn từ
“bấy giờ Phật bảo” trở xuống, là Thế tôn phát ngôn ấn thuật.
- Cuối cùng là
đoạn từ “các tỳ kheo (như) Phú Lâu Na v.v... cũng ở (chỗ) bảy Phật” trở xuống :
Phật chính thức thụ ký cho.
Một người là
đầu, những người khác về lý cũng giống như thế, chỉ nhấc một góc mà động cả ba
góc khác vậy.
Văn đoạn đầu này
có hai phần :
• Phần đầu thuyết
minh về sự lĩnh giải, thành kính.
• Phần sau thuyết
minh về (sự) tâm niệm lĩnh ngộ.
Phần đầu lại chia
làm hai :
- Đầu tiên thuyết
minh về sự lĩnh giải được.
- Sau đó thuyết
minh về sự thành kính.
Đây là phần đầu.
Những điều lĩnh
giải được, có bốn :
1) Lĩnh thuyết
pháp : gần thì lĩnh giải được hóa thành, bảo sở. Xa thì lĩnh giải được cái lẽ
trước quyền sau thực trong phẩm Phương Tiện.
2) Lĩnh thụ ký :
gần thì lĩnh giải được câu “Các đệ tử ta uy đức đầy đủ, số ấy là năm trăm, đều
đáng thụ ký, ở thời vị lai đều được làm Phật” trong cuối phẩm Thụ Ký. Xa thì
lĩnh giải được việc từ Thu Tử trở xuống được thụ ký.
3) Lĩnh giải được
nhân duyên đời trước : gần thì lĩnh giải được sự tích gần của mười sáu vương
tử. Xa thì lĩnh giải được ý câu nói của Thu Tử trong phẩm Phương Tiện “đời đời
đã từng theo Phật thụ hóa” và câu (Phật nói) trong phẩm Thí Dụ rằng : “Ta xưa
giáo hóa cho ngươi chí nguyện Phật đạo”.
4) Lĩnh thần thông
: gần thì lĩnh giải được các sự như việc đặt ra hóa thành trong phẩm Thí Dụ
trước đây, đó là thần cảnh Trí tác chứng thông, có khả năng biến hóa mà bày đặt
ra ở giữa đường. (Hoặc như) việc Phật Đại Thông mười kiếp ngồi ở đạo tràng,
chấn động mười phương, phóng quang chiếu xa khắp mười phương. Phạm vương nhìn
thấy ánh hào quang đó đều đến tập họp v.v… . Xa thì lĩnh giải được việc Phật
Thích Ca thời kỳ đầu triệu tập (đã khiến) đất động, mưa hoa, phóng quang chiếu
xa, cho đến việc (Phật nói) trong phẩm Phương Tiện (rằng) “lúc ta nảy ra ý nghĩ
đó thì Phạm âm úy dụ ta rằng : Lành thay ! Thích Ca Văn v.v…”. Đó đều là thần
thông của chư Phật.
*
-Kinh văn : “Được
pháp chưa từng có” tới “mắt chẳng tạm rời”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về “sự thành kính”. Có tám điều :
1) Được pháp hy
hữu (hiếm có).
2) Tâm tịnh.
3) Phấn khởi (dũng
dược).
4) Từ chỗ ngồi
đứng dậy.
5) Tới trước
Phật.
6) Lễ chân.
7) Lùi ra đứng
yên.
8) Chiêm ngưỡng
(Phật).
*
-Kinh văn : “Mà
nghĩ như thế này” tới “bản nguyện trong thâm tâm của
chúng con”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về tâm niệm lĩnh giải.
Đầu tiên là tán
thán đức cao cả của Phật, sau đó nói rõ (bản thân) nhất tâm lĩnh giải.
“Tình lĩnh giải” :
chỉ sự hiểu biết và ham muốn (cầu đạo). Sự đã chẳng phải là một, thì năng cũng
sâu và rộng.
“Không thể dùng
lời nói mà nói hết được” (ngôn bất năng tuyên) : có nghĩa là Phật biết lòng ta,
cần gì phải kể lể tường tận.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật bảo” tới “Di Đa La Ni Tử không ?”.
Tán rằng : dưới là
đoạn lớn thứ ba của lượt thứ ba : Thế tôn phát ngôn ấn thuật. Có ba phần
:
- Đầu tiên là
(Phật) hỏi mọi người có thấy hay không ?
- Thứ đến đoạn từ
“Ta thường khen họ” trở xuống : (Phật) tán thán công đức ngày nay của họ.
- Cuối cùng là
đoạn từ “các ngươi chớ cho rằng” trở xuống : (Phật) nói về công đức ngày xưa
của họ.
Đây là phần
đầu.
Chữ “Kiến” ở đây
có nghĩa như chữ Thức. Chẳng phải là mắt mọi người chẳng thấy, mà chỉ là ý
chẳng nhận thức được đức hạnh thế nào ?
Thêm nữa, chữ
“Kiến” còn có nghĩa như Khán (nhìn, nhìn thấy). Hiện tiền đứng trụ, các ngươi
có nhìn thấy không ?
Thêm nữa, tuy mọi
người nhìn thấy nhưng chưa hẳn đã để tâm. Nay muốn nói về đức hạnh của họ, nên
hỏi “mọi người có thấy hay không ?”. Muốn khiến chúng sinh nhìn kỹ ngắm nghía
quan sát kỹ lưỡng, nên hỏi là “có thấy hay không ?”.
*
-Kinh văn : “Ta
thường khen ôngï” tới “các loại công đức”.
Tán rằng : dưới là
khen công đức ngày nay.
Có hai mục : đầu
tiên khen người, sau đó khen đức.
Khen đức có hai :
đầu tiên là chung, sau đó là riêng.
Đây là khen người
và khen chung về đức.
*
-Kinh văn : “Tinh
cần hộ trì” tới “biện bác về ngôn luận”.
Tán - rằng : đây là khen
riêng về đức.
Có năm điều
:
1) Giúp tuyên
chính pháp.
2) Biết chỉ cho
bốn chúng về lợi ích của giáo pháp.
3) Biết giải thích
Phật pháp.
4) Làm lợi ích cho
người cùng tu hành.
5) Ngôn ngữ biện
luận tài giỏi.
* Chữ Nhiêu [饒] có nghĩa là nhiều, “phong” là hậu hĩ, lợi ích, dư thừa.
*
-Kinh văn : “Các
ngươi chớ cho rằng” tới “cũng là tối đệ nhất”.
Tán rằng : dưới là
bàn về đức xưa. Có 10 đức. Trong đây có 2 đức :
1) Hộ trợ tuyên
pháp, làm Hộ pháp thành, thụ trì chính pháp, nhiếp thụ chính pháp.
2) Thành thắng
nhân.
*
-Kinh văn : “Lại ở
(chỗ) chư Phật” tới “không có nghi hoặc”.
Tán rằng : đây có
bốn đức :
1) Lĩnh giải được
lý nhị Không, vì từ Không mà quán Hữu.
2) Chứng được Tứ
biện, vì trụ ở Thiện tuệ địa.
3) Thường xét tỏ
những lời tuyên thuyết, vì thuận với điều chứng được, lìa hẳn sở thuyên.
4) Không còn nghi
hoặc, vì hai thứ nghi ngờ về lý và về sự đều đã hết.
*
-Kinh văn : “Đầy
đủ sức thần thông của Bồ tát” tới “trăm ngàn chúng
sinh”.
Tán rằng : đây có
ba đức :
1) Đủ thần thông,
vì là đại sự nghiệp trong Pháp vân địa.
2) Tu phạm hạnh,
vì thường giữ Tam tụ giới của Bồ tát.
3) Ngấm ngầm làm
lợi lớn, vì dùng pháp tiểu thừa mà làm lợi ích cho chúng sinh.
*
-Kinh văn : “Lại
hóa vô lượng” tới “giáo hóa chúng sinh”.
Tán rằng : trong
này có một đức.
Nhiếp luận nói
rằng : “Hóa, cho nên thuyết nhất thừa”. Tức là việc Phật Bồ tát hóa làm Thanh
văn, tiếp dẫn đồng loại, khiến họ phát tâm đại thừa.
Cũng tức như Kinh
Lăng Già nói rằng : “trải qua nhiều kiếp ham rượu tam muội, sau khi say rồi, từ
đó trở dậy, mới phát đại tâm khuyên các Thanh văn khác rằng : ta vô lượng trăm lần
quay trở lại, từng ở Thanh văn vô dư y Niết bàn mà bát Niếât bàn, vì đó chẳng
phải là Diệt thật sự, ta bèn từ đó mà trở dậy. Cho nên ngày nay lại phát tâm
đại thừa. Các ngươi ngày nay vì sao mà vẫn trụ ở tiểu thừa”. Các nghĩa như vậy
giống như chương Nhất thừa ở trên đã nói.
Đức này có
hai :
1) Hành lợi tha :
hóa tha, khiến họ đứng vững nơi vô thượng Bồ đề.
2) Chính do lợi
tha mà thành hạnh tự lợi : thường xuyên làm Phật sự để tịnh cõi Phật.
*
-Kinh văn : “Các
tỳ kheo” tới “cũng lại đệ nhất”.
Tán rằng : dưới là
đoạn lớn thứ tư của vòng (thuyết pháp) thứ ba : chính thức thụ ký cho.
Có hai phần
:
- Ban đầu thụ ký
cho Mãn Từ.
- Sau đó thụ ký
cho 500 đệ tử.
Ban đầu thụ ký lại
có hai phần :
1) Đầu là
nhân ký. 2) Sau là quả ký.
Nhân ký có sáu
thứ. Đây là đầu tiên : thụ ký cho thành người giỏi.
“Bảy Phật” : tức
bảy Phật quá khứ :
- Tiền kiếp có ba
: Tỳ Bát Thi Phật ; Thi Khí Phật ; Tỳ Thấp Phọc Phù Phật.
- Hiền kiếp có bốn
: Ca Lộ Ca Thôn Đà Phật ; Ca Lộ Ca Mâu Ni Phật ; Ca Diếp Ba Phật và Thích Ca
Mâu Ni Phật.
Phân tích về nghĩa
của Hiền kiếp v.v… thì đều như Di Lặc Thượng Sinh sớ đã nói. Đây là trình bày
chung về bảy Phật quá khứ. Còn đối với ta ngày nay là hiện tại, sẽ trình bày
riêng.
*
-Kinh văn : “Mà
đều hộ trì” tới “Tam miệu tam Bồ đề”.
Tán rằng : đây là
hai ký :
1) Hộ trợ tuyên
pháp.
2) Hóa lập Bồ đề.
*
-Kinh văn : “Để
tịnh cõi Phật” tới “đủ đạo Bồ tát”.
Tán rằng : đây có
ba ký :
1) Thường xuyên
khuyến hóa.
2) Lợi sinh.
3) Đủ đạo Bồ tát.
*
-Kinh văn : “Quá
vô lượng” tới “Phật Thế tôn”.
Tán rằng : dưới là
quả ký.
Có sáu ký. Đây là
ký đầu tiên : (thụ ký về) danh hiệu, vì hiểu rõ pháp nghĩa cho nên gọi là Pháp
Minh.
*
-Kinh văn : “Phật
đó lấy” tới “đầy rẫy ở trong”.
Tán rằng : dưới là
(ký) thứ hai : tướng trạng cõi nước.
Có hai phần : đầu
tiên là nêu rõ, sau đó là kết luận.
Trong phần nêu rõ
có sáu mục. Ở đây có hai :
1) Rộng, hẹp ra
sao.
2) Tướng trạng thế
nào.
Tướng trạng thế
nào có ba :
a) Bảo địa
(đất đai quý báu).
b) Địa bình
(đất đai bằng phẳng).
c) Đài
quán.
* Chữ Lăng [陵] sách Ngọc Thiên giải thích là gò đất lớn. “Lăng” còn chỉ “khâu
lăng” tức mồ mả lớn. Chữ Giản [澗] là thủy danh, chỉ khe
nước giữa các núi. Sâu rộng bốn thước thì gọi là Câu [溝] (rãnh, cống rãnh). Hác [壑] là khe, có khi có
nghĩa là hang, động sâu, rỗng.
*
-Kinh văn : “Cung
điện chư thiên” tới “không có dâm dục”.
Tán rằng : trong
này có 1 mục nêu rõ tướng trạng : có thiện không ác. Có bốn ý :
1) Trời gần.
2) Thấy
nhau.
3) Không có ác
đạo, nữ nhân.
4) Vô dục, hóa
sinh.
*
-Kinh văn : “Được
đại thần thông” tới “ mà tự trang nghiêm”.
Tán rằng : trong
này cũng có 1 mục nêu rõ tướng trạng : tướng của người trời. Có bảy ý :
1) Đắc thông. 5) Tinh tiến.
2) Thân quang. 6) Trí tuệ.
3) Phi hành. 7) Tướng hảo.
4) Ý chí kiên
cố.
*
-Kinh văn : “Chúng
sinh nước ấy” tới “thiền duyệt thực”.
Tán rằng : đây chỉ
có 1 mục nêu rõ tướng trạng : thực nhậm trì (nói về thức ăn thức uống để duy
trì).
Đây nói tới nhị
thực (hai loại thức ăn).
Phật Địa kinh cũng
nói hai loại : pháp hỷ và pháp lạc, vì pháp vị to lớn duy trì hỷ lạc.
Kinh Vô Cấu Xưng
nói : “đã ăn Bất tử pháp, lại uống Giải thoát vị”. Các kinh khác nói tới tứ
thực (bốn loại thức ăn) đó là Đoạn, Xúc, Tư, Thức.
Nhiếp luận cũng
nói bốn loại, đó là :
1) Bất thanh
tịnh.
2) Thanh tịnh.
3) Tịnh bất
tịnh.
4) Thị hiện y chỉ
trụ thực.
Kinh Tăng Nhất A
Hàm nói về cửu thực (9 loại thức ăn) : gồm 4 loại thế gian thực và 5 loại xuất
thế gian thực.
Bốn loại thế gian
thực là những gì ? Đó là đoạn thực, xúc thực, tư thực, thức thực và nói rộng về
những tướng này.
Năm loại xuất thế
gian thực là những gì ? Đó là :
1) Thiền thực.
2) Nguyện thực.
3) Niệm thực.
4) Bát giải thoát
thực.
5) Hỷ thực.
Thường cùng chuyên
niệm trừ bỏ 4 loại thế gian thực, cầu 5 loại xuất thế gian thực.
Pháp vô lậu phá
tan hữu lậu, chẳng phải là hữu lậu thực. Pháp hữu lậu trái ngược, làm hại vô
lậu, chẳng phải là vô lậu thực. Thực ra đều gọi là thực cả. Tạm thời nuôi dưỡng
duy trì, thì có thể giả danh là thực, song cứu cánh thì chẳng phải.
Ở đây và Phật Địa
kinh, Vô Cấu Xưng kinh chỉ nói về vô lậu (thực), chứ chẳng phải là hữu lậu
thực. Các chỗ khác nói tới bốn loại, đó chỉ là hữu lậu thực, chứ chẳng phải là
vô lậu thực.
Kinh A Hàm nói đến
9 thứ thực, đó là gồm cả hai loại thực (thế gian và xuất thế gian).
Nhiếp luận nói 4
loại, là dựa vào con người mà phân biệt các loại thực và phi thực pháp khác
nhau.
Cái hỷ lạc do pháp
vị sản sinh ra mà Phật Địa kinh nói đó, thì ở đây gọi là Pháp hỷ. Đây dựa vào
điều chứng được lúc đầu chỉ ở tại ý thức. Dục giới duyên vào Giáo, nên chỉ gọi
là Hỷ thực.
Đó căn cứ vào lúc
sau cũng chung cho cả sáu thức, chung cho cả Sắc giới cũng có, cho nên tách
bạch ra làm hỷ lạc. Đây gộp lại, gọi là hỷ, vì nghĩa vui thích giống
nhau.
Đó chỉ nói về
ngoại duyên, chẳng nói tới thiền duyệt. Thiền duyệt tức là Khinh an lạc thực.
Đây nói chung cho cả nội duyên, cho nên kiêm cả thiền duyệt. Đây là căn cứ vào
sự chứng đắc ban đầu chỉ ở trong ý thức, chỉ gọi hỷ là thực.
Còn Kinh Vô Cấu
Xưng đó thì lại gọi cả hai thứ giả thực hữu vi, vô vi thù thắng là Thực. Vì
giải thoát cho khỏi khổ, cho nên gọi là Giải thoát thực. Chân như lý tính, đó gọi
là Bất tử thực. Hai thứ này mãi mãi giúp ích cho chúng sinh, cho nên thuyết
minh thiên về hai thứ này.
Các kinh khác nói
đến tứ thực như Đoạn thực v.v… đó chỉ là nói về các thứ hữu lậu thực, có
thể trưởng dưỡng khí lực, có thể tăng thêm hỷ lạc, có thể nuôi dưỡng hy vọng,
có thể nhiếp chư căn đại chủng tạo sắc, làm cho trường thọ, ấm áp, liên tục
chẳng hoại. Thêm nữa Thân, Thụ, Tâm, Pháp bốn thứ đó theo như thứ tự mà trưởng dưỡng
thân hữu lậu, quán nhập niệm trụ, cho nên chỉ có bốn.
Kinh A Hàm nói tới
9 loại thực, đó là nói gộp cả hai thứ hữu lậu và vô lậu. Hai loại Thiền và Hỷ
trong năm loại sau, tức hai loại thực này có thể trưởng dưỡng được pháp thân, vì
giúp ích được nhiều, cho nên thuyết minh thiên về các loại này.
Nguyện, Niệm, Giải
thoát tuy cũng thực sự có ý nghĩa giúp cho sự trưởng dưỡng, kinh đó gọi là Thực
(thức ăn). Nhưng vì chẳng phải là thù thắng, là chung cho mọi thứ, chỉ duyên vào
ngoại, nội mà sinh ; kém hơn Pháp Thiền (Pháp hỷ, Thiền duyệt), cho nên trong
kinh này lược đi chẳng nói tới.
*
-Kinh văn : “Có vô
lượng” tới “cùng tám giải thoát”.
Tán rằng : trong
này chỉ có 1 mục nêu rõ tướng trạng : đó là quyến thuộc tam thừa : ba đức của
Bồ tát, ba đức của Thanh văn.
*
-Kinh văn : “Cõi
nước Phật đó” tới “trang nghiêm thành tựu”.
Tán rằng : đây là
kết luận về tướng trạng của cõi nước (Phật đó).
*
-Kinh văn : “Tên
kiếp là Bảo Minh” tới “đầy khắp nước ấy”.
Tán rằng : đây có
bốn ký :
1) Tên
kiếp. 2) Tên nước.
3) Tuổi
thọ. 4) Dựng tháp.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “độ các loài chúng sinh”.
Tán rằng : 21 tụng rưỡi, chia làm hai phần :
- Phần đầu : 12
tụng, tụng về phần Phật ấn thuật ở trên.
- Phần sau : 9
tụng rưỡi, tụng về phần Phật chính thức thụ ký cho.
Phần đầu lại chia
làm hai đoạn :
- Đoạn đầu gồm 7
tụng : tán thán đức ngày nay.
- Đoạn sau gồm 5
tụng : tán thán đức ngày xưa.
Chẳng tụng về việc
Phật hỏi đại chúng. Về lý tuy tụng về đức ngày nay, nhưng về thế văn tựa hồ như
tụng về hết thảy đệ tử ứng hóa.
Đoạn đầu có ba mục
:
+ 2 tụng rưỡi đầu
: nêu lên.
+ 3 tụng sau :
giải thích thành tựu.
+ 1 tụng rưỡi cuối
: kết luận.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Tự
nói là Thanh văn” tới “lại hiện tướng tà kiến”.
Tán rằng : đây là
giải thích thành tựu. Có hai :
- 1 tụng rưỡi đầu,
thị hiện trụ ở Thanh văn cách Phật đạo còn xa, để giáo hóa các chúng sinh.
- 1 tụng rưỡi sau,
thị hiện ở tiểu thừa, thực ra là để tịnh cõi Phật.
*
-Kinh văn : “Đệ tử
ta như vậy” tới “tâm thì mang nghi hoặc”.
Tán rằng : đây là
kết luận.
*
-Kinh văn : “Nay
Phú Lâu Na này” tới “đa văn, có trí tuệ”.
Tán rằng : dưới là
5 tụng, tụng về đức ngày xưa. Có mười loại. Trong này có ba loại :
1) Hộ pháp.
2) Thắng nhân.
3) Đa văn, có trí
tuệ.
Trường hàng không
có mục này.
*
-Kinh văn : “Nói
ra không sợ gì” tới “mà tự tịnh cõi Phật”.
Tán rằng : trong
này có bảy :
1) Năng thuyết. 5)
Thuyết tịnh pháp.
2) Đắc thông. 6)
Làm lợi ích lớn.
3) Có đủ Vô ngại
giải. 7) Tịnh cõi Phật.
4) Thức căn.
*
-Kinh văn : “Tương
lai cũng cúng dàng” tới “hộ trì kho pháp bảo”.
Tán rằng : dưới là
9 tụng rưỡi, tụng về việc thụ ký. Có hai phần :
- 2 tụng rưỡi đầu
: nhân ký.
- 7 tụng sau : quả
ký.
Đây là phần đầu
(nhân ký), có sáu :
1) Cúng Phật. 4)
Thuyết pháp.
2) Tuyên pháp. 5)
Lợi sinh.
3) Tịnh cõi Phật.
6) Hộ pháp.
*
-Kinh văn : “Sau
đó được thành Phật” tới “cũng không có đường ác”.
Tán rằng : dưới là
quả ký. Có hai phần :
- 5 tụng rưỡi :
tụng đầu về ký.
- 1 tụng rưỡi sau
: tụng về kết luận.
Đây là phần đầu,
có bốn :
1) Tự thể. 3) Tên
kiếp.
2) Tên nước. 4)
Tướng trạng cõi nước.
Bồ tát chúng rất
đông, đều ở trong cõi nước đó, giống như trên kia đã nói.
*
-Kinh văn : “Tỳ
kheo Phú Lâu Na” tới “ta nay chỉ nói qua”.
Tán rằng : đây là
phần kết luận.
Xét ý đoạn văn
này, thì thấy đây là Phật thụ ký cho từ Bát địa trở lên trong cõi của báo Phật.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ, một ngàn hai trăm” tới “cũng chẳng khoái sao
?”.
Tán rằng : dưới
đây là đoạn lớn thứ hai, nói về việc thụ ký cho năm trăm người. Có 4 mục :
1) Trong tâm mong
muốn.
2) Phật ưng thuận.
3) Phật chính thức
thụ ký cho.
4) Hối hận, lĩnh
giải.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Phật
biết những người này” tới “Tam Bồ đề ký”.
Tán rằng : đây là
mục hai : Phật ưng thuận.
*
-Kinh văn : “Ở
trong chúng này” tới “Phật Thế tôn”.
Tán rằng : đây là
mục ba : Phật chính thức thụ ký cho. Có hai phần :
- Phần đầu : thụ
ký cho người có mặt.
- Phần sau : 1
tụng rưỡi ở cuối, tụng về việc thụ ký cho người vắng mặt.
Phần đầu có hai :
- Đầu tiên là
trường hàng.
- Sau đó là kệ
tụng.
Trường hàng có hai
:
a) Đầu tiên : thụ
ký cho Trần Như.
b) Sau đó : thụ ký
cho năm trăm (đệ tử).
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Năm
trăm người đó” tới “gọi là Phổ Minh”.
Tán rằng : đây là
thụ ký cho năm trăm đệ tử. Có hai cách giải thích :
- Một là : đây tức
là 500 trong số 1200.
- Hai là : đây là
số khác.
Cách giải thích
đầu là đúng.
“Ca Lưu Đà Di”,
đây gọi là Hắc quảng (ánh sáng đen).
“Ưu Đà Di”, đây
gọi là Xuất hiện.
“Chu Đà”, có nghĩa
là con rắn.
“Nô Sa Già Đa”ø,
nếu phiên âm thật đúng thì phải là Sa Bà Yết Đa, tiếng Hán dịch là Thiện
lai.
Các điều khác thì
như trước đã giải thích.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “nên hiệu là Phổ Minh”.
Tán rằng : đây là
11 tụng, chia làm hai phần :
- 9 tụng rưỡi đầu
: tụng về việc thụ ký cho người có mặt.
- 1 tụng rưỡi sau
: tụng về việc thụ ký cho người vắng mặt.
Trong 9 tụng rưỡi,
tụng về việc thụ ký cho người có mặt ở phần đầu, có hai mục :
- 6 tụng : thụ ký
cho Trần Như.
- 3 tụng rưỡi :
thụ ký cho năm trăm đệ tử.
Mục đầu lại chia
làm năm. Trong này có hai :
+ 1 tụng : Thời.
+ 1 tụng rưỡi : Tự
thể.
*
-Kinh văn : “Cõi
nước ấy thanh tịnh” tới “pháp diệt trời người
lo”.
Tán rằng : trong
này có ba :
- 1 câu : cõi
nước.
- 2 tụng và 1 câu
: quyến thuộc.
- 1 tụng
cuối trụ thọ.
*
-Kinh văn : “Năm
trăm tỳ kheo ấy” tới “đều như trên đã nói”.
Tán rằng : đây là
việc thụ ký cho năm trăm đệ tử. Có ba phần :
- 3 câu : Tự thể.
- 1 tụng, 1 câu :
Truyền ký.
- 1 tụng rưỡi :
Kết loại.
*
-Kinh văn : “Ca
Diếp ngươi đã biết” tới “ngươi hãy tuyên thuyết
đi”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ hai nói về việc thụ ký cho người vắng mặt. Tức là thụ ký cho số người
chẳng tại cuộc hội trong số 1200 người.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ năm trăm” tới “hối lỗi tự trách”.
Tán rằng : đây là
mục thứ tư : (500 đệ tử) hối hận và lĩnh giải. Có hai phần :
• Phần đầu : nêu
lên sự hoan hỉ, hối hận, tự trách.
• Phần sau : nói
lên sự hối hận tự trách.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Thế
tôn” tới “tiểu trí là đủ”.
Tán rằng : dưới là
nói lên sự hối hận, tự trách.
Có hai phần : đầu
là trường hàng, sau là kệ tụng.
Trường hàng có hai
: đầu là tự trách, sau là lĩnh giải.
Đây là phần đầu :
trước là nêu lên, sau là giải thích.
*
-Kinh văn : “Thế
tôn” tới “cho họ rồi đi”.
Tán rằng : đây là
lĩnh giải.
Có hai phần : đầu
là dụ (thuyết), sau là hợp (thuyết). Trong dụ có hai :
- Đầu tiên là lĩnh
giải về xưa là quyền.
- Sau đó là lĩnh
giải về nay là thực. Đó là đoạn từ “sau đó thân hữu gặp gỡ nhìn thấy hắn” trở
xuống.
Phần đầu có 3 mục
:
1) Lĩnh giải : lúc
đầu dẫn ra khỏi chỗ nguy hiểm.
2) Từ “người đó
say nằm” trở xuống : lĩnh giải nửa đường mới lùi.
3) Từ “dậy rồi đi
chơi” trở xuống : lĩnh giải việc (Phật) vì (chúng sinh) mà đặt ra hóa
thành.
Chẳng lĩnh giải về
mục thứ tư “mọi người mệt mỏi đều nghỉ ngơi”.
Đây là mục đầu :
tức là việc mười sáu vương tử mới gặp lần đầu.
“Có người” : là tự
ví dụ với bản thân.
“Nhà thân hữu” :
là ví dụ ví với thiện hữu chân chính của các vương tử trên.
“Hữu” : là bạn
cùng chí hướng, là bạn rất thân.
Lễ Ký nói rằng :
Liêu hữu thì nêu đức khiêm nhún, Chấp hữu thì khen đức nhân hậu. Trịnh Huyền
giải thích : Liêu hữu là bạn cùng làm quan. Chấp hữu là bạn cùng chí
hướng.
Trên kia đã ví
Phật pháp với nước, đại thừa với thành, trung đạo đại thừa với nhà (xá). Nay
“nhà” ở đây cũng tức là nhà đó. Vì từ trong cõi sinh tử mà đi tới Phật pháp, trong
thời gian ấy vẫn còn là phàm phu, phiền não chưa đoạn, còn bị vô minh trói
buộc, say mụ mê tâm, đang nằm ngủ trong vòng sinh tử, tuy gặp Phật pháp, vẫn
gọi là “say nằm”.
“Bấy giờ thân hữu”
hóa duyên ở nơi này đã dứt, phải hành hóa ở chốn khác, cho nên gọi là “việc
quan phải làm” (quan sự đương hành), cũng giống như ở nơi một ao đầm lớn bơi
thuyền nhanh mà xuôi sang đông, người ngồi trên thuyền nhìn nước ao tù mà tưởng
là nước chảy sang tây, kỳ thực là nước chẳng vận hành.
Tự hành trái ngược
với chân (thừa), cho nên gọi là Phật “đi” (Phật khứ).
Kinh Hoa Nghiêm
nói có mười loại hành :
1) Văn pháp hành.
2) Thuyết pháp
hành.
3) Bất tùy tham
sân si hành (hành động chẳng theo tham sân si).
4) Dục giới hành.
5) Sắc, Vô sắc
giới tam muội hành.
6) Nghĩa pháp
hành.
7) Nhất thiết thú
hành.
8) Nhất thiết Phật
sát hành.
9) Niết bàn hành.
10) Thành mãn chư
Phật hành.
Tùy theo sự tương
ứng mà giải thích. Vì đây là đem Phật pháp của pháp vương mười phương đi tới
nơi khác mà giáo hóa, cho nên gọi là “việc quan phải làm” (quan sự đương
hành).
“Lấy bảo châu vô
giá” ví với đại Bồ đề tâm.
Bảo châu có ba
loại :
1) Thủy thanh.
2) Như ý.
3) Thổ kim (nhả ra
vàng).
Thổ kim có ba loại
:
1/ Loại hạ phẩm :
nhả ra một thì được gấp ngàn lần.
2/ Loại trung phẩm
: nhả ra một, thì được gấp vạn lần.
3/ Loại thượng
phẩm : nhả ra một, thì được gấp vô lượng lần.
Ví dụ với nhất
thừa có thể sản xuất ra tam thừa, từ tiểu (thừa) tới đại (thừa), cứ theo thứ tự
mà phối vào.
Thủy thanh : ví dụ
chung chỉ Phật pháp vì thanh trừ được phiền não.
Như ý : ví với đại
Bồ đề tâm, vì tùy ý cầu gì đều được viên mãn. Nay lấy đó làm ví dụ.
“Áo” (y) : ví với
thức. “Buộc” (hệ) : chỉ sự huân tập.
Giáo hóa cho họ,
khiến họ phát tâm rồi đi đến nơi khác tiến hành việc giáo hóa, đó gọi là “cho
rồi thì đi”.
*
-Kinh văn : “Người
ấy say nằm, chẳng tỉnh biết gì”.
Tán rằng : đây là
mục thứ hai : lĩnh giải về nửa đường mới lùi bước.
Bấy giờ vẫn còn bị
phiền não say mụ, dẫu nằm ở nhà đại thừa của thân hữu, nhưng chẳng tự biết rõ
là có Bồ đề tâm châu.
Duy Thức dẫn kinh
nói rằng : “hôn túy triền tâm, không hề thức tỉnh”. Ở đó lấy thức Mạt na tương
ứng với Vô minh gọi là Túy thể. Nay lấy thức thứ sáu bất cộng Vô minh, chính thức
làm Túy thể. Vì ở tại địa vị dị sinh sẽ dậy mà du hành.
*
-Kinh văn : “Dậy
rồi đi chơi” tới “bèn cho là đủ”.
Tán rằng : đây là
mục thứ ba : lĩnh giải về việc (Phật) đặt ra hóa thành.
Đã thoái đại tâm,
“trở dậy” (khởi) muốn đi tìm thắng pháp, nên gọi là “đi chơi” (du hành).
Tới trong Phật
pháp nhị thừa, gọi là “nước khác”, vì chẳng phải là nơi đã từng sinh trưởng ở
đó, vì xưa kia ở trong vòng sinh tử gọi đó là “nước mình”.
Ở trong đại thừa
thì gọi là ở nhà thân hữu.
Nếu là người đã
phát tâm rồi, ở trong Phật pháp thì gọi Phật pháp là nước mình, sinh tử là nước
khác. Cho nên trước đây mới nói là “ở lâu nước người hơn năm mươi năm”.
Nếu là người
trước khi chưa phát tâm, ở ngoài Phật pháp, thì coi sinh tử là nước mình, Phật
pháp là nước khác.
Ngay văn ở đây
cũng giống với cách nói của Kinh Niết Bàn, ví đại thừa với nhà của cha, tiểu
thừa với nước người.
Cầu chính pháp vị
thì gọi là “vì áo cơm”. Tự mình ra sức cố gắng siêng năng để cầu chính pháp thì
gọi là “ra sức siêng năng vất vả để cầu thứ rất to lớn”.
Vì đó là ở tại
nhân vị nhị thừa xả bỏ năm thứ dục lạc, xả bỏ mọi thứ phóng dật, nên “có được
chút ít chứng đắc” Niết bàn nhị thừa, thì không cầu tiến nữa, “bèn tự cho là
đủ”. Rồi nảy sinh ra tư tưởng là đã được diệt độ, đã được yên ổn.
*
-Kinh văn : “Sau
này thân hữu” tới “tới mức như vậy”.
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ hai : lĩnh giải về nay nói là thực. Có hai phần :
- Phần đầu là lĩnh
giải về diệt hóa.
- Phần sau là lĩnh
giải về thuyết thực.
Đây là phần
đầu.
Vì sao để cầu y
thực vô lậu mà lại tới ở địa vị nhị thừa cho uổng ? Vất vả như vậy mà chỉ
được tiểu quả lợi ? Chỉ vì đó chẳng phải là thực (thừa) mà thôi.
*
-Kinh văn : “Ta
xưa muốn khiến” tới “rất là (ngu) si”.
Tán rằng : dưới là
lĩnh giải về việc (Phật) chính thức thuyết về thực (thừa). Có ba phần :
- Phần đầu :
thuyết về việc cùng được gặp (Phật).
- Phần hai : trách
vì trụ ở quyền (thừa).
- Phần ba : khiến
lấy thực (thừa).
Đây là phần đầu và
phần hai.
“Ngũ dục lạc” tức
là ngũ an lạc :
1) Tự tính lạc.
2) Nhân lạc.
3) Thụ đoạn lạc.
4) Khổ đối trị
lạc.
5) Vô não hại
lạc.
Hoặc Phật quả Ngũ
pháp thanh tịnh pháp giới cùng Tứ trí phẩm, hoặc là đại thừa vô lậu Ngũ uẩn tức
giới thân v.v…
“Ta xưa muốn khiến
cho ngươi được thứ an lạc này”, cho nên đã “lấy hạt châu vô giá” tức diệu nhân
Bồ đề, “cột vào trong áo của ngươi”, tức là huân tập vào tâm thức của ngươi,
hiện tại trách (ngươi vẫn còn) trụ ở quyền (thừa) nên nói “mà ngươi chẳng
biết”, tự mình “lo nghĩ vất vả” uổng công “để cầu tự lợi”, pháp chấp chẳng diệt,
chẳng cầu ngũ lạc, “rất là (ngu) si”.
*
-Kinh văn : “Ngươi
nay có thể” tới “không thiếu thốn gì”.
Tán rằng : đây là
khiến lấy thực (thừa).
* Chữ [貿] đọc là Mậu, là trao đổi. Trao đổi các vật thì dùng chữ [貿] Mậu này, là chữ Bối [貝] ghép với chữ Mão [卯]. Chữ [卯] có âm là Dậu. Có chỗ viết là
[ ], Ngọc Thiên nói chữ này đọc theo phiên thiết của Ca
nhã (Cả), chỉ họ của người. Chẳng phải là nghĩa ở đây.
“Dùng để trao đổi”
: có nghĩa là dùng sơ tâm, ví như tiểu bảo châu, mà thân cận chư Phật. Nghe và
huân tập chính pháp, tăng thêm thiện căn để mà đổi lấy phúc trí thượng vị đại
thừa, ví như đại như ý châu vô cùng quý báu. Một khi đã được thứ đó rồi thì
“thường được như ý, không thiếu thốn gì”, vì đầy đủ mọi đức.
*
-Kinh văn : “Phật
cũng như vậy” tới “nhất thiết trí tâm”.
Tán rằng : dưới là
hợp lĩnh. Có hai :
- Đầu : hợp lĩnh
về xưa là quyền.
- Sau : hợp lĩnh
về nay là thực. Đó là đoạn từ “nay Thế tôn…” trở xuống.
Phần đầu có ba
mục. Đây là mục thứ nhất : hợp lĩnh về lúc đầu dẫn ra khỏi chỗ nguy hiểm.
*
-Kinh văn : “Rồi
sau bỏ quên, chẳng biết chẳng hay”.
Tán rằng : đây là
mục thứ hai, là hợp lĩnh về nửa đường mới lùi.
*
-Kinh văn : “Đã
được đạo A la hán” tới “vẫn còn chẳng mất”.
Tán rằng : đây là
mục thứ ba, hợp lĩnh về việc (Phật) đặt ra hóa thành.
Lúc tu hành định
tìm thánh pháp (ví như) của cải châu báu, hao phí công sức, đó gọi là “mưu sinh
gian nan”.
* “Gian” : vốn chỉ
đất khó làm. Sách Thích Danh nói : “Gian” nghĩa là “căn”, ví như gốc rễ của vật
vậy. “Nan” nghĩa như “đạn” (sợ, e sợ) chỉ thứ mà người ta phải kiêng kỵ e
sợ.
“Đắc quả A la hán”
cho là đã đắc đạo đầy đủ rồi, “mới được ít mà đã cho là đầy đủ”. Nhân xưa bản
nguyện ngày nay vẫn còn, thời nay mới chín vậy.
*
-Kinh văn : “Ngày
nay Thế tôn” tới “thực được diệt độ”.
Tán rằng : dưới là
hợp lĩnh về nay thuyết thực. Có hai phần :
- Phần đầu : hợp
lĩnh về diệt hóa.
- Phần sau : hợp
lĩnh về thuyết thực.
Đây là phần đầu :
chỉ rõ nhị Niết bàn (chỉ Niết bàn của nhị thừa, tức hữu dư y Niết bàn) là nhân
của Phật, cho nên nói rằng “khiến các ông trồng thiện căn Phật, thị tướng Niết
bàn”.
*
-Kinh văn : “Thế
tôn” tới “được pháp chưa từng có”.
Tán rằng :
đây là hợp lĩnh về nay thuyết thực, mừng được pháp chưa từng có.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ, bọn A Nhã Kiều Trần Như” tới “bèn tự cho là
đủ”.
Tán rằng : dưới
đây là 12 tụng rưỡi, chia làm 2 phần :
- 2 tụng rưỡi đầu,
tụng về hối hận tự trách.
- 10 tụng sau,
tụng về lĩnh giải.
Đây là phần đầu :
- 1 tụng đầu : nêu
việc lễ (Phật).
- 1 tụng rưỡi sau
: tự trách.
*
-Kinh văn : “Ví
như người nghèo túng” tới “lúc ấy nằm chẳng
biết”.
Tán rằng : dưới là
tụng về lĩnh giải. Chia làm hai phần :
- Phần đầu : 6
tụng, tụng dụ lĩnh.
- Phần sau : 4
tụng, tụng hợp lĩnh.
Phần đầu lại chia
làm hai :
- 4 tụng đầu :
tụng lĩnh giải về dụ xưa là quyền.
- 2 tụng sau :
tụng lĩnh giải về dụ nay thuyết thực.
Lĩnh giải về dụ
xưa là quyền có ba ý. Trong văn này có hai :
+ 7 câu đầu : lĩnh
giải về dụ đầu tiên giáo hóa khiến phát tâm.
+ 1 câu sau : lĩnh
giải về dụ nửa đường mới lùi.
Từ trong sinh tử
mà tới nhà đại thừa, cho nên gọi là “đi đến” (vãng).
Pháp tài vô lượng,
cho nên gọi là “đại phú”. Coi giáo pháp là “cơm” (thiện). Lấy Bồ đề tâm làm
“châu ngọc”. Tuy gặp đại thừa, nhưng vẫn còn say vì vô minh, cho nên “nằm mà
chẳng dậy”.
*
-Kinh văn : “Người
ấy đã dậy rồi” tới “có châu báu vô gia”ù.
Tán rằng : đây là
ý thứ ba của phần lĩnh giải về dụ xưa là quyền, đó là lĩnh giải về (Phật) đặt
ra hóa thành.
Thoái chuyển khỏi
đại thừa rồi, sau đó mới từ sinh tử mà trở dậy đi đến nước nhị thừa.
*
-Kinh văn : “Thân
hữu cho châu ngọc” tới “tha hồ với ngũ dục”.
Tán rằng : đây là
lĩnh giải về dụ nay thuyết thực (thừa) :
• Tụng đầu chỉ rõ
nhân xưa là diệt hóa hiển chân.
• Tụng sau thuyết
minh về sinh hoan hỉ.
Tuy hiện tại chưa
giàu, nhưng sau này sẽ giàu có các của cải, tuy chưa được ngũ dục, nhưng không
khác gì đã được, giống như nhìn thấy cò trắng đậu ở cây thì chứng tỏ là nước không
phải là không có.
*
-Kinh văn : “Chúng
tôi cũng như thế” tới “tự đủ chẳng cầu nữa”.
Tán rằng : dưới là
4 tụng về hợp lĩnh. Có hai phần :
- 2 tụng đầu, tụng
hợp lĩnh về xưa là quyền (thừa).
- 2 tụng sau, tụng
hợp lĩnh về nay thuyết thực (thừa)..
Đây là phần đầu :
- 1 tụng đầu, tụng
hợp lĩnh về lúc đầu dẫn ra khỏi nơi nguy hiểm.
- Nửa tụng sau,
tụng hợp lĩnh về nửa đường mới lùi.
- Nửa tụng cuối,
tụng hợp lĩnh về việc (Phật) đặt ra hóa thành.
*
-Kinh văn : “Nay
Phật giác ngộ cho tôi” tới “khắp cả thân tâm đều hoan
hỉ”.
Tán rằng : đây là
2 tụng hợp lĩnh về nay thuyết thực (thừa). Chia làm hai :
- 1 tụng đầu, tụng
hợp lĩnh về diệt hóa, hiển chân.
- 1 tụng sau, tụng
hợp lĩnh về đã sinh hoan hỉ.
sss
PHẨM THỤ HỌC VÔ
NHÂN KÝ
Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có hai ý :
1. Hạng hạ căn có
hai loại : Loại danh cao thì phẩm trước đã thụ ký cho rồi, loại danh chẳng cao
thì đến phẩm này mới thụ ký cho. Cho nên mới có phẩm này.
2. Trong việc Phật
thụ ký cho : trên là đồng ký, đây là hậu ký. Cho nên có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
Hăm hở mong
cầu tinh tiến tu tập thì gọi là “Học” (tức địa vị hữu học). Việc tinh tiến tu
tập ngừng vì đã viên mãn thì gọi là “Vô học”.
Nay Phật thụ ký
cho các loại trên, cho nên gọi là “phẩm Thụ Học Vô Học Nhân Ký” (thụ ký cho các
hạng người hữu học và vô học).
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
-Hỏi : vì sao đối
với hạng trung căn, việc thụ ký lại gộp làm một phẩm, nhưng đối với hạng hạ căn
thì việc thụ ký lại tách ra làm hai phẩm ?
Đáp : việc thụ ký
cho hạng cao danh thì một điều khác hai điều giống, vì Mãn Từ và (A Nhã Kiều)
Trần Như là hai loại khác nhau. Chẳng phải hạng cao danh thì một điều giống,
hai điều khác, vì hai ngàn người kia và A Nan là hai loại khác nhau, do đó mà
hai loại chia làm hai phẩm. Hạng trung căn thì chẳng thế, vì Mãn Từ trong loại
cao danh là để giáo hóa, A Nan trong loại hạ danh là để giáo hóa.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ A Nan” tới “chẳng cũng khoái ư ?”.
Tán rằng : phẩm
này có hai đoạn :
- Đoạn đầu là
chúng tự hy vọng.
- Đoạn sau là Phật
thụ ký biệt cho.
Đoạn đầu có hai
phần :
- Phần đầu là 2
người hy vọng, thỉnh cầu.
- Phần sau là
2.000 (người khác) hy vọng thỉnh cầu.
Trong phần đầu lại
có hai phần :
a. Tâm niệm. b.
Ngỏ lời.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Liền
từ chỗ ngồi đứng dậy” tới “chỗ quy y của chúng
con”.
Tán rằng : dưới là
phần ngỏ lời. Có ba mục :
- Đầu tiên trình
bày bản thân có phần để theo Phật.
- Sau đó thuật rõ
lý do hai người đáng được thụ ký.
- Cuối cùng chính
thức ngỏ lời thỉnh cầu (Phật).
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Hơn
nữa, chúng con” tới “là con của Phật”.
Tán rằng : đây là
thuật rõ lý do 2 người đáng được thụ ký.
*
-Kinh văn : “Nếu
được Phật thụ ký cho” tới “nguyện vọng mọi người cũng
được thỏa mãn”.
Tán rằng : đây là
chính thức xin Phật thụ ký cho.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ những người bậc hữu học và vô học” tới “đứng ở một
phía”.
Tán rằng : đây là
mục 2.000 người khác mong mỏi, thỉnh cầu.
* Chữ [袒] đọc là Đản, có nghĩa là cởi trần một bên vai áo.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật bảo” tới “Thế tôn”.
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ hai : Phật thụ ký biệt cho. Có ba ký :
- Sơ ký : A
Nan.
- Thứ ký : La Hầu.
- Hậu ký : 2.000
người.
Sơ ký có bốn :
1) Phật ký.
2) Chúng
nghi.
3) Phật biết, bảo
họ.
4) A
Đầu tiên là trường
hàng có tám mục :
1/- Tên Phật. 5/-
Tướng trạng cõi nước.
2/- Nhân hành. 6/-
Tên kiếp.
3/- Lợi ích. 7/-
Trụ thọ.
4/- Tên nước. 8/-
Tán thán.
Đây là mục
đầu.
Do trì pháp tạng,
trí như biển sâu chẳng thể lường được, danh như núi cao khó thể ngưỡng vọng
được, cho nên gọi là “Sơn Hải Tuệ”.
Thần thông đạt
được, tự mình tha hồ vận dụng, cho nên gọi là “Tự Tại”.
Không hề chướng
ngại, nên gọi là “Thông Vương”.
*
-Kinh văn : “Nên
cúng dàng” tới “Tam miệu tam Bồ đề”.
Tán rằng : đây là
ký về nhân hành.
*
-Kinh văn : “Giáo
hóa hai mươi” tới “Diệu Âm Biến Mãn”.
Tán rằng : đây có
bốn ký :
1) Lợi ích. 3)
Tướng trạng coi nước.
2) Tên nước. 4) Tên
kiếp.
*
-Kinh văn : “Phật
đó thọ mệnh” tới “lại gấp bội chính pháp”.
Tán rằng : đây là
ký về trụ thọ.
*
-Kinh văn : “A
Tán rằng : đây là
ký về tán thán.
*
-Kinh văn : “Bây
giờ Thế tôn” tới “sau đó thành chính giác”.
Tán rằng : đây là
1 tụng, tụng về nhân ký ; 4 tụng sau, tụng về quả ký.
*
-Kinh văn : “Hiệu
là Sơn Hải Tuệ” tới “trồng nhân duyên đạo Phật”.
Tán rằng : đây là
quả ký, có sáu mục :
1) Nửa tụng đầu :
danh hiệu.
2) Một câu sau đó
: tướng trạng cõi nước.
3) Một câu : tên
nước.
4) Nửa tụng : lợi
ích.
5) Nửa tụng : tán
thán.
6) Hai tụng : trụ
thọ.
Lợi ích chúng
sinh, tu Phật nhân hạnh.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ trong hội” tới “được quyết như vậy”.
Tán rằng : đây là
mục thứ hai : đại chúng nghi hoặc.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế Tôn” tới “Tam miệu tam Bồ đề tâm”.
Tán rằng : đây là
mục ba : Phật biết, bảo họ. Có ba phần :
- Đầu tiên thuyết
về nhân ban đầu.
- Sau đó trình bày
về hành sau đó.
- Cuối cùng là kết
luận : đắc ký.
Đây là phần
đầu.
Câu Xá luận thuyết
về Thích Ca gặp gỡ lần đầu, về Thích Ca phát tâm, như trong đó tụng rằng
:
“Ở ba vô số
kiếp,
Quan sát ngược trở
lên,
Nhiên Đăng, Bảo Kế
Phật,
Thích Ca gặp đầu
tiên”.
Nay nói nửa đường
gặp Phật ở một nơi nào đó, chẳng phải là lần đầu tiên.
*
-Kinh văn : “A
Tán rằng : đây là
trình bày về việc tu hành sau này và kết luận về việc đắc ký.
Kinh Hoa Nghiêm
nói rằng : “ví như người nghèo túng ngày đêm đếm các thứ châu báu của người
khác, còn mình thì chẳng có phân nửa số tiền ấy. Hạng đa văn cũng giống như
vậy”. Cho nên, chẳng phải chỉ đa văn là có thể siêu việt ngay, mà còn cần có
hành để hỗ trợ thêm. Tức như kinh đó nói rằng : “nếu muốn cầu trừ diệt vô lượng
các điều tội lỗi, bạc ác thì còn cần phải trong mọi lúc đều phát tâm dũng mãnh
đại tinh tiến”.
Cũng chẳng phải
chỉ cần có hành ấy là liền được Bồ đề, mà còn cần phải đa văn để dẫn đạo.
Lại như kinh nói
:
“Đa văn năng dẫn
lạc,
Đa văn nhiếp
mọi thiện,
Đa văn xả vô
nghĩa,
Đa văn đắc
Niết bàn”.
Cho nên, văn này
căn cứ vào Nhất tướng luận. Trong Tứ ý thú, thì “Chúng sinh ý nhạo ý thú” có
nghĩa là đối với một thiện căn thì hoặc khen hoặc chê, vì sự (tiếp thụ) giáo hóa
chẳng nhất định. Song nhân hành của chư Phật, từ Sơ địa trở đi thì đức lực đều
như nhau, tướng thành Phật cũng lại như vậy. Chỉ vì bản nguyện khác nhau, kiến
giải đương nhiên khác nhau, cho nên có sự khác biệt. Thế nên ở đây kết luận nói
rằng : “bản nguyện như vậy”.
*
-Kinh văn : “A
Tán rằng : đây là
mục bốn : A Nan chứng thuyết. Có hai phần :
- Đầu tiên là kinh
gia thuật chứng.
- Sau đó là vị ấy
tự trần thuyết.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ A Nan” tới “hộ trì chư Phật pháp”.
Tán - rằng : đây là phần vị
ấy tự trần thuyết, nói rõ bản thân vốn ở địa vị cao, nhưng thị hiện hóa làm thị
giả, cho nên nói là “phương tiện làm thị giả”.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật bảo” tới “vẫn như ngày nay”.
Tán rằng : dưới là
phần thứ hai : nói về việc thụ ký của La Hầu La. Trường hàng có bốn ký :
1) Tên. 3) Theo lệ
trước.
2) Nhân. 4) Kế
tự.
Đây là hai ký đầu.
*
-Kinh văn : “Là
Đạo Thất Bảo Hoa” tới “Tam miệu tam Bồ đề”.
Tán rằng : đây là
hai ký cuối.
* Chữ [蹈] đọc là Đạo. Ngọc Thiên giải thích Đạo là giẫm, là giày xéo lên
mà đi. Thích Danh nói : Chữ Đạo [蹈] cũng có nghĩa như chữ
[道] Đạo. Vì Đạo là dùng chân mà giẫm lên cũng như (đi) đường.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “nhất tâm cầu Phật đạo”.
Tán rằng : đây là
4 tụng chia làm bốn mục :
1) Thường làm con
ta.
2) Làm con các
Phật.
3) Trình bày mật
hạnh.
4) Thuyết về thắng
nhân.
Đây là hai mục
đầu.
Phật có ba con,
đây là con lớn nên gọi là Trưởng.
*
-Kinh văn : “Mật
hạnh La Hầu La” tới “để tới đạo vô thượng”.
Tán rằng : đây là
hai mục sau.
Tôn giả lưu thân ở
cõi Thiệm Bộ, chẳng nhập Niết bàn, ngày nay ở Tây phương, thỉnh thoảng vẫn còn
có người nhìn thấy.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “hai ngàn người chăng ?”.
Tán rằng : đây là
phần thứ ba, nói về việc thụ ký cho 2.000 người. Có bốn phần nhỏ :
1) Phật thấy, hỏi.
2) A
3) (Phật) chính
thức thụ ký biệt cho.
4) 2.000 người đó
hoan hỉ, lĩnh thụ.
Đây là phần
đầu.
“Nhu nhuyễn” : có
nghĩa là điều thuận căn thục.
“Tịch nhiên” :
nghĩa là tâm trong lắng (thấu hiểu được) diệu lý.
“Thanh tịnh” :
chẳng bị mê hoặc phiền não.
“Nhất tâm” : có
nghĩa là chẳng còn có tư tưởng khác.
*
-Kinh văn : “Đúng
thế ! Đã thấy”.
Tán rằng : đây là
A Nan đáp.
*
-Kinh văn : “A
Tán rằng : đây là
ký. Trường hàng có hai :
1) Ký nhân,
2) Ký quả.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Cuối
cùng đồng thời” tới “thảy đều đồng đẳng”.
Tán rằng : dưới là
quả ký. Có hai :
1) Danh hiệu giống
nhau.
2) Các thứ khác
giống nhau.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “sau sẽ thành chính giác”.
Tán rằng : trong
đây có 5 tụng, chia làm năm. Đây có hai :
1) Một tụng : nêu
lên.
2) Một tụng : về
nhân.
*
-Kinh văn : “Ở các
nước mười phương” tới “dần dần nhập Niết bàn”.
Tán rằng : đây có
ba :
3) Một tụng nêu
danh hiệu giống nhau.
4) Một tụng nêu
tên nước giống nhau.
5) Một tụng nêu
tên thần dụng giống nhau.
Trường hàng không
có mục này.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Học, Vô học” tới “như được rưới
Tán rằng : đây là
mục thứ tư : 2.000 người hỷ lĩnh.
KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN
QUYỂN THỨ TÁM -
PHẦN TRƯỚC
ĐÃ XONG
Năm Bảo An
thứ ba, tháng Chạp, ngày 16, Sư Tăng Giác chùa Pháp Long dùng bản của Viên Như
phòng chùa Hưng Phúc đem in, khuyên điểm đã xong.
“ để pháp được
trụ lâu dài, vãng sinh Cực lạc ”
Các bản đều là
bản khuyên điểm bằng son. Dùng bản khuyên son đó đem in, dùng bằng son cả cũng
không được. Cho nên bản này là bản viết tay, về hình thức tự nó đã khác với bản
in.
QUYỂN THỨ TÁM (PHẦN
SAU)
Sa môn KHUY CƠ,
chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn.
PHẨM PHÁP SƯ
Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG
Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có ba ý :
1. Trên kia phẩm đầu tiên là phẩm Tựa thuật rõ nhân do, thứ đến 8 phẩm gọi là Chính tông. Trước hết, dẫn phẩm Tín Giải nói rằng : “nay trong kinh này chỉ thuyết nhất thừa”. Phẩm này lại nói thêm : “mở môn phương tiện, nói rõ tướng chân thực”, tức là lấy nhất thừa làm tông chỉ của cả bộ kinh (Kinh tông), dẫn dụ loại Bất định tính trong nhị thừa, hơn nữa đều thụ ký cho.
19 phẩm cuối gọi là Lưu thông. Phần Lưu thông kinh này chẳng phải là dẫn dụ hạng nhị thừa thoái thất đại tâm (chỉ hạng không phát tâm tu đại thừa), càng không có chỗ nào khai quyền hiển thực, chính thuyết nhất thừa, vì tuy phẩm này và phẩm Trì có ít bát bộ Tỳ kheo ni v.v.. được thụ ký, nhân nói tới tổng ký, nhưng chẳng phải là thuyết thêm về nhất thừa, để khuyến dụ họ khiến họ tu học rồi thụ ký cho, mà đều là lưu thông cả.
Trong Lưu thông, chia làm ba :
- 4 phẩm đầu là Tán trọng lưu thông : tán thán pháp, tán thán người là đáng tôn đáng trọng, khiến sinh lòng hoan hỉ ngưỡng mộ.
- 7 phẩm sau là Học hạnh lưu thông : học tập hoằng dương kinh này, chính hạnh, trợ hạnh khiến không thương tổn, hủy hoại.
- 8 phẩm cuối là Phó thụ lưu thông : vì thị hiện tướng (Phật) phó chúc và đệ tử vâng mệnh tuân hành. Đây cũng tức là phần lưu thông của ba vòng thuyết pháp.
-Hỏi : trong các kinh khác phần Lưu thông văn ít nghĩa gọn, nay trong kinh này cớ sao (phần Lưu thông) lại rộng như vậy ?
Đáp : dưới phẩm này nói : số kinh mà ta đã thuyết nhiều vô lượng ngàn ức. Trong số đó, kinh này khó tín giải nhất, bí yếu chư Phật thường tự thủ hộ, từ xưa tới nay chưa từng thuyết minh rõ, ý nghĩa tôn chỉ sâu xa, kẻ sinh tín giải ít. Cho nên phần Lưu thông của kinh này nhiều hơn kinh khác. Hơn nữa giáo hóa đại cơ (hạng có căn cơ đại thừa) dễ có thể thành thục, còn giáo hóa loại hồi tâm thì khó tín giải. Cho nên Lưu thông phải nhiều, phải dùng đủ mọi cách để khuyến khích động viên.
Trong 4 phẩm đầu về Tán trọng lưu thông, 3 phẩm đầu là Tán trọng, phẩm Trì sau là Lưu thông.
Trong 3 phẩm đầu, phẩm Pháp Sư nói rõ : ở kinh này dù người hay pháp đều đáng tôn trọng, đáng làm khuôn phép ; phẩm Bảo Tháp nói rõ pháp đáng trọng, chốn thuyết kinh này, tháp vọt lên để nghe pháp ; phẩm Thiên Thụ tuy cũng thuyết minh về pháp, nhưng dụng ý là thuyết minh về người hoằng dương được kinh này, người đó đáng trọng. Chính là vì trọng pháp, cho nên người đó đã chẳng tiếc thân mệnh, lấy thân mình làm giường. Còn phẩm Trì thì tóm tắt cả nội dung của ba phẩm này : Tán trọng có nghĩa rộng cho nên nguyện lưu thông. Cho nên 4 phẩm trên gọi là Tán trọng lưu thông.
Hai phần lưu
thông khác , tới văn sẽ giải. Đó chính là lý do đầu tiên sở dĩ vì sao mà có
phẩm này.
2. Thuyết 19 phẩm
gọi là Chính tông.
12 phẩm đầu thuyết
minh về cảnh nhất thừa. Trong chia làm hai phần :
- 8 phẩm trên chủ
yếu thuyết minh về quyền thực, về ba loại căn cơ được thụ ký.
- 4 phẩm dưới khen
người khen pháp, khuyến khích trì hành.
Phân tích 4 phẩm,
chẳng khác Lưu thông. Cho nên có phẩm này.
3. Trong luận có
bảy dụ, ba bình đẳng, mười vô thượng. Vô thượng thứ mười là Thị hiện thắng diệu
lực vô thượng, là dư tàn Tu đa la thuyết. Tức là điều mà luận nói là : dưới là
thị hiện hai loại lực : Pháp lực và Tu hành lực.
Pháp lực có năm
:
1) Chứng. 4) Nghe
pháp
2) Tín. 5)
Đọc tụng trì thuyết.
3) Cúng dàng.
4 phẩm đầu đều là
các phẩm nói về Di Lặc ; là các phẩm Phân Biệt Công Đức và Tùy Hỷ Công Đức, vì
đều là bảo Di Lặc. Riêng một phẩm Thường Tinh Tiến ở sau tức là phẩm Pháp Sư
Công Đức, vì là bảo với Thường Tinh Tiến.
Tu hành lực có bảy
:
1) Trì lực.
2) Thuyết lực.
3) Hành khổ hạnh
lực.
4) Giáo hóa chúng
sinh hành khổ hạnh lực.
5) Hộ chúng sinh
chư nạn lực
6) Công đức thắng
lực.
7) Hộ pháp lực
Trì lực có ba phẩm
: Pháp Sư, An Lạc Hạnh và Trì phẩm.
• Đầu tiên là phẩm Pháp Sư thuyết minh chung về người và pháp, năng trì và sở trì.
• Sau đến phẩm An Lạc Hạnh thuyết minh về pháp tu hành của người trì kinh.
• Cuối cùng là phẩm Trì thuyết minh về người năng trì.
Cho nên cả ba phẩm đều gọi là Trì lực. Trên phân tích về quyền thực, chủ yếu là để dẫn dụ cho căn cơ nhị thừa chứ chưa thuyết về năng trì, sở trì đáng tôn đáng trọng. Nay nói rõ nghĩa này. Cho nên mới có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
Đáng làm phép
tắc, đáng được giữ gìn thì gọi là “Pháp” ; đáng để học tập, đáng làm khuôn mẫu
thì gọi là “Sư”.
Giáo này đáng là
phép tắc, Lý này đáng để giữ gìn, hai thứ ấy đều gọi là “Pháp” ; Pháp này đáng
để học tập nên gọi là “Pháp Sư”.
Cho nên kinh Niết
Bàn nói rằng : thày của chư Phật, đó là Pháp đấy.
Kinh Di Giáo nói :
Ba La Đề Mộc Xoa là vị thày cả của ngươi.
Trong phẩm này tán
thán kinh là đáng trọng, Pháp chính là thày, cho nên gọi là Pháp Sư. Pháp này
là Pháp Sư. Người học được Pháp thì có thể làm khuôn mẫu để dạy dỗ đào tạo muôn
vật. Thày có pháp, đó gọi là Pháp Sư. “Người ấy” Pháp Sư, phẩm này thuyết minh
rộng về vấn đề này, cho nên gọi là phẩm Pháp Sư. Trong phẩm này nói cả hai : pháp
và người học, đều gọi là Pháp Sư. Nghĩa chung cho cả hai là hay.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : Pháp Sư là chỉ những người hoằng trì kinh này, cả lúc Phật sinh tiền và sau khi Phật diệt độ, hay là để chỉ những người như thế sau khi Phật diệt độ ?
Đáp : đều gọi
là Pháp Sư cả. Trong này, phần lớn là chỉ loại sau khi (Phật) diệt độ, được gọi
là Pháp Sư. Còn những vị hiện tại được gọi là đệ tử, song hiện đã được thụ ký,
trong này cũng nói là được danh hiệu Pháp Sư.
Thêm nữa, vì người
hiện tại thụ trì thì dễ, nên lược đi mà chẳng nói tới. Còn người thụ trì sau
khi (Phật) diệt độ mới là khó, cho nên chỉ riêng loại này mới được danh hiệu
Pháp Sư. Thêm nữa, người hiện đang học tập gọi là đệ tử. Còn bát bộ v.v... cũng
gọi là Pháp Sư.
-Hỏi : phẩm Trì cũng trì kinh này, lại cũng đáng làm phép tắc, cớ sao chỉ riêng phẩm này được gọi là phẩm Pháp Sư ?
Đáp : tuy nêu
tên chung, nhưng lại là tên gọi riêng, vì không có khả năng nào khác. Các phẩm
khác còn có nghĩa khác có thể đặt tên. Huống hồ trong này ca ngợi cả hai, người
và pháp đều đáng làm thày.
Thêm nữa, phẩm
Trì : hiện tại thuyết pháp thì gọi là Trì. Còn đây là khuyến khích tán thán tài
năng nổi trội sau khi (Phật) diệt độ, cho nên gọi là phẩm Pháp Sư.
-Hỏi : phẩm này
cũng có thụ ký, cớ sao chẳng gọi là phẩm Thụ Ký ?
Đáp : vì việc này
ít, cho nên đặt tên theo nhiều.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “Tam Bồ đề”.
Tán rằng :
văn lớn trong phẩm này có hai đọan :
• Trường hàng và
tụng đoạn đầu, thuyết minh về nhân Pháp Sư.
• Trường hàng và
tụng đoạn sau, thuyết minh về pháp Pháp Sư.
Đoạn đầu có hai
phần :
- Đầu tiên là
thuyết minh về Pháp Sư hiện ở trước Phật.
- Sau đó thuyết
minh về Pháp Sư chẳng hiện ở trước Phật.
Đây là phần đầu.
Vì Dược Vương trì
kinh này đã lâu, tự thiêu thân mình để cúng dàng, cho nên gọi tên Dược Vương.
Nhân Dược Vương mà bảo với tám vạn người, dụng ý chính là bảo các vị đó
được thụ ký. Trong số được thụ ký có các loại Bát bộ Tứ chúng tam thừa
khác nhau.
Biện Trung Biên
luận nêu 10 pháp hành, mỗi một pháp hành lại có 4 hành :
1) Tự tác (tự mình
làm).
2) Khuyến tha
(khuyến khích người khác làm).
3) Tán thán (ca
ngợi).
4) Khánh úy (chúc
mừng, úy lạo).
Nay tùy hỉ tức là
tán thán, chỉ nêu một thứ làm ví dụ cho các thứ khác. Do thiện căn nhỏ mà được
Bồ đề, thì chỉ như ánh mặt trời mới mọc có công dụng xua tan bóng tối. Trí cảnh
tỏa sáng thì có thể đoạn trừ ngu si. Cũng như mây ráng mới đùn đã có khả năng
giúp cho muôn cỏ, (lòng) từ bi mới dấy lên sẽ mang theo bóng rợp che chở cho
chúng sinh. Tùy hỉ một câu sẽ được Bồ đề. Tín giải kinh này, nhất định chứng
quả, điều đó có gì mà phải nghi hoặc nữa !
*
-Kinh văn : “Phật
bảo Dược Vương” tới “Tam Bồ đề ký”.
Tán rằng : dưới là
thuyết minh về Pháp Sư hiện chẳng ở trước Phật. Có hai phần :
- Đầu tiên là nói
về loại nghe pháp xong thì liền tùy hỉ.
- Sau đó là thuyết
minh về sáu loại chính hạnh của Pháp Sư.
Đây là phần
đầu.
Người thực sự ưa
nghe thuyết pháp, công đức vô lượng. Nay chỉ nêu một loại nghe pháp tùy hỉ để
làm ví dụ cho các hạnh khác là tự tác, khuyến tha, khánh úy, công đức kể sao
cho xiết. Thêm nữa, trên là giải thích về Pháp Sư mới học, còn dưới là giải
thích về Pháp Sư học lâu, vì là đại Bồ tát.
*
-Kinh văn : “Nếu
lại có người” tới “chắp tay cung kính”.
Tán rằng : dưới là
thuyết minh về sáu loại chính hành của Pháp Sư. Có hai phần :
• Đầu tiên thuyết
minh về sáu loại chính hành của Pháp Sư bi nguyện tới đây.
• Sau đó là đoạn
từ “sau khi ta diệt độ, ai có khả năng riêng vì một người mà thuyết kinh Pháp
Hoa” trở xuống : thuyết minh về sáu loại Pháp Sư là đáng tôn đáng trọng.
Trong phần đầu lại
có hai phần nhỏ :
- Đầu tiên là
thuyết minh về một câu kệ ít pháp hành.
- Sau đó là đoạn
từ “huống chi là hết sức thụ trì…” trở xuống : thuyết minh về nhiều pháp
hành.
Trong phần đầu nhỏ
này lại chia làm hai phần :
+ Phần đầu nêu rõ
người tu hành sáu hạnh, đã ở chỗ chư Phật thành tựu bi nguyện mà sinh ở cõi
người này.
+ Phần sau là đọan
từ “nếu có người hỏi loại chúng sinh nào” trở xuống : nói rõ thắng nhân
này tới đời sau sẽ làm Phật.
Phần đầu này lại
có hai mục :
a. Đầu tiên là
thuyết minh về sáu loại Pháp Sư.
b. Sau đó là
thuyết minh về bi nguyện quay lại sinh ở nhân gian.
Đây là mục
đầu.
Sáu loại Pháp Sư gồm
:
1) Thụ trì. 4)
Giải thuyết.
2) Đọc. 5) Thư tả
(sao chép).
3) Tụng 6) Cúng
dàng.
Năm loại Pháp Sư
đầu chỉ thực hành đối với một bài kệ trong kinh. Còn loại Pháp Sư cuối cùng
thực hành hạnh cúng dàng, thì cung kính đối với một bài kệ hay một quyển kinh, cũng
đều là tu hạnh cúng dàng. “Hoa hương v.v… đủ các loại”, đó là tài cúng dàng
vậy.
Bắt đầu từ “cung
kính coi như Phậ”t cho tới “chắp tay cung kính”, tổng cộng có 13 thứ. Tôn trọng
kính coi như Phật, đó là ý nghiệp. Chắp tay cung kính, đó là thân nghiệp. Đây là
hai loại nội tài. Tùy hỷ trước đây là ngữ nghiệp. Ngoài các thứ này ra, đều là
ngoại tài.
Mười pháp hành gồm
:
1) Thư tảø (sao
chép). 6) Thụ trì.
2) Cúng dàng. 7)
Chính khai diễn.
3) Thí tha (bố thí
cho người khác). 8) Đọc tụng.
4) Thính văn (nghe
pháp). 9) Tư duy.
5) Mở đọc. 10) Tu
tập.
Đây nêu các hành
dễ, chỉ nói tới sáu loại. Còn bốn loại khác là Thí tha, Thính văn, Tư duy, Tu
tập là các hành khó, cho nên chẳng nói.
Đối với cả quyển
kinh, nói là cúng dàng. Còn năm thứ pháp hành khác là đối với một kệ, vì là bổ
sung thuyết minh lẫn cho nhau, vì nặng nhẹ khác nhau, khó dễ khác nhau.
*
-Kinh văn : “Dược
Vương nên biết” tới “sinh ở cõi người này”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về bi nguyện nên quay trở lại sinh ở nhân gian. Vì ở đây nếu kể
ngôi vị và xem xét về nhân, thì lẽ ra chẳng quay lại nữa.
*
-Kinh văn : “Dược
Vương ! Nếu có người hỏi” tới “ắt được thành
Phật”.
Tán rằng : dưới là
nói rõ thắng nhân này đời sau sẽ được thành Phật. Có hai phần :
- Đầu tiên là nêu
lên.
- Sau đó là giải
thích.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Vì
sao vậy ?” tới “mà cúng dàng vị đó”.
Tán rằng : dưới là
phần giải thích. Có hai phần :
- Phần đầu nói rõ
người là bậc tôn quý, đáng để cúng dàng.
- Phần sau nói rõ
ngôi cao, bi nguyện sinh ra ở đây.
Đây là phần đầu.
* Chữ “Chiêm” có
nghĩa là xem; “Phụng” : chỉ ý cung kính.
Rất khế hợp với
tâm Phật vì khéo thông đạt đạo lý. Do thắng nhân này mà sẽ được thành Phật, vì
lợi ích lớn.
*
-Kinh văn : “Phải
biết người này” tới “kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về ngôi cao, bi nguyện sinh ở nơi đây, vì có khả năng thuyết kinh
này là bậc thánh giả. Chẳng thế thì sao lại gọi là đại Bồ tát ?
Hoặc ngay tại hạng
phàm phu nhưng tu học lâu, khác hẳn với hạng nhị thừa cùng hạng sơ học, thì gọi
là đại Bồ tát, vì Bồ tát là tên gọi chung cho cả nhị thừa hữu học và hạng sơ
học. Hoặc thành tựu phát tâm Bồ đề sẽ được thắng quả, vì đã thành cái nhân rồi
cho nên có thể thuyết kinh này.
*
-Kinh văn : “Huống
hồ hết sức” tới “diễn giảng rộng kinh này”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về nhiều pháp hành, vì xả bỏ tịnh nghiệp quả, chẳng vãng sinh tới
cõi tịnh độ trên trời và hai cõi trên (Sắc giới, Vô sắc giới), mà sinh ở chốn
này.
Trí Độ luận nói :
Bồ tát bất thoái vì yêu pháp sâu sắc, cho nên nghe (pháp) thì tâm lắng sâu,
lông trên người đều dựng đứng. Nghĩ tới đức từ bi của Phật thì cảm động ứa nước
mắt. Nghe pháp thâm diệu thì đại hoan hỉ. Ví như quân thua trận sợ hãi ngã lăn
ra đất chết ngất đi, họ hàng thân thiết thấy thế muốn biết là còn sống hay
không, bèn cầm gậy mà quất nó, thì nó trở dậy ẩn vào xe. Nếu chẳng dậy ẩn vào
xe, thì biết là nó chẳng còn sống.
Bồ tát cũng thế.
Nếu nghe thuyết về công đức diệu lý của Phật mà hoan hỉ, rợn tóc, sắc mặt biến
đổi, buồn thương khóc lóc thì phải biết loại này ắt được Bồ đề. Khác với loại
trên, loại nghe kinh không hề có tướng gì khác thì nên biết rằng loại này không
có phần Bồ đề.
Bát Nhã luận nói :
“Phúc chẳng thú Bồ đề, nhị năng thú Bồ đề”à. Huống chi là hết sức thụ trì đối
với kinh này, nếu chẳng phải là đại Bồ tát thì không có sự bi mẫn đó.
*
-Kinh văn : “Nếu
thiện nam tử ấy” tới “thuyết cho người một cách rộng
rãi”.
Tán rằng : dưới là
thuyết minh về 6 loại Pháp Sư đáng tôn đáng trọng. Văn chia làm hai phần :
• Đầu tiên thuyết
minh về 5 điều đáng tôn trọng.
• Sau đó là giải
thích lý do vì sao.
Năm điều đáng tôn
trọng là :
1) Người thuyết
(kinh) là sứ giả của Phật.
2) Phỉ báng người
đọc tụng kinh này, thì tội còn lớn hơn là tội đối với Phật.
3) Đọc tụng kinh
Phật trang nghiêm.
4) Ở đâu cũng được
tán lễ.
5) Đáng được bốn
sự cúng dàng.
Đây là phần
đầu.
Ba nghiệp thuận
(theo) Phật cho nên trở thành “Sứ giả của Phật”.
“Sứ” là ý nghiệp.
“Khiển” là ngữ nghiệp. “Sự” là thân nghiệp.
Thêm nữa, truyền
(bá) Phật giáo là “Sứ”. Dùng lời Phật, gọi là “Khiển”. Giống với Phật hành, đó
gọi là “Sự”, vì mọi hành vi trong ba nghiệp của Phật đều là dùng pháp này mà
làm lợi ích cho chúng sinh.
“Riêng thuyết một
câu” thì giống Phật nghiệp, công khai thuyết nhiều lý lẽ thì đúng với Phật
hạnh.
*
-Kinh văn : “Dược
Vương ! nếu có kẻ ác” tới “tội nó rất nặng”.
Tán rằng : đây là
điều thứ hai : kẻ phỉ báng kinh tội còn lớn hơn là tội đối với Phật, vì đời ác
gây tổn hại nhiều.
Kinh Đại Tập nói :
“phỉ báng chửi bới tỳ kheo phạm giới thì tội lớn hơn làm chảy máu thân mình của
vạn ức Phật”.
Kinh Đại Bát Nhã,
hội Thắng Thiên Vương viết rằng : “nếu giết số Phật nhiều như số vi trần của
đại thiên thế giới, thì tội vẫn còn nhẹ ; hủy báng kinh này tội còn hơn thế,
mãi đọa vào địa ngục không có ngày ra”.
Nay tội phỉ báng
kinh này (Kinh Pháp Hoa) cũng giống như thế. Nếu tổn hại Phật mà chẳng gây tổn
hại cho việc tu hành Nhị lợi bởi vì Phật chẳng sinh phiền não. Còn nếu tổn hại
người đọc tụng (kinh), gây tổn hại cho việc tu hành Nhị lợi thì người đó sinh
phiền não.
Thêm nữa, dẫu hủy
báng Phật, Phật không yêu ghét, chẳng bỏ việc thuyết kinh, lợi ích càng lớn.
Còn nếu hủy báng người đọc tụng (kinh), vì họ còn phân biệt kẻ oán người thân, cho
nên sẽ phế bỏ việc tu tập. Lại nữa, chửi Phật rất khó. Chửi người đọc tụng
(kinh) rất dễ. Để răn đừng làm như vậy, cho nên thuyết giảng điều này.
Thêm nữa, lúc Phật
có ở đó thì chúng sinh căn cơ thắng trội, dẫu có kẻ chửi Phật, nhưng người khác
thiện tâm bất thoái, tuy tự mình bị tổn hại nặng, nhưng người khác bị tổn hại
nhẹ. Sau khi không có Phật nữa thì cấu uế của chúng sinh nặng nề, nếu phỉ báng
người trì kinh, mọi người nghe thấy rồi thì phần nhiều sẽ thoái đạo tâm, tự và tha
đều bị tổn hại nghiêm trọng. Cho nên đặt ra thuyết này.
Kinh Hoa Thủ nói :
“nếu người nào hoại loạn tâm Bồ đề thì đó chính là đã hủy diệt ánh sáng đại
pháp của mọi chúng sinh, tội sẽ lớn hơn tội Ngũ nghịch đọa địa ngục Vô gián, vì
Ngũ nghịch vô gián chẳng hủy hoại mọi Phật pháp. Hủy Bồ đề tâm tức là hủy hoại
mọi Phật pháp”.
Thêm nữa, sau khi
Phật diệt độ, người y pháp đọc tụng rất khó có, người có thể làm bậc thiện hữu
của chúng sinh ở đời ác thế cũng rất hiếm. Cho nên tội chửi bới người đọc tụng
kinh này còn nặng hơn là tội chửi Phật.
* Chữ
[ ] đọc là Tử (chửi bới). Chữ Hủy [毀] viết thế là sai. Ngọc Thiên nói : dùng miệng mà bới móc phỉ báng
thì gọi là Tử Ha [ 呵] (chửi bới quở trách).
*
-Kinh văn : “Dược
Vương” tới “gánh nặng trên vai”.
Tán rằng : đây là
điều thứ ba : đọc tụng Phật trang nghiêm.
Có đủ mọi đức của
Phật, bởi vì đọc tụng kinh này sẽ có đủ mọi thứ trang nghiêm như tướng hảo
v.v….
Kinh Hoa Nghiêm
nói Bồ tát có mười loại trang nghiêm :
1) Đại từ trang
nghiêm : vì cứu hộ mọi chúng sinh.
2) Đại bi trang
nghiêm : vì nhẫn được mọi thứ.
3) Đại nguyện
trang nghiêm : vì những thứ đáng phát nguyện thảy đều rốt ráo.
4) Hồi hướng trang
nghiêm : vì kiến lập nhất thiết chư Phật công đức diệu trang nghiêm.
5) Công đức trang
nghiêm : vì làm lợi ích cho mọi chúng sinh.
6) Ba la mật trang
nghiêm : vì độ thoát mọi chúng sinh.
7) Trí tuệ trang
nghiêm : vì trừ diệt phiền não ngu si ám cho mọi chúng sinh.
8) Phương tiện
trang nghiêm : vì sản sinh thiện môn các thiện căn.
9) Nhất thiết trí
tâm kiên cố bất loạn trang nghiêm : vì chẳng ưa thích các thừa khác.
10) Quyết định
trang nghiêm : vì diệt trừ được mọi nghi hoặc đối với chính pháp.
Cho nên Kinh Thắng
Man nói : “Thiện nam tử nhiếp thụ chính pháp gánh vác nhiệm vụ nặng nề”. Người
trì kinh chẳng những có khả năng gánh nổi tứ sinh (chỉ chung mọi loại chúng sinh)
mà còn gánh được gánh nặng trên vai Phật. Cho nên được Phật coi trọng vì xứng
với tâm Phật.
* Chữ Vi [為] có hai nghĩa : Làm, Bị. Trên kia là nghĩa “Bị”. Nói nghĩa “Làm” là “tự gánh”, còn gánh cái gánh đại Bồ đề ở trên vai Phật nữa. Tức là
gánh cái gánh A Nậu Bồ đề vậy. Chữ [荷] có âm đọc là Hà. Theo
Ngọc Thiên còn có âm đọc là Hạ, có nghĩa là gồng gánh, gánh vác.
*
-Kinh văn : “Người
đó đến đâu” tới “nên đem cúng dàng”.
Tán rằng : đây là
điều thứ tư : ở đâu cũng được ca ngợi lễ bái, được người tôn trọng vì ở vào chỗ
tốt.
Điều thứ năm là
đáng được bốn sự cúng dàng, vì là phúc điền chân thực, vì đáng được hưởng thụ
diệu cúng dàng !
* Chữ Soạn
[ ] chỉ các thứ ẩm thực (đồ ăn thức uống, cơm
nước) chỉ cỗ bàn, có chỗ viết là [撰].
*
-Kinh văn : “Sở dĩ
như vậy là vì sao?” tới “Tam Bồ đề”.
Tán rằng : đây là
giải thích nguyên nhân, vì kinh Pháp Hoa này tối thâm mật, cho nên chẳng phó
chúc cho A Nan, chỉ phó chúc cho Dược Vương v.v…., vì là cực kỳ bí mật.
Ví như dùng chất
độc để làm thuốc trị bệnh, thì chỉ có bậc đại y dược mới dùng được. Hạng thày
quèn thì chẳng có khả năng. Cho nên phó chúc cho Bồ tát chẳng phó chúc cho
Thanh văn.
Để giáo hóa hạng
Thanh văn, cho nên nói rằng : “Những người này khi được nghe (pháp) trong chốc
lát sẽ đắc cứu cánh đại Bồ đề”. Ý nói là vì khế hợp với chân lý nên tự mình đắc
quả, nên khiến người khác đắc quả.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “cùng cúng dàng người trì
(kinh)”.
Tán rằng : dưới là
16 tụng chia ra làm ba phần :
- 2 tụng đầu :
thuật chung về lý do khiến Pháp sư đáng được tôn trọng, đáng được cúng dàng.
- 13 tụng sau :
tụng về đức của Pháp sư trên.
- 1 tụng cuối :
kết luận pháp hay, cho nên người đáng tôn trọng.
Đây là phần đầu,
chia làm hai :
- 1 tụng đầu, nói
về đắc Nhậm vận trí, tức Chân trí tính, chân lý Nhị không.
- 1 tụng sau, tụng
về đắc mọi loại Chân trí tướng, tức là Hậu đắc trí cùng với trí tuệ tức Căn bản
trí, vì chia làm hai. Khuyên tự thụ trì và cúng dàng người thụ trì.
Đối với “Tự nhiên
trí” chỉ khuyên cúng dàng, nói rõ do tự thụ trì mà được trí ấy, vậy còn có gì
mà phải nghi hoặc nữa !
*
-Kinh văn : “Nếu
ai thụ trì được” tới “thuyết rộng pháp vô
thượng”.
Tán rằng : dưới là
13 tụng, tụng về đức của Pháp sư nói trên, trong chia làm hai phần :
• Phần đầu gồm 3
tụng, ca ngợi Pháp Sư thắng trội.
• Phần sau gồm 10
tụng, nói về ý đáng tôn đáng trọng.
Phần đầu này chia
làm ba :
- 1 tụng đầu : Sứ
giả của Phật.
- 1 tụng sau : xả
bỏ cõi tịnh độ.
- 1 tụng cuối :
tùy nguyện tự tại.
*
-Kinh văn : “Nên
dùng hương hoa trời” tới “cúng dàng người thuyết
pháp”.
Tán rằng : dưới là
10 tụng, tụng về đáng tôn đáng trọng. Chia làm hai phần :
- 4 tụng đầu :
chính diện ca ngợi Pháp sư đáng tôn đáng trọng.
- 6 tụng cuối : so
sánh tội phúc, khuyên phải tôn trọng.
Bốn tụng đầu chia
làm hai :
+ 1 tụng đầu :
trọng thuyết pháp.
+ 3 tụng sau :
trọng thụ trì.
Đây là phần đầu.
Vì người thuyết
pháp tự nhiên ắt được quả báo thắng diệu, cho nên chỉ tán thán sơ qua. Như Khế
kinh nói rằng : “nếu người có giới đủ, tuy yếu kém mà lại có thể biện thuyết làm
lợi cho nhiều người, thì cũng coi như Phật, là bậc đại sư, đáng được cúng dàng
tương tự như vậy, vì yêu quí người đó đã khéo thuyết pháp”.
Câu Xá luận cũng
nói : “Cúng dàng cho cha mẹ ốm, Pháp Sư, Bồ tát tối hậu thân, dù chẳng chứng
thánh, thí quả cũng vô lượng”.
*
-Kinh văn : “Ta
diệt rồi đời ác” tới “làm việc của Như Lai”.
Tán rằng : đây là
3 tụng nói về trọng thụ trì :
- 1 tụng : khuyên
kính.
- 1 tụng : cúng
dàng.
- 1 tụng : sứ giả
của Phật.
Diễn thuyết, đọc
tụng v.v… đều là thụ trì.
*
-Kinh văn : “Nếu ở
trong một kiếp” tới “tội ấy còn hơn thế”.
Tán rằng : đây là
6 tụng nói về so sánh tội phúc, khuyên nên tôn trọng. Chia làm hai phần :
- 2 tụng đầu : so
sánh tội.
- 2 tụng sau : so
sánh phúc.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Có
người cầu đạo Phật” tới “phúc ấy còn hơn thế”.
Tán rằng : 4 tụng
dưới chia làm hai phần :
- 2 tụng đầu : so
sánh đối với Phật.
- 2 tụng sau : so
sánh việc nghe pháp với việc cúng dàng.
Đây là phần
đầu.
Tán thán Phật dễ,
cho nên tâm khinh lợi ít. Tán thán người trì kinh khó, cho nên tâm trọng lợi
nhiều. Vì tự tha có sự nhiều ít khác nhau, giải thích theo như trước.
*
-Kinh văn : “Ở tám
mươi ức kiếp” tới “ta nay được lợi lớn”.
Tán rằng : đây là
đem việc nghe pháp so sánh với việc cúng dàng, vì tài cúng, pháp cúng có sự hơn
kém khác nhau. Pháp cúng dàng là chỉ nghe pháp vậy.
*
-Kinh văn : “Dược
Vương ! Nay bảo ngươi” tới “Pháp Hoa tối đệ
nhất”.
Tán rằng : đây là
phần thứ ba gồm 1 tụng cuối (của 16 tụng chia làm 3 phần, như nói ở trên) : kết
luận vì pháp thắng trội, nên người thành ra đáng tôn trọng.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật lại bảo” tới “khó tin khó hiểu”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ hai, thuyết minh về pháp Pháp sư.
Trong đó, đầu tiên
là trường hàng, sau đó là kệ tụng. Trường hàng có 3 phần :
1. Đầu tiên là
thuyết minh về pháp khó tin khó hiểu, chớ tuyên truyền bậy.
2. Thứ đến là
thuyết minh về xá lợi pháp thân cần phải được cúng dàng. Đó là đoạn từ “khắp
mọi nơi chốn, dù là thuyết giảng hay là đọc tụng” trở xuống.
3. Cuối cùng là
thuyết minh về nghi thức quy tắc thuyết pháp. Đó là đoạn từ “Nếu có thiện nam
tử, thiện nữ nhân nào sau khi Như Lai diệt độ muốn vì bốn chúng” trở xuống.
Trong phần đầu lại
có 2 phần :
- Đầu tiên nói rõ
Pháp, Pháp sư thâm diệu.
- Sau đó nói rõ do
nhân Pháp sư này mà lại thành thắng đức.
Trong phần đầu này
lại có 2 phần :
- Phần đầu : pháp
khó tin khó hiểu.
- Phần sau : chớ
tuyên truyền bậy.
Đây là phần
đầu.
Trong kinh ba đời,
kinh này là khó tin khó hiểu, vì khiến (người ta) bỏ quyền mà lấy thực, vô sinh
mà lại hữu sinh, cho nên biết là khó tin; đạo lý u huyền phải vòng vèo rồi mới chứng
được, cho nên biết là khó hiểu.
*
-Kinh văn : “Dược
Vương ! Kinh này” tới “huống hồ sau khi diệt
độ”.
Tán rằng : dưới là
phần “chớ tuyên truyền bậy”.
• Từ “truyền thụ
bậy cho người” trở lên : răn bảo chớ tuyên truyền bậy.
• Từ “Chư Phật”
trở xuống : giải thích lý do.
Phật thường tự
giữ, chưa từng diễn thuyết công khai, nay mới diễn thuyết (về kinh này) Phật
tại thế, tự mình thuyết (kinh này), mà trong hàng Thanh văn còn có hạng oán
giận ghen ghét tăng thượng mạn đứng dậy rời bỏ chỗ ngồi (chẳng nghe), huống hồ
là sau khi Phật diệt độ thì họ sẽ phỉ báng, chẳng tin.
*
-Kinh văn : “Dược
Vương nên biết” tới “tay xoa đầu vị đó”.
Tán rằng : đây nói
rõ do pháp mà “người ấy” Pháp sư lại thành thắng đức. Có bảy thắng đức :
1) Áo Phật che
cho, vì nhu hòa nhẫn nhục đủ nết tàm quý (biết hổ thẹn), cho nên được đức từ bi
của Phật che chở.
2) Phật hộ niệm
cho, do đó căn thành thục. Vì Phật luôn hộ niệm cho các Bồ tát.
3) Có đại tín.
4) Có chí nguyện,
vì lấy Dục, Thắng giải làm tự thể.
5) Có thiện căn.
6) Phật ở cùng, vì
cùng trụ ở ngôi nhà từ bi tâm, nghĩ tới thắng nghĩa Không.
7) Phật tự tay xoa
đầu, vì được Phật giáo hóa, gia bị, được Phật thụ ký biệt, được Phật nhiếp thụ.
*
-Kinh văn : “Dược
Vương ! Ở bất cứ đâu” tới “tôn trọng tán
thán”.
Tán rằng : dưới
nói rõ xá lợi pháp thân ấy đáng được cúng dàng. Có hai phần :
• Phần đầu :
thuyết minh về xá lợi pháp thân ấy.
• Phần sau : nói
rõ dùng “người này” mà thành Pháp sư thì cũng là thắng đức.
Trong phần đầu lại
có hai phần :
- Phần đầu là nêu.
- Phần sau : giải
thích.
Trong phần nêu có
năm xứ :
1) Thuyết xứ.
2) Độc xứ.
3) Tụng xứù
4) Thư xứ (chỗ
viết).
5) Kinh quyển trụ
xứ (chỗ để kinh quyển).
Trong mười Pháp
hành, thì cúng dàng, thí tha (bố thí cho người khác), văn thính (nghe pháp),
thụ trì, tư lường, tu tập, chẳng lìa năm xứ này. Vì sao vậy? Dưới là phần
giải thích, trong đó có hai phần :
1/- Đầu tiên nói
rõ đó là xá lợi của “toàn thân”.
2/- Sau đó nói về
ý phải nên cúng dàng. Nói rõ vì cả hai thứ Lý, Trí đều viên mãn, tức là có đầy
đủ cả pháp thân và báo thân, do đó mà phản chiếu Khai, Thị, Ngộ, Nhập tri kiến
Phật, tranh thủ được hết cả hai mặt Bồ đề và Niết bàn, Lý và Sự. Cho nên Phật
dạy làm tượng, viết kinh tức là xá lợi của pháp thân - đặt vào trong
tượng.
Các pháp sinh ra
từ nhân. Như Lai thuyết là Nhân. Các pháp đó theo duyên mà diệt, Đại sa môn nói
đó là xá lợi của pháp thân. Cho nên Kinh Vô Lượng Nghĩa nói rằng : “còn gọi là xá
lợi kiên cố”.
Cứ như kinh Kim
Quang Minh thì “Như như, Như như trí gọi là pháp thân”, cho nên chỗ nào có kinh
tức là có “toàn thân của Như Lai”.
*
-Kinh văn : “Nếu
có người” tới “Tam Bồ đề”.
Tán rằng : dưới là
thuyết minh do người đó mà thành pháp thân thì cũng là thắng đức. Có bốn mục :
1) Lễ cúng tháp
này, được gần Bồ đề.
2) Thấy nghe kinh
này, thiện hành thắng đạo.
3) Thấy nghe kinh
này, được gần chính giác.
4) Nghe kinh này
sinh kinh nghi, đó là hạng tân học, cụ mạn.
Đây là mục đầu :
vì hướng tới pháp thân, tức là gần với sơ phát tâm Bồ đề.
*
-Kinh văn : “Dược
Vương ! Có nhiều người” tới “đạo của Bồ tát”.
Tán rằng : đây là
mục thứ hai : “thấy nghe kinh này, thiện hành thắng đạo”.
Vì chính nhân này
mà đã nhập vào kiếp số, đó gọi là “hành thiện hạnh”. Trong văn có bảy hạnh :
1) Kiến(thấy). 5)
Thư (sao chép).
2) Văn (nghe). 6)
Trì.
3) Đọc. 7) Cúng
dàng.
4) Tụng.
Cho nên biết rằng
: Thuyết, Tư, Tu thực sự là thiện hạnh.
*
-Kinh văn : “Nếu
có chúng sinh” tới “Tam Bồ đề”.
Tán rằng : đây là
mục thứ ba : thấy nghe kinh này được gần Sơ địa chính giác. Có ba phần :
1) Pháp. 2) Dụ. 3)
Hợp.
Đây là phần
đầu.
Nếu văn là Văn tuệ
thì tín giải là Tư tuệ, thụ trì là Tu tuệ.
*
-Kinh văn : “Này
Dược Vương ! ví như” tới “biết nước ắt gần”.
Tán rằng : đây là
dụ.
“Có người” : ví
với người cầu học pháp quan trọng để mong xuất ly.
“Khát nước” : ví
với cảnh ở trong vòng sinh tử, không có nước chính pháp.
“Cần nước” : luận
nói rằng : đây là ví dụ, ví với nước Phật tính để thành đại Bồ đề, tức là lý
tính mà Phật giáo giải thích, là Sơ địa Bồ đề cần đeo đuổi.
“Ở cao nguyên” :
(đất) rộng rãi bằng phẳng thì gọi là nguyên, ví với chính pháp của Phật che chở
cho tứ sinh (chỉ tất cả chúng sinh), thâu tóm được mọi vật, hơn hẳn mọi đạo khác;
khó mà có thể trèo lên được, nên gọi là cao nguyên. Tức coi giáo của ngoại đạo
còn trong vòng sinh tử là đồng bằng, trong vùng đồng bằng thì có cao
nguyên.
“Khoét đào để tìm
kiếm” : lấy diệu tuệ làm hàng đầu, ba nghiệp làm công cụ, để lựa chọn tìm kiếm
Bồ đề.
* Chữ Tạc [鑿] là đục, khoét.
“Vẫn thấy đất khô”
: chỉ giáo tích nhị thừa - quyền thừa ngày xưa. Hoàn toàn không có tướng đại
thừa, gọi là “biết rằng nước vẫn còn xa”.
“Thi công không
ngừng” : có nghĩa là nhị lợi chẳng dừng.
“Chuyển sang thấy
đất ẩm” : ý nói gặp Bát nhã Không giáo đại thừa, có cái thế của Bồ đề, nên ví
với “đất ẩm”.
“Rồi dần dần tới
lớp bùn” : ví với việc nghe giáo pháp kinh này.
“Biết rằng nước ắt
gần” : luận rằng : thụ trì kinh này thì được nước Phật tính, thành A nậu đa la
Tam miệu Tam Bồ đề, cho nên gần với Phật trí tuệ sở thuyên. Tức là nêu bật nhị
thừa giáo là xa, đại thừa giáo là gần, Không giáo là sơ, Trung đạo giáo là
thân.
*
-Kinh văn : “Bồ
tát cũng lại” tới “Tam Bồ đề”.
Tán rằng : dưới là
hợp thuyết, có hai phần :
- Phần đầu là nêu
lên.
- Phần sau là giải
thích.
Đây là phần nêu :
nêu lên ba tuệ theo thứ tự : Văn, Giải, Tập. Trong mười pháp hành thì 8 pháp
đầu là Văn tuệ, một pháp tiếp theo là Tư tuệ, một pháp cuối cùng là Tu tuệ.
*
-Kinh văn : “Vì
sao như vậy” tới “mà khai thị cho”.
Tán rằng : đây là
giải thích nguyên do.
Đại Bồ đề pháp có
nhân có quả, có chính nhân gần, có bàng nhân xa, Giáo Lý Hạnh Quả, trí tính,
trí tướng, năm loại trí tuệ đều thuộc kinh này, vì do kinh này mà đắc, vì kinh này
thu nhiếp.
“Khai phương tiện
môn” : tức là nhiếp bàng nhân xa, xưa thuyết Giáo Lý Hạnh Quả nhị thừa.
“Hiển chân thực
tướng” : tức nhiếp chính nhân gần, nay thuyết Giáo Lý Hạnh Quả nhất thừa. Vì
hết thảy đều tận, cho nên đều thuộc kinh này.
“Thâm cố” : “Thâm”
có nghĩa là thâm diệu khôn lường. “Cố”: có nghĩa là chẳng thể phá hoại, vì do
Phật nhiếp thụ, do Phật bí tàng. Giống như ấn của vua, chẳng giống như vật của
người khác.
“U viễn” (sâu xa)
: vì phải trải qua đại kiếp tu nhân, nhờ diệu trí mới chứng được. Nếu chẳng
phải là Phật thì chẳng thể đạt được, cho nên nói là “không ai có thể đến được”
chân bản nguyên cùng cực. “Nay Phật giáo hóa cho Bồ tát, cho nên gọi là Khai
thị”.
*
-Kinh văn : “Dược
Vương ! Nếu có” tới “kẻ tăng thượng mạn”.
Tán rằng : đây là
mục thứ tư : “nghe kinh này sinhõ kinh nghi, đó là hạng tân học, cụ mạn”, vì là
Bồ tát sơ học, Thanh văn phàm phu. Mới nghe liền kinh hãi, trong tư tưởng sinh ra
nghi hoặc. Tu hành mà sợ hãi, đó là hạng mới học và hạng tăng thượng mạn, chưa
nhập tam vị.
*
-Kinh văn : “Dược
Vương ! Nếu có” tới “nên thuyết thế nào ?”.
Tán rằng : dưới là
đoạn lớn thứ ba : thuyết minh về nghi quỹ (nghi thức) thuyết pháp. Có hai phần
:
• Phần đầu : dạy
bảo về nghi quỹ.
• Phần sau : nếu y
theo nghi quỹ của ta, thì Phật sẽ tùy thuận.
Phần đầu có ba :
1. Hỏi. 2. Khai
thị. 3. Kết.
Đây là hỏi.
*
-Kinh văn : “Thiện
nam tử ấy” tới “thuyết rộng kinh này”.
Tán rằng : dưới là
khai thị. Có hai mục :
- Đầu tiên là nêu
lên.
- Sau đó là giải
thích.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Nhà
của Như Lai” tới “đó là mọi pháp đều Không”.
Tán rằng :
đây là giải thích.
Thường xuyên ở
yên, dừng nghỉ thân tâm ở từ bi, cho nên gọi là “nhà” (thất). Duy Ma (Cật) lấy
Không làm nhà, vì là nhà tự lợi, lý cứu cánh xứ. Đây nói rõ về sự, vì là nhà thuyết
pháp lợi tha.
Quyển hai trước
đây nói rằng : “dần dà du hành, cuối cùng đến nhà cha”, đó là coi đại thừa
trung đạo là nhà, vì trong ngoài so với nhau mà gọi là nhà. Đó là nhà của giáo,
còn đây là nhà của hành, cũng chẳng trái ngược nhau.
Tâm hành điều
thuận, tâm có thể nhẫn nại chịu đựng được sự lao khổ, nên gọi là “áo nhẫn nhục
nhu hoà”, vì ngoại vật chẳng xâm phạm được. Cứ theo thứ tự mà ví với sự nhẫn
nại chịu đựng được oán hại, lao khổ.
Quý chuộng hiền
đức, khéo chống ác pháp, tu hành thông suốt cả ba thừa, lấy tàm quý làm y phục
thượng hảo. Nay nói người ác, khổ cảnh chẳng làm nao núng được biệt hạnh đại
thừa, cho nên nói “nhẫn nhục là áo”, cũng chẳng trái ngược nhau. Hơn nữa vì thể
của nhu hòa là tàm quý. Để thân tâm ở vào Không cảnh, nhìn ba sự thấy mênh
mông, gọi Không là tòa.
Duy Ma (Cật) lấy
bốn tĩnh lự làm giường. Đó căn cứ vào cái do trí sinh ra, lấy tĩnh lự định làm
giường, Đây căn cứ vào cái mà trí duyên vào, lấy pháp Không làm giường, cũng chẳng
trái ngược nhau, vì là đại từ bi Hữu quán. Áo, tòa là quán nhị Không, theo thứ
tự tức là Sinh không và Pháp không.
Thập trụ Tỳ Bà Sa
nói : đó là chỉ chốn thuyết pháp và tòa sư tử. Có bốn pháp :
1. Trước tiên đáp
ứng đại chúng cung kính lễ bái, sau đó rồi mới lên tòa.
2. Trong chúng nếu
có phụ nữ, thì nên quán bất tịnh.
3. Nhìn ngắm uy
nghi, có tướng đại nhân, vẻ mặt vui vẻ hòa nhã, mọi người đều tín thụ. Chẳng
thuyết kinh thư ngoại đạo, tâm chẳng khiếp nhược.
4. Đối với những
kẻ dùng lời ác độc mà hỏi vặn thì sẽ nhẫn nhục.
Lại có bốn pháp
nữa :
1) Chẳng khinh bản
thân.
2) Chẳng khinh người
nghe.
3) Chẳng khinh
điều sở thuyết.
4) Chẳng vì lợi
dưỡng.
Trong Đối pháp,
Hiển Dương, Du Già v.v… đều có các tướng nêu thắc mắc, thuyết pháp v.v… . Nên
giải thích rộng như các luận ấy.
*
-Kinh văn : “An
trụ trong này” tới “Kinh Pháp Hoa này”.
Tán rằng : đây là
kết, là mục thứ ba.
*
-Kinh văn : “Này
Dược Vương ! Ta đối với” tới “nghe vị đó thuyết
pháp”.
Tán rằng : dưới là
phần “nếu y theo nghi quỹ của ta, thì Phật sẽ tùy thuận”. Có ba phần nhỏ :
1. Khiến nghe.
2. Được thấy.
3. Khiến chẳng
quên.
Đây là phần đầu,
có ba mục :
1) Khiến người
giáo hóa tập hợp đại chúng.
2) Giáo hóa tứ
chúng khiến họ nghe pháp.
3) Khiến Bát bộ
tới nghe.
*
-Kinh văn : “Ta
tuy ở nước khác” tới “khiến được đầy đủ”.
Tán rằng : đây là
khiến được thấy (Phật) và chẳng quên lãng.
* Chữ [逗] đọc là Đậu, có nghĩa là trụ lại, dừng lại. Còn viết là [竇]. Nghĩa là Giáo có khả năng tháo gỡ. Theo Thuyết Văn, chữ này còn
đọc là Đâu, Thấu; nay thống nhất đọc là Đậu. Có chỗ viết là [讀], chẳng biết xuất xứ từ đâu !
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “người tín thụ cũng khó”.
Tán rằng : dưới là
18 tụng rưỡi, chia làm hai phần :
- 16 tụng rưỡi
đầu, tụng về những điều đã nói trước kia.
- 2 tụng sau, nói
rõ năng thuyết, năng thụ cả hai thứ đều có ích tướng.
Phần đầu lại có ba
phần :
- 1 tụng đầu : nói
về khó tín giải, chớ tuyên truyền bậy.
- 4 tụng sau :
tụng về ý trong xá lợi pháp thân, người gần Bồ đề.
- 11 tụng rưỡi :
tụng về nghi quỹ thuyết pháp.
Đây là phần
đầu.
*
-Kinh văn : “Như
người khát cần nước” tới “quyết định biết gần
nước”.
Tán rằng : dưới là
4 tụng, tụng trong pháp là xá lợi thì người gần Bồ đề. Có hai phần :
- 1 tụng rưỡi là
dụ.
- 2 tụng rưỡi là
hợp.
Đây là phần
đầu.
* Chữ [燥] đọc là Táo, có nghĩa khô kiệt.
*
-Kinh văn : “Dược
Vương ! Ngươi nên biết rằng” tới “gần với trí tuệ
của Phật”.
Tán rằng : đây là
phần thứ hai, là hợp, gồm hai tụng rưỡi.
*
-Kinh văn : “Nếu
người thuyết kinh này” tới “ở đây để thuyết
pháp”.
Tán rằng : dưới là
11 tụng rưỡi, nói về nghi quỹ thuyết pháp, trong đó có hai phần :
- 2 tụng rưỡi đầu
: tụng nghi quỹ.
- 9 tụng sau :
Phật tùy thuận.
Đây là phần đầu,
có hai:
1) 1 tụng rưỡi đầu
: nêu về giáo.
2) 1 tụng sau :
giải thích.
*
-Kinh văn : “Nếu
lúc thuyết kinh này” tới “nhóm họ khiến nghe
pháp”.
Tán rằng : dưới là
9 tụng, tụng về việc Phật tùy thuận, chia làm sáu phần :
- 1 tụng đầu :
thuyết minh về (tu) hành nhẫn hạnh.
- 3 tụng sau : nói
rõ ta ở nước khác để giáo hóa tứ chúng cúng dàng, nghe pháp.
- 1 tụng tiếp :
nói rõ việc làm hộ vệ cho họ.
- 2 tụng : hiện
thân khiến nhớ lại.
- 1 tụng : đủ đức
mới được gặp Phật.
- 1 tụng : khiến
Bát bộ nghe pháp.
Đây là hai phần
đầu.
*
-Kinh văn : “Nếu
người muốn làm hại” tới “làm chúng để nghe pháp”.
Tán rằng : đây có
hai ý :
1) Hộ vệ.
2) Khiến nhớ lại.
“Tịch mịch” : chỉ
trạng thái trống vắng, không có người nào.
Hễ “thấy Phật và
có đủ đức này”, nghĩa là có đủ hạnh nhẫn nhục. Nếu người đọc tụng kinh này ở
nơi trống vắng, thì Phật đều khiến Bát bộ “làm chúng để nghe pháp”.
*
-Kinh văn : “Người
ấy thích thuyết pháp” tới “được thấy hằng sa
Phật”.
Tán rằng : đây là
đoạn lớn thứ hai, nói rõ năng thuyết, năng thụ cả hai thứ đều là ích
tướng.
- 1 tụng đầu, tụng
về người năng thuyết là có ích.
- tụng sau, tụng
về người nghe pháp được ích lợi.
* Chữ [罣] Quái : nghĩa là chướng. “Ngại” nghĩa như Chỉ [止] nghĩa là chặn lại, dừng lại.
PHẨM KIẾN BẢO
THÁP
Phân biệt bằng ba
môn :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có bốn ý :
1. Để trừ ba loại
mạn mà người không phiền não nhiễm phải thì thuyết về ba bình đẳng.
- Ba mạn là :
a) Tin rằng các
thừa khác nhau.
b) Tin rằng sinh
tử và Niết bàn khác nhau.
c) Tin rằng thân
kia thân này khác nhau.
- Ba bình đẳng là
:
a) Thừa bình đẳng
như trên đã nói.
b) Để trừ bỏ quan
niệm cho rằng sinh tử và Niết bàn khác nhau, cho nên xuất hiện tháp của Đa Bảo
Như Lai, sau khi nhập Niết bàn rồi lại hiện thân.
c) Để đả phá quan
niệm cho rằng thân ấy thân này khác nhau, thể hiện rõ thân Phật Đa Bảo bao gồm
hết thảy thân Phật.
Luận rằng : tóm
lại, thân của Đa Bảo Như Lai một thể thị hiện nhiếp thủ mọi thân Phật. Do thân
bình đẳng cho nên chỉ thuyết minh về một thân mà bao gồm được các thân Phật. Hơn
nữa, thể hiện rõ tự thân, tha thân không có gì khác biệt. Vì thân Phật ở mười
phương tập hợp vào một thân vẫn không có gì khác nhau. Thân kia tức là thân ta.
Do hai nghĩa sau, cho nên mới có phẩm này.
2. Trong mười vô
thượng thì thứ năm là thị hiện quốc độ thanh tịnh vô thượng, thị hiện tháp của
Đa Bảo Như Lai, tháp Đa Bảo vọt lên, phân thân Phật tập hợp lại, Phật phóng ra
một luồng hào quang, thấy ở phương đông năm trăm vạn ức na do tha hằng hà sa số
quốc độ, đất là pha lê. Thêm nữa, Phật biến tám phương mỗi phương bốn trăm vạn ức
na do tha quốc độ trở thành thanh tịnh, thị hiện nước Phật thanh tịnh, thể hiện
rõ pháp nay thắng trội, chẳng những giáo hóa chúng sinh ở cõi uế độ, mà còn
giáo hóa chúng sinh ở cõi tịnh độ của Phật, nước Phật vốn dĩ thanh tịnh, cho
nên mới có phẩm này. Đây là Nghĩa tàn.
3. Bốn phẩm đầu
thuyết minh về Tán trọng lưu thông. Phẩm Pháp Sư trên nói rõ đối với kinh này
dù là nhân (Pháp sư) hay là pháp (Pháp sư) đều đáng tôn trọng. Nay phẩm này nói
rõ pháp đáng tôn trọng. Hễ có chốn nào thuyết kinh (này), Đa Bảo ắt đều nghe
cả, để làm linh chứng, khuyến phát tín tâm. Chính vì thế mà có phẩm này.
4. Trí Độ luận nói
: “nếu có Phật xuất thế mà không có người nào thỉnh thuyết pháp thì liền nhập
Niết bàn”. Như trong kinh Pháp Hoa, Đa Bảo Thế tôn vì không có ai thỉnh ngài
thuyết pháp, cho nên ngài liền nhập Niết bàn. Sau để chứng minh cho kinh Pháp
Hoa, cho nên Phật hóa thân cùng tháp thất bảo nhất thời xuất hiện. A
Tuy truyện giải
thích như thế, nhưng ý chỉ khó biết. Đa Bảo đã khuyên bảo làm tháp, không thỉnh
cớ sao lại có các chúng ?
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
Chỗ ở của Phật
thể, đó gọi là “Tháp”. Do các thứ châu báu làm thành, cho nên gọi là “Bảo
tháp”. Do “Bảo” (châu báu) tạo thành nên gọi là Bảo Tháp. Hoặc tháp như
trên.
“Bảo” : chỉ Đa
Bảo. Tháp của Phật Đa Bảo, hoặc Đa Bảo cùng Tháp, hai tên gọi đều nêu lên, cho
nên gọi là Bảo Tháp.
Chữ [見] nếu đọc là “Hiện” thì có nghĩa là hiển hiện. Thứ hiện ra là Bảo
tháp cho nên gọi là “Hiện Bảo Tháp”.
Chữ [見] nếu đọc là “Kiến” thì có nghĩa là trông thấy. Do tháp vọt lên,
mọi người đều trông thấy, thứ trông thấy ấy là Bảo tháp. Trông thấy Bảo tháp,
cho nên (phẩm này) gọi là phẩm “Kiến Bảo Tháp”.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
-Hỏi : theo luận
thì phẩm này đã nói rõ Phật ở tịnh độ mười phương tập hợp lại, cớ sao không lấy
đó làm tên phẩm ?
Đáp : nhân tháp
dâng lên, muốn mở ra, ắt phải triệu tập chư Phật, định an vị chư Phật cho nên
biến cõi Ta bà thành tịnh độ. Tháp hiện ra là nhân, mới có Phật tập hợp lại, biến
thành tịnh độ, chứng kinh là nghiệm, chỉ tại “kiến tháp”, cho nên lấy đó làm
tên gọi của phẩm này.
-Hỏi : vì sao
chẳng ở tịnh độ mà thuyết pháp cho nhị thừa, mà thuyết xong chứng pháp rồi mới
có tịnh độ ?
Đáp : (đó là) muốn
nói rõ nhị thừa sau trở lại hướng đại thừa, (cho nên) thoạt đầu ở uế phương,
sau mới ở tịnh độ.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ trước Phật” tới “trụ trong hư không”.
Tán rằng : văn
dưới, đầu là trường hàng, có hai phần :
• Phần đầu : Tháp
vọt lên, nghe pháp chứng kinh thắng diệu.
• Phần sau : từ
“Bấy giờ Phật Đa Bảo ở trong bảo tháp chia một nửa tòa” trở xuống cho đến sắp
nói kệ chiêu mộ đại chúng đến để (nghe) thuyết kinh, rồi mới giải bày lời phó
chúc.
Văn phần đầu lại
chia làm hai phần :
1. Đầu tiên là
tháp vọt lên ấn thuyết chứng kinh (này) là đáng tin cậy. Cho nên tháp chưa mở,
Đa Bảo bèn tán thán những điều đã thuyết như trên đều là chân thật.
2. Sau đó là tháp mở
ra nghe thuyết chứng kinh (này) là đáng tôn trọng. Đó là đoạn từ “Bấy giờ tứ
chúng thấy đại bảo tháp trụ trong hư không, lại nghe trong tháp” trở
xuống.
Đầu tiên là tháp
làm chứng, sau đó là thân làm chứng, vì chứng Giáo chứng Lý, chứng theo thứ tự.
Văn phần đầu này lại có ba phần :
1) Chi đề ứng
hiện.
2) Linh kỳ (thần
linh) kính phụng.
3) Tán thán thần
công của Phật, ấn chứng diệu, đức của kinh. Đó là đoạn từ “Bấy giờ trong Bảo
tháp phát ra âm thanh lớn” trở xuống.
Văn phần đầu này
lại có năm mục :
1/ Nêu lên là có
tháp.
2/ Thuyết minh về
phân lượng.
3/ Vọt lên rồi trụ
lại.
4/ Tướng
trang nghiêm.
5/ Mức đạt
tới.
Nay ở đây có ba
mục đầu. Song luận giải thích trong mười thứ vô thượng thì thứ năm là Thị hiện
quốc độ (cõi nước) thanh tịnh vô thượng, cho nên thị hiện tháp Đa Bảo Như Lai,
trong có chín :
1) Mọi cõi
Phật 5) Trụ trì.
đều thanh tịnh.
6) Thị hiện vô lượng Phật.
2) Tháp. 7) Xa lìa uế bất tịnh.
3) Lượng. 8)
Đa Bảo.
4) Lược. 9)
Cùng ngồi.
Đây nói về trong
phẩm Kiến Bảo Tháp này có chín loại nguyên do, mỗi loại đều có sự biểu thị
riêng :
1) Cõi Phật thanh
tịnh : giải thích (hiện tượng) hào quang chiếu dọi, thấy ở mười phương, mỗi
phương có số nước Phật nhiều bằng năm vạn ức na do tha số cát sông Hằng, đó là các
cõi tịnh độ, đất là pha lê.
2) Tháp : giải
thích nguyên do xuất hiện tháp này.
3) Lượng : giải
thích lượng cao thấp dọc ngang của tháp này. Hoặc lượng tịnh độ được nhìn thấy
cùng các biến lượng của mười phương.
4) Lược : giải
thích vì sao tóm lược lại chỉ có một Phật Đa Bảo chứng, không còn có Phật nào
khác chứng?
5) Trụ trì : giải
thích nguyên do Phật đáp lời Bồ tát Đại Nhạo Thuyết, rằng : Tháp này có xá lợi
toàn thân của Phật Đa Bảo trụ trì.
6) Vô lượng Phật :
giải thích nguyên do tập hợp các phân thân của Phật Thích Ca mười phương, mỗi
phương có vô lượng phân thân Phật tập hợp lại.
7) Xa lìa uế bất
tịnh : giải thích nguyên do Phật Thích Ca biến đổi thế giới Sa bà này thành
thanh tịnh, lại đem hai lần tám phương, mỗi phương đều biến hai trăm vạn ức na
do tha nước trở thành thanh tịnh và cũng không có biển cả núi sông…
8) Đa Bảo : giải
thích nguyên do tên Phật.
9) Cùng ngồi :
giải thích nguyên do vì sao mà hai Phật Thích Ca, Đa Bảo cùng ngồi, nói rõ mỗi
vị đều có sự biểu thị riêng.
Luận trình bày
chẳng theo thứ tự trong kinh, cứ tuỳ theo nghĩa mà giải thích chung. Luận nói
rằng :
“Tháp” : là thị
hiện Như Lai xá lợi trụ trì. Có nghĩa là toàn bộ xá lợi của Phật đều ở trong
tháp này, biểu thị toàn bộ pháp thân Phật đều ở trong kinh này, cho nên mới cần
có tháp vọt lên. Nếu không thế thì chỉ cần Phật hiện ra, cần gì phải có
tháp vọt lên nữa ?
“Cao năm trăm do
tuần” : Luận nói rằng : lượng này thị hiện nhất thiệt Phật độ thanh tịnh, hơn
hẳn thứ do thiện căn thế gian sinh ra, cho nên to lớn và thanh tịnh. Thứ do thiện
căn thế gian sinh ra thì chẳng thanh tịnh mà lại bé nhỏ. Cho nên Kinh Phật Địa
nói rằng : Hơn cả thứ do thiện căn thế gian khởi lên.
“Năm” : là chỉ ngũ
căn.
“Trăm” : là chỉ
Bách hạnh. Bách hạnh nghiệp đạo mỗi thứ đều giúp cho ngũ căn thì mới được, vì
ngũ thú (năm nẻo, năm đường) không tể với tới được.
“Ngang dọc 250 do
tuần” : vì ra khỏi 25 hữu.
“Từ đất vọt ra,
trụ trong hư không” : tháp tại phương đông, nói “vọt ra, trụ trong hư không”
biểu thị việc Phật nhập Niết bàn đã ra khỏi vòng sinh tử rồi, nay lại quay lại
ở thế gian để tế độ cho chúng sinh, vì sinh tử và Niết bàn không có gì khác
nhau.
Thêm nữa, “vọt ra”
biểu thị thuyết nhất thừa hơn hẳn nhị thừa. “Trụ hư không” biểu thị giáo thuyên
nói về chân lý Không.
*
-Kinh văn : “Các
thứ bảo vật” tới “đầy khắp thế giới”.
Tán rằng : dưới
nói rõ tướng trang nghiêm. Có hai phần :
• Phần đầu thuyết
minh về tám thứ trang nghiêm.
• Phần sau thuyết
minh lại về nghiêm tướng của tràng phan, bảo cái.
Đây là phần
đầu.
Các thứ trang
nghiêm vẻ bề ngoài của Bảo tháp, biểu trưng cho thân Phật cùng Kinh Pháp Hoa,
đều có công đức để làm các thứ trang sức :
1) “Các thứ trang
nghiêm” ví với muôn đức đầy đủ.
2) “Năm ngàn lan
can” ví với Tín, Tiến, Niệm, Định, Tuệ lực, mỗi thứ lại nhờ Bách hạnh đạo
nghiệp giúp đỡ trưởng dưỡng mới thành. Mỗi thứ lại trừ mười ác, cho nên thành
năm ngàn.
3) “Ngàn vạn khám
thất” : biểu thị thiềân định rất nhiều.
* Chữ [龕] đọc là Khám, tức là tháp. Có chỗ giải thích là dáng vẻ của rồng,
không đúng với nghĩa ở đây. Cho nên theo nghĩa đầu sách Ngọc Thiên nói chữ này
có âm đọc là Kham, nghĩa như chữ Thụ [受] : nhận lấy, chịu ; chữ
Thịnh [盛] : đứng ; chữ Thủ [取] : lấy.
4) “Tràng” : biểu
thị trí đức cao hiển.
5) “Phướn” : tượng
trưng cho các Tổâng trì, chuyên diệt các thứ ác.
6) “Anh lạc” :
tượng trưng cho Tam niệm trụ.
7) “Lục lạc báu” :
tượng trưng cho Tứ biện.
8) “Tỏa ra mùi
thơm” : biểu thị tu ngũ phần pháp thân, chứng chân diệt Hoặc. Đó tức là Vô Cấu
Hiền Chiên đàn hương, khắp trong tứ sinh, diệt các phiền não, năng chứng chân
như.
*
-Kinh văn : “Các
tràng phan, bảo cái đó” tới “bảy báu hợp thành”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh thêm một lần nữa về tướng trang nghiêm của tràng phan bảo cái, biểu
thị đầy đủ bảy loại thánh tài.
*
-Kinh văn : “Cao” tới “tứ thiên vương cung”.
Tán rằng : đây là
mức đạt tới (sở chí), biểu thị cao hơn hẳn mọi loài chúng sinh, để mà giáo hóa
cho họ.
*
-Kinh văn : “Tam
thập tam thiên” tới “tôn trọng tán thán”.
Tán rằng : đây là
linh kỳ (thần linh) kính trọng cung phụng. Có hai mục :
1) Tam thập tam
thiên mưa hoa.
2) Bát bộ cúng
dàng, tán thán.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ trong Bảo tháp” tới “đều là chân thực”.
Tán rằng : đây là
tán thán thần công của Phật, ấn chứng diệu đức của kinh. Có hai mục :
- Đầu là tán thán.
- Sau là ấn
chứng.
Cứ như kinh văn,
có thể hiểu được.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ bốn chúng” tới “lùi lại trụ ở một phía”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ hai : tháp mở ra, nghe thuyết pháp, chứng kinh này là đáng trọng. Có
ba phần :
- Phần đầu : phân
tích nguyên do.
- Phần sau : nói
về việc mở tháp. Đó là đoạn từ “Bấy giờ Đại Nhạo Thuyết Bồ tát nhờ thần lực của
Như Lai, cho nên bạch Phật rằng” trở xuống.
- Phần cuối : thấy
rồi tán thán. Đó là đoạn từ “Ngay lúc đó hết thảy đại chúng dự hội đều nhìn
thấy Đa Bảo Như Lai ngồi ở trong tháp” trở xuống.
Phần đầu lại có
hai phần :
+ Đầu là thỉnh.
+ Sau là
đáp.
Trong phần thỉnh
có hai :
1) Đầu tiên là mọi
người tâm thỉnh.
2) Sau đó là Nhạo
Thuyết ngôn thỉnh (thỉnh cầu bằng lời).
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ có vị Bồ tát” tới “phát ra âm thanh này”.
Tán rằng : đây là
Nhạo Thuyết ngôn thỉnh.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật bảo” tới “có toàn thân Như Lai”.
Tán rằng : dưới là
đáp. Có ba phần :
- Đầu tiên là nêu.
- Thứ đến : giải
thích.
- Cuối cùng : kết
luận.
Đây là phần
đầu.
Luận nói rằng :
trụ trì có nghĩa là để thị hiện chư Phật Như Lai pháp thân tự tại thân lực, Hóa
tướng pháp thân tự tại lực, cho nên toàn thân tại tháp trụ trì, để biểu thị
Phật pháp thân tự tại lực, cho nên tại kinh giáo này, toàn thân trụ trì.
*
-Kinh văn : “Chính
là thời quá khứ xưa” tới “hiệu là Đa Bảo”.
Tán rằng : dưới là
phần giải thích, có bốn phần nhỏ :
1) Phật thân. 3)
Răn bảo.
2) Bản nguyện. 4)
Nguyện toại.
Đây là phần đầu.
Vì sao chỉ có một
mình Phật Đa Bảo chứng, chứ chẳng phải là nhiều Phật chứng ?
Luận rằng : đó là
tóm lược trong cùng một thể của Đa Bảo Như Lai thân thị hiện nhiếp thủ hết thảy
mọi thân Phật, cho nên một thân mà nhiếp thủ mọi Phật thân, vì thân bình đẳng.
Cũng thể hiện rõ nhất thừa bao gồm hết thảy nghĩa.
Vì sao mà Đa Bảo
làm chứng, chứ chẳng phải các Phật khác ?
Luận rằng : Đa Bảo
có nghĩa là thị hiện mọi cõi Phật đều cùng có bảo tính như nhau, cho nên muốn
nói rõ cái sự các cõi của báo Phật, hóa Phật đều cùng là bảo tính như nhau, cùng
biểu thị cái lý sở thuyên là diệu mầu, thanh tịnh, không hề sai biệt.
*
-Kinh văn : “Phật
ấy vốn thực hành đạo Bồ tát” tới “khen rằng : Lành thay
!”.
Tán rằng : đây là
phần hai : trình bày bản nguyện.
*
-Kinh văn : “Phật
đó thành đạo rồi” tới “dựng tháp lớn”.
Tán rằng : đây là
phần ba : nêu rõ những điều răn bảo.
*
-Kinh văn : “Phật
đó dùng thần thông nguyện lực” tới “Lành thay ! Lành
thay !”.
Tán rằng : đây là
phần bốn : nguyện toại.
*
-Kinh văn : “Đại
Nhạo Thuyết” tới “Lành thay ! Lành thay”.
Tán rằng : đây là
phần lớn thứ ba : kết luận, bảo ban.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Đại Nhạo Thuyết” tới “thấy thân Phật này”.
Tán rằng : trên là
phân tích nguyên do, dưới là thuyết minh về việc mở tháp. Có bốn mục :
1) Thỉnh. 3) Tái
thỉnh.
2) Đáp. 4) Hứa
mở.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Phật
bảo Đại Nhạo Thuyết” tới “mới xuất hiện mà thôi”.
Tán rằng : dưới là
đáp, có hai phần :
• Phần đầu : trình
bày về bản nguyện của Phật Đa Bảo.
• Phần hai : triệu
hóa Phật.
Đây là phần
đầu.
Phật ấy thuyết
kinh, tháp vọt lên làm chứng. Tháp mở, Phật hiện, hóa Phật làm chứng. Thêm nữa,
tháp của ta mở, mượn phân thân để được trọng. Ta nay chứng thuyết, chứng tỏ
kinh này là đáng tin cậy, nguyện các phân thân Phật của Phật đó tập hợp lại thì
mới có thể khiến tháp mở ra.
*
-Kinh văn : “Đại
Nhạo Thuyết” tới “nay cần phải triệu tập”.
Tán rằng : đây là
triệu tập hóa Phật.
-Hỏi : một Phật
hóa ra (các hóa Phật) thì không vượt quá số tam thiên. Vậy cớ sao phân thân
(Phật) lại ở khắp mười phương thế giới ?
Đáp : tùy thuận sơ
kiến, mới nói hóa thành tam thiên. Thượng vị thì khác, làm sao mà phân thân lại
chẳng nhiều. Hơn nữa thân không khác, tha thân tức là ngã thân.
*
-Kinh văn : “Đại
Nhạo Thuyết” tới “lễ bái, cúng dàng”.
Tán rằng : đây là
tái thỉnh.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật phóng” tới “chư Phật ở cõi nước”.
Tán rằng : đây là
hứa mở (tháp). Có hai phần :
• Phần đầu : tập
hợp phân thân Phật.
• Phần sau :
(Phật) chính thức mở tháp. Đó là đoạn từ “Bấy giờ Thích Ca Mâu Ni Phật thấy các
phân thân Phật của ngài thảy đều đã đến tập hợp” trở xuống.
Văn phần đầu có
bốn phần :
1. Hào quang
ở đây 3. Biến độ mời khách
chiếu
đi
2. Phật ở đó nói
là tới. 4. Cầm hoa tặng chủ.
Đó là đoạn từ “Bấy
giờ chư Phật đều tại cây báu” trở xuống.
-Hỏi : phân thân
của Phật, tâm thánh soi rất rõ, cần gì cứ phải có hào quang soi, mới nói là soi
?
Đáp : phân thân
của Phật chẳng cần tới hào quang (soi tới), cũng vẫn phải tập hợp, song vì muốn
khiến chúng sinh thấy được xa, cho nên phóng hào quang để soi dọi. Thêm nữa,
nếu chẳng triệu tập mà tới thì chúng sinh sẽ chẳng biết được thần lực của Phật.
Để khiến họ biết được thần lực của Phật và kinh mà ngài thuyết là đáng trọng,
cho nên phóng hào quang soi dọi.
Nói “một luồng hào
quang” biểu thị chỉ thuyết nhất thừa, không có thừa thứ hai nào khác. Hào quang
ở đây chiếu đi, có hai phần :
- Phần đầu :
phương đông.
- Phần sau : các
phương khác cũng thế.
Phần đầu có sáu
mục. Đây là mục đầu : thấy Phật.
-Hỏi : cớ sao cần
hiện vô lượng Phật ?
Đáp : luận rằng đó
là để thị hiện tác nghiệp của vị này vị kia không có gì khác nhau, vì sự nghiệp
giáo hóa chúng sinh trước quyền sau thực của Phật này Phật kia, mọi việc làm
của các vị ấy đều giống như nhau.
*
-Kinh văn : “Các
cõi nước ấy” tới “trên trùm lưới báu”.
Tán rằng : văn này
có ba mục :
1) Độ tướng (tướng
trạng cõi nước).
2) Quyến thuộc.
3) Thứ để che
phủ.
-Hỏi : cớ sao lại
cần chiếu soi mọi cõi Phật thanh tịnh ?
Đáp : luận rằng
thị hiện trong cảnh giới thực tướng của chư Phật có nhiều loại châu báu trang
điểm xen kẽ với nhau, là biểu thị trong nhất thừa có đủ muôn đức.
* Chữ [幔] đọc là Mạn : là màn che bên trên. Màn che ở bên cạnh thì gọi là
Duy [帷]. Nếu trùm lên thì gọi là Vãn [輓]. Trên màn còn có lưới làm bằng các thứ báu, giống như để trang
trí cho màn, cho nên gọi là “Võng mạn”.
*
-Kinh văn : “Chư
Phật nước ấy” tới “thuyết pháp cho đại chúng”.
Tán rằng : đoạn
văn này có hai mục :
1) Thuyết pháp. 2)
Trợ hóa.
*
-Kinh văn : “Các
phương Nam, Tây, Bắc” tới “cũng lại như vậy”.
Tán rằng : các
phương khác cũng như vậy.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ mười phương” tới “bảo tháp của Đa Bảo Như
Lai”.
Tán rằng : đây là
phần hai : các Phật ở mười phương nói “phải tới”.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ thế giới Sa bà” tới “treo lục lạc báu”.
Tán rằng : đây là
phần ba : biến đổi cõi nước để đón khách. Có bốn phần nhỏ :
a) Biến đại thiên.
c) Lại biến rộng.
b) Phật bèn ngồi.
d) Phương Phật yên.
Trong phần đầu lại
có hai phần :
- Phần đầu : biến
cõi.
- Phần sau : dời
người.
Phần đầu này có ba
mục :
1) Mục đầu : Hiện
tịnh (độ).
2) Mục sau : diệt
uế (độ).
3) Mục cuối : rừng
hương hoa.
* Về chữ Tẩu [藪] : cây mọc rời nhau thì gọi là Lâm [林] : rừng. Đầm không có nước thì gọi là Tẩu [藪] : rú.
1. Hỏi : vì sao
biến uế thành tịnh ?
Đáp : Luận rằng đó
là để thị hiện hết thảy cõi Phật đều bình đẳng thanh tịnh. Đó là Thích Ca vì
chúng sinh ác mà thị hiện, cho nên có cõi bất tịnh này như kinh Vô Cấu
Xưng đã nói.
2. Hỏi : vì sao
tháp Đa Bảo vọt lên mà chẳng biến thành tịnh độ ngay, tới khi phân thân Phật
tập hợp rồi mới biến thành tịnh độ ?
Đáp : Đa Bảo để tỏ
ra là tùy thuận nhị thừa, nên thị hiện tướng ở uế độ. Phân thân Phật để tùy
thuận Bồ tát, bởi vậy mới biến thành tịnh độ. Thêm nữa, Đa Bảo để thuận với địa
vị xưa của nhị thừa, cho nên ở cõi uế độ. Còn phân thân Phật là thuận với thành
tựu mai sau của nhị thừa, cho nên ở cõi tịnh độ. Chủ biến có ba thời, khách
ngồi có hai vị.
3. Hỏi : vì sao
chủ nhân phải ba lần biến đổi cõi nước ?
Đáp : vì muốn nêu
bật số lượng phân thân Phật rất nhiều, hơn nữa còn nêu bật lần lượt tới ba cực,
thể hiện rõ nhất thừa này là cực của tam thừa, còn thể hiện rõ uế độ này là địa
vị phàm phu. Lần đầu biến đại thiên, biểu thị tới Thanh văn. Lần thứ hai biến
hai trăm vạn ức na do tha nước Phật, biểu thị tới Độc giác. Lần cuối cùng lại
biến hai trăm nữa, biểu thị vượt ra khỏi nhị thừa tới địa vị nhất thừa cực đầy
đủ.
4. Hỏi : khách
Phật Thế tôn cần gì lại ngồi một lần nữa ?
Đáp : vì muốn
khiến ba biến tới được đạo.
Hỏi : nếu vậy thì
sao lại chẳng ba lần ngồi ?
Đáp : hai lần
chứng Pháp Hoa văn nghĩa sâu, thêm lần Đa Bảo ấn chứng nữa, tức là ba lần ngồi,
ba lần chứng, ba lần biến.
*
-Kinh văn : “Chỉ
giữ các chúng hội này lại” tới “đặt ở cõi khác”.
Tán rằng : đây là
dời người. Người nào căn cơ chín muồi, kham nổi việc nghe pháp thì giữ lại. Kẻ
nào vô duyên, chẳng kham nổi thì đi.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ chư Phật” tới “mà trang sức cho”.
Tán rằng : đây là
phần thứ hai : hóa Phật bèn ngồi. Có ba phần nhỏ :
- Phần đầu : Phật
và thị giả cùng đến.
- Phần hai : tướng
cây và tòa.
- Phần cuối : tòa
Phật chẳng đủ.
Đây là phần đầu và
phần hai.
1.Hỏi : vì sao chư
Phật mỗi vị chỉ có một thị giả ?
Đáp : chứng kinh,
mở tháp không cần tới năng lực của thị giả. Còn việc truyền tin, nghi quỹ chỉ
cần một người làm là đủ.
2.Hỏi : thị giả
ngồi ở chỗ nào ?
Đáp : cần gì phải
ngồi.
3.Hỏi : vì sao
Tịnh Danh đãi khách thì phải mượn tòa của Đăng Vương, mà Thích Ca mời khách thị
giả lại không ngồi ?
Đáp : vì đó là
tục, còn đây là Phật, cho nên sự chẳng giống nhau.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ chư Phật” tới “vẫn chẳng hết”.
Tán rằng : đây là
nói tòa Phật chẳng đủ.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật Thích Ca Mâu Ni” tới “đều khiến thanh
tịnh”.
Tán rằng : dưới là
phần thứ ba : lại biến rộng hơn. Có hai phần :
- Một lần biến đầu
: biến hai trăm.
- Một lần biến sau
: biến hai trăm vì Phật đã đến, Phật chưa đến có sự khác nhau.
Văn phần đầu có
năm thứ biến :
1) Biến độ lượng
(lượng cõi nước).
2) Biến chúng sinh
ác.
3) Biến tịnh
tướng.
4) Biến ác độ (cõi
ác).
5) Biến độ nghiêm
(trang nghiêm cõi nước).
Đây là biến đầu :
phóng quang nhắc nhở, có duyên triệu Phật, mười phương đều chiếu. Phật ngồi ắt
phải bình đẳng như nhau (nhưng) đặt tòa chỉ ở tám phương.
*
-Kinh văn : “Không
có địa ngục” tới “đặt ở cõi khác”.
Tán rằng : đây là
biến chúng sinh ác.
*
-Kinh văn : “Những
nước được biến hóa ra” tới “để làm thứ trang
sức”.
Tán rằng : đây là
biến tịnh tướng.
*
-Kinh văn : “Cũng
không có biển cả” tới “các núi chúa”.
Tán rằng : đây là
biến cõi ác.
Cũng có chỗ giải
thích là : dưới nói khiến Bồ tát rắc hoa ở núi Thứu Lĩnh, có nghĩa là chẳng
biến đổi chốn hội họp, bởi vậy trên nói là chỉ lưu giữ hội này. Lý này chẳng
đúng.
Trên nói chỉ lưu
hội chúng này vì đáng được nghe pháp. Năm nẻo đều dời, há lại có sự kiện đã
biến cõi nước thành thanh tịnh để đón khách mà lại lưu lại chỗ núi uế tạp để
phô với khách sao ? Ắt không có sự này. Căn cứ vào đó thì chỗ núi cũng biến,
khiến trở thành không.
Dưới nói khiến rắc
hoa ở trong núi, đó là nói chốn núi cũ. Thêm nữa, lấy tịnh đậy uế thì gọi là
Dời (đi). Chưa phát tâm thì thấy uế. Phát tâm rồi thì thấy tịnh. Giấu uế phô
tịnh đó gọi là Dời, vì dời tướng tức là chuyển tâm. Chỉ nói là dời các trời,
người đặt ở cõi khác. Chẳng nói là dời chốn ác đem đặt ở cõi khác. Cũng chẳng nói
dời chốn trời người đến cõi khác.
Thêm nữa, đoạn
kinh ở dưới nói ngài Văn Thù ngồi trên hoa sen từ long cung xuất hiện vọt lên
đến núi Linh Thứu. Nếu đã dời núi đi rồi, thì chỗ nào còn có núi nữa ?
Kinh Đại Bát Nhã
quyển thứ ba nói : “tam thiên đại thiên thế giới, núi Tô Mê Lô, núi Đại Tô Mê
Lô, núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi”. Đại Tô Mê Lô tức thành thượng vị, trong cõi
Phật có.
*
-Kinh văn : “Thông
làm một cõi nước Phật” tới “trải khắp đất ấy”.
Tán rằng : đây là
biến trang nghiêm cõi nước.
“Màn che sương kết
bằng các thứ báu” : màn để che sương. Dùng châu báu trang sức cho màn che
sương. Thêm nữa, dùng các thứ báu kết lại mà trang sức hoặc để làm cho nổi bật.
Hoặc dùng màn mà che. Thêm nữa, dùng báu kết lại che sương cho màn, đều gọi là
“Lộ mạn”.
*
-Kinh văn : “Phật
Thích Ca Mâu Ni” tới “trải khắp đất ấy”.
Tán rằng : đây là
biến lần thứ hai : biến hai trăm. Văn cũng như trên.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ phương Đông” tới “đến tập hợp ở đây”.
Tán rằng : đây là
phần thứ tư : phương Phật yên ổn. Có ba phần :
- Phần đầu : một
phương yên.
- Phần hai : các
phương khác đều yên như thế.
- Phần cuối : đầy khắp
mọi chốn đều yên.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Thứ
tự như vậy” tới “đầy khắp trong đó”.
Tán rằng : các
phương khác yên, cùng khắp cả đều yên như thế.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ chư Phật” tới “cũng lại như vậy”.
Tán rằng : đây là
tập hợp phân thân.
Trong có bốn mục.
Đây là mục thứ tư : cầm hoa tặng chủ. Có hai phần :
• Phần đầu thuyết
minh việc sai sứ.
• Phần sau thuyết
minh việc sai sứ như lệ trước.
E rằng văn khác
nhau, nên lặp lại lệ trước. Đầu tiên nêu ra chư Phật một phương. Sau đó như lệ
trên, nêu lên bảy phương khác. Văn phần đầu có ba ý :
- Đầu tiên : bảo
rõ chốn đi.
- Thứ đến : sai
truyền lời.
- Cuối cùng : bảo
rắc hoa.
* Chữ
[ ] đọc là Tê, có nghĩa là “sai đem đi”, Thiết Vận viết là [齎]. Chữ [掬] âm đọc là Cúc, có nghĩa là “lấy bằng
tay”, nên viết là [匊].
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật Thích Ca Mâu Ni” tới “trụ trong hư
không”.
Tán rằng : dưới là
chính thức mở tháp. Có ba phần :
- Phần đầu : xong
việc rồi, trụ trong hư không.
- Phần hai : bấy
giờ đại chúng đứng dậy mà nhìn.
- Cuối cùng :
Thích Ca chính thức mở.
Đây là phần đầu :
vì tháp vọt lên trên không, cho nên theo tháp mà trụ.
*
-Kinh văn : “Tất
cả tứ chúng” tới “một lòng ngắm Phật”.
Tán rằng : đây là
phần nói về đại chúng lúc ấy đều đứng dậy ngắm.
*
-Kinh văn : “Thế
là Phật Thích Ca Mâu Ni” tới “mở cửa thành lớn”.
Tán rằng : đây là
Phật chính thức mở. Làm điềm cát tường, nên dùng tay phải.
* Chữ [鑰] đọc là Dược. Sách Ngọc Thiên giải thích : “Dược” là “Môn Kiện” [門鍵] có nghĩa là “cái then cửa”, sách Thuyết Văn giải thích là “cái
chốt ở phía dưới cửa” : Quan Hạ Đỗ [關下杜]. Vùng Quan Tây gọi đó
là Dược [ ], nghĩa như [鑰] là chữ cổ. Phương ngôn
Quan Đông gọi cái đó là Kiện [鍵]. Có chỗ viết là [籥], sách Tự Lâm nói rằng : sách vở tục gọi là Đồng [僮], là Điếm [ ]; sách Toản Văn của Hà Thừa Thiên
nói : vùng Quan Tây gọi sách vở là Thư Dược [書籥]. Đó chẳng phải là
nghĩa trong kinh này.
*
-Kinh văn : “Ngay
lúc ấy tất cả đại chúng trong hội” tới “mà tới nơi
đây”.
Tán rằng : trong đoạn
lớn thứ hai nói về việc mở tháp, nghe thuyết, chứng minh kinh này là đáng trọng
có 3 phần, thì đây là phần thứ ba thuyết minh về việc nhìn thấy (Phật) và tán
thán. Có hai phần nhỏ :
- Phần đầu : nhìn
thấy thân (Phật), nghe thấy lời (Phật).
- Phần sau : tán
thán rắc hoa.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ tứ chúng” tới “và trên Phật Thích Ca Mâu Ni”.
Tán rằng : đây là
tán thán rắc hoa.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật Đa Bảo” tới “có thể tới tòa này”.
Tán rằng : đây là
đoạn lớn thứ hai trong trường hàng : chiêu mộ đại chúng đến nghe thuyết kinh
rồi mới phó chúc. Có ba phần :
- Đầu tiên là :
cùng ngồi trong tháp.
- Sau đó là :
chúng ở trên không.
- Cuối cùng là :
khuyến thuyết, phó chúc.
Văn phần đầu có
hai ý : đầu tiên là bảo (mệnh), sau đó là ngồi. Đây là bảo.
*
-Kinh văn : “Tức
thì, Phật Thích Ca Mâu Ni” tới “ngồi kết già”.
Tán rằng : đây là
ngồi.
-Hỏi : vì sao hai
Phật cùng ngồi một tòa ?
Đáp : Luận rằng
(đó là) để thị hiện các hóa Phật, phi hóa Phật, pháp (thân) Phật, báo (thân)
Phật đều là để hoàn thành đại sự, tức là để hoàn thành một đại nhân duyên. Thêm
nữa, để biểu thị ba thừa cùng ngồi trên giường nhất thừa, chúng sinh cũng cùng
ngồi một tòa nhất thừa.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ đại chúng” tới “đều ở trong hư không”.
Tán rằng : dưới là
mục đại chúng ở trong hư không. Có hai phần :
• Phần đầu là
thỉnh.
• Phần sau là
dẫn.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Ngay
lúc ấy, Phật Thích Ca Mâu Ni” tới “đều tại hư
không”.
Tán rằng : đây là
dẫn trụ Không, biểu thị ý nghe nhất thừa, trụ Phật quả.
*
-Kinh văn : “Dùng
âm thanh lớn” tới “phó chúc cho”.
Tán rằng : đây là
khuyến thuyết, phó chúc. Đây là điều Thích Ca chiêu mộ, khuyến thuyết. Đọc sẽ
hiểu.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “chẳng tha thiết vì pháp”.
Tán rằng : dưới là
48 tụng, chia làm hai phần :
- 12 tụng đầu :
tụng việc tháp vọt lên, nghe pháp, chứng kinh thắng diệu, như đã nói trên.
- 36 tụng sau :
tụng về mục khuyến mộ các chúng thuyết kinh, nói lời phó chúc.
Trong phần đầu lại
chia làm hai :
1) Phần đầu gồm 1
tụng rưỡi : tháp vọt lên, ấn chứng việc thuyết pháp, khuyến khích mọi người.
2) Phần sau gồm 10
tụng rưỡi : mở tháp, nghe thuyết để khuyến khích mọi người.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Phật
này đã diệt độ” tới “thường vì để nghe pháp”.
Tán rằng : dưới là
mục mở tháp, nghe thuyết để khuyến khích mọi người. Có hai mục :
- Mục đầu gồm 2
tụng : tụng về nhân duyên.
- Mục sau gồm 8
tụng rưỡi : tụng về việc mở tháp.
Chẳng tụng về mục
thứ ba trước kia : thấy (Phật) rồi tán thán.
Đây là mục
đầu.
* Tiếng Phạm : A
Tăng Xí Da, ở phương đây gọi là “vô ương số” [無央數]. Chữ Ương [央] có nghĩa là tận. Vậy “vô ương số” có nghĩa là “vô tận số” : số
vô tận.
Chữ Ương có bản
chép là [鞅] đọc là Ưởng. Thuyết Văn giải
thích : [鞅] là Cảnh Triệt [頸 ] : tức dây giàm cổ ngựa trong bộ cương ngựa.
Chữ [ ] đọc là Triệt. Chẳng đúng với nghĩa ở đây.
Mấy chữ “tại
tại sở vãng” [在在所往] trong bản này có bản
chép là “tại tại sở trụ” [在在所住], “tại tại dĩ trụ” [在在已住]. Nếu nhắc lại “sở trụ” thì văn nghĩa sẽ trùng lặp. Vì vậy nên
theo bản này, đọc là “tại tại sở vãng” [在在所往] có nghĩa là “mọi chỗ
đi tới, mọi chốn sở tại” (ý nói khắp nơi khắp chốn, đến bất cứ đâu).
*
-Kinh văn : “Và
phân thân của ta” tới “làm cho nước thanh tịnh”.
Tán rằng : dưới là
tụng về việc mở tháp. Chia làm bốn :
- 3 tụng đầu :
phân thân tập ý.
- 1 tụng : biến
độ.
- 2 tụng rưỡi :
Phật ngồi.
- 2 tụng : hiện
thân, tỏa hương, lợi sinh, thuyết pháp.
Đây là hai phần
đầu.
*
-Kinh văn : “Chư
Phật ai nấy đều” tới “đốt đuốc to lửa sáng”.
Tán rằng : đây là
mục nói về Phật ngồi.
* Chữ [炬] đọc là Cự. Sách Ngọc Thiên giải thích là “đuốc”, đốt bằng củi bó
lại.
*
-Kinh văn : “Thân
tỏa hương kỳ diệu” tới “làm cho pháp trụ lâu”.
Tán rằng : đây là
mục nói về (Phật) hiện thân tỏa hương, lợi sinh, thuyết pháp.
Hoặc Thích Ca tự
mình xuất hương, hoặc phân thân xuất hương. Nếu đọc qua văn bản thì thấy dường
như phân thân xuất hương. Trường hàng chỉ nói Thích Ca thắp hương đãi khách, chẳng
phải là khách đem hương ra để thết chủ. Cho nên cần phải biết rằng không nhất
định phải là khách xuất hương. Như gió làm gãy cành cây, hóa nhân theo bản thân
mình, như gió thổi làm cỏ rạp theo, vì dễ có thể thành tựu.
*
-Kinh văn : “Bảo
với đại chúng rằng” tới “phải nên biết ý này”.
Tán rằng : dưới là
36 tụng, tụng về mục mộ chúng thuyết kinh, nói lời phó chúc, như đã nói ở trên.
Trong chia làm ba phần :
- Phần đầu gồm 9
tụng rưỡi : nói về ý khuyến mộ đại chúng để thuyết kinh.
- Phần hai gồm 19
tụng : so sánh hơn kém.
- Phần cuối gồm 7
tụng rưỡi : lại khuyến mộ mọi người, kết thành thắng hạnh.
Phần đầu lại có ba
phần :
- 3 tụng rưỡi đầu
: mộ người trì giữ đọc tụng (kinh này) khiến họ tự thề, thể hiện Phật hiện tại
biết tâm của họ.
- 4 tụng sau : mộ
người hộ pháp khiến họ tự nguyện.
- 2 tụng cuối : mộ
người thuyết pháp để được gặp chúng ta (chỉ chư Phật), khuyên hãy phát
nguyện.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Các
hàng Phật tử thảy” tới “các thế giới vô lượng”.
Tán rằng : đây là
khuyến mộ người hộ pháp khiến họ tự nguyện. Chia làm bốn mục :
- 1 tụng : khuyến
mộ hộ pháp.
- 1 tụng : hộ pháp
tức là cúng dàng ta và Đa Bảo.
- 1 tụng : thuyết
Đa Bảo hộ pháp.
- 1 tụng : hộ pháp
tức là cúng dàng hóa Phật.
*
-Kinh văn : “Nếu người
thuyết kinh này” tới “nên phát nguyện rộng lớn”.
Tán rằng : 2 tụng
này :
- 1 tụng : khuyến
mộ thuyết pháp, đó là để được gặp ta (chỉ Phật Thích Ca), gặp Phật Đa Bảo và
hóa Phật.
- 1 tụng : khuyên
hãy phát nguyện.
*
-Kinh văn : “Bao
nhiêu kinh điển khác” tới “thế thì là rất khó”.
Tán rằng : dưới là
19 tụng so sánh hơn kém. Trong đó chia làm sáu phần :
1) Năm tụng đầu :
so sánh thuyết khó.
2) Hai tụng sau :
so sánh chép khó.
3) Hai tụng sau
nữa : so sánh đọc khó.
4) Hai tụng sau
nữa : so sánh vì một người thuyết, khó.
5) Ba tụng sau nữa
: so sánh nghe khó
6) Năm tụng cuối :
so sánh trì khó.
Đây là phần đầu :
4 tụng đầu nêu lên cái dễ ; 1 tụng sau so sánh với kinh này khó tín, khó giải,
khó nhập; lý trí thâm diệu cho nên đào luyện khó thành, chẳng giống với bốn
thần thông trước đây có thể chứng đắc.
*Chữ [擲] đọc là Trịch, có nghĩa là ném. Thời cổ viết
là [ ].
*
-Kinh văn : “Giả
sử lại có người” tới “đây mới là rất khó”.
Tán rằng : đây là
so sánh chép khó.
* Chữ [把] đọc là Bả, có nghĩa là “cầm”, “nắm”. Có bản chép là [爬] (Bà, ba) có nghĩa là “bò”. Nay lấy chữ [ ] với
nghĩa “cầm nắm”.
*
-Kinh văn : “Nếu
đem cả đại địa” tới “đây mới là rất khó”.
Tán rằng : đây là
so sánh đọc khó.
*
-Kinh văn : “Giả
sử gặp kiếp thiêu” tới “đây mới là rất khó”.
Tán rằng : đây là
so sánh thuyết cho một người khó.
*
-Kinh văn : “Nếu
trì giữ tám vạn” tới “đây mới là rất khó”.
Tán rằng : đây là
so sánh nghe khó.
*
-Kinh văn : “Nếu
có người thuyết pháp” tới “đây mới là rất khó”.
Tán rằng : dưới là
5 tụng so sánh trì khó. Trong chia làm hai :
- 3 tụng đầu : so
sánh.
- 2 tụng sau : kết
luận trì thắng.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Ta vì
hộ Phật đạo” tới “tức là trì Phật thân”.
Tán rằng : đây là
kết luận trì thắng.
*
-Kinh văn : “Các
thiện nam tử này” tới “nên tự nói lời thề”.
Tán rằng : dưới là
7 tụng rưỡi : lại khuyến mộ mọi người lần nữa, kết luận thắng hạnh. Chia làm 5
phần :
1) Một tụng rưỡi :
khuyến mộ người trì kinh khiến họ thề.
2) Một tụng rưỡi :
thuận Phật tâm.
3) Một tụng rưỡi :
thuận chính hạnh.
4) Một tụng : nối
ngôi Phật.
5) Hai tụng : lợi
thế gian.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Kinh
pháp này khó trì” tới “được chư Phật tán thán”.
Tán rằng : đây là
tán thán thuận Phật tâm.
*
-Kinh văn : “Thế
là rất dũng mãnh” tới “quả Phật đạo vô thượng”.
Tán rằng : đây là
thuận chính hạnh.
Tiếng Phạm : “Đỗ
Đa”, phương đây gọi là “trừ bỏ”. Phiên sai là “Đầu đà”. Đây có 12 (hạnh), như
trong Du Già nói về Thanh văn địa.
*
-Kinh văn : “Có
thể ở đời sau” tới “trụ nơi thuần thiện địa”.
Tán rằng : đây là
nối ngôi Phật. Quyết định tín sậu dày thì gọi là “Thuần thiện địa”.
* Có bản chữ Thuần
[淳] viết là [純] (Thuần), đều chỉ có
nghĩa là thiện cả.
*
-Kinh văn : “Sau
khi Phật diệt độ” tới “đều đáng nhận cúng dàng”.
Tán rằng : đây là
lợi thế gian :
- 1 tụng đầu : là
trí nhãn.
- 1 tụng sau : đều
đáng nhận cúng dàng.
Kinh Hoa Nghiêm
nói rằng : “Nếu đội cả tam thiên đại thiên thế giới suốt cả một kiếp, việc đó
chưa coi là khó, thì việc tin pháp này lại là rất khó. Mọi thứ cúng dàng mọi
thứ nhạc cụ của số loài chúng sinh nhiều bằng đại thiên trần số, công đức ấy
nếu đem so với công đức của việc tin pháp này, thì việc tin tưởng pháp này có
công đức thù thắng hơn”.
“Nếu trì giữ mười
phương cõi trong bàn tay trụ trong hư không suốt cả một kiếp, việc làm đó chưa
phải là khó thì việc tin ở pháp này lại là rất khó. Mọi thứ cúng dàng mọi nhạc
cụ của trần số chúng sinh trong mười cõi Phật, công đức ấy nếu đem so với công
đức của việc tin pháp này, thì việc tin tưởng pháp này có công đức thù thắng
hơn nhiều”.
KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN
QUYỂN THỨ TÁM -
PHẦN SAU
ĐÃ XONG
Niên hiệu
Thừa Thiên năm đầu, tức năm Tân Hợi, tháng tư, ngày 24. Ngài Đắc Nghiệp ở Thiện
Minh phòng, chùa Dược Sư, nơi Tam Kinh viện, chùa Pháp Long, phụng đọc thụ trì
xong, Sư Tăng Giác đem in cùng với Nhiếp Thích.
Ngày mồng 9
tháng 6 năm Bảo An thứ ba, sau khi viết xong, Sư Tăng Giác chùa Pháp Long đem
in. Ngày 19 tháng Chạp năm này, dùng bản của Viên Như phòng chùa Pháp Long di
điểm xong, Sư Tăng Giác đem in.
“để pháp được trụ lâu, để được vãng sinh Cực lạc”
Các bản chữ son đều là bản di điểm, do bậc cao danh viết.