KINH DIỆU
PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN
Đại Sư Khuy Cơ biên
soạn – Việt dịch: Cố Hòa thượng Thích Chân Thường
Biên soạn: Giáo
sư Trương Đình Nguyên – Tu chỉnh và hiệu đính: Tỳ kheo: Thích Đồng Bổn
Nhà Xuất Bản Tôn
Giáo, Hà Nội 2005
QUYỂN THỨ CHÍN (PHẦN
TRƯỚC)
Sa môn KHUY CƠ,
chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn.
PHẨM ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA
Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG
Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có ba ý :
1. Luận giải ký thứ tư trong sáu ký – Vô oán ký – nói rằng : việc thụ ký cho Đề Bà Đạt Đa để chứng tỏ Phật Thế tôn không hề có oán ghét. Cho nên có phẩm này.
2. Trong bốn phẩm tán trọng lưu thông đây là thứ ba, nêu rõ người trì kinh này đáng được tôn trọng, vì chẳng tiếc thân mạng để cầu pháp này, lấy thân làm giường ở nơi nhà thù oán. Cho nên mới có phẩm này.
3. Nêu bật kinh này diệu dụng lợi ích vô biên, thành đạo cũng nhanh, tức là hải hội đại chúng, Long nữ thành đạo. Cho nên có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
“Đề Bà” : là
Thiên ; “Đạt Đa” : là Thụ.
Đề Bà Đạt Đa là em
họ của Phật, là con của Hộc Phạn Vương. (Người này) do cầu xin với trời mà
được, trời trao cho người này, nên gọi là “Thiên Thụ”.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : phẩm này cũng thuyết minh về việc long cung dũng xuất, Long nữ thành đạo, cớ sao lại chỉ lấy Thiên Thụ (Đề Bà Đạt Đa) để làm tên gọi của phẩm ?
Đáp : Thiên Thụ lương duyên, đó chính là thày của Thích Ca, những thứ khác tuy tỏ rõ thắng đức, nhưng chẳng phải bản sự của Phật, cho nên không lấy để làm tên gọi của phẩm. Thêm nữa, đặt tên theo lúc ban đầu : Thiên Thụ là sự việc đã qua, còn long cung dũng xuất, được coi như sự việc hiện tại.
-Hỏi : vì sao long cung dũng xuất, Long nữ thành đạo chẳng lập thành phẩm riêng, mà lại ghép vào với chuyện Thiên Thụ ?
Đáp : Văn Thù
là thiện hữu thuận duyên, chẳng phải là lương duyên trái ngược, Thiên Thụ thì
chẳng thế. Để tỏ rõ kinh này đáng trọng cho nên lấy nghịch duyên làm tên gọi của
phẩm. Để khuyến khích người ta trì kinh, nên chẳng lấy thuận duyên làm tên gọi
của phẩm. Vì đều là bạn tốt của kinh cả, cho nên gộp lại làm một phẩm.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật bảo” tới “không hề lười nhác uể oải”.
Tán rằng : đại văn
phẩm này chia làm hai phần :
• Phần đầu thuyết
minh về Thiên Thụ là thiện hữu nghịch duyên của bản thân Phật. Phần này muốn
nói rõ “chỉ cần là có khả năng trì kinh, thì bất kể là oán hay thân đều là
thiện hữu cả”.
• Phần sau thuyết
minh về Văn Thù cùng mọi chúng sinh là thiện hữu thuận duyên, thuyết kinh ích
lợi nhiều, có lực nhanh chóng.
Phần đầu lại chia
làm ba :
1. Đầu tiên nói rõ
xưa kia Phật trọng pháp để cầu kinh.
2. Thứ đến là nói
rõ Thiên Thụ do kinh mà sau này sẽ làm Phật. Đó là đoạn từ “Bảo với tứ chúng :
Đề Bà Đạt Đa” trở xuống.
3. Cuối cùng là kết
luận : nghe kinh được ích lợi. Đó là đoạn từ “Phật bảo các tỳ kheo : trong đời
vị lai” trở xuống.
Phần đầu này lại
chia làm hai phần :
1) Đầu tiên nói rõ
xưa kia cầu pháp.
2) Sau đó thuyết
minh về kết hội xưa nay.
Đó là phần cuối
của kệ văn.
Trong phần đầu lại
chia làm hai :
a) Phần đầu là
trường hàng và kệ: thuyết minh về việc cầu pháp.
b) Phần cuối là 2
tụng, nói về con đường cầu pháp.
Phần trường hàng ở
đầu chia làm ba :
1/ Đầu tiên :
thuyết minh về cầu pháp.
2/ Thứ hai :
thuyết minh về tu hành.
3/ Cuối cùng :
thuyết minh về tìm kiếm. Đó là đoạn từ “đánh trống hạ lệnh” trở xuống.
Đây là phần
đầu.
* Chữ
[ ] có âm đọc là Quyện. Đúng ra phải viết là [倦]. Ngọc Thiên giải thích : Quyện là lười nhác uể oải, có nghĩa là
vất vả cực nhọc, phải dừng nghỉ. Cũng có lúc viết là [ ] hoặc
[ ]. Chữ [ ] này chẳng biết có xuất
xứ từ đâu.
*
-Kinh văn : “Ở
trong nhiều kiếp” tới “tâm chẳng thoái chuyển”.
Tán rằng : dưới là
thuyết minh về tu hành.
Có bốn mục :
1) Ngôi cao mà có
thể xuống thấp.
2) Tâm hèn kém mà
có thể trở thành thắng trội.
3) Của khó mà có
thể thí xả.
4) Ngôi khó mà có
thể vứt bỏ.
Đây là hai mục
đầu.
*
-Kinh văn : “Vì
muốn thỏa mãn” tới “giao chính sự cho thái tử”.
Tán rằng : đây là
hai mục cuối.
Đoạn từ “Người đời
thời ấy” trở xuống, là mục “Ngôi khó mà có thể vứt bỏ”.
Trong mục “Của khó
mà có thể thí xả” thì :
a) Đầu tiên là ý
thí xả.
b) Sau đó là các
thứ thí xả.
Trong các thứ thí
xả thì đầu tiên là ngoại tài, sau đó là nội tài.
“Quyên” : có nghĩa
là vứt bỏ. Đối với vua thì là chính quyền, đối với bề tôi thì là chức sự, nay
bỏ chính quyền của vua, (vua) chẳng coi đó là nhiệm vụ của mình.
*
-Kinh văn : “Đánh
trống hạ lệnh” tới “cung cấp sai khiến”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về việc tìm kiếm (cầu pháp).
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ có vị tiên” tới “sẽ tuyên thuyết cho”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về việc tiên hứa.
*
-Kinh văn : “Vua
nghe tiên nói” tới “thân tâm không mỏi”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về tùy thuận. Có hai mục :
- Mục đầu : hạnh
khó mà có thể tu được.
- Mục sau : việc
khó mà có thể bền bỉ lâu được.
Đây là mục
đầu.
“Cho đến” : có
nghĩa trong khoảng giữa đã trải qua vô lượng sự nghiệp, như dù bị đánh mắng
v.v… cũng chẳng hề lùi.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ phụng sự” tới “chẳng để thiếu thốn gì”.
Tán rằng : đây là
mục “việc khó mà có thể bền bỉ lâu được”.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “thân phải làm tôi tớ”.
Tán rằng : dưới
đây là 5 tụng rưỡi, tụng các mục trên, trong chia làm ba phần :
- 2 tụng đầu : cầu
pháp.
- 1 tụng rưỡi :
tiên hứa.
- 2 tụng : tùy
thuận.
Đây là phần
đầu.
* Chữ Thôi [推] ở phương đây có nghĩa là đánh, gõ. Có bản viết là [槌] Chùy : có nghĩa là gõ bằng dùi. Chữ này do các chữ [木追] ghép lại. Có bản viết là [槌] đọc là Chùy. Vùng Quan
Đông, “gõ bằng dùi” gọi là Chùy [槌], còn vùng Quan Tây gọi
là Trích [ ]. Hai chữ [槌擿] đều chẳng hợp với kinh
nghĩa.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ có tiên A Tư ” tới “ta sẽ thuyết cho ngươi”.
Tán rằng : đây là
tiên hứa. Tiên A Tư, ở phương đây gọi là Vô Tỷ.
*
-Kinh văn : “Khi
vua nghe tiên nói” tới “thân tâm không lười oải”.
Tán rằng : đây là
tùy thuận.
* Chữ
[ ] đọc là Qua. Sách Ngọc Thiên nói: Quả là chỉ loại như đào
mận. Qua là chỉ loại dưa bí v.v… Thêm nữa, loại có hạt thì gọi là Quả, loại
không có hạt thì gọi là Qua. Thêm nữa, quả của loại cây thân gỗ thì gọi là Quả,
quả của loại thân thảo thì gọi là Qua. Lại nữa, ở trên cây thì gọi là Quả, ở
trên đất thì gọi là Qua.
*
-Kinh văn : “Vì
khắp các chúng sinh” tới “nên nay thuyết cho
ông”.
Tán rằng : đây là
2 tụng thuyết minh về con đường cầu pháp, khuyên phải chăm học.
*
*
-Kinh văn : “Phật
bảo các tỳ kheo” tới “vì bậc thiện tri thức”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về kết hội xưa nay. Có hai phần :
• Phần đầu là kết
hội.
• Phần sau là lãnh
nhiệm.
Lãnh nhiệm có hai
:
+ Phần đầu là lãnh
11 biệt đức.
+ Phần sau là lãnh
2 loại biệt đức, tức là thành (chính) giác, độ (chúng) sinh.
*
-Kinh văn : “Bảo
với tứ chúng” tới “trụ, bậc bất thoái chuyển”.
Tán rằng : dưới
thuyết minh về Thiên Thụ nhờ kinh mà sau này sẽ thành Phật.
Vì làm việc tổn
hại, nên dẫu gần mà vẫn chìm đắm. Nhưng nhờ lực của kinh, nên sẽ thành thắng
quả.
Kinh Vô Cấu nói :
“những vị thị hiện thành ma vương phần nhiều đều là các vị Bồ tát giải thoát
bất khả tư nghì. Chỉ có hương tượng mới chọi được với hương tượng, chứ lừa thì
chẳng kham nổi”. Cho nên biết là Thiên Thụ thị hiện ra như vậy.
Thụ ký có hai loại
:
- Đầu tiên là thụ
ký cho hiện tại.
- Sau đó là thụ ký
cho sau khi diệt độ.
Đây là thụ ký cho
hiện tại, có bốn :
1) Tự thể. 3) Trụ
thọ.
2) Tên cõi. 4) Lợi
ích.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thiên Vương Phật” tới “bất thoái chuyển”.
Tán rằng : đây là
thụ ký sau khi diệt độ. Có bốn :
1) Pháp trụ. 3)
Cúng dàng.
2) Dựng tháp. 4)
Lợi ích.
*
-Kinh văn : “Phật
bảo các tỳ kheo” tới “hoa sen hóa sinh”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ ba : kết luận nghe kinh được ích.
Tín tâm chẳng
nghi, sẽ đủ 5 đức :
1) Chẳng đọa vào
ba nẽo ác.
2) Sinh ở trước
Phật.
3) Thường nghe
kinh này.
4) Sinh ở cõi
người, cõi trời được thụ lạc.
5) Hóa sinh trước
Phật.
Phàm a nạn thì có 8 thứ
:
- Ba nạn đầu : là
bị đọa vào ba nẽo ác.
- Bốn là sinh
trước Phật sau Phật.
- Năm là các căn
chẳng đầy đủ.
- Sáu là tà kiến
thế trí biện thông.
- Bảy là ở vùng
biên giới, cùng vùng Bắc châu.
- Tám là (ở)
Trường Thọ thiên.
Thành Thật luận
nói Bốn vòng (tứ luân) diệt được 8 nạn :
1) Trụ thiện xứ (ở
chốn thiện), có nghĩa là sinh ở giữa nước. (Như vậy thì) trừ được 5 nạn : tức
ba nẽo ác, biên địa và Trường Thọï thiên.
2) Y thiện nhân
(nương nhờ người thiện), có nghĩa là gặp Phật. (Như vậy thì) trừ được nạn sinh
trước Phật sau Phật.
3) Phát chính
nguyện, chỉ chính kiến. (Như vậy thì) trừ được tà kiến thế trí biện thông.
4) Từ trước bồi
dưỡng thiện căn. (Như vậy thì) trừ được nạn các căn chẳng đủ.
Nay nói : chẳng
đoạ địa ngục v.v … : tức là lìa được nạn ba đường ác.
- Sinh ở trước
Phật : có nghĩa là trừ được nạn sinh trước Phật sau Phật.
- Thường nghe kinh
này : (thì) trừ được tà kiến thế trí biện thông.
- Sinh ở cõi người
cõi trời, được thụ lạc : (thì) trừ đựơc nạn các căn chẳng đủ.
- Hóa sinh trước
Phật : thì trừ được nạn sinh ra ở biên địa (vùng biên giới), Bắc châu và Trường
Thọï thiên.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ hạ phương” tới “sẽ về bản thổ”.
Tán rằng : dưới là
đoạn lớn thứ hai trong phẩm, thuyết minh về Văn Thù là thiện hữu thuận duyên
thuyết kinh, lợi ích nhiều mau chóng.
Trong đó chia làm
bốn phần :
1) Trí Tích thỉnh
về. 3) Văn Thù vọt ra.
2) Thích Ca giữ
lại 4) Trí Tích bàn luận.
Đây là phần
đầu.
Nghiệm ý văn này
Trí Tích thỉnh về, chứng tỏ việc thuyết kinh đã xong. Cho nên biết rằng tám
phẩm chính tông là thắng trội.
-Hỏi : vì sao mà
bạch với Đa Bảo mà Thích Ca lại giữ lại ?
Đáp : thị giả
thỉnh về, cho nên bạch với Đa Bảo. Vì đạo chủ khách, nên Thích Ca giữ ở lại.
*
-Kinh văn : “Phật
Thích Ca Mâu Ni” tới “có thể trở về cõi nước của
mình”.
Tán rằng : đây là
mục hai : Thích Ca giữ ở lại.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Văn Thù Sư Lợi” tới “đến núi Linh Thứu”.
Tán rằng : dưới là
mục ba : Văn Thù dũng xuất. Có hai phần :
-Phần đầu : vọt
ra.
- Phần sau : từ
hoa bước xuống kính lễ.
Đây là phần
đầu.
-Hỏi : nêu ra ở
đầu kinh và đáp đều có Di Lặc ở trong hội, cớ sao đây lại nói là long cung vọt
ra ?
Đáp : lợi ích lắm
mối, đi ở đều có ích cả. Phật sáng thuyết nhất thừa rồi liền ẩn mà chẳng hiện,
nay để chứng nghiệm mới xuất long cung. Vậy thì “từ biển vọt ra, đi đến Linh
sơn” cũng có gì là sai đâu ?
*
-Kinh văn : “Từ
hoa sen bước xuống” tới “lùi về ngồi ở một phía”.
Tán rằng : đây là
bước từ hoa xuống mà kính lễ. Kính lễ Thế tôn rồi cũng thăm hỏi Bồ tát.
-Hỏi : phân thân
cũng có mặt ở đó, chứ chẳng phải chỉ có hai Phật, cớ sao Văn Thù chỉ lễ hai
Phật ?
Đáp : cứ vị nào
gần thì quy kính, chứ không hẳn là phải lễ khắp lượt. Gần thì quy kính, chẳng
cần lễ khắp cả phân thân. Thêm nữa, hiện tiền dễ lễ, chốn xa khó quy. Cho nên biết
rằng thượng nhân Đông thổ chỉ lễ hai thánh (chỉ Phật Thích Ca và Phật Đa Bảo).
Quan Âm dâng châu, chỉ chia làm hai phần. Lúc ấy phân thân cũng ở đó mà có sai
đâu !
*
-Kinh văn : “Trí
Tích Bồ tát” tới “số ấy là bao nhiêu ?”.
Tán rằng : dưới là
Trí Tích luận bàn. Có hai phần :
• Phần đầu : phân
tích về số được hóa độ nhiều ít bao nhiêu.
• Phần sau : phân
tích về sự hóa độ lâu mau ra sao ? Đó là đoạn sau kệ từ “Trí Tích hỏi”
trở xuống.
Phần đầu nêu rõ
hai lợi ích :
1. Số được hóa độ
rất đông.
2. Số được giáo
hóa rất khó vì đều từ Thanh văn mà nhập đại thừa.
Phần sau cũng có
hai lợi ích :
1) Thành đạo mau
chóng.
2) Chuyển được ác
thân, bỏ được tướng mạo súc sinh, chuyển chất nữ nhân, đó đều là nhờ lực của
kinh mà được như vậy.
Văn phần đầu có
sáu mục :
1/ Hỏi : hóa được
bao nhiêu.
2/ Đáp : số nhiều
vô tận.
3/ Long cung vọt
ra.
4/ Văn Thù chỉ
thị.
5/ Trí Tích tán
dương.
6/ Văn Thù mách
bảo về sự hóa độ.
Đây là mục
đầu.
“Nhân” : sách Chu
Lễ nói đến sáu đức, trong đó “Nhân” là một. Trịnh Huyền nói rằng : yêu người,
yêu đến cả vật đó gọi là “Nhân”. Trên dưới thân nhau, đó gọi là “Nhân”. Quý
trọng người hiền, thân với người thân gọi là “Nhân”. Hy sinh thân mình, tác
thành cho người, đó gọi là “Nhân”. Nhân là nhẫn vậy. Ưa sinh ghét sát, đó gọi
là “Nhân”. Thiện ác đều bao dung nhẫn nhịn, đó gọi là “Nhân”.
*
-Kinh văn : “Văn
Thù Sư Lợi” tới “tự mình sẽ chứng”.
Tán rằng : đây là
“đáp : số nhiều vô tận”.
* Từ “Tu du”, sách
Ngọc Thiên giải thích là giống nghĩa của “Nga, Khoảnh”, có nghĩa là “chốc
lát”.
Có chỗ nói rằng :
tự mình sẽ chứng tri, thanh âm chẳng tới được đây.
*
-Kinh văn : “Lời
nói chưa hết được” tới “nghĩa Không của đại
thừa”.
Tán rằng : đây là
từ long cung vọt ra. Có hai phần :
• Đầu là vọt ra
rồi đến núi Linh Thứu.
• Sau là hóa đức
của Văn Thù.
*
-Kinh văn : “Văn
Thù Sư Lợi” tới “việc ấy như vậy”.
Tán rằng : (đây
là) Văn Thù chỉ thị.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Trí Tích” tới “khiến chóng thành Bồ đề”.
Tán rằng : (đây
là) Văn Thù tán dương.
*
-Kinh văn : “Văn
Thù Sư Lợi” tới “Diệu Pháp Hoa kinh”.
Tán rằng : (đây
là) Văn Thù mách bảo về sự hóa độ.
*
-Kinh văn : “Trí
Tích Bồ tát” tới “chóng được (thành) Phật hay không
?”.
Tán rằng : dưới là
phân tích về sự hóa độ lâu mau (ra sao). Có bốn phần :
1) Trí Tích
hỏi. 2) Văn Thù đáp.
3) Trí Tích nghi.
4) Long nữ hiện.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Văn
Thù Sư Lợi” tới “có thể tới được Bồ đề”.
Tán rằng : đây là
mục Văn Thù đáp.
Có 16 đức :
1) Rồng. 2) Nữ.
3) Nhỏ. 4) Trí tuệ
lanh lợi.
5) Trí căn. 6) Đắc
pháp tổng trì.
(đây là văn trì).
7) Đắc định. 8) Liễu pháp.
9) Đắc bất
thoái. 10) Biện tài.
11) Từ niệm. 12) Cụ đức (đức đầy đủ).
13) Tấn biện 14) Sở thuyết sâu xa.
(biện
bạch nhanh).
15) Nhân từ khiêm
nhún.
16) Hòa nhã.
Như trên thì nữ
này chóng tới Bồ đề.
“Sát na khoảnh” :
chỉ thời gian cực ngắn (chốc lát). Câu Xá luận nói : 120 sát na là lượng Đát
sát na. Lạp phọc bằng 60 (sát na), bằng 30 tu du (chốc lát).
“Ở đây” : (chỉ ở
Ấn Độ). 30 ngày đêm ở đây là một tháng 30 ngày đêm. 12 tháng là một năm. Ở
Trung Hoa thì đêm giảm một nửa.
Kinh Hoa Nghiêm
nói về Bồ tát Thập tín tám tướng thành đạo. Nay có khi nói về điều này để
khuyên bảo mọi người.
Trong Kinh Già Da
Sơn Đỉnh, Tịnh Quang thiên tử hỏi có mấy loại phát tâm ? Văn Thù Sư Lợi
đáp : có bốn loại :
1) Chứng phát tâm,
có nghĩa là nhập Sơ địa.
2) Hành phát tâm :
sáu địa tiếp theo.
3) Bất thoái phát
tâm : Bát địa, Cửu địa.
4) Nhất sinh bổ xứ
phát tâm, có nghĩa là đệ Thập địa.
Nay Long nữ
này có khi là loại phát tâm thứ tư, hóa làm Long nữ, nhỏ mà có thể học Pháp
Hoa, chóng được Bồ đề. Đó là để khuyến khích mọi người, chứ thực ra chẳng phải
thế.
Văn Thù Vấn Bồ Đề
kinh nói rằng : “trong bốn loại (phát tâm) này, loại đầu vượt quá Thanh văn,
loại hai vượt quá Độc giác, loại ba vượt quá Bất định địa, loại cuối an trụ Định
địa”. Cứ tăng thắng mà bàn, chẳng trái ngược với kinh trước.
Theo Pháp Ấn kinh,
thì Bồ đề tâm có bảy (loại). Theo Phát Bồ Đề Tâm luận, thì có mười loại phát
tâm. Theo Bồ tát địa thì có bốn duyên mười loại phát tâm. Ngại rườm, nên tạm dừng.
*
-Kinh văn : “Trí
Tích Bồ tát” tới “liền thành chính giác”.
Tán rằng : đây là
Trí Tích nghi. Có bốn điều :
1) Thời gian dài.
2) Hành rộng.
3) Ở khắp.¬
4) Ý lớn mới được
Bồ đề cho nên sinh nghi.
*
-Kinh văn : “Ngôn
luận chưa xong” tới “độ thoát cho chúng sinh bị
khổ”.
Tán rằng : dưới là
Long nữ hiện ra. Có bốn phần :
1. Long nữ xuất
hiện tán thán.
2. Thu Tử (tức Xá
Lợi Phất) bày tỏ điều nghi ngờ.
3. Long nữ đạo
thành.
4. Các chúng đương
thời được ích lợi.
Đây là phần đầu.
Có 2 mục :
a) Mục đầu : xuất
hiện rồi thì quy kính.
b) Mục sau : tán
thán bằng tụng.
Trong 3 tụng rưỡi
có hai ý :
• 2 tụng rưỡi đầu
là tán thán.
• 1 tụng sau là
bày tỏ lòng thành.
Đây là phúng tụng
kệ.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Xá Lợi Phất” tới “sự này khó tin”.
Tán rằng : dưới là
Thu Tử bày tỏ điều nghi vấn. Có hai phần :
• Phần đầu : nêu
vấn đề.
• Phần sau : giải
thích.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Sở dĩ
như vậy là vì sao ?” tới “chóng được thành Phật”.
Tán rằng : đây là
phần giải thích. Có ba điều :
1. Nếu thân uế tạp
thì chẳng được (thành Phật), vì (Phật là) biết dựa vào thắng pháp, thắng nhân.
2. Thời gian ít
thì chẳng được (thành Phật), vì quả (Phật) mầu nhiệm to lớn.
3. Nếu chướng
ngại, thì chẳng được (thành Phật), vì lìa chướng, vô ngại mới viên giác.
Kinh Siêu Nhật
Minh Tam Muội nói : “Thượng tọa tỳ kheo bảo Tuệ Thí rằng : chẳng thể là thân nữ
nhân mà được thành Phật đạo, vì có ba sự chướng, năm sự ngại”. Ba sự chướng đó
là những gì ? (đó là) :
1) Ở nhà phải theo
sự chế định của cha mẹ.
2) Lấy chồng phải
theo sự chế định của chồng.
3) Chồng chết phải
theo sự chế định của con.
Cũng giống như
nghĩa tam tòng trong sách thế tục. Năm ngại cũng giống ở đây. Tức là điều kinh
đó nói rằng :
1/ Chẳng được làm
Phạm thiên, (vì cõi trời này) giữ hạnh thanh tịnh, không có hành động nhơ bẩn,
tu tứ đẳng tâm, khéo đạt tứ thiền mới được lên cõi Phạm thiên. Dâm đãng vô độ
lại là nữ nhân, cho nên chẳng được làm Phạm thiên.
2/ Chẳng được làm
Đế Thích, (vì cõi trời này) dũng mãnh ít dục, mới làm Đế Thích. Còn nữ nhân thì
tạp ác đủ thứ, (cho nên chẳng được làm Đế Thích).
3/ Chẳng được làm
ma vương, (vì cõi này) mười thiện đầy đủ, tôn kính Tam bảo, phụng sự cha mẹ,
khiêm tốn cung thuận đối với người lớn tuổi mới làm ma vương. Còn khinh mạn chẳng
thuận, hủy mất chính giáo mới là nữ nhân (cho nên chẳng được làm ma
vương).
4/ Chẳng được làm
luân vương (vì bậc này) thực hành đạo Bồ tát, thương xót chúng sinh, cúng dàng
Tam tôn, tiên thánh, sư phụ mới làm luân vương, làm chủ bốn cõi thiên hạ, giáo
hóa thực hành mười điều thiện, tôn sùng đạo đức, mới làm luân vương. Vì không
có tịnh hạnh (mà) là nữ nhân (nên không được làm luân vương).
5/ Chẳng được làm
Phật, (vì quả vị này) là do hành Bồ tát tâm, xót thương hết thảy, đại từ đại
bi, mặc giáp đại thừa, tiêu năm ấm, hóa sáu suy, hành tam muội, giải nhị vô
ngã, chứng vô sinh nhẫn, thểû đạt hết thảy mới được thành Phật. Nữ nhân không
có các sự trên, cho nên chẳng được thành Phật.
Bồ Tát Địa kinh
nói : hết thảy nữ nhân thành tựu phiền não, các trí nhiễm ô. Chư Phật chẳng
dùng ác thân mà có thể chứng được vô thượng đại Bồ đề. Cho nên nói rằng nữ nhân
chẳng được làm Phật.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Long nữ” tới “lại mau hơn việc này”.
Tán rằng : dưới là
Long nữ đạo thành. Có hai phần :
• Đầu là dâng
châu, phát dụ.
• Sau là thị hiện
đạo thành.
Đây là phần đầu.
Có bốn mục :
1) Dâng châu. 3)
Đáp thẳng.
2) Phản vấn. 4)
Kết dụ.
*
-Kinh văn : “Đương
thời chúng hội” tới “diễn thuyết diệu pháp”.
Tán rằng : (đây
là) thị hiện đạo thành. Có
hai ý :
1) Hiện nhân. 2)
Hiện quả.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Sa bà” tới “thảy đều kính lễ từ xa”.
Tán rằng : dưới là
đại chúng đương thời được lợi ích. Có bốn mục :
1) Mừng lễ. 2)
Được ích.
3) Cõi Vô cấu
động. 4) Chúng hội tín thụ.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Vô lượng
chúng sinh” tới “được thụ đạo ký”.
-Tán rằng : (đây
là) chúng sinh cõi ấy được ích lợi.
*
-Kinh văn : “Thế
giới Vô cấu” tới “mà được thụ ký”.
Tán rằng : đây là
cõi Vô cấu động. Có hai ý :
- Đầu tiên thuyết
minh về thấy động.
- Sau đó thuyết
minh về đây được ích lợi.
Do thấy ở đó động,
bèn chứng đạo quả.
*
-Kinh văn : “Trí
Tích Bồ tát” tới “mặc nhiên tín thụ”.
Tán rằng :
(đây là) chúng hội tín thụ.
PHẨM TRÌ
Hai môn phân biệt
:
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
I. NÓI RÕ DỤNG
Ý.
Có ba ý :
1. Trong bốn phẩm
khoa đầu thuyết về tán trọng, lưu thông thì ba phẩm đầu tán trọng người và
pháp, khuyên người lưu thông. Còn một phẩm này thì nói đại chúng đương thời phụng
trì (kinh này).
2. Theo mười hai
phẩm thuyết minh về cảnh nhất thừa, trong đó chia làm ba phần :
1) Tám phẩm đầu
nói ở trên chủ yếu là thuyết minh về quyền thực ba căn đắc ký.
2) Thứ đến ba phẩm
nói trên tán thán người, pháp, khuyến mộ trì hành.
3) Một phẩm Trì
này : vâng mệnh bỏ Quyền, trì hành Thực pháp, vì vậy mà có phẩm này.
3. Luận nói rằng :
Trì lực có ba : đó là Pháp Sư phẩm, An Lạc Hạnh phẩm, và Khuyến Trì phẩm. Pháp
Sư chung cho cả năng trì và sở trì. An Lạc Hạnh chỉ là sở trì. Phẩm này chỉ thuyết
minh về năng trì. Vì vậy mà có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
“Trì” có nghĩa là
trụ lại, khiến chẳng hoại. (Từ các việc) sao chép (kinh văn), cúng dàng, cho
đến tu hành đều gọi là “Trì” cả, chứ chẳng phải chỉ là một thụ trì trong mười
(hạnh).
Trên đã thuyết
minh về việc khuyến mộ (người) thuyết (kinh) và tán thán những người sao chép
đọc tụng (kinh này). Nay đây nói tới Trì, cho nên biết rằng trì là chung cho cả
mười hạnh khiến pháp trụ lâu, chúng sinh lợi ích, gọi chung là Trì.
Cũng có kinh bản
lấy đầu đề là Khuyến Trì phẩm. Bản luận cũng nói là Khuyến Trì phẩm, vì trước
đây Phật đã khuyến khích khiến trì kinh này. Hoặc trong phẩm này, Phật chiếu cố
Bồ tát cũng tức là Khuyến Trì. Lý tuy không sai, song phần nhiều các kinh bản
chỉ gọi là Trì phẩm.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Dược Vương” tới “thuyết kinh điển này”.
Tán rằng : toàn
văn của phẩm này chia làm ba phần :
- Phần đầu : hai
vạn Bồ tát xin trì ở phương này, vì chúng sinh có nhiều điều ác.
- Phần hai : bốn
loại Thanh văn xin trì ở phương khác, vì chốn này khó hóa, chẳng thể kham nổi.
- Phần ba : (Phật)
chiếu cố tám mươi vạn ức na do tha Bồ tát, vì các vị ấy đều có trì lực, thể
lớn.
Phần đầu này lại
có ba phần :
1) Đầu tiên là xin
hộ trì.
2) Thứ đến thuyết
minh về người ác.
3) Cuối cùng nói
rõ chẳng sợ bỏ mạng để trì kinh.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Sau
này, vào đời ác” tới “xa lìa giải thoát”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về người ác. Có sáu điều :
1) Đời ác. 4) Phiền não nhiều ác.
2) Sinh ác. 5)
Tham danh lợi ác.
3) Căn tính ác. 6)
Chẳng muốn giải thoát ác.
“Tăng thêm bất
thiện căn” thì nhiều phiền não.
*
-Kinh văn : “Tuy
khó thể giáo hóa” tới “chẳng tiếc thân mệnh”.
Tán rằng : đây nói
rõ chẳng sợ bỏ mệnh trì kinh.
Do (chúng sinh) có
đủ sáu điều ác, tuy khó thể giáo hóa, nhưng ta chẳng sợ, những ai cần được
nhiếp thụ thì ta nhiếp thụ, những ai cần phải chiết phục thì ta chiết phục. (Ta
quyết) bỏ mạng để trì pháp.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ trong chúng” tới “thuyết rộng kinh này”.
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ hai : bốn loại Thanh văn xin trì kinh ở phương khác. Có ba phần :
- Phần đầu : năm
trăm.
- Phần hai : tám
ngàn.
- Phần ba : ni
chúng.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Lại
có hạng hữu học, hạng vô học” tới “vì tâm chẳng
thực”.
Tán rằng : đây là
tám ngàn người xin trì kinh.
Đầu tiên nêu lên,
sau đó giải thích. Nước này có tám thứ ác, xin được trì kinh ở nước khác. Tám
thứ ác đó là :
1) Xứ ác.
2) Người ác, vì
cực kỳ tệ khốn.
* Chữ Tệ [弊] còn viết là [ ] đọc là Phiệt, chỉ vẻ khinh bạc dễ tức giận. Chữ
Tệ có nghĩa như chữ Uyết [ ].
3) Mạn ác.
4) Đức ác.
5) Sân ác.
6) Trược ác, gần
ngoại đạo cho nên khởi các (tà) kiến.
7) Xiểm ác.
“Xiểm” : có nghĩa
là a dua, xua nịnh, nghiêng mình dường như vẻ nhún mình. Chiều ý lựa lời
đó gọi là Xiểm. Đó là thân ngữ xiểm.
8) Tâm chẳng thực.
Miệng nói có mà tâm chẳng có.
Trí Độ luận nói
rằng : “chúng sinh thế gian người thiện hảo thì ít, kẻ tệ ác thì nhiều. Có
người tuy làm điều thiện nhưng lại nghèo hèn bỉ lậu. Có người tuy giàu sang
ngay ngắn nhưng lại làm điều bất thiện. Có người thích bố thí nhưng thiếu của
cải, có người giàu có của cải, nhưng bủn xỉn tham lam tự làm hại mình. Có khi
thấy vẻ im lặng không nói thì cho là kiêu căng tự cao, chẳng nhún mình để tiếp
xúc với vật. Có khi thấy người nhún mình tiếp dẫn, ơn huệ ban khắp thì lại cho
là lừa phỉnh nịnh bợ. Có khi thấy khéo nói giỏi bàn thì lại cho là cậy trí mọn
này mà kiêu mạn. Có khi thấy người chất phác thẳng thắn không giả dối thì liền
cùng nhau lừa gạt trêu chọc, cho người ấy là si độn mà lăng nhục. Có khi thấy
người điều thiện, nhu nhuyễn thì cùng xúm lại đá đạp chửi bới. Nếu thấy ai trì
giới tu hành, thì bảo sự tu hành ấy là giả dối lập dị, rồi khinh rẻ chẳng kính.
Chúng sinh có 10 loại tệ ác như vậy thực khó giáo hóa”.
Vì hạng này khó
thể giáo hóa, cho nên xin được trì kinh ở nước khác.
Trong Kinh Pháp
Cổ, Ca Diếp bạch rằng : “Bạch Thế tôn ! Tôi cuối cùng chẳng thể nhiếp thụ được
kẻ ác. Tôi thà lấy đôi vai mà cõng núi Tu Di tới trăm ngàn kiếp, chẳng thể nhịn
nổi khi nghe âm thanh phi pháp của kẻ ác phạm giới, diệt pháp báng pháp, làm
nhơ bẩn pháp.
Bạch Thế tôn ! Tôi
thà thuộc kẻ khác, làm tôi tớ cho kẻ khác, chứ chẳng thể chịu nổi khi nghe âm
thanh phi pháp phạm giới, chống pháp, trái pháp, hoại pháp của kẻ ác đó.
Bạch Thế tôn ! Tôi
thà đội cả đại địa núi biển, trải trăm ngàn kiếp, chứ chẳng thể chịu nổi khi
nghe âm thanh phi pháp phạm giới diệt pháp, tự cao bới xấu người khác của kẻ ác
đó.
Bạch Thế tôn ! Tôi
thà vĩnh viễn bị đui điếc câm ngọng, chứ chẳng thể chịu nổi khi nghe âm thanh
phi pháp hủy phạm tịnh giới, vì lợi xuất gia, thụ tha tín thí của kẻ ác
đó.
Bạch Thế tôn ! Tôi
thà xả thân, chóng bát Niết bàn, chứ chẳng thể chịu nổi khi nghe âm thanh
phi pháp của kẻ ác kia, hủy phạm tịnh giới, “loa thanh chi hành” mà thân thì làm
điều xiểm nịnh quắt quéo, miệng thì nói điều hư vọng, các điều ác như
vậy”.
Cho nên hạng Thanh
văn này chẳng muốn trì kinh Pháp Hoa ở đây.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ dì ruột của Phật” tới “mắt chẳng tạm xả”.
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ ba nói về ni chúng xin trì (kinh). Có hai phần :
• Phần đầu là thụ
ký.
• Phần sau là trì
kinh.
Phần đầu này lại
có hai phần :
- Đầu tiên là hai
loại đắc ký.
- Sau đó là hai
loại hỷ lĩnh.
Phần đầu này lại
có hai phần :
1) Đầu tiên là mẹ.
2) Sau đó là
vợ.
Trong phần đầu này
lại có hai phần :
1/ Đầu tiên là
thỉnh.
2/ Sau đó là
ký.
Đây là phần đầu :
vì là tiểu mẫu của Phật, ngang hàng với mẹ, nên gọi là dì.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “Tam Bồ đề ký ư ?”.
Tán rằng :
dưới đây là ký. Có hai phần :
1) Đầu là hỏi.
2) Sau là thụ
ký.
Đây là phần
đầu.
Tiếng Phạm : Kiều
Đáp Ma. Phương đây dịch nghĩa là Nhật trá chủng, cũng là Cam giá chủng, là từ
thuộc giống đực, là họ gốc của họ Thích Ca của Phật. Nay nói là Kiều Đáp Di,
chỉ nữ trong Nhật trá Cam giá chủng, đó là mẹ Phật, cho nên dùng đuôi “Di” chỉ
từ thuộc giống cái. Có chỗ phiên âm lầm là Kiều Đàm Di.
Nếu hủy báng thì
dịch nghĩa là Nê thổ chủng (giống bùn đất), Ngưu phẩn chủng (giống phân bò),
cho nên gọi là Di, còn Cù Đàm là họ. Nói rộng nghĩa từ này ra thì như Tây Vức
ký.
*
-Kinh văn : “Kiều
Đàm Di” tới “đều là Pháp sư ”.
Tán rằng : dưới
đây là ký, trong đó :
-Đầu tiên nêu lên
điều đã thuyết và thụ nhân ký.
- Sau đó là thụ
quả ký.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Người
như vậy dần dần” tới “Tam Bồ đề”.
Tán rằng : đây là
chính thức là ký quả : đầu là Dì (Phật), sau đó là truyền ký.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ mẹ La Hầu La” tới “riêng chẳng nói tên tôi”.
Tán rằng : dưới là
vợ (khi Phật còn là Thái tử). Có hai ý :
- Đầu là niệm
(tưởng nhớ).
- Sau là ký.
Đây là ý đầu.
*
-Kinh văn : “Phật
bảo” tới “A tăng kỳ kiếp”.
Tán rằng : đây là
ký. Trong đó đầu tiên là nhân, sau đó là quả. Trong quả, đầu là Thể sau là Thọ.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ” tới “tâm an vui đầy đủ”.
Tán rằng : đây là
hai loại hỷ lĩnh, phần đầu là trường hàng, phần sau là tụng.
*
-Kinh văn : “Các
tỳ kheo ni” tới “tuyên truyền rộng kinh này”.
Tán rằng : đây là
mục hai : Trì kinh.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “Ma ha tát”.
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ ba (nói về việc Phật) chiếu cố tám mươi vạn ức na do tha Bồ tát trì.
Trong có hai phần :
-Phần đầu : Phật
nhìn.
- Phần sau : xin
trì.
Đây là phần đầu :
lấy thân gia bị, phát khởi chúng tâm, khiến họ trì kinh, vì vậy mà Phật nhìn
họ. Cho nên trong luận vốn gọi (phẩm này) là phẩm Khuyến Trì, vì (Phật) lấy thân
mình mà khuyến khích vậy.
*
-Kinh văn : “Các
Bồ tát này” tới “chúng ta nên thế nào ? ”.
Tán rằng : dưới là
Bồ tát xin trì. Trường hàng có ba phần :
1) Tán đức (tán
thán công đức).
2) Niệm thỉnh
(trong tâm nghĩ xin trì).
3) Ngôn thỉnh (xin
bằng lời lẽ).
Đây là hai phần
đầu.
Trong phần tán
đức, đầu tiên là vị thứ : A Duy Việt Trí, đây dịch là Bất thoái, từ Bát địa trở
lên ; sau đó là đức đã thành, đó là đoạn từ “chuyển pháp luân” trở xuống.
Tâm niệm (thỉnh)
có hai ý, cứ theo như kinh văn, có thể biết được.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ các Bồ tát” tới “xa xa thấy thụ hộ”.
Tán rằng : đây là
ngôn thỉnh. Trong đó :
• Phần đầu là xin
trì, tóm lược có bảy hạnh, không có ba hạnh Thí tha, Thính văn và Cúng dàng, vì
dễ nên lược đi.
• Phần sau là
thỉnh Phật thủ hộ.
*
-Kinh văn : “Tức
thì các Bồ tát” tới “chúng con sẽ thuyết rộng”.
Tán rằng : dưới có
20 tụng, chia làm ba phần :
- 1 tụng đầu : nêu
ra việc sẽ thuyết kinh này.
- 18 tụng sau :
giải thích về sẽ nhẫn thụ.
- 1 tụng cuối :
kết luận bằng lời thề.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Có
những người vô trí” tới “chúng con đều sẽ nhẫn”.
Tán rằng : dưới là
18 tụng giải thích về sẽ nhẫn thụ. Trong đó chia làm hai :
• Phần đầu : 16
tụng hành nhẫn trì (thực hành nhẫn thụ trong khi trì kinh).
• Phần sau :
khuyến thuyết trì (khuyến khích thuyết pháp để trì kinh).
Văn phần đầu có 4
phần :
- 1 tụng : Đả mạ
nhẫn (Dù bị đánh mắng cũng nhẫn thụ).
- 9 tụng rưỡi :
Mạn báng nhẫn (Dù bị khinh mạn, phỉ báng cũng nhẫn thụ).
- 3 tụng : Hủy
nhục nhẫn (Dù bị nói xấu, lăng nhục cũng nhẫn thụ).
- 2 tụng rưỡi :
Tẫn mặc nhẫn (Dù bị xua đuổi cũng nhẫn thụ).
Đây là phần
đầu.
* Chữ [罵] đọc là Mạ. Chữ [詈] đọc là Lỵ. Lỵ cũng là Mạ.
Nay giải thích : dùng ác ngôn với ai thì gọi là Mạ (mắng). Phỉ báng nguyền rủa
thì gọi là Lỵ (chửi bới rủa xả).
*
-Kinh văn : “Tỳ
kheo trong đời ác” tới “tâm ngã mạn đầy rẫy”.
Tán - rằng : dưới là 9 tụng
rưỡi nói về Mạn báng nhẫn, có ba phần :
- 1 tụng : nêu mạn
tướng.
- 7 tụng : Phỉ
báng nhẫn.
- 1 tụng rưỡi :
Kết thành nhẫn.
Đây là phần
đầu.
“Tà trí”, cho nên
thế trí biện thông.
“Xiểm khúc” (Xiểm
nịnh quắt quéo), cho nên khen ngợi tán dương công việc của người cùng bè đảng.
Tướng của hai thứ mạn còn lại thì có thể biết được.
*
-Kinh văn : “Hoặc
có A Luyện Nhã” tới “như lục thông La hán”.
Tán rằng : dưới là
7 tụng nói về Phỉ báng nhẫn. Trong đó có bốn phần :
1) Hai tụng : nêu
rõ kẻ ác.
2) Một tụng : nói
rõ giả hành (hành vi giả dối).
3) Hai tụng : phỉ
báng hành (hành vi phỉ báng).
4) Hai tụng :
thuyết ác hành.
Tiếng Phạm “A
Luyện Nhã”, ở phương đây gọi là Nhàn tịch xứ (chốn thanh nhàn vắng lặng) : cách
thôn làng một câu lô xá, tức hơn 600 bước.
*
-Kinh văn : “Người
này mang lòng ác” tới “thích bới lỗi chúng ta”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về giả hành.
*
-Kinh văn : “Mà
nói lời như vầy” tới “phân biệt thuyết kinh này”.
Tán rằng : đây là
Phỉ báng hành.
*
-Kinh văn :
“Thường tại giữa đại chúng” tới “thuyết nghị luận ngoại
đạo”.
-Tán rằng : đây là
thuyết ác hành.
* Chữ [誹] đọc là Phỉ, cũng nghĩa như chữ Báng. Sách Ngọc Thiên nói chữ này
đọc là Phỉ. Còn chữ [謗] đọc là Báng. Sách này giải thích chữ
Phỉ có nghĩa như chữ Hủy [毀] chữ
Tữ [ ], có nghĩa là chê bai, dè
bỉu, báng bổ, nói xấu trước người khác.
*
-Kinh văn : “Chúng
con vì kính Phật” tới “đều sẽ nhẫn thụ đó”.
Tán rằng : (đây
là) Kết thành nhẫn.
*
-Kinh văn : “Trong
trược kiếp ác thế” tới “hộ trì điều Phật dặn”.
Tán rằng : dưới là
3 tụng nói về Hủy nhục nhẫn. Có ba phần :
- 1 tụng : sự phải
nhẫn.
- 1 tụng : ý nhẫn
nhục.
- 1 tụng : kết hộ
trì.
* Chữ [鎧] đọc là Khải, có nghĩa là Giáp.
*
-Kinh văn : “Thế
tôn tự nên biết” tới “đều nên nhẫn sự này”.
Tán rằng : đây là
Tẫn mặc nhẫn. Vì kinh này cho nên dù họ có xua đuổi ta, ta cũng nên nhẫn
chịu.
* Chữ Tẫn [殯] có nghĩa là xua đuổi.
*
-Kinh văn : “Các
xóm làng thành ấp” tới “nguyện Phật trụ yên ổn”.
Tán rằng : đây là
2 tụng nói về khuyến thuyết trì.
*
-Kinh văn : “Con ở
trước Thế tôn” tới “Phật tự biết lòng tôi”.
Tán rằng : đây là
kết thệ.
*
PHẨM AN LẠC
HẠNH
Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có năm ý :
1. Trong ba loại
lưu thông của khoa đầu, bốn phẩm trên là tán trọng lưu thông, bảy phẩm dưới là
học hành lưu thông, chính hạnh, trợ hạnh, học hoằng kinh này, khiến (kinh)
không bị tổn hại. Tuy đã tán trọng, nếu chẳng thuyết về hành của sở học, năng
hành, hoằng kinh, thì thời mạt thế nhiều nạn, thường sinh tổn hại, chẳng thể
hoằng thông, cho nên thuyết bảy phẩm học hành lưu thông :
1) An Lạc
Hạnh. 5) Tùy Hỉ Công Đức.
2) Dũng Xuất. 6) Pháp Sư Công Đức.
3) Thọ Lượng. 7) Thường Bất Khinh.
4) Phân Biệt Công
Đức .
Trong đó phẩm An
Lạc Hạnh nói về hành của sở học, hoằng kinh. Sáu phẩm gồm Dũng Xuất v.v… nói về
người năng hành trì kinh. Người do pháp mà thành đức, pháp nhờ người mà hoằng tuyên.
Nếu không có hành sở học, thì người đó do đâu mà lập đức được. Cho nên phẩm An
Lạc Hạnh là hành sở học. Nếu không có người năng hành thì pháp ấy không có nhân
mà truyền bá rộng. Cho nên các phẩm Dũng Xuất .v.v… là nói về người năng hành.
Vì thế sau phẩm trước thì tiếp theo là phẩm này.
2. Mười chín phẩm
khoa sau là chính tông. Trong đó có ba phần : 12 phẩm đầu thuyết minh về cảnh
nhất thừa xong, thì đến 2 phẩm dưới đó thuyết minh về hạnh nhất thừa. Phẩm An Lạc
Hạnh này thuyết minh về hạnh sở hành. Phẩm Dũng Xuất sau đó thuyết minh về
người năng hành. Cho nên thứ đến là hai phẩm này.
3. Trong việc trừ
bỏ bảy thứ nhiễm mạn, thì loại thứ sáu là loại Tập công đức nhân (người gom
công đức). Đó là chỉ người có công đức thuyết pháp đại thừa nhưng lại chấp thủ
tăng thượng mạn phi đại thừa. (Phật đã) vì loại này mà nói về chuyện lấy ngọc
minh châu trong búi tóc cho người đó. Người cầu quả tam thừa thì gọi là Tập công
đức nhân, xưa tuy tổng tướng là thuyết đại thừa, nhưng tâm người đó chưa quyết
định, thoái lui, hướng theo nhất thừa mà vẫn hiếu thắng, chấp thủ những thứ
chẳng phải là đại thừa, công đức thuyết pháp nhỏ, nên (Phật) chỉ ban cho các
thứ khác. Còn như ngày nay thì đã phát tâm quyết định ưa thích đại thừa, lập
công đã lớn, cho nên cởi hạt minh châu mà cho người đó.
Luận rằng : loại
người thứ sáu này thuyết pháp đại thừa thì đem nhất thừa của pháp môn này mà
trao cho họ, để khiến thị thừa cũng được hạnh mãn giống như Thập địa. Ngày nay
Như Lai bí mật giải thích cho, giống như cởi hạt minh châu mà ban cho. Phẩm này
thuyết minh về điều đó. Cho nên cần có phẩm này.
4. Luận giải thích
về loại vô thượng thứ mười. Trì lực trong bảy lực, đó là các phẩm Pháp Sư, An
Lạc Hạnh và phẩm Trì. An Lạc Hạnh này là hạnh sở trì. Phẩm Trì trước đã nói rõ
năng trì, ắt phải có hạnh của sở trì. Cho nên có phẩm này. Đó là đoạn văn về
“Tứ An lạc hạnh”. Đây là văn tàn, vì minh châu nói trên là hậu văn.
5. Luận nói : thứ
sáu là thị hiện Thuyết vô thượng, cho nên nói về việc lấy hạt minh châu trong
búi tóc ra mà cho. Vì việc ban cho pháp này cũng ví như cho hạt châu, vì pháp
sở thuyết là vô thượng, tuy lời văn khác nhau nhưng đều nói về hạt châu cả. Đây
là nghĩa tàn của phần trước. Cho nên mới có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
Lìa nơi nguy hiểm
hãi hùng thì gọi là “An”.
Thân tâm đều thích
thì gọi là “Lạc”.
Uy nghi đáng noi,
nói năng có phép, tâm trừ đươc thói siểm mạn, chỉ chứa phẩm chất Từ bi, duyên
luôn chẳng dứt thì gọi là “Hạnh”.
An Lạc là quả, và
Hạnh nghĩa là nhân. Hạnh An Lạc là dựa vào chủ thể mà giải thích. Nếu lúc tu nhân,
lìa được các sự nguy hiểm hãi hùng, thân tâm vui thích thì gọi là An Lạc Hạnh,
tức là trì nghiệp mà giải thích.
* Chữ [行] có 2 âm đọc là chữ “Hành” hay “Hạnh”. Tu hành theo các hạnh
trong kinh này thì được An Lạc.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
-Hỏi : phẩm này
cũng thuyết minh về sự kiện cởi bảo châu (mà cho), cớ sao không lấy đó mà đặt
tên cho phẩm ?
Đáp : (vì đó là)
nhân thuyết minh về thắng hạnh và tán thán công đức thắng trội của kinh này,
chứ chẳng phải là muốn đối cơ chính thức thuyết minh về sự kiện bảo châu. Cho nên
chỉ lấy An Lạc Hạnh mà đặt làm tên phẩm.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ” tới “thuyết được kinh này”.
Tán rằng : đại văn
của phẩm này chia làm hai phần :
- Đầu là khải
thỉnh
- Sau là khai
thị.
Phần đầu này có
hai phần :
+ Đầu là tán dương
(pháp) hi hữu (hiếm có).
+ Sau là thỉnh
thuyết nghi quỹ. Làm sao để đời sau thuyết kinh này mà không bị trở ngại ?
*
-Kinh văn : “Phật
bảo” tới “an trụ tứ pháp”.
Tán rằng : dưới là
khai thị. Có hai phần :
• Phần đầu : mách
bảo về cái nhân đã hỏi : An Lạc tứ hạnh.
• Phần sau : 21
tụng rưỡi ở cuối phẩm, nhân tiện bảo chung về quả : tướng của An Lạc. Đó là
đoạn từ “Người đọc tụng kinh này, thường không có ưu não” trở xuống.
Phần đầu Phật
bảo có ba mục :
1) Tiêu đáp 2) Hiển đáp 3) Kết đáp.
Sau đó nói rõ về
quả An Lạc, tụng tiếp theo phần trước gồm 1 tụng rưỡi. Đó là đoạn từ “Sau khi
ta diệt độ” trở xuống. Đó tức là văn phần đầu.
Về tứ pháp : gồm
bốn đoạn văn ở dưới, đều có trường hàng và kệ, mỗi đoạn nói về một hạnh,
gồm:
1) Chính thân
hạnh.
2) Chính ngữ
hạnh.
3) Ý lìa chư ác tự
lợi hạnh.
4) Tâm tu chư
thiện lợi tha hạnh.
Nhờ bốn hạnh này
mà thu nhiếp hết mọi hạnh. Nhờ chất trực cho nên mọi ác đều lìa, hạnh tự lợi
được viên mãn. Do từ bi, cho nên mọi thiện đều sinh, hạnh lợi tha được viên
mãn. Kinh xét theo sự thắng trội mà nói thứ ba là chất trực, thứ tư là bi; thực
ra đều thông cả.
Căn cứ vào kinh
văn ở dưới thì trong đoạn đầu nói về thân hạnh cũng đã thuyết minh về tâm hạnh
rồi. Lúc giáo hạnh, tâm ấy an trụ ở môn Không và Hữu. Do trụ ở hai môn ấy, lấy
đó làm căn bản để dẫn tới những hạnh khác phát sinh, chứ chẳng phải hạnh đầu
cũng thông với tâm. Hạnh đầu chỉ thuyết minh về thân hạnh lìa ác, thân hạnh tu thiện.
Cho nên trong bốn hạnh đều nên nói về hai loại Hữu và Không hữu. Chỉ trong hạnh
đầu nói về Không hữu hạnh. Theo lệ thì ba hạnh kia cũng đều phải có đủ, cho nên
trụ ở hai loại Không và Hữu, đó là tu tứ hạnh, vận dụng cả thân tâm.
Về bốn tên gọi của
“pháp” : pháp là quỹ trì, pháp là sở y tam nghiệp năng y. Hai thứ này đều là
hạnh của sở hành. “An” có nghĩa là an xử, “trụ” tức là y chỉ. Hành giả năng
hành an xử tam nghiệp, y “tứ hạnh” gọi là “an trụ tứ pháp”.
Hoặc pháp có nghĩa
là nhân [因]. Đòi hỏi các Bồ tát trước hết
phải quan sát Nhân [人] pháp tam sự thể không, rồi mới có thể
thân lìa biểu hiện tà ác, ngữ hợp phép tắc chính thiện, diệt tư tưởng siểm nịnh
dối lừa, khởi tâm từ bi v.v… , dẹp được các ung nhọt của mình, lìa được lời chê
bai phỉ báng của kẻ khác. Đại giáo hoằng tuyên không ngưng, sinh nhiều lợi ích
không sút. Đó là đại ý trong này vậy.
Thêm nữa, phẩm
Pháp Sư ở trước nói “nhập Như Lai thất”, tức là hạnh thứ tư - tâm đại Từ bi - ở
đây, mặc áo hòa nhẫn của Như Lai, ngồi tòa pháp Không của Như Lai. Đó tức là đệ
nhất thông hạnh, diệt vọng tưởng ở cửa Không, khởi chân tâm ở kho Hữu. Cho nên
có thể thân ngữ điều hòa mà thành lợi ích, tâm ý điều thuận mà đạo được viên
thành. Đó là đường lối ở đây vậy.
*
-Kinh văn : “Một
là” tới “diễn thuyết kinh này”.
Tán rằng : đây là
giải thích thân hành. Trong đó có ba phần :
1. Nêu ra hành xứ,
thân cận xứ.
2. Biệt thích
(giải thích riêng biệt).
3. Kết luận. Đó là
năm câu tụng ở phần cuối.
Có kinh bản là văn
trường hàng. Nay lấy tụng làm chính. Đây là phần nêu .
“Xứ” : có nghĩa là
xứ sở, tức là pháp trước đây, là hành xứ, khả thân cận xứ mà các hành ba nghiệp
y vào.
“Hành” : có nghĩa
là Du Tức (vốn nghĩa là chơi, nghỉ; đây chỉ việc buông bỏ của người tu hành)
hoặc chỉ đạo lý.
Như thế gian nói :
ngươi đi dạo chơi nghỉ ngơi ở chỗ nào ? Ý nói : đi đến trong đạo lý nào ? Là
muốn nói người thuyết kinh trong mọi lúc tâm thường chơi nghỉ trong xứ sở này, hoặc
an tâm định thần ở trong xứ sở đạo lý này. Cho nên gọi là “Hành xứ”.
“Thân” : có nghĩa
là thân thiết, giúp đỡ ; “cận” : có nghĩa là quen gần ; “xứ” : nghĩa giống như
trước.
Chốn mà thân tâm
hành giả phải nên thân thiết gần gũi thì gọi là “Thân cận xứ”.
“Hành” : nghĩa là
chỉ hành vi bên trong, là hành để bồi dưỡng thân tâm.
“Thân cận” : nghĩa
là ngoại cảnh, ngoại duyên quen thuộc. Đó là khác biệt về thô tướng của hai
loại này.
Thân, hành có
thân, có sơ, có tổng, có biệt. Cho nên chỉ đặt tên cho nó là “thân cận xứ”, còn
ba hạnh kia thì chẳng thế, mà chỉ được gọi chung là An Lạc Hạnh.
*
-Kinh văn : “Văn
Thù Sư Lợi” tới “Hành xứ của Bồ tát Ma ha
tát”.
Tán rằng : đây là
Biệt thích, trong đó chia làm hai phần :
- Đầu tiên thuyết
minh về “Hành xứ”.
- Sau đó thuyết
minh về “Thân cận xứ”.
Hành xứ tức là
nhân chung của tứ hạnh. Lúc khởi tứ hạnh phải y vào môn này mới khởi
được.
Hành xứ có ba
:
1) Hỏi. 2)
Giải thích. 3) Kết.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Nếu
Bồ tát” tới “tâm cũng chẳng kinh”.
Tán rằng : dưới là
giải thích. Có ba phần :
- Đầu tiên tu Hữu
hạnh.
- Sau đó tu Không
hạnh.
- Cuối cùng gạt bỏ
cả hai hạnh.
Đây là phần
đầu.
Nếu chỉ tu Hữu
hạnh, thì vì phi Không cho nên vướng mắc ở sinh tử mà không chứng được gì. Nếu
chỉ tu Không hạnh, thì vì phi Hữu cho nên vướng mắc ở Niết bàn mà không có lợi
gì.
Thật là hiển
nhiên, nếu chẳng trụ ở quán Hữu cũng chẳng trụ ở quán Không, thì đó là điều
không giống với phàm phu và nhị thừa, mà giống với thực hành đạo bất trụ như trong
Kinh Vô Cấu Xưng nói.
Thêm nữa, nếu chỉ
tu Hữu hạnh, thì vì phi Không, cho nên vọng tưởng sẽ vì thế mà càng tăng
trưởng. Nếu chỉ tập Không hạnh mà phi Hữu thì chân tâm không có nhân và chẳng
sinh. Cho nên diệt vọng tưởng ở cửa Không, khởi chân tâm trong kho Hữu. Hữu
Không song quán mới thành trung đạo. Đó tức là Hành xứ ở đây.
Hữu hạnh có bốn :
1) “Trụ nhẫn nhục
địa” : ví như khi thuyết pháp, dung được oán hại, chịu được khổ sở bức bách,
khế hợp được Đế pháp.
2) “Nhu hòa thiện
thuận” : thân tùy diệu hạnh, ngữ khởi lời hay, tâm không nghĩ ác, ngoài lìa thô
khoáng, đó gọi là “nhu hòa” ; trong thì khế hợp với tông chỉ huyền diệu, đó gọi
là “thiện thuận”.
3) “Mà chẳng thốt
bạo”. “Thốt” : là thốt nhiên. “Bạo” : là ngang ngược. “Mà chẳng thốt bạo” là
trọn chẳng thốt nhiên ngang ngược phi lý.
Các hành động
thuộc về ba nghiệp vì chưa viên mãn hoàn thiện, cho nên mỗi khi nổi lên đều cần
phải quan sát cẩn thận, điềm tĩnh suy nghĩ, dùng trí dẫn đường rồi sau mới phát
ra, thấy được thì tiến, biết khó thì lùi, đó gọi là “chẳng thốt” (chẳng thảng
thốt, bộp chộp). Giả sử có khởi lên tư tưởng gì cũng chẳng phi lý, đó gọi là “chẳng
bạo”.
* Chữ [卒] đọc là Thốt, như thảng thốt. Còn viết là [猝]. Chữ này sách Ngọc Thiên nói là có hai âm : Tốt và Tuất, đều
chẳng dùng ở đây. Sách Ngọc Thiên : “Thảng thốt” viết là [倉卒]. Cũng dùng chữ [猝]. Chữ [暴] đọc là Bạo, thời cổ viết là [ ].
4) “Tâm cũng chẳng
kinh” : khi nghei nghĩa lớn chưa từng được nghe, khi bị người khác cật vấn trái
với tông chỉ, chống đối lại mình, đối với các thứ cúng dàng, thân cận, đánh chửi,
xa lánh, danh lợi, uy thế, lăng nhục, xua đuổi, bôi xấu, ca ngợi, khen chê,
sướng khổ, đối với tất cả các thứ đó tâm đều yên định chẳng động, tâm cũng
chẳng kinh, cho nên có tụng rằng :
Chư Phật thường
chơi ở thế gian,
Lợi lạc cho mọi
loại hữu tình.
Tám pháp gió nóng
tà phân biệt,
Chẳng thể lay động
gây trở ngại.
Câu tổng quát “trụ
nhẫn nhục địa” : ngôn ngữ thường “nhu hòa, khéo thuận”, thân an “mà chẳng thảng
thốt bộp chộp”, nội tâm cũng thường “chẳng kinh sợ”. Ba nghiệp thuận theo lý
này mà hành ở Hữu. Thế thì hoằng dương kinh gì mà chẳng được !
“Nhẫn nhục” gọi là
“địa”, vì địa (đất) là cái mà các thứ dựa vào đó để sinh trưởng, vì nhẫn là
điều kiện để điều thiện y vào đó mà sinh trưởng, cho nên được ví với địa. Thêm
nữa, nói rằng đặt tên theo dụ, khi tu hành nhẫn nhục thì nhẫn được như đất, dù
thuận hay nghịch đều chẳng động, cho nên đào ngòi sâu mà (đất) chẳng giận, xây
nhà cao mà (đất) chẳng yêu, gặp muôn vật đều chở cả, tha hồ dùng đức lại càng
lớn, bị đào bới vẫn tuôn suối ngọt, trồng cấy gì cũng không mong được biếu. Cho
nên tu hành tam nhẫn thì được nêu danh là địa. Hãy nghiền ngẫm thật kỹ, (như
vậy) đáng được gọi là Bồ tát Ma ha tát rồi đấy !
Hoặc “địa” có
nghĩa là “vị”, vì ở mọi ngôi vị đều luôn tu hạnh nhẫn.
*
-Kinh văn : “Thêm
nữa, đối với pháp” tới “như thực tướng”.
Tán rằng : đây là
tu Không hạnh.
“Hành” : nghĩa là
phân biệt chấp trước.
“Ư pháp vô sở
hành” : đối với mọi pháp chỉ thấy chúng sinh và pháp đều là Không mà chẳng phân
biệt chấp trước là có.
“Nhi quán chư pháp
như thực tướng” (mà quán tướng như thực của các pháp) : nghĩa là đã quán ngã
pháp cả hai đều Không, tức là đã quán nhị Không môn, lại quán Như Lai tạng tính
của các pháp, chân lý của pháp thể tướng như thực. Thể của ngã và pháp đều
không có, nên gọi là Không. Còn Như Lai tạng thì gọi là Không tính. Chẳng quán
nhị Không môn, chẳng thấy Không chân tính. Hai loại này cùng có tên là Không
quán.
*
-Kinh văn : “Cũng
chẳng hành chẳng phân biệt”.
Tán rằng : trên
đây là sở quán Không Hữu, sợ rằng sẽ bị vướng mắc ở trong Không Hữu, cho nên
nay gạt bỏ cả hai.
Có nghĩa là tuy
quán Không, nhưng cũng chẳng vướng mắc chấp trước nơi không, tuy quán Hữu nhưng
cũng chẳng phân biệt, vướng mắc chấp trước nơi Hữu. Cần phải không trụ vào đâu
cả mà quán biết rõ pháp. Nếu có sở trụ thì chỉ là phi trụ. Cho nên dưới tụng
rằng : “Dẫu y vào nhân, pháp ; cả hai đều là Không mà lý giải hai loại này”.
Luôn luôn là “đối
với pháp mà vô sở hành”, thu nhiếp về lý cũng không trái.
Lại nữa, “đối với
pháp mà vô sở hành” để quán các pháp là Không. Cho nên tụng nói : “chẳng tu
hành các pháp thượng, trung, hạ, hữu vi và vô vi”.
“Cũng chẳng hành,
chẳng phân biệt”, theo như thứ tự chẳng phân biệt chấp trước ngã và ngã sở mà
quán chúng sinh là Không. Tụng nói : “Cũng chẳng phân biệt là nam, là nữ ” v.v…
Do quán hai thứ ngã, pháp này đều là Không, nên chứng được tính như thực của
nhị Không.
Thêm nữa, “đối với
pháp mà vô sở hành” có nghĩa là chẳng phân biệt chấp trước đối với pháp sở
thuyết mà chỉ có quán thực tướng chân như.
“Cũng chẳng hành”
: có nghĩa là chẳng phân biệt chấp trước cái ngã năng thuyết, “cũng chẳng phân
biệt” người truyền thụ với người được giáo hóa. Tức quán ba sự : quán thể tính
của hai loại pháp nhân là Không, mà quán chân như thực tướng là Hữu.
Lại nữa mọi pháp
đều có hai mặt :
1) Vọng. 2)
Chân.
Đối với mặt vọng
pháp thì nên “vô sở hành” để bỏ các vọng. Đối với chân tính của pháp thì cần
thường xuyên quán sát để được chứng đạt. Tuy hành cái hạnh này, cũng chẳng hành
cái Chân trí hạnh, đối với việc quán thực tướng là Hữu. Cũng chẳng hành cái Tục
trí hạnh, đối với quán phân biệt thể tính các pháp là Không.
Cho nên Kinh Bát
Nhã nói : “Nên vô sở hành mà hành, đó mới gọi là Hành. Vì chẳng hành cho nên vô
sở bất hành. Vì chẳng phân biệt cho nên không có thứ gì chẳng phân biệt. Chẳng hành,
chẳng phân biệt, cho nên vọng huyễn đều trừ. Vì không gì không hành không phân
biệt, cho nên đều đạt tới chân tế ”.
Do sự song
tu này chiếu soi phân biệt hết thảy, đối với sự thì biết tính Y tha, trụ Nhẫn
nhục địa ; đối với lý thì biết tính Viên thành thực, quán như thực tướng, các kiến
chấp về nhân về pháp đều chiếu là Không.
*
-Kinh văn : “Đó
gọi là Bồ tát” tới “hành xứ”.
Tán rằng : đây là
kết luận.
*
-Kinh văn : “Thế
nào gọi là Bồ tát” tới “thân cận xứ”.
Tán rằng : dưới là
thuyết minh về thân cận xứ. Có hai phần :
1) Hỏi . 2) Giải thích.
Đây là hỏi.
*
-Kinh văn : “Bồ
tát” tới “trò biến hiện”.
Tán rằng : dưới là
giải thích, có hai phần :
- Phần đầu là lìa
ngoại ác duyên bất khả thân cận xứ, ngược lại tỏ rõ chẳng lìa ngoại thiện duyên
khả thân cận xứ. Đó tức là Nhân cảnh.
- Phần sau là
ngoại quán chân pháp khả thân cận xứ, ngược lại tỏ rõ ngoại quán vọng pháp bất
khả thân cận xứ. Đó tức là Pháp cảnh.
Hai phần này ảnh
hưởng lẫn nhau, thuyết minh cho nhau. Tức chia làm hai. Nhưng quán chân pháp,
nên chung cho các hạnh khác, vì dẫn chung cho cả bốn hạnh. Nêu sơ hạnh, chứng
tỏ chẳng phải chỉ có sơ hạnh. Văn phần đầu có hai phần :
a. Đầu tiên là
giải thích.
b. Sau đó là kết
luận.
Lìa các ác duyên,
thoạt đầu tu Giới hạnh, thường thích ngồi thiền, sau đó tu Định hạnh, cuối cùng
là thân cận xứ quán không cảnh v.v … mới tu Tuệ hạnh. Văn phần đầu có ba
:
a) 4 câu đầu là
một đoạn.
b) 1 câu sau là
một đoạn.
c) 5 câu cuối là
một đoạn.
Trong đoạn đầu lại
chia làm hai :
+ Đầu tiên thuyết
minh về lìa bốn (ác duyên).
+ Sau đó thuyết
minh về chẳng lìa (thiện duyên).
Trong này có
ba thứ phải lìa :
1) Tổn hại duyên.
2) Ác kiến duyên.
3) Hoại loạn
duyên.
Bồ tát tuy là phổ
hóa quần sinh. Nhưng người mới tu hành phải nên có sự lựa chọn. Nếu chẳng phải
là người tu học lâu thì cũng như vậy. Thêm nữa, ở đây cho phép thuyết pháp dẫn
đạo làm lợi lạc (cho chúng sinh) nhưng chỉ được phép “hòa quang”, chẳng được
tùy thuận “đồng trần” chơi thân với cái xấu. Bởi vậy phải lìa các ác duyên
trên.
Ngăn đầu chẳng
ngăn cuối, ngăn đồng chẳng ngăn dị, ngăn thuận chẳng ngăn nghịch. Cho phép giáo
hóa chẳng cho phép thân với. Cho nên chẳng trái ngược với nhau.
Nếu gần vua v.v…
chỉ tự tăng thêm tổn hại, như trong luật đã nói : “Nếu vào cung vua thì có mười
lỗi”. Được ngồi cùng xe với vua Ngô thì vinh hiển một đời. Nhưng vua Tần nhường
vợ thì ngàn năm bị nhục. Ngoại đạo tà nhân thường rình các chỗ thiếu sót về
pháp, cho nên luật không cho phép tự tay đem cho thức ăn, huống hồ lại còn thân
cận.
“Ni Kiền Tử ” : là
Ly hệ ngoại đạo.
“Văn bút kinh thư
” : như loại thơ ca, đó là “văn”. Thuộc loại bia chí, đó là “bút”. “Thư”
: là sách vở, như Chu Lễ nói về lục nghệ. “Kinh” như các loại : Thi, Thư, Dịch,
Lễ, Nhạc, Xuân thu. Loại thứ năm là Lục thư, chỉ tượng hình v.v… (lục thư : nói
về cấu tạo, sử dụng chữ Hán). “Thư ” là “trước”, trước tác trên thẻ tre, lụa
vải v.v… giải thích như trong âm. Nay nêu loại đó, Tây phương chẳng giống với ở
đây.
“Lộ già da đà”,
trước dịch là “Ác đáp đối nhân” (đối đáp không tốt với người khác). Phiên âm
đúng là Lộ Già Dã Để Ca, có nghĩa là Thuận thế ngoại đạo.
“Nghịch Lộ Già Dã
Để Ca”, dịch là Tả thuận thế ngoại đạo. Chấp trước trái với loại trên thì gọi
là Tả thuận thế.
“Một ở dưới” : ý
nói chung cho cả hai xứ trên.
“Na la” : nghĩa là
xăm mình.
“Trò biến hiện” :
các trò ảo thuật thế gian v.v…
* Chữ [兇] đọc là Hung, đồng nghĩa với ác. Sách Ngọc Thiên nói chữ này là
còn có âm là Cách, có nghĩa là sợ hãi. Nay theo cách đọc đầu. Có chỗ viết là [凶] có nghĩa là nguy hiểm, tội lỗi, ác hết mức.
Kinh A Hàm nói :
“Bậc trí giả thường lo như tù trong ngục, kẻ ngu si thường mừng vui tựa như
Quang Âm thiên. Người hay nô đùa như voi không móc, như lạc đà, trâu bò sứt mũi
khó thể ngăn cấm chế ngự”.
Thêm nữa, còn có
kệ rằng :
“Ngươi đã cạo đầu mặc áo nhuộm,
Tay cầm bát sành
đi khất thực.
Cớ sao ham thích
thói cười đùa,
Đã không pháp lợi,
mất công đức.
Do vậy chẳng nên
đánh đấm nhau”…
* Chữ
[ ] đọc là Xoa, có nghĩa là đấm người khác. Còn có chỗ viết
thành chữ Quắc [ ]. Chữ [ ] đọc là
Phốc, lẽ ra phải viết là [ ].
*
-Kinh văn : “Lại
chẳng thân cận” tới “các ác luật nghi”.
Tán rằng : đây là
ác nghiệp duyên thứ tư.
“Chiên Đà La” : có
nghĩa là đồ tể, đó là bất luật nghi vậy. Phiên âm đúng là Chiên Đồ La, ở phương
đây thì gọi là Nghiêm Xí, chỉ các hạng làm các nghiệp ác, tự mình ra oai bằng
các biểu hiện đặc biệt, như lắc chuông cầm vọt v.v… Trong kinh này nêu ra 6
loại. Tạp Tâm nêu ra 12 loại đó là : giết dê, nuôi gà, nuôi lợn, đánh cá, bắt
chim, thợ săn, làm giặc, đao phủ, cai ngục, cầu rồng (chúc long), giết chó, săn
trộm.
Kinh Niết Bàn nêu
ra 16 loại. Vì lợi mà mua bò, dê, lợn, gà. Vỗ cho béo rồi lại vì lợi mà bán. Vì
lợi mà mua, mua rồi giết đi. Đó là 8 loại đầu. Loại thứ 9 là câu cá, thứ 10 là
thợ săn, thứ 11 là cướp đoạt, thứ 12 là đao phủ, thứ 13 là bắt chim, thứ 14 là
nói hai lưỡi, thứ 15 là lính coi ngục, thứ 16 là chú long.
Đối Pháp, quyển
thứ tám có 14 loại, đó là : giết dê, nuôi lợn, bắt chim, bắt cá, săn hươu, đặt
lưới, bẩy thỏ, trộm cướp, đao phủ, hại bò, trói voi, lập đàn, chú long, cai ngục,
vu oan giá họa, thích gây tổn hại v.v…
Ý văn trong đây
nói rằng : ý nghĩa (của từ Chiên Đồ La) rất rộng lớn nặng nề, vì gây ra tổn hại
thật sự sâu nặng, kiếm lời nuôi mạng, suốt đời không dứt. Các hạng đó đều gọi
là bất luật nghi. Cho nên gọi là “thích gây tổn hại” v.v… mà kinh này gọi là
“các ác luật nghi”.
* Chữ [畋] đọc là Điền, chỉ sự săn bắt chim muông. Còn đọc là Điện và có
nghĩa là “đất bằng phẳng”. Ở đây dùng âm nghĩa đầu. Có chỗ viết là[田] , có nghĩa là vì ruộng nương mà trừ hại. Chữ
[ ]đọc là Ngư, chỉ việc đánh bắt cá. Đúng ra phải viết
là [ ]. Sách Ngọc Thiên có chữ [ ],
chỉ việc đánh cá. Còn viết là [漁]. Có chỗ viết là [魚] đó là viết sai.
*
-Kinh văn : “Những
người như vậy” tới “không hy vọng gì”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về chẳng lìa.
Cho phép hòa quang
(cùng chan hòa trong ánh sáng) để giáo dục họ. Chẳng cho phép đồng trần (cùng
nhau ở chỗ nhơ bẩn bụi bặm) với họ, cho nên chẳng thân mật với họ.
*
-Kinh văn : “Lại
chẳng thân cận” tới “không mong cầu gì”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ hai : đầu tiên là lìa, sau là chẳng lìa.
Loại (ác nghiệp
duyên) thứ năm là Liệt hữu duyên (liệt hữu : bạn kém cỏi).
Kinh Niết Bàn nói
: “Bồ tát sợ hãi hạng nhị thừa như người tiếc mạng”. Kinh Tịch Điều Âm Thiên Tử
Vấn nói rằng : “Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng : ví như có người đói khát
gầy còm, thà nhịn đói nhịn khát chứ không bao giờ ăn những thức ăn tạp nham độc
hại. Bồ tát cũng thế, thà phạm các tội bủn xỉn, ghen ghét, phá giới, ác khẩu, lười
nhác sa đọa, chí niệm vô trí, chứ không bao giờ mong cầu quả địa nhị thừa. Phật
bảo thiên tử : như người tham ăn phải chất độc của vị luân vương đó. Cho nên
hạng nhị thừa trì giới, tinh tiến, đó tức là Bồ tát phá giới, lười nhác sa
đọa”. Cho nên chẳng nên thân cận (hạng đó). Nếu có đến thuyết pháp cho họ, cũng
chẳng mong sự thân mật, lợi dưỡng, cung kính của họ.
*
-Kinh văn : “Văn
Thù Sư Lợi” tới “cho là thân mật hậu
hĩ”.
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ ba :
a) Đầu tiên là lìa
(các ác duyên) thứ sáu là Trường nhiễm duyên, thứ bảy là Phi khí duyên, thứ tám
là Cơ ha duyên, thứ chín là Phi quỹ duyên, thứ mười là Tán loạn duyên.
b) Sau đó là
thuyết minh về Tự hành (sự tu hành của bản thân).
Trong năm thứ phải
lìa nói trên, văn ở đây có hai thứ : thứ sáu là Trường nhiễm duyên và thứ bảy
là Phi khí duyên.
Thập Tụng luật nói
rằng : “ví như món ăn của người quen ăn chín, hết thảy nữ nhân cũng giống như
thế họ khiến người ta yêu đương đắm đuối chẳng thể lìa bỏ”.
Trí Độ luận nói :
“Gió mát vô hình còn bắt được. Rắn có nọc độc còn chạm được. Tâm của nữ nhân
khó biết được. Cầm gươm chống địch còn thắng được. Giặc nữ hại người khó cấm
được !”.
Tứ Phần luật nói :
hay đến nhà người tại gia luôn thì có năm lỗi :
1) Luôn thấy nữ
nhân.
2) Thấy luôn thì
thân nhau.
3) Quá thân thì
thành sàm sỡ.
4) Rồi sinh ra tư
tưởng dâm dục.
5) Có khi bị chết,
không chết thì cũng bị khổ não, cho nên cần phải lìa xa.
Năm loại bất nam
đó là hạng : sinh tiện, trừ khử, tật đố, bán nguyệt, quán sái.
Do có hai lỗi, cho
nên phiền não do phân biệt giới tính nam nữ, là tâm hành luôn luôn có mặt đồng
thời với niệm phân biệt giới tính.
Người tốt khó
được, cho nên nếu chẳng phải là loại pháp khí thì chẳng nên gần gũi thân cận.
*
-Kinh văn : “Chẳng
riêng một mình vào nhà người khác” tới “chẳng
thích cùng chung thầy”.
Tán rằng : trong
này có ba thứ (phải lìa xa) : đó là (các ác duyên) thứ tám : Cơ ha duyên (ác
duyên chê bai mắng mỏ), thứ chín là Phi quỹ duyên, thứ mười là Tán loạn
duyên.
Du Già luận nói :
“nên lìa mười bốn cấu nghiệp, tàng ẩn sáu phương, xa bốn loại ác hữu, nhiếp thu
bốn loại thiện hữu”.
Về a “lìa mười bốn cấu
nghiệp”, Kinh Trường A Hàm nói : “thân ngữ ác nghiệp có bốn : sát, đạo, tà dâm,
vọng ngữ. Cũng dựa vào bốn thứ này mà làm các sự ác. Ác nhân có bốn, đó là
tham, sân, nghi, mạn. Cũng y vào bốn thứ đó mà khởi ác nghiệp.
Lìa sáu pháp tổn
tài :
1) Ham rượu.
2) Cờ bạc.
3) Phóng đãng.
4) Đam mê kỹ nhạc.
5) Ác hữu làm tổn
hại nhau.
6) Dần dà theo
thuyết của họ.
Trong sáu thứ này,
mỗi thứ đều có sáu loại. Như vậy gộp lại là 14 cấu nghiệp.
Về a “tàng ẩn sáu phương”,
Kinh Trường A Hàm nói rằng : trong thành La Duyệt có người con của trưởng giả,
tên là Thiện Sinh. Đã nhiều đời nối tiếp nhau, sáng sớm nào cũng vậy, Thiện
Sinh đều lễ sáu phương để thần sáu phương phù hộ cho nghiệp nhà, khiến mọi việc
như ý. Bỗng nhiên gặp Phật, Sinh bèn hỏi : có phép đó không ? Phật đáp rằng có,
nhưng chẳng giống với ngươi, (vì phép Phật thì) cha mẹ là Đông phương, sư
trưởng là Nam phương, vợ con là Tây phương, tôi tớ là Hạ phương, Sa môn cao đức
là Thượng phương. Trong sáu phương ấy, mỗi phương đều có năm sự, nên nói là
thường ẩn tàng trong sáu phương đó. Chẳng sinh kiêu mạn, khinh suất, tùy theo
sở ứng, nếu biết trụ ở sáu phương đó. Cho nên gọi là ẩn tàng.
Về a “xa bốn loại ác hữu”,
Kinh Trường A Hàm nói :
- Một là : loại
Như thân ác hữu, sợ mà phục mình, chứ thực ra không có ý thân.
- Hai là : loại Mỹ
ngôn ác hữu, lời thuận ý chống.
- Ba là : loại
Kính thuận ác hữu, tâm tuy kính thuận, song các việc làm dù thiện hay ác đều
hùa theo chứ không có tâm can gián lẫn nhau.
- Bốn là : loại
Đồng sự ác hữu, làm bạn trong các sự ác, hoặc cùng nhau uống rượu, cờ bạc, dâm
dật, ca múa v.v…
Trong bốn loại
này, mỗi loại có bốn hạng. Nói bốn loại trên là đáng ghét cần phải lánh
xa.
Về a “nhiếp thu bốn loại
thiện hữu” : Kinh Trường A Hàm nói :
1) Chỉ phi thiện
hữu (bạn tốt ngăn mình làm việc sai), can ngăn nhau làm việc ác.
2) Từ mẫn thiện
hữu, thương xót nhau khi gặp sự đau khổ.
3) Lợi nhân thiện
hữu, cho nhau sự vui.
4) Đồng sự thiện
hữu, cùng nhau làm sự thiện.
Trong mỗi loại ấy
lại đều có bốn. Đều rộng như thế, không thể dẫn nhiều.
*
-Kinh văn :
“Thường thích ngồi thiền” tới “sơ thân cận xứ”.
Tán rằng : đây là
tu Định hạnh cùng kết luận.
Thường lìa xa nơi
ồn ào huyên náo, ở rảnh một mình. Răn người sơ học nên tự mình tịnh trụ. Răn
người học lâu thân dẫu ở chỗ huyên náo, nhưng tâm phải luôn luôn tĩnh. Về lý,
thực ra tứ hạnh, chư ác đều phải lìa, chư thiện đều phải tu. Hơn nữa khi bàn
giảng kinh sẽ khơi gợi lên nhiều điều. Cho nên thượng hạ văn chỉ thuyết về ác
hạnh để khuyên tu tập. Chứ chẳng phải chỉ cho phép như thế, bởi vì tỳ kheo
thuyết kinh đối với giới hạnh khác đều trì giữ đủ cả rồi.
Trên thuyết minh
về Nhân cảnh, dưới thuyết minh về Pháp cảnh.
*
-Kinh văn : “Lại nữa” tới “chẳng chuyển”.
Tán rằng : đây là
thân cận xứ thứ hai : học Tuệ hạnh. Trong có hai phần :
- Phần đầu là dạy
quán.
- Phần sau là kết
luận.
Trong phần dạy
quán, đầu tiên là Không quán, sau đó là Hữu quán. Đó là chân tục nhị đế quán.
Không quán có 18
câu, gồm 3 phần giải thích.
- Phần giải thích
thứ nhất : trong này chỉ quán Biến kế sở chấp Không, hiển lộ pháp nhất thể chân
như vô tướng. Hữu quán ở dưới mới dạy quán tục sự.
Trong 18 câu chia
làm 8 loại. Đây có 2 loại.
- Loại 1 : Ba câu đầu y vào ba tính để hiển chân.
Do chân thể diệu tự tính khó biết, cho nên y vào sự giải thích mà hiển
lộ.
- Câu đầu : y vào
Biến kế sở chấp Vô để hiển Nhân Pháp đều không.
- Câu thứ hai : y
vào Viên thành thực tính.
- Câu thứ ba : y
vào Y tha khởi tính nhiễm pháp điên đảo (để hiển chân), vì chân như tịnh pháp
chẳng điên đảo.
- Loại 2 : Ba câu tiếp theo y vào thường
trụ để hiển chân. Hữu vi có ba phẩm. Trung phẩm có thể thiên động, có thể theo
hạ phẩm mà thoái bại, có thể theo thượng phẩm mà tiến triển. Vô vi thì chẳng
thế.
*
-Kinh văn : “Như
hư không” tới “chẳng khởi”.
Tán rằng : đây là
phần giải thích thứ hai, có ba loại :
Loại - 3 : một câu lìa nhị đắc
để hiển chân như, vì thái hư không không có tính năng đắc, sở đắc (gọi gộp là
nhị đắc).
Loại - 4 : một câu nêu nội
chứng để hiển chân như, vì danh tự ngôn ngữ chẳng đạt tới được, chỉ có trí
chứng mà thôi.
- Loại 5 : ba câu : phi hữu vi để hiển chân
như.
Kinh Niết Bàn nói
: “vì không có nhân duyên, nên gọi là vô sinh. Vì vô vi nên gọi là vô xuất. Vì
không tạo nghiệp, nên gọi là vô tác. Đó gọi là vô khởi, Thể chẳng phải là do
nhân duyên sinh, chẳng phải là Thể có từ trước, theo Tha mới xuất, cũng chẳng
phải là mới khởi tác theo nghiệp”.
*
-Kinh văn : “Vô
danh” tới “vô chướng”.
Tán rằng : đây là
phần chú thích thứ ba, có ba loại :
- Loại 6 : hai câu đầu là lìa thuyên chỉ (ý nghĩa
được giải thích bằng ngôn ngữ) để hiển chân, vì không có danh tướng.
- Loại 7 : một câu : lìa vọng pháp để hiển chân,
vì không có vọng tướng năng thủ, sở thủ.
- Loại 8 : bốn câu cuối nêu thể diệu để hiển
chân.
Kinh Đại Phẩm nói
: “vì siêu tam thế (vượt ba đời), cho nên là vô lượng. Vì vượt mười phương, cho
nên là vô biên. Lìa Hoặc chướng phẩm, gọi là vô ngại. Lìa Sở tri chướng phẩm,
gọi là vô chướng”.
Trong này tổng
hiển pháp tính chân như. Đó là như thực tướng, không chấp trước gì về nhân,
pháp. Cũng chẳng phải là thể y tha điên đảo, thể tính thường trụ chẳng phải là do
nhị đắc mà có được. Cho nên chỉ là nội trí chứng, chứ chẳng phải do nhân duyên
tạo ra.
Lìa danh, lìa
nghĩa, lìa năng thủ sở thủ, chẳng phải là bao gồm trong ba đời, mười phương,
không có hai chướng Hoặc Trí, nên dùng lý này mà quán chân tính. Tức như trước
đây đã nói: “Đối với pháp thì vô sở hành mà quán chư pháp như thực
tướng”.
Hoặc là :
- 3 câu đầu hiển
lộ Ngã như thực tính, cho nên đại tự tại.
- 3 câu kế nêu rõ
Thường, vì không tiến thoái.
- 7 câu sau nêu rõ
Lạc, vì vô sinh…
- 5 câu chót nêu
rõ về Tịnh, vì lìa vọng tam thế thập phương v.v…
Do đối nhị tính,
cho nên thành tứ đức.
Hoặc là :
- 6 câu đầu là
Không hành cảnh.
- 5 câu sau là Vô
tướng hành cảnh.
- 7 câu cuối là Vô
nguyện hành cảnh.
Vì cùng với quán
chân như mà khởi ba quán (đó).
*
-Kinh văn : “Chỉ
do nhân duyên mà có” tới “nên
nói”.
Tán rằng : đây là
Hữu quán.
Trên kia quán nhất
thiết pháp chân Không để gây niềm hân hoan. Đây quán nhất thiết pháp vọng Hữu
để sinh chán ghét.
Chỉ cần đối với
mọi pháp cảnh trong khắp cả tam giới ngũ thú tứ sinh đều quán như vầy : do nhân
duyên mà có, từ nhị chướng đảo, hoặc tứ đảo thất đảo, hoặc tâm loạn đảo mà
sinh, cho nên nói là hữu, chứ chẳng phải là chân thực hữu (thật sự là có). Quán
như vậy để ngầm sinh ra (ý tưởng) chán ghét lìa bỏ.
Phật Tính luận nói
: “ba thứ điên đảo (gồm) Tưởng đảo, Kiến đảo và Tâm đảo, là Bì nhục tâm, là ba
thứ phiền não. Vì chẳng thuận cho nên gọi là đảo”.
Kinh Nhân Vương
nói : “thế giới hư huyễn khởi lên, ví như hoa hư không, như bóng, thực sự đều
không có nhân duyên, cho nên thành ra là có một cách giả dối”.
Nhiếp Luận cũng
nói : “Loạn tướng cùng loạn thể, nên cho đó là sắc thức và phi sắc thức. Nếu
các thứ ấy đã không có, thì các thứ khác cũng không có”. Tâm gặp tục cảnh thì
nên quán như vậy.
Có lẽ trong cách
giải thích này tiềm ẩn điều nghi nan, cho rằng Hữu khó nói. Nếu tính Không này,
ngôn ngữ không diễn tả nổi, thì cớ sao lại nói là Không ?
Đáp rằng : Do đối
đãi với hữu pháp, là cái hư vọng được sinh ra từ điên đảo đó, mới nói là Không
tính. Chẳng phải thể của Không là Hữu, vì Không cũng Không nốt.
Trung Luận tụng
rằng :
“Nếu đã có cái sở
bất không,
Thì hẳn phải
có cái sở không.
Cái sở không
chẳng thể nắm bắt được,
Huống chi là
nắm bắt được cái Không !”
Do đây tức giải
đáp rằng : Không cũng vô thể. Đây là y vào Tam luận tông, chứ chẳng phải Trung
đạo tông.
Lại có cách giải
thích rằng : đây là đối đãi với pháp giả có do điên đảo sinh, mà nói là Không,
chứ chẳng phải Không là nhất định Không. Nói “nhân duyên” có nghĩa là thuận theo
nhân dựa vào duyên mượn.
Vô Cấu Xưng nói :
“Nói rằng : ‘pháp chẳng phải là có, cũng chẳng phải là không, hết thảy đều đợi
nhân duyên mà thành lập ’. Ý này nói : ‘thực ra chẳng phải là cái thể thực sự
không có, mà chỉ (là) chẳng phải là cái thể nhất định Không ’. Vì chỉ trừ cái
bệnh kia mà chẳng loại trừ pháp vậy”.
*
-Kinh văn :
“Thường thích quán như vậy” tới “thân cận xứ thứ
hai”.
Tán rằng : đây là
kết luận.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “cùng nhập thân cận xứ”.
Tán rằng : 27 tụng
rưỡi đầu, tụng về ý trên, trong chia làm hai phần :
• Phần đầu gồm 23
tụng, tụng về hai xứ trước.
• Phần sau gồm 4
tụng rưỡi, tụng về đắc quả An Lạc.
Trong phần đầu lại
chia làm hai :
- 1 tụng rưỡi đầu
: khuyến thị.
- 21 tụng rưỡi sau
: tụng về hai xứ trước.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn :
“Thường xa lìa quốc vương” tới “đều chớ có thân
cận”.
Tán rằng : dưới
tụng hai xứ, chia làm ba phần :
- 13 tụng rưỡi
đầu, tụng về ngoại Nhân cảnh hữu pháp nhị xứ.
- 2 tụng rưỡi sau,
tụng về sơ nội Hữu không pháp hành xứ.
- 5 tụng rưỡi
cuối, tụng về ngoại chân Pháp cảnh thân cận xứ.
Trong trường hàng,
đầu tiên thuyết về hành xứ, sau đó thuyết về thân cận xứ. Trong thân cận xứ,
đầu tiên là lìa ngoại vọng hữu, sau đó là quán ngoại chân không. Nay tụng thì đầu
tiên là lìa ngoại vọng thân cận xứ, sau đó mới thuyết minh về nội hành xứ, cuối
cùng tụng về ngoại chân pháp thân cận xứ.
Mới xem văn thế
thì phần đầu tụng cả hai thứ hành xứ và thân cận xứ, văn kết luận cũng kết luận
về cả hai. Tuy trong văn phần đầu không có lời văn về hành xứ. Nhưng vì tụng
nói rằng : Đối với ác duyên đó, trong tâm không hề sợ hãi, không hề hy vọng gì
mà cứ thuyết pháp cho. Thế thì theo nghĩa mà xét, do nhu hòa và thiện thuận v.v
… mới không sợ hãi, không hy vọng gì, đó gọi là hành xứ. Cho nên văn nêu cả
hai, nhưng thực ra chỉ có thân cận xứ.
13 q tụng rưỡi, tụng về
ngoại thân cận xứ, trong chia làm hai :
- 12 tụng rưỡi đầu
: thân cận xứ.
- 1 tụng cuối :
kết luận.
Phần đầu lại chia
làm hai phần :
+ 6 tụng rưỡi đầu,
tụng về lìa năm duyên.
+ 6 tụng sau, tụng
về lìa bốn duyên.
Chẳng tụng về tán
loạn duyên.
Phần đầu lại chia
làm hai :
4 T tụng rưỡi đầu, tụng về
lìa.
T 2 tụng sau, tụng về chẳng lìa.
Đây là phần đầu
:
R 1 tụng rưỡi đầu, tụng về lìa bốn duyên : một là
tổn hại, hai là hoại loạn, ba là ác nghiệp, bốn là ác kiến.
R 3 tụng sau, tụng về lìa một duyên : đó là liệt
hữu (bạn kém cỏi).
Trước tách sau gộp
cũng chẳng phải là tụng theo thứ tự.
*
-Kinh văn : “Những
hạng người như vậy” tới “mà thuyết pháp cho họ”.
Tán rằng : đây là
tụng về chẳng lìa vậy.
Do quán Không quán
Hữu, cho nên dừng được các vọng tưởng trong tâm, bởi vậy không sợ hãi … Đó gọi
là Hành xứ.
*
-Kinh văn : “Những
gái góa, gái trinh” tới “phải nhất tâm niệm
Phật”.
Tán rằng : 6 tụng
này, tụng về lìa bốn xứ : Trường nhiễm ; Phi khí ; Phi quỹ ; Cơ ha (chê
bai mắng mỏ). Văn chia làm 5 phần :
1/ Một tụng : hai
duyên Trường nhiễm, Phi khí.
2/ Hai tụng :
trùng tụng ác nghiệp.
* Chữ [魁] đọc là Khôi, có nghĩa là bậc thầy. Chữ [膾] đọc là Khoái, nghĩa là cắt, thái nhỏ. Chữ [衒] đọc là huyễn nghĩa là tự giới thiệu (khoe khoang phô trương về
mình), chào hàng.
3/ Một tụng :
trùng tụng về Hoại loạn, Trường nhiễm.
4/ Một tụng : về
Phi quỹ.
* Chữ [屏] đọc là Bình, có nghĩa là che chắn. Nếu có nghĩa là ẩn náu, trốn
tránh thì phải viết là [偋] và đọc là Bính. Còn có âm đọc là Bỉnh.
5/ Một tụng : về
Cơ ha.
“Lý” : 5 nhà là
lân, 5 lân là lý. Lý là đơn vị dân cư có 25 nhà (lý : nghĩa là thôn, bản, chòm,
xóm của tiếng Việt).
s Pháp khất thực có 13 loại :
1) Trụ chính giới.
8) Y theo thứ tự.
2) Trụ chính uy
nghi. 9) Lìa tham.
3) Trụï chính
niệm. 10) Lìa thủ trước.
4) Trụ chính kiến.
11) Lìa sân não.
5) Y theo pháp.
12) Lìa thô thoáng.
6) Y theo thời.
13) Lìa tâm kiêu mạn.
7) Y theo xứ.
Trong này, 4 loại
đầu là trụ chính khất thực, 4 loại sau là trụ quỹ tắc, 5 loại cuối là xả phiền
não. Nói rộng như trong kinh.
Khất thực có hai
sự :
a) Hành chính đạo
để tự lợi.
b) Thí xả đủ để
lợi sinh.
Người nhận người
cho đều thành tựu Lục độ, bởi vậy mà hành khất.
Kinh An Lạc nói
khất thực có hai mươi sự. Kinh Bảo Vân nói các thứ xin được (trong khi khất
thực) đều chia làm bốn phần :
1/- Một phần để
giành cho người cùng phạm hạnh.
2/- Một phần để cho
trẻ con ăn mày nghèo khó kém cỏi.
3/- Một phần để
cho chúng sinh trên cạn, dưới nước.
4/- Một phần tự
ăn.
Song trước khi ăn,
còn để cúng dàng chư Phật cùng các hiền thánh. Sau đó ăn phần tự ăn, khi ăn
phải nên suy nghĩ, có cảm tưởng như quỷ Khoáng dã ăn thịt con v.v… , nguyện được
pháp thân, lìa các lỗi lầm, nhớ báo ơn thí chủ, nên có tư tưởng như vậy khi
ăn.
Lại như trong Kinh
Vô Cấu Xưng nói về việc khi ngài Đại Ca Diếp đến hỏi thăm về bệnh tật. Vô Cấu
đã bảo ban cho.
*
-Kinh văn : “Thế
thì gọi tên là” tới “có thể an lạc
thuyết”.
Tán rằng : đây là
kết luận.
Không sợ hãi gì…
gọi là Hành xứ. Lìa ác ngoại duyên, đó gọi là Cận xứ.
*
-Kinh văn : “Mà
lại cũng chẳng hành” tới “hành xứ của Bồ
tát”.
Tán rằng : đây là
tụng về Hữu không pháp hành xứ :
- 1 tụng đầu : về
Pháp không.
- 1 tụng rưỡi sau
: về Sinh không.
Trước kia thuyết
về hai xứ, đó tức là Hữu quán, còn tụng thì chẳng tụng về trụ nhẫn nhục v.v…
*
-Kinh văn : “Tất
cả các món pháp” tới “đó gọi là Cận
xứ”.
Tán rằng : 5 tụng
rưỡi này, tụng về Ngoại chân pháp thân cận xứ, chia làm ba phần :
- 1 tụng rưỡi đầu
: tụng về Sinh Pháp nhị không, lìa hữu vi vô vi trong 18 câu.
- 2 tụng sau : tâm
định như núi.
- 2 tụng cuối :
loạn tụng về các câu khác.
Nên biết như nghĩa,
tùy theo chỗ mà ứng dụng.
*
-Kinh văn : “Nếu
có vị tỳ kheo” tới “cũng không hề khiếp
nhược”.
Tán rằng : đây là
4 tụng rưỡi, thuyết minh về An Lạc quả, chia làm hai :
- 1 tụng rưỡi đầu
: nêu lên.
- 3 tụng sau :
giải thích.
Lìa được lỗi lầm sai
trái, cho nên không khiếp.
“Khiếp” có nghĩa
là sợ; “nhược” là yếu kém. “Khiếp nhược” là hay sợ hãi.
*
-Kinh văn : “Này
Văn Thù Sư Lợi” tới “tuyên thuyết Kinh Pháp
Hoa”.
Tán rằng : đây là
kết luận.
*
-Kinh văn : “Này
Văn Thù Sư Lợi” tới “An Lạc Hạnh”.
Tán rằng : đây là
mục thứ hai : Chính ngữ hành, có ba phần :
• Phần đầu : tiêu
khuyến (nêu ra để khuyến khích).
• Phần sau : biệt
thị (bảo riêng).
• Phần cuối : 5
tụng, nêu bật An Lạc quả.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Nếu
miệng tuyên thuyết” tới “tốt xấu hay
dở”.
Tán rằng : dưới là
biệt thị (bảo riêng). Trường hàng có hai phần :
• Phần đầu : nói
về lìa ác.
• Phần sau : nói
về tu thiện. Đó là đoạn từ “Vì khéo tu An Lạc tâm như vậy” trở xuống.
Phần đầu là lìa 7
ác. Đây tức là 4 ác đầu.
Trí Độ luận nói :
tướng của người thiện là chẳng tự khen chê mình, chẳng khen chê người hoặc chê
bai pháp.
Kinh Bách Dụ nói :
như hai người đệ tử đấm bóp chân cho thày, nếu họ chê bai nói xấu lẫn nhau thì
sẽ khiến thày bị tổn hại.
*
-Kinh văn : “Đối
với người Thanh văn” tới “tâm oán
hiềm”.
Tán rằng : đây là
lìa ba lỗi.
* Chữ [怨] đọc là “Oán”, không đọc thanh bình. Nếu như là “Oan” trong từ
“oan khuất” thì viết là [冤]. Nếu là “Oan” trong từ “oan uổng” thì
viết là [ ]. Còn nếu là cỏ bị gãy gập, tự che lấy mình thì là
[宛] (Uyển). Cho nên chữ [怨] trong kinh này là
không có (các âm nghĩa như thế).
Chữ [嫌] đọc là Hiềm, nghĩa là chẳng bằng lòng.
Chẳng phải chỉ là
lìa các điều ác về ngữ nghiệp như thế mà thôi, tùy theo yếu chỉ trong kinh nên
chỉ thuyết như thế. Dưới đều theo như vậy mà hiểu. Thuyết minh về điều thiện cũng
thế.
*
-Kinh văn : “Vì
khéo tu An Lạc tâm như vậy” tới “Nhất thiết
chủng trí”.
Tán rằng : đây là
tu thiện có ba ý :
1) Thuận ý mà
thuyết cho.
2) Đều dùng đại
thừa.
3) Khiến cho đắc
chủng trí.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “tùy theo câu hỏi mà giải
thuyết”.
Tán rằng : 16 tụng
rưỡi, chia làm hai phần :
- 11 tụng rưỡi
đầu, tụng về những điều đã nói trước.
- 5 tụng sau, tụng
về An Lạc quả.
Tụng về những điều
đã nói trước có 8 mục. Đoạn văn này có 2 mục :
1) Một tụng : về
an tọa xứ.
2) Một tụng rưỡi :
về quỹ nghi.
“Mặc áo mới sạch
sẽ”, vì giặt rồi cho nên sạch. Chính Pháp Hoa nói : ăn mặc tịnh khiết. Dưới đó
lại nói : “Trong ngoài đều thanh tịnh”.
Có bản viết là
“Tân nhiễm” (mới nhuộm), đó là chép sai.
*
-Kinh văn : “Nếu
có vị tỳ kheo” tới “vui vẻ mà thuyết cho”.
Tán rằng : đây là
mục thứ ba : nếu gặp duyên tới thì hoà nhã mà thuyết cho.
*
-Kinh văn : “Nếu
có người thắc mắc” tới “nhập vào nơi Phật
đạo”.
Tán rằng : đây là
mục thứ tư : vấn đáp. Đã chứng đắc như thế thì khiến người khác cũng được lợi
ích.
*
-Kinh văn : “Trừ
tâm ý phóng dật” tới “đều khiến họ hoan hỉ”.
Tán rằng : 1 tụng
đầu, tụng về mục thứ năm : tự trừ ác nhiễm. 1 tụng rưỡi tụng sau, tụng về mục
thứ sáu : bảo cho điều sở thuyết.
“Lãn đọa” là phóng
dật, nghĩa khác với giải đãi (lười nhác).
*
-Kinh văn : “Áo
quần, cùng ngọa cụ” tới “là an lạc cúng dường”.
Tán rằng : 1 tụng
đầu, nói về mục thứ bảy : tự mình chẳng mong cầu. 1 tụng rưỡi sau, nói về mục
thứ tám : dạy an tâm tưởng.
Trí Độ luận nói :
“Đại từ lân mẫn, vì đại chúng mà thuyết pháp chứ chẳng phải là vì áo cơm ,danh
tiếng, thế lực”. Vì là đại từ bi, tâm thanh tịnh, cho nên được Vô sinh nhẫn. Như
có bài tụng nói rằng :
Đa văn, biện trí,
nói năng khéo,
Giỏi thuyết các
pháp chuyển tâm người,
Mình chẳng như
pháp, hành chẳng đúng.
Ví như mây sấm mà
chẳng mưa.
*
Học rộng, nghe
nhiều, có trí tuệ,
Nói năng vụng về,
không tiện xảo,
Chẳng thể hiển
phát pháp bảo tạng,
Ví như không sấm
cũng chẳng mưa.
*
Chẳng học hỏi
rộng, không trí tuệ,
Chẳng thể thuyết
pháp, không diệu hạnh,
Pháp sư tồi ấy
không hổ thẹn,
Ví như mây nhỏ
không sấm mưa.
*
Đa văn, quảng trí,
ngôn ngữ hay,
Khéo thuyết các
pháp chuyển lòng người,
Hành pháp tâm
chính, không sợ gì,
Như mây sấm to đổ
mưa lớn.
*
Đại tướng thuyết pháp
cầm gương pháp,
Soi tỏ Phật pháp
trí tuệ tạng,
Trì tụng, quảng
tuyên nổi nhạc pháp,
Như thuyền giữa bể
chở được hết.
*
Lại như ong chúa
gom các vị,
Thuyết như lời
Phật, theo ý Phật,
Giúp Phật tỏ pháp
độ chúng sinh,
Pháp sư như vậy
rất khó gặp.
Được vào rừng
chiên đàn mà chỉ hái lá chiên đàn, đã vào núi thất bảo mà lại lấy thủy tinh. Có
người nhập Phật pháp mà chẳng cầu Niết bàn lạc, ngược lại đi cầu lợi dưỡng cúng
dàng. Đó đều là tự khi (tự rẻ rúng mình). Cho nên, khiến họ chẳng mong cầu lợi
dưỡng mà thuyết pháp cho họ.
*
-Kinh văn : “Sau
khi ta diệt độ” tới “nói cũng chẳng thể hết”.
Tán rằng : đây là
5 tụng về quả an lạc, chia làm ba phần :
- 1 tụng : nêu
lên.
- 2 tụng : lìa ác.
- 2 tụng : được
thiện.
*
-Kinh văn : “Lại
nữa, Văn Thù Sư Lợi” tới “tìm điều hay dở của
họ”.
Tán rằng : đây là
mục thứ ba : “Ý lìa chư ác, tự lợi hạnh”. Trong trường hàng có hai phần :
1) Chỉ rõ về
hạnh.
2) C¬hỉ rõ về quả.
Chỉ rõ về hạnh có
hai phần :
- Phần đầu : dạy
lìa ác.
- Phần sau : dạy
tu thiện. Đó là đoạn từ “Nên đối với hết thảy chúng sinh” trở xuống.
Lìa ác có 4 hạnh.
Đây là 2 hạnh đầu, hạnh đầu tiên có ba mục cộng thêm ý nghiệp :
1/ Lìa thói ghen
ghét.
2/ Lìa xiểm nịnh
quắt quéo.
3/ Lìa thói lừa
dối.
Hạnh thứ hai :
chẳng chê bai nhau. Đây đều là ngữ nghiệp.
*
-Kinh văn : “Nếu
tỳ kheo” tới “có sự cạnh tranh”.
Tán rằng : đây là
2 hạnh cuối của 4 hạnh lìa ác :
1) Chẳng gây phiền
não cho người khác (bất não tha).
2) Chẳng hý
luận.
* Chữ [爭] có âm là Tranh, có nghĩa là “giành giật”, “tranh đấu”. Cả hai
nghĩa đều được.
*
-Kinh văn : “Nên
đối với hết thảy” tới “cũng đừng thuyết nhiều”.
Tán rằng : tu
thiện có ba việc :
1) Tu ý nghiệp,
trụ trong tam tưởng.
2) Tu thân nghiệp,
cung kính lễ bái.
3) Tu ngữ nghiệp,
bình đẳng thuyết pháp, nói ít, nói thận trọng.
*
-Kinh văn : “Văn
Thù Sư Lợi” tới “tôn trọng tán thán”.
Tán rằng : trong
an lạc quả có bốn thứ :
1) Không não loạn.
3) Được đại chúng nghe.
2) Được thiện hữu.
4) Chuyển nhập pháp.
Bốn quả này đều
tương ứng với hạnh trước. Sợ văn rườm rà nên lược đi chẳng nói.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “rằng : ngươi chẳng thành
Phật”.
Tán rằng : đây là
6 tụng chia làm ba phần :
- 2 tụng đầu nói
về lìa ác.
- 3 tụng sau nói
về tu thiện.
- 1 tụng cuối là
khuyến tu.
Đây là phần đầu :
- 1
tụng đầu : lìa 7 điều ác bằng đức chất phát thẳng thắn.
- 1
tụng sau : lìa 3 lỗi để truyền thụ.
* Chữ Ngụy [偽] có nghĩa là dối trá chẳng thật. Chữ [蔑] đọc là Miệt. Thuyết Văn giải thích là khinh rẻ. Thiết Vận giải
thích là Vô (không). Nếu là khinh rẻ thì coi như không có, cho nên gọi là khinh
miệt.
*
-Kinh văn : “Phật
tử đó thuyết pháp” tới “thuyết pháp không
chướng ngại.
Tán rằng : nói rõ
tu thiện, có ba điều :
- 1 tụng đầu : đối
với chúng sinh thì tu tứ hạnh.
- 1 tụng sau :
kính Bồ tát.
- 1 tụng cuối :
đối với Phật thì nảy ra cảm tưởng coi như cha.
*
-Kinh văn : “Pháp
thứ ba như vậy” tới “vô lượng chúng tôn kính”.
Tán rằng : đây là
khuyến tu.
*
-Kinh văn : “Thêm
nữa, Văn Thù Sư Lợi” tới “sinh tâm đại bi”.
Tán rằng : đây là
hạnh thứ tư : tâm tu chư thiện lợi tha hạnh.Trong trường hàng chia ra làm ba
phần :
- Phần đầu :
thuyết minh về hành pháp.
- Phần sau : đoạn
từ “Văn Thù Sư Lợi là Bồ tát” trở xuống : thuyết minh về An Lạc quả.
- Phần cuối : đoạn
từ “Ở vô lượng nước”trở xuống : tán thán kinh thắng diệu.
Phần đầu có hai
mục :
+ Đầu tiên dạy về
từ bi.
+ Sau đó dạy về
tác niệm.
Đây là mục đầu.
Hành pháp duyên
từ, muốn cho pháp lạc, cho nên đối với tại gia, xuất gia đều khởi Từ. Đó là ở
trong chủng tính Bồ tát mà khởi niệm chẳng sợ nỗi khổ sinh tử, cho nên khởi bi tâm
với các hạng chẳng phải là Bồ tát, có nhiều nỗi sợ khổ đó là các hạng nhất xiển
đề, nhị thừa v.v…, hành Chúng sinh duyên bi và Pháp duyên bi. Kỳ thực là vận dụng
cả hai loại Từ và Bi. Nay chỉ căn cứ vào thứ tăng thượng, như vậy thì cũng
chẳng trái ngược nhau.
Kinh Hoa Nghiêm
nói : Phật tử Bồ tát có mười loại đại bi thường quán chúng sinh :
1) Quán họ không
nơi quy y.
2) Quán họ theo
đuổi tà đạo.
3) Quán họ tham
không thiện căn.
4) Quán họ ngủ lâu
trong cõi sinh tử.
5) Quán họ hành
pháp bất thiện.
6) Quán họ bị rợ
Dục trói buộc.
7) Quán họ tại
biển sinh tử.
8) Bệnh hoạn lâu
ngày.
9) Không muốn
thiện pháp.
10) Mất các Phật
pháp.
*
-Kinh văn : “Nên
quan niệm (tác niệm) như vầy” tới “chẳng
tin chẳng hiểu”.
-Tán rằng : dưới
là dạy cho cách quan niệm, có hai phần :
- Đầu tiên là quan
niệm về (tướng) hôn mê.
- Sau đó quan niệm
về sự hóa đạo (của Phật).
Đây là phần đầu.
“Mất phương tiện
của Như Lai, tùy nghi mà thuyết pháp”. Tức Kinh Pháp Hoa khai thị về xưa kia
thuyết tam thừa để dẫn dắt tiểu thừa, còn ngày nay thì thuyết minh về một Phật thừa
chân thực duy nhất để hóa đạo đại thừa.
Chẳng gần thiện
hữu, tai chẳng từng nghe, tâm chẳng từng biết, chẳng tự giác ngộ, lại chẳng hỏi
người khác, dù có được nghe, cũng chẳng tin, dẫu có tin cũng chẳng hiểu. Đó là
tướng hôn mê.
*
-Kinh văn : “Người
đó tuy chẳng hỏi” tới “trụ trong pháp này”.
Tán rằng : đây là
quan niệm về sự hóa đạo (của Phật).
Ý nói người được
giáo hóa nay tuy chẳng hỏi v.v…, sau này người đó trụ ở Cửu địa hoặc là Thất
địa, hoặc là phàm thánh địa, hoặc bất cứ địa vực phương nào, ta thành Phật rồi
ắt sẽ dẫn đạo người ấy trụ trong pháp đại thừa.
*
-Kinh văn : “Văn
Thù Sư Lợi” tới “không có lỗi lầm”.
Tán rằng : dưới là
thuyết minh về quả an lạc, chia làm hai phần :
• Phần đầu : nêu
chung không có lỗi lầm, lìa được các sự nguy hiểm sợ hãi.
• Phần sau : nói
rõ có sự chứng đắc, thắng quả an lạc.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn :
“Thường được tỳ kheo” tới “đều được hoan hỉ”.
Tán rằng : dưới là
thuyết minh về có sự chứng đắc : được thắng quả an lạc. Có hai phần :
- Phần đầu : nói
rõ được ba đức.
- Phần sau : giải
thích lý do.
Đây là phần đầu
:
1/ Được danh
lợi.
2/ Chư thiên theo
hầu.
3/ Có người hỏi
điều thắc mắc thì khiến họ được hoan hỉ.
*
-Kinh văn : “Sở
dĩ như vậy là vì sao” tới “vì được thần lực của
chư Phật gia hộ”.
Tán rằng : đây là
giải thích lý do.
Nghĩa sâu cho nên
Phật gia hộ. Nhờ Phật gia hộ cho nên có sự chứng đắc.
*
-Kinh văn : “Văn
Thù Sư Lợi” tới “thụ trì đọc tụng”.
Tán rằng : dưới là
tán thán kinh thắng diệu. Có hai phần :
• Phần đầu : nêu
lên sự thắng diệu.
• Phần sau : là dụ
hợp thành.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Văn
Thù Sư Lợi” tới “hàng phục các nước”.
Tán rằng : dưới là
thuyết minh về dụ hợp thành. Có hai phần :
• Phần đầu : là dụ
pháp hợp thuyết về việc xưa kia truyền thụ cho phương tiện quyền nghi.
• Phần sau : là dụ
pháp hợp thuyết về việc thi hành giáo hóa chân thực duy nhất Phật thừa. Đó là
đoạn từ “Như Chuyển luân vương thấy các binh chúng có công lớn” trở xuống. Văn
phần đầu lại có hai mục :
- Mục đầu là dụ
(thuyết).
- Mục sau là hợp
(thuyết).
Trong dụ có năm
phần :
1/ Dụ về pháp
vương thi hành hóa đạo.
2/ Dụ về các
ma chống đối.
3/ Dụ về bậc thánh
hàng phục, diệt trừ.
4/ Dụ về việc tùy
theo công đức mà truyền đạo cho.
5/ Dụ về việc cuối
cùng ban cho kinh này.
Đây là phần
đầu.
“Cường lực” : có
nghĩa là thắng được sinh tử.
“Luân vương” : có bốn loại, như trong Du Già đã nói :
a) Kim luân thì
giặc nghe hơi đã phải quy thuận theo sự giáo hóa.
b) Ngân luân thì
phái sứ giả đến giặc mới chịu hàng.
c) Đồng luân thì
phải ra oai giặc mới chịu phục.
d) Thiết luân thì
phải vung giáo mới bình định được.
Các dụ ấy lần lượt
ví với Pháp thân, Tự thụ dụng (thân), Tha thụ dụng (thân) và Hóa thân.
Ở đây là hóa Phật
giáo hóa hạng nhị thừa, cho nên lấy Thiết luân vương khởi binh đánh làm thí dụ.
“Uy thế ” : chỉ
thần thông trí tuệ.
“Các nước” : chỉ
sinh tử nghiệp Hoặc.
“Hàng phục” : ở
đây có nghĩa là đoạn diệt.
*
-Kinh văn : “Mà
các tiểu vương chẳng thuận theo mệnh lệnh của vị ấy”.
Tán rằng : đây là
dụ về các ma chống lại.
Ba loại ma Phân
đoạn : Biến dịch sinh tử, Phiền não chướng và Sở tri chướng cùng thị hiện thành
thiên ma v.v…, đó gọi là “các tiểu vương”.
Các ma chống lại
sự giáo hóa của Phật, khó thể trừ đoạn, đó gọi là “chẳng thuận theo mệnh lệnh”.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Chuyển luân vương” tới “mà đi đánh dẹp”.
Tán rằng : đây là
dụ về bậc thánh phục trừ.
Bốn loại binh
chủng : tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh, gọi là “chủng chủng binh”, là dụ
ví với Thanh văn, Duyên giác mỗi thừa đều có các hạng hữu học phàm thánh. Khiến
họ bị phục đoạn, đó gọi là “đi đánh dẹp”.
*
-Kinh văn : “Vua
thấy binh chúng” tới “liền rất hoan
hỉ”.
Tán rằng : đây là
dụ về tùy theo công đức mà truyền đạo cho. Có hai phần :
• Phần đầu : Hoan
hỉ.
• Phần sau : Ban
thưởng.
Đây là phần đầu.
Trừ đoạn được loại
tam ma (là) Hoặc chướng cùng Phân đoạn sinh tử và ba loại quân ma là thiên ma
chẳng phục cùng Sở tri chướng phẩm, thì gọi là “đánh nhau có công”. Thuận tòng
đúng với Phật tâm, cho nên “rất hoan hỉ ”.
*
-Kinh văn : “Tùy
theo công lao mà ban thưởng” tới “nô tỳ,
nhân dân”.
Tán rằng : đây là
ban thưởng, có ba phần :
- Phần đầu : dụ về
công đức vô vi, vì trong hợp thuyết nói là ban cho thành Niết bàn.
- Phần sau : dụ về
hạnh đức hữu vi nội tại, ngũ căn ngũ lực v.v…
- Phần cuối : dụ
về quả đức sai biệt thiền định, giải thoát v.v…
Mỗi phần, theo thứ
tự, bắt đầu bằng chữ “hoặc” trong kinh văn. Tướng chung phối ứng với dụ như sau
:
1. “Hoặc dữ điền
trạch, tụ lạc, thành ấp” :
- Đoạn đức, lý
Sinh không, ví như “ruộng” (điền).
- Chúng sinh tất
cánh không, ví như “nhà cửa” (trạch).
- Trạch diệt trong
nhân, ví như “thôn xóm” (tụ lạc).
- Vô học quả mãn,
trạch diệt Niết bàn, ví như “thành ấp”.
2. “Hoặc dữ y phục nghiêm thân chi cụ” :
- Tàm quý, nhẫn
nhục ví như “áo quần”.
- Ngũ phần pháp
thân, lục hằng trụ…, ví với “đồ trang sức” (nghiêm cụ).
3. “Hoặc dữ chủng
chủng trân bảo... nô tỳ, nhân dân” :
- Thiền định, giải
thoát…, ví với “các loại châu báu”.
- Thất thánh tài
ví với “vàng, bạc”.
- Lục thông ví với
“voi, ngựa, xe cộ”.
- Trí Sinh không
ví với “nô” (đầy tớ trai), vì để sai khiến trước mắt.
- Bát thắng xứ ví
với “tỳ” (đầy tớ gái), vì là thắng phục sở duyên.
- Thập biến xứ ví
với “nhân dân”, vì đầy rẫy khắp nơi.
*
-Kinh văn : “Chỉ
có hạt minh châu trong búi tóc” tới “ắt rất
kinh ngạc”.
Tán rằng : đây là
dụ về việc cuối cùng (Phật dã) ban cho đại thừa.
“Minh châu” tức là
Pháp Hoa đại thừa, đó là thứ mà đức Phật giữ trong tâm trong đầu, cho nên nói
là “trong búi tóc”.
Thấy công còn nhỏ,
chưa đoạn trừ được bốn ma của Trí chướng, trước hội Pháp Hoa vẫn trụ ở quyền
trí, nên chưa thuyết cho kinh này, cho nên nói là “chẳng đem cho”.
“Quyến thuộc của
vua”: chỉ đại Bồ tát.
“Ắt rất kinh ngạc”
: thấy chẳng thuận cơ mà lại thuyết diệu pháp, cho nên sinh ra nghi ngờ kinh
ngạc.
*
-Kinh văn : “Văn
Thù Sư Lợi” tới “làm vua ở ba cõi”.
Tán rằng : dưới là
hợp thuyết, cũng có năm.
Đây là hợp thuyết
về Pháp vương thi hành giáo hóa.
*
-Kinh văn : “Mà
các ma vương chẳng chịu thuận phục”.
Tán rằng : đây là
hợp thuyết về các ma chống lại.
*
-Kinh văn : “Các
tướng hiền thánh của Như Lai” tới “cùng
đánh nhau với chúng”.
Tán rằng : đây là
hợp thuyết về bậc thánh hàng phục, diệt trừ.
*
-Kinh văn : “Những
người có công” tới “khiến đều hoan hỉ”.
Tán rằng : đây là
hợp thuyết việc tùy theo công đức mà truyền đạo cho : đầu tiên là hoan hỉ, sau
đó là ban cho.
“Thiền định v.v…”
: là hợp thuyết về hai phần cuối (của 3 phần) bắt đầu bằng chữ “hoặc” trong kinh
văn.
“Thành Niết bàn” :
là hợp thuyết về phần đầu bắt đầu bằng chữ “hoặc”. Cứ theo dụ trước mà phối ứng
thì nghĩa có thể biết được.
*
-Kinh văn : “Mà
chẳng thuyết cho Kinh Pháp Hoa này”.
Tán rằng : đây là
hợp thuyết về việc cuối cùng ban cho kinh này.
*
-Kinh văn : “Văn
Thù Sư Lợi” tới “mà nay ban cho”.
Tán rằng : dưới là
dụ và pháp hợp thuyết về việc ngày nay thi hành thực giáo. Có hai phần :
• Phần đầu là pháp
hợp (thuyết) : nay cho thực (thừa), tức là chữa trị cho hạng tăng thượng mạn
thứ sáu, tức là hạng người gom góp công đức.
• Phần sau là dụ
hợp (thuyết) về phát khởi cái đệ nhất, tức là Thuyết vô thượng trong mười thứ
vô thượng.
Văn phần đầu chia
làm hai : đầu là dụ, sau là hợp. Đây là phần đầu.
“Các binh chúng” :
chỉ Thập địa Bồ tát, vì (các vị này đã) thực sự phá bốn ma, phá Phân đoạn, đã
có chút ít khả năng phá được bốn ma Biến dịch thì thuyết cho Kinh Vô Lượng Nghĩa
cũng gọi là Diệu Pháp Liên Hoa. Bậc thánh nhị thừa tùy theo sở ứng phá được
toàn bộ, hoặc phá được một phần ba ma Phân đoạn thì ắt sẽ có thể phá được bốn ma
Biến dịch, vì phát tâm mong cầu đại thừa thì ắt sẽ phá được.
Như quân tướng thế
gian nếu công trạng vẫn còn bé, thì đợi lúc họ lập công lớn mới ban thưởng để
khích lệ cho ý chí của họ thêm kiêu hùng. Nhưng ban cho trước khi có công lớn,
thì mục đích là để khích lệ tâm tiến thủ của họ. Cho nên thuyết cho kinh này.
Nghĩa là đối với hạng chưa nhập ngôi Thập địa thì tạm ban cho minh châu. Sau
khi nhập Thập địa rồi, phá được một phần bốn ma Biến dịch rồi, mới ban cho thể
minh châu.
*
-Kinh văn : “Như
Lai cũng lại” tới “cũng rất hoan hỉ”.
Tán - rằng : dưới là hợp
thuyết có hai phần :
• Phần đầu
là hoan hỉ.
• Phần sau
là ban cho.
Đây là phần
đầu.
Phần này nói rõ đã
phá được bốn ma Phân đoạn rồi, lại khởi đại tâm (tức tâm đại thừa) sẽ phá Biến
dịch, “có công huân lớn”, cho nên Phật hoan hỉ mà ban cho Kinh Pháp Hoa
này.
Chẳng phải là hết
thảy những ai chỉ phá được bốn ma Phân đoạn nhưng chẳng phát đại tâm sẽ phá bốn
ma Biến dịch, đều gọi là người “có công huân lớn” và đều được ban cho kinh này.
Vì hạng Thanh văn thú tịch thì chẳng cho kinh này. Còn hạng thoái tâm hữu học
thì được cho kinh này. Hoặc nay chỉ căn cứ vào hạng vô học thoái tâm nhị thừa đã
phá được bốn ma Phân đoạn thì gọi là công huân lớn. Chẳng nói đến hạng thú
tịch.
Bốn ma có hai loại
:
1) Phân đoạn.
2) Biến dịch.
Như trong chương
Phá Ma đã nói. Nay nói theo loại quan trọng. Thể tính ba ma Phân đoạn có thể
biết rõ. Dục giới đệ lục Tha Hóa thiên tử gọi là Thiên ma. Ba ma Biến dịch, về
lý cũng có thể biết được. Các vị đại Bồ tát từ Bát địa trở lên thị hiện thành
Thiên ma.
Cho nên Kinh Vô
Cấu Xưng nói : “thị hiện thành ma vương phần nhiều là các vị Bồ tát giải thoát
bất khả tư nghị, vì chỉ có long tượng mới có thể tranh chiến với long tượng”, như
trước kia đã nói. Song các vị đó ngôi giáng, lúc giáng chẳng giống nhau, cứ
theo lý mà giải thích.
Nay căn cứ vào
điều mà Kinh Đại Tập nói là : “Biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo, theo
đúng thứ tự hoại được bốn thứ ma là Uẩn, Phiền não, Tử cùng Thiên ma”.
Lại theo như thứ
tự quán hữu lậu đều là khổ, các hành vô thường, các pháp vô ngã, Niết bàn tịch
tĩnh. Theo đúng thứ tự hoại bốn thứ ma là Uẩn, Phiền não, Tử cùng với Thiên
ma.
Lại theo thứ tự
quán Không, Vô tướng, Vô nguyện. Đủ ba thứ ấy rồi thì hồi hướng Bồ đề, theo như
thứ tự mà hoại bốn (ma).
Lại theo thứ tự
quán Thân, Thụ, Tâm, Pháp, theo như thứ tự mà hoại bốn (ma).
Trí Độ luận nói :
“Bồ tát đắc đạo, cho nên phá Phiền não ma. Đắc pháp tính thân, cho nên phá được
Uẩn ma. Đắc đạo và đắc pháp tính thân, cho nên phá được Tử ma. Thường nhất tâm
nhập bất động tam muội, cho nên phá được Thiên ma”.
*
-Kinh văn : “Kinh
Pháp Hoa này” tới “mà nay thuyết kinh”.
Tán rằng : đây nói
rõ việc (Phật) ban cho kinh này.
Kinh này là nhân
để thành Phật, nhiều kẻ oán thán phỉ báng mà nay đem cho, ví như cởi hạt minh
châu ra mà cho.
*
-Kinh văn : “Văn
Thù Sư Lợi” tới “nay mới cho họ”.
Tán rằng : đây là
dụ hợp thuyết về việc nay cho thứ đệ nhất, đó tức là Thuyết vô thượng.
Có hai phần
:
- Phần đầu : Lý sở
thuyên cao nhất, cho nên đắc vô thượng.
- Phần sau : Giáo
năng thuyên.
Đây là phần
đầu.
*
-Kinh văn : “Văn
Thù Sư Lợi” tới “mà phô diễn ra”.
Tán rằng : phần
này là Giáo năng thuyên cao nhất, cho nên vô thượng.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “kinh mà Phật tán
thán”.
Tán rằng : đây là
hợp thuyết 14 tụng rưỡi đầu, tụng về hạnh thứ tư. Trong chia làm hai phần
:
- 4 tụng đầu, tụng
về hạnh An lạc.
- 10 tụng rưỡi
sau, tụng về thắng đức của kinh này.
Văn phần đầu chia
làm hai mục :
- 1 tụng đầu : nêu
chung.
- 3 tụng sau :
tụng riêng.
Đây là mục đầu.
“Ai” : có nghĩa là
Từ.
“Mẫn” : có nghĩa
như Bi.
*
-Kinh văn : “Thời
mạt thế sau này” tới “khiến trụ trong đó”.
Tán rằng : đây là
3 tụng, tụng riêng :
• 1 tụng một
câu, tụng về khởi từ bi,
• 1 tụng ba
câu, tụng về khởi từ niệm.
*
-Kinh văn : “Ví
như vua chuyển luân” tới “ban minh châu cho
hắn”.
Tán rằng : dưới là
10 tụng rưỡi, tụng về sự thắng diệu của (kinh) này. Trong có hai phần :
• 4 tụng đầu
là dụ (thuyết).
• 6 tụng
rưỡi sau là hợp (thuyết).
Đây là phần đầu
:
+ 3 tụng đầu : dụ
(thuyết về) quyền.
+ 1 tụng sau : dụ
(thuyết về) thực.
Quyền có ba dụ
:
1) Vua.
2) Công.
3) Ban thưởng.
*
-Kinh văn : “Như
Lai cũng như thế” tới “thuyết các kinh
này”.
Tán rằng : dưới là
6 tụng rưỡi, tụng về hợp thuyết, trong chia làm hai phần :
- 3 tụng rưỡi đầu
: tụng về hợp thuyết xưa là quyền.
- 3 tụng sau :
tụng về hợp thuyết nay là thực.
Đây là phần đầu.
Đây cũng chỉ có ba :
+ 1 tụng rưỡi : pháp vương.
+ 1 tụng : công.
+ 1 tụng : ban thưởng.
“Thuyết các kinh điển đó”: chỉ thuyết các kinh từ hội này trở về trước.
*
-Kinh văn : “Đã biết chúng sinh đó” tới “nên thuyết cho các ngươi”.
Tán rằng : đây là hợp thuyết về nay là thực. Có hai phần :
- 1 tụng rưỡi : tụng về hợp thuyết nay là thực.
- 1 tụng rưỡi : tụng về hợp thuyết cho (pháp) đệ nhất.
*
-Kinh văn : “Sau khi ta diệt độ” tới “bốn pháp trên như vậy”.
Tán rằng : đây là đoạn thứ ba : kết thành bốn hạnh.
*
-Kinh văn : “Người đọc tụng kinh này” tới “như mặt trời soi dọi”.
Tán rằng : dưới có 21 tụng rưỡi, đó là đoạn lớn thứ hai : thuyết minh về quả an lạc nói chung.
Trong chia làm ba phần :
- 4 tụng rưỡi đầu : thuyết minh về quả khi thức giấc.
- 16 tụng sau : thuyết minh về quả trong mộng.
- 1 tụng cuối : kết luận về quả trước.
Đây là phần đầu :
- 1 tụng rưỡi : tự thể không có 6 điều ác.
- 1 tụng : chúng sinh kính mộ, thiên làm tôi tớ.
- 1 tụng : ba ác bên ngoài chẳng xâm hại.
- 1 tụng : Vô uý, thông minh.
*
-Kinh văn : “Nếu ở trong chiêm bao” tới “mà thuyết pháp cho họ”.
Tán rằng : dưới là quả trong mộng, chia làm năm phần : đây là văn của hai phần đầu :
- 1 tụng rưỡi đầu : thấy Phật.
- 1 tụng rưỡi sau : thấy tự mình thuyết pháp.
*
-Kinh văn : “Lại thấy các đức Phật” tới “mà chắp tay nghe pháp”.
Tán rằng : 6 tụng rưỡi này, tụng về việc thấy Phật thụ ký. Trong chia làm bốn phần :
- 1 tụng rưỡi : thấy Phật thuyết pháp.
- 2 tụng : thân đựơc chứng ngộ.
- 1 tụng : nêu
lên thụ ký.
- 2 tụng : chính
thức truyền thụ.
*
-Kinh văn : “Lại
thấy tự thân mình” tới “thường có mộng đẹp
này”.
Tán rằng : 2 tụng
rưỡi này, nói về thấy bản thân tịch tĩnh, tu hành thấy Phật.
*
-Kinh văn : “Lại
mộng làm quốc vương” tới “như khói hết đèn
tắt”.
Tán rằng : 4 tụng
rưỡi này, nói về việc thấy bản thân xả bỏ cõi tục, thành đạo. Chia làm bốn mục
:
a) Một tụng : thấy
tu hành.
b) Một tụng :
thành đạo.
c) Một tụng rưỡi :
lợi sinh.
d) Nửa tụng : nhập
diệt.
*
-Kinh văn : “Nên
trong ác thế sau” tới “các công đức như
trên”.
Tán rằng : đây là
kết luận về quả trước.
KINH PHÁP HOA
HUYỀN TÁN
QUYỂN THỨ CHÍN - PHẦN TRƯỚC
ĐÃ XONG
Ngày 21 tháng
chạp năm Bảo An thứ 3, dùng bản của Viên Như phòng chùa Hưng Phúc di điểm xong,
Sư Tăng Giác chùa Pháp Long đem in.
“để cho pháp
truyền lâu, đặng vãng sinh cực lạc”
Mọi bản đều là
điểm bản. Có dùng chữ son ở dưới là bản mượn danh mọi nơi.
QUYỂN THỨ CHÍN (PHẦN
SAU)
Sa môn KHUY CƠ,
chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn.
PHẨM TÒNG ĐỊA DŨNG XUẤT
Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG
Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có ba ý :
1. Trong bảy
phẩm thuyết minh về học hành lưu thông, một phẩm đầu thuyết minh về sở học
hành, sáu phẩm sau thuyết minh về người năng hành.
Trong số người
năng hành, chia ra làm bốn loại :
- Một phẩm này
chính thức thuyết minh về người hiện tại đủ An lạc hạnh lưu thông (kinh
này).
- Các phẩm Thọ
Lượng và Phân Biệt Công Đức nhân giải thích điều nghi vấn nêu ra trong phẩm này
mà xoay vần sinh khởi các phẩm Tùy Hỉ, và Pháp Sư Công Đức thuyết minh về công đức
mà người trợ hành, chính hành đạt được do y theo An lạc hạnh mà lưu thông (kinh
này).
- Phẩm Thường Bất
Khinh nói rõ bản thân Phật xưa kia lúc ở nhân vị đã tu hành An lạc hạnh, tu
hành nhẫn nhục v.v… lưu thông kinh này, nay đắc thành Phật quả, khuyên các
chúng sinh nên siêng tu học. Cho nên có phẩm này.
2. Trong hai phẩm thuyết minh về hạnh nhất thừa, phẩm trước thuyết minh về hạnh sở hành, phẩm này thuyết minh về người năng hành. Cho nên có phẩm này.
3. Luận nói rằng : trong mười thứ vô thượng thì cái thứ bảy là Thị hiện giáo hóa chúng sinh vô thượng, cho nên từ trong đất vọt ra vô lượng Bồ tát Ma ha tát. Trong này nói rõ Phật đã từng giáo hóa vô lượng Bồ tát tu hành bốn hạnh này, vọt ra trì kinh, khuyên các chúng sinh cớ sao chẳng học. Cho nên có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
“Dũng” có nghĩa
là vọt lên. “Xuất” có nghĩa là biểu hiện. “Từ đất” vọt lên mà biểu hiện, nên
gọi là phẩm “Tòng Địa Dũng Xuất”.
* Sách Ngọc Thiên
giải thích : “Dũng” là vọt lên. Dũng tức là như nước vọt lên, cho nên phải viết
là [涌]. Còn chữ [踴] là nhảy vọt, chẳng
phải nghĩa này.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : cớ sao
chẳng nói là từ bên cạnh tới, mà lại nói từ đất vọt ra ?
Đáp : chứng tỏ y
vào bốn hạnh để trì kinh, nên vọt ra khỏi địa vị sinh tử. Thêm
nữa, còn chứng tỏ
những người đã từng được Phật giáo hóa đã vượt khỏi địa vị sinh tửnhưng chẳng
lìa cõi này, cho nên chẳng nói là từ bên cạnh tới, chỉ nói là từ đất vọt
ra.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ các Bồ tát Ma ha tát ở cõi nước phương khác” tới “mà thuyết rộng kinh này”.
Tán rằng : toàn
văn trong phẩm này chia làm bốn phần :
1) Bồ tát cõi khác
xin trì kinh.
2) Như Lai chẳng
cho phép.
3) Bồ tát phương
này vọt ra.
4) Bồ tát sinh
nghi ngờ.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật bảo” tới “thuyết rộng kinh
này”.
Tán rằng :
đây là phần thứ nhất : Như Lai chẳng cho phép. Có hai phần nhỏ :
• Phần đầu : ngăn
lại.
• Phần sau : nói
rõ sẽ thuyết cực nhiều, cho nên nói là sáu vạn, thực ra chẳng phải chỉ có thế,
nói rõ công đức giáo hóa của Phật, ngăn chặn người khác chẳng cho phép. Song
nếu khiến người khác hộ trì, thì cũng có tội lỗi gì đâu !
*
-Kinh văn : “Khi
Phật nói lời ấy” tới “đồng thời vọt ra”.
Tán rằng : đây là
Bồ tát phương này vọt ra, có tám mục :
1) Bồ tát từ đất
vọt ra.
2) Lên không trung
mà tán thán lễ bái.
3) Thần lực rút
ngắn thời gian.
4) Mọi người cùng
thấy.
5) Đạo sư thăm
hỏi.
6) Thế tôn ủy lạo
giải đáp.
7) Bốn người tùy
hỷ.
8) Như Lai khen
họ.
Văn mục đầu có 5
chi tiết :
1/ Đất nứt.
2/ Thánh vọt ra.
3/ Tướng hảo.
4/ Trụ xứ.
5/ Con số đám
đông.
Đây là hai chi
tiết đầu.
Biểu hiện phá được
sinh tử, cho nên đất nứt. Tỏ rõ hướng Bồ đề, cho nên vọt ra.
*
-Kinh văn : “Các
Bồ tát này” tới “trụ trong hư không”.
Tán rằng : đây là
tướng hảo và trụ xứ.
Được quả do tu
hành An lạc hạnh, cho nên tướng hảo. Chứng chân tính được nhất thừa, cho nên
trụ không.
*
-Kinh văn : “Các
Bồ tát này” tới “điều chẳng thể
biết”.
Tán rằng : đây là
con số đám đông, có ba ý :
1. Nguyên do kéo
tới.
2. Liệt kê số lượng.
3. Kết luận.
Liệt kê số lượng
có tám hạng :
1) Hằng hà
sa. 2) Phân hằng sa.
3) Na do
tha. 4) Vạn.
5)
Nghìn. 6) Trăm.
7) Chục. 8) Đơn vị.
*
-Kinh văn : “Các
Bồ tát này” tới “đối với hai Thế
tôn”.
-Tán rằng : đây là
mục thứ hai : lên trên không trung tán thán lễ bái. Có ba chi tiết :
1) Tới tháp.
2) Lễ chân.
3) Cung kính tán
thán.
*
-Kinh văn : “Các
Bồ tát này” tới “coi như nửa ngày”.
Tán rằng : đây là
mục thứ ba : thần lực rút ngắn thời gian, có ba ý :
1) Tán thán thời
gian dài.
2) Thụ cũng lâu.
3) Rút ngắn thời
gian.
Bản luận nói :
“kiếp” mà kinh này thuyết, là ngày, đêm, tháng, mùa, năm. Đây lấy ngày đêm tính
gộp lại chẳng bỏ, 25 ngày thành 50 tiểu kiếp. Hoặc lại là 50 ngày, 50 tháng
cùng mùa, năm.
Tán thán công đức
càng sâu thì thời gian càng dài, có thể biết hết. Thụ tán thần lực cũng ngang
bằng thần lực lúc tán thán.
Biến đổi bản tâm
chúng sinh, bậc thánh tùy ý kéo dài hay rút ngắn thời gian, nhưng chúng sinh vì
yêu pháp, nên đã quên hết mệt mỏi. Huống chi lại được thánh ngầm gia hộ thì sao
mà sinh ra mệt mỏi chán nản được. Cho nên tứ chúng bảo rằng : như khoảnh khắc
ăn xong bữa cơm. Pháp thực giúp cho việc tu trì , thần thông chế ngự, cho nên
trải qua nhiều kiếp mà niên mệnh chẳng hao tổn.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ tứ chúng” tới “quốc độ hư không”.
Tán rằng : đây là
mục thứ tư : mọi người cùng thấy.
*
-Kinh văn : “Trong
các Bồ tát này” tới “thầy đề xướng dẫn
đạo”.
Tán rằng : dưới là
mục thứ năm : Đạo sư thăm hỏi. Có bốn chi tiết :
1) Liệt kê tên. 2)
Đức hạnh.
3) Thăm thẳng. 4)
Dùng kệ mà hỏi.
Đây là hai chi
tiết đầu : Hạnh cao đẹp to lớn, lìa ác tiến thiện, cho nên gọi là bốn loại (tứ
chúng).
*
-Kinh văn : “Tại
trước đại chúng” tới “sinh mệt mỏi ư
?”.
Tán rằng : đây là
chi tiết thứ ba : “thăm thẳng” và chi tiết thứ tư : “dùng kệ mà hỏi”.
* Sách Ngọc Thiên
nói : “Tấn” có nghĩa như Vấn (hỏi), có nghĩa là ngôn từ. Gạn hỏi, hỏi chung
chung thì gọi là Tấn [訊].
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “nhập ở Phật tuệ”.
Tán rằng : đây là
mục thứ sáu : Thế tôn an ủi giải đáp.
Có hai phần : đầu
là nêu lên, sau là giải thích. Trong phần giải thích có ba mục :
1) Thấy Phật trồng
thiện.
2) Liền thụ giáo
hóa.
3) Hội xa cũng
theo, có nghĩa là lúc đầu chẳng theo, nhưng cuối cùng cũng theo.
Hai mục đầu tán
thán Bồ tát. Một mục sau nói về Thanh văn. Hoặc hai mục đầu nói về hội xa. Một
mục sau nói về loại Thú tịch. Hạng chẳng ngu về pháp thì nhập giải Phật tuệ, chứ
chẳng phải là nhập chứng.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ các vị đại Bồ tát” tới “chúng tôi tùy
hỉ”.
Tán rằng : đây là
mục thứ bảy : bốn người tùy hỉ.
*
-Kinh văn : “Lúc
ấy Thế tôn” tới “phát tâm tùy hỉ”.
Tán rằng : đây là
mục thứ tám : Như Lai khen họ.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Di Lặc” tới “hỏi thăm Như Lai”.
Tán rằng : dưới là
đoạn lớn thứ tư : Bồ tát sinh nghi. Chia làm tám mục :
1) Tâm niệm (nghĩ
bụng).
2) Ngữ diễn (nói
ra).
3) Tha vấn (người
khác hỏi).
4) Bàng đáp (giải
đáp gián tiếp).
5) Tán hứa (tán
thành cho phép).
6) Chính đáp (giải
đáp trực tiếp).
7) Chúng niệm (suy
nghĩ của mọi người).
8) Thân thỉnh (bày
tỏ lời thỉnh cầu).
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Di Lặc Bồ tát” tới “xin Lưỡng túc tôn
thuyết”.
Tán rằng : dưới là
mục ngữ diễn, có 19 tụng rưỡi, chia làm ba phần :
- Phần đầu : 1
tụng, bày tỏ chung sự nghi ngờ và xin giải đáp.
- Phần sau : 10
tụng rưỡi, xin giải đáp các nỗi nghi ngờ.
- Phần cuối : 2
tụng, bày tỏ ý nghi ngờ của mọi người.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Đó từ
xứ nào tới ?” tới “là từ nơi nào tới
?”.
Tán rằng : dưới là
“những sự nghi ngờ xin giải đáp”. Chia làm năm phần :
- 2 tụng : lai
xứ.
- 9 tụng : lai
số.
- 2 tụng : hóa
hành.
- 2 tụng rưỡi :
tên nước.
- 1 tụng : chẳng
biết.
Đây là phần đầu,
có ba ý :
1/- Lai do.
2/- Tán thán công
đức.
3/- Lai xứ.
*
-Kinh văn : “Mỗi
mỗi vị Bồ tát” tới “vẫn chẳng thể biết
hết”.
Tán rằng : đây là
lai số, có ba :
- 1 tụng :
Tổng.
- 7 tụng : Biệt.
- 1 tụng : Kết.
*
-Kinh văn : “Các
vị uy đức lớn” tới “tu tập Phật đạo
gì ?”.
Tán rằng : đây là
mục hóa hành, có 5 câu hỏi.
-Kinh văn : “Các
Bồ tát như vậy” tới “chưa từng thấy sự
này”.
Tán rằng : đây là
tên nước.
*
-Kinh văn : “Ta ở
trong chúng này” tới “nguyện thuyết nhân duyên
ấy”.
Tán rằng : đây là
mục chẳng biết.
*
-Kinh văn : “Nay ở
đại hội này” tới “xin giải các nỗi
nghi”.
Tán rằng : đây là
phần thứ ba của mục “ngữ diễn” : bày tỏ ý nghi ngờ của mọi người.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ các Phật phân thân của đức Thích Ca Mâu Ni” tới “từ nơi nào tới”.
Tán rằng : đây là
mục thứ ba : người khác hỏi (tha vấn).
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ các đức Phật” tới “nhân thể được
nghe”.
Tán rằng : đây là
mục thứ tư : Bàng đáp (giải đáp gián tiếp).
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thích Ca” tới “việc lớn như vậy”.
Tán rằng : dưới là
mục thứ năm : Tán hứa (tán thành cho phép). Có hai phần :
1) Đầu là tán
thành.
2) Sau là cho
phép.
Đây là phần
đầu.
“A Thị Đa” : có
nghĩa là Vô Năng Thắng, đó là tên của Di Lặc. Còn “A Dật Đa” đó là phiên âm
sai.
*
-Kinh văn : “Các
ngươi nên cùng nhau” tới “thế lực lớn”.
Tán rằng : dưới là
cho phép, có hai phần. Đây là trường hàng.
“Mặc giáp tinh
tiến” (bị tinh tiến khải). “Khải” : chỉ mũ trụ trong bộ áo giáp của quân đội.
Khiến tâm họ hăng hái ưa thích nghe pháp, tâm chẳng thoái chuyển thì gọi là “ý
kiên cố”. Vì nghĩa sâu xa, sợ họ nghi ngờ thoái lui. Đây thuyết về bốn lực :
1) Tuệ lực, tức là
Trí tính Trí tướng, hai thân Pháp Báo bí mật của Như Lai nói trong phẩm Thọ
Lượng.
2) Thần thông lực,
tức là thần thông Phật hóa thân đó.
3) Phấn tấn lực,
tức là quyết định sở tác vậy.
* Chữ [奮] âm đọc là Phấn, nghĩa như Dương. Chữ [迅] âm đọc là Tấn, còn đọc là Tuấn, có nghĩa là nhanh mạnh. Nay đọc
theo âm sau.
Khi con sư tử sắp
có một hành động quyết định gì, thì ắt lông nó phải hùng hổ xù ra, thân nó
nhanh mạnh rướn lên rồi mới có hành động quyết định. Ý nói nay Phật quyết định
thuyết về các sự diệu mầu tự ba thân Phật làm ra.
4) Uy mãnh lực,
chính tác sở tác, tỏ mọi uy lực, chế phục tồi phá, vì tồi phá những điều chẳng
tin khác.
Hoặc do trí tuệ,
cho nên phấn tấn. Do thần thông, cho nên uy mãnh.
Hoặc trí tuệ tức
là hai thân Pháp Báo. Ba thứ sau tức là Thần biến, Ký tâm và Giáo giới, đó là
ba thứ công dụng theo thứ tự của hóa thân vậy.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “các ngươi nhất tâm
nghe”.
Tán rằng : đây là
4 tụng, chia làm hai :
- 2 tụng đầu :
khuyên chớ sinh nghi, hứa sẽ thuyết cho.
- 2 tụng sau : nói
rõ Phật nói lời thật, khuyên hãy nhất tâm lắng nghe.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “khiến phát đạo ý”.
Tán rằng : dưới là
mục thứ sáu : chính thức giải đáp. Có ba phần :
- Phần đầu : bảo
rằng ta đã giáo hóa.
- Phần sau :
thuyết minh về trụ hạnh.
- Phần cuối : 1
tụng cuối cùng : kết luận khuyến sinh tín.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Các
Bồ tát này” tới “chính niệm”.
Tán rằng : dưới là
thuyết minh về trụ hạnh. Có sáu mục. Đây có hai mục :
1) Trụ xứ.
2) Giải
kinh.
“Thông lợi” là văn
tuệ.
“Tư duy” là tư
tuệ.
“Ức niệm” là tu
tuệ.
*
-Kinh văn : “A Dật
Đa” tới “cầu vô thượng tuệ”.
Tán rằng : đây có
bốn mục :
1) Ưa tĩnh. 3) Ưa
thâm trí.
2) Tinh tiến. 4)
Cầu vô thượng tuệ.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “khiến phát đại đạo
tâm”.
Tán rằng : đây là
7 tụng rưỡi, tụng về những điều trước kia. Trong chia làm 5 phần :
- Phần
đầu : 1 tụng rưỡi.
- Phần thứ
hai : 1 tụng rưỡi.
- Phần thứ
ba : 1 tụng.
- Phần thứ
tư : 1 tụng rưỡi.
- Phần thứ
năm : 2 tụng.
Đây là phần đầu :
1 tụng rưỡi này nêu lên sự giáo hóa của Phật.
*
-Kinh văn : “Bọn
này là con ta” tới “vì để cầu Phật đạo”.
Tán rằng : đây là
hai phần kế :
- 1 tụng rưỡi đầu,
tụng về ưa tĩnh.
- 1 tụng sau, tụng
về tinh tiến.
* Chữ [憒] đọc là Hội, chỉ tâm loạn. Chữ [ ] đọc là Náo :
chẳng tĩnh thì là náo. Cũng viết là [鬧].
*
-Kinh văn : “Tại
thế giới Sa bà này” tới “đều sẽ được thành
Phật”.
Tán rằng : đây là
hai phần cuối :
- 1 tụng rưỡi đầu,
tụng về trụ xứ và thâm trí.
- 2 tụng sau, kết
luận ta (chỉ Phật Thích Ca) thành đạo rồi giáo hóa.
Những người được
ta giáo hóa lức xưa ở xứ sở Già Da này, ngày nay đến đây ; chứ chẳng phải ngày
nay hiện ở tại Già Da. Như nói thường tại núi Linh Sơn, chẳng phải là núi thường
tại, vì có nghĩa là ở tại chốn núi ấy. Thành này cũng thế.
*
-Kinh văn : “Ta
nay nói lời thật” tới “giáo hóa các chúng
này”.
Tán rằng : đây là
1 tụng kết luận, khuyên hãy sinh tín.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Di Lặc” tới “Tam Bồ Đề”.
Tán rằng : đây là
mục thứ 7 trong 8 mục của đoạn lớn thứ tư : tâm niệm của đại chúng.
*
-Kinh văn : “Liền
bạch Phật rằng” tới “hơn bốn mươi
năm”.
Tán rằng : đây là
mục thứ 8 của đoạn lớn thứ tư : tỏ lời thỉnh Phật. Có hai phần lớn :
- Phần lớn đầu, là
văn trường hàng, lại chia làm ba phần :
1. Phần đầu : nêu
ra sự khó.
2. Phần sau : nêu
ra dụ khó.
3. Phần cuối :
chính thức bày tỏ về những điều nghi nan (xin giải đáp).
Văn ở phần đầu này
lại có hai mục :
1) Mục đầu : nêu
ra nơi chốn và tuổi tác lúc thành đạo.
2) Mục sau :
chính thức bày tỏ điều nghi nan.
Đây là mục
đầu.
“Thành Già Da” :
là nơi cực kỳ hiểm yếu kiên cố, ít dân cư, chỉ có người thuộc đẳng cấp Bà la
môn, chưa tới một ngàn nhà, đó đều là giòng dõi thuộc chủng tộc người tiên,
chẳng phải phụng sự các bậc vương công, được mọi tầng lớp sang hèn đều ngưỡng
mộ, dân cư trong thành được thuộc giòng dõi ưu việt, cả nước đều biết. Thành
này nằm trong cõi nước Ma Kiệt Đề (có chỗ phiên là Ma Kiệt Đà), mặt phía nam
rất gần vị trí cây Bồ đề của đức Phật. Cho nên nói là “chẳng xa”.
Lại nói Già Da đó
là nơi sinh của Phật, là đô thành của nước Ca Duy La. Phật thành đạo dưới cây
Bồ đề tại nước Ma Yết Đà (tức là Ma Kiệt Đề). Hai địa điểm này đều ở trung
Thiên Trúc, cách nhau rất gần. Cho nên nói là “chẳng xa”.
Phật chứng đắc đại
Bồ đề, “từ đó đến nay mới hơn 40 năm”. Về nghĩa này, đại để có hai thuyết :
1) Có các bộ phái
nói rằng : (Phật) 19 tuổi xuất gia, 30 tuổi thành đạo.
Bản Khởi Nhân Quả
kinh nói : Phật 19 tuổi xuất gia. Tư Duy Vô Tướng Tam Muội kinh nói : Ngài 30
tuổi thành đạo.
Trí Độ luận nói :
lúc Phật sắp sửa Niết bàn bảo với Tu Bạt Đà La rằng : “ta 19 tuổi xuất gia đã
cầu Phật đạo. Từ khi xuất gia tới nay đã quá 50 năm”. Chẳng nói rõ lúc thành
đạo. Thực ra lúc ấy Phật đã 80 tuổi rồi.
Về điểm này, có
chỗ giải thích rằng : (Phật) 19 tuổi xuất gia, sau đó 5 năm theo tiên tu lạc
hạnh, 6 năm tu khổ hạnh, năm 30 tuổi thành đạo. Cho nên bảo với Tu Bạt Đà La là
quá 50 năm. Trong Trí Độ luận dùng nghĩa này, tức là dựa theo thuyết này. Nay
nói thành đạo 40 năm, thì lúc hội Pháp Hoa này, Phật mới 70 tuổi.
2) Cũng có các bộ
và trong đại thừa nói rằng : (Phật) 29 tuổi xuất gia, 35 tuổi thành đạo. (Các
kinh) Tăng Nhất A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Xuất Diệu kinh và Hòa Tu Mật
luận đều nói : Phật 29 tuổi xuất gia.
Bi Hoa kinh, Thiện
Kiến luật đều nói : 35 tuổi thành đạo. Bản Khởi kinh nói rằng : Khi Phật muốn
xuất gia, chỉ vào bụng bà Da Thâu mà nói rằng : “6 năm sau nàng sẽ sinh con trai”.
Thế rồi bà mang thai La Hầu. Phật tu 6 năm khổ hạnh, vào đêm ngài thành đạo thì
La Hầu mới sinh. Chỉ nói La Hầu 6 năm ở trong thai. Chẳng nói 11 năm trong bụng
mẹ.
Cho nên biết là
(Phật) 29 tuổi xuất gia, 35 tuổi thành đạo. Trong 6 năm kiêm tu lạc hạnh, ngồi
ở chỗ ông A Lam Ca Lam đắc Vô sở hữu xứ định; theo học ở chỗ ông Uất Đầu Lam Tử
thì đắc Phi tưởng xứ định. Pháp sư Bồ Đề Lưu Chi dẫn kinh kệ rằng :
Tám năm làm con
nít.
Bảy năm làm đồng
tử.
Bốn năm học ngũ
minh.
Mười năm thụ ngũ
dục.
Sáu năm tu khổ
hạnh.
Ba mươi lăm thành
đạo.
Trong bốn mươi lăm
năm.
Giáo hóa các chúng
sinh.
Chân Đế tam tạng
và Hòa thượng Tây vực ký v.v… đều nói : (Phật) 29 tuổi xuất gia, 35 tuổi thành
đạo. Kinh Kim Quang Minh nói : Phật thọ 80 tuổi, nay nói “thành đạo đã hơn 40
năm”, tức là 75 tuổi. Nếu gộp cả năm mới thành đạo lại tính thì là 41 năm, đó
gọi là “hơn bốn mươi năm”.
*
-Kinh văn : “Thế
tôn cớ sao” tới “Tam Bồ Đề”.
Tán rằng : dưới là
chính thức bày tỏ điều thắc mắc (nghi nan), có hai ý :
• Đầu tiên là nêu
ra ba sự.
• Sau đó kết luận
là khó tin.
Nêu ra ba sự gồm :
1) Thời gian ít mà
sự lại lớn.
2) Thời gian bức
xúc mà đại chúng lại đông.
3) Thời gian ngắn
ngủi mà đức lại thắng trội.
Đây là mục đầu :
đã tới thượng vị, sẽ thành Bồ đề, đó gọi là sự lớn.
*
-Kinh văn : “Thế
tôn” tới “chẳng nắm được giới hạn”.
Tán rằng : đây là
thời gian bức xúc mà đại chúng lại đông. Trên nói cho đến lúc này rất ít thời
gian. Điều này quán xuyến cả hai mục dưới.
*
-Kinh văn : “Bọn
này từ lâu” tới “thường tu phạm
hạnh”.
Tán rằng : đây là
thời gian ngắn mà đức lại thắng trội. Quan sát thấy họ lâu nay gặp duyên trồng
thiện, chẳng phải là tu ít thời gian.
*
-Kinh văn : “Thế
tôn” tới “điều mà thế gian khó tin”.
Tán rằng : đây là
kết luận thành ra khó tin. Do ba sự này mà khó tin sự giáo hóa của Phật.
*
-Kinh văn : “Ví
như có người” tới “sự đó khó tin”.
Tán rằng : dưới
đây là phần thứ hai : nêu ra dụ khó.
“Sắc đẹp” là ví dụ
với tướng hảo trang nghiêm của Phật.
“Tóc đen” biểu thị
Phật dù 80 tuổi nhưng không có tướng già, vì lúc nào cũng thích về thăm chốn cũ
(hiếu tuần cựu xứ).
Đại Bát Nhã kinh
trong phần nói về 80 tướng tốt của Phật có nói rằng : “thường trẻ chẳng già,
thích thăm chốn cũ”.
“Tuổi 25” biểu
trưng cho Phật tuy đã ra khỏi vòng sinh tử, nhưng vẫn thị hiện ở 25 cõi. Trên
đây biểu thị Phật thành đạo cực gần : giả thử tuổi 80 mà chỉ như 25.
“Chỉ vào người
trăm tuổi” : biểu thị Bồ tát được (Phật) giáo hóa đức cả vị cao, trăm phúc
trang nghiêm. “Bảo rằng ta sinh thành dưỡng dục”, khiến đạo ấy lâu dài, “sự này
khó tin”.
*
-Kinh văn : “Phật
cũng như vậy” tới “rất là hiếm có”.
Tán rằng : dưới
đây là phần thứ ba : chính thức bày tỏ những điều nghi ngờ, có ba :
• Phần đầu : nhắc
lại sự bị nghi ngờ.
• Phần hai : đoạn
từ “ngày nay” trở xuống : chính thức bày tỏ ý nghi ngờ.
• Phần cuối : đoạn
từ “chúng con tuy vẫn” trở xuống : nói rõ lý do nghi ngờ.
Đây là phần đầu,
có hai mục :
- Mục đầu nhắc lại
: Phật thành đạo thời gian bức xúc.
- Mục sau nhắc lại
: bảy đức của Bồ tát rất lớn.
Bảy f đức của Bồ tát gồm :
1) Thời gian tu
dài. 5) Tu lâu phạm hạnh.
2) Siêng tinh
tiến. 6) Năng tập pháp.
3) Định tự tại. 7)
Khéo vấn đáp.
4) Đắc thần thông.
Cho nên là “bậc
đáng quí trong loài người”.
*
-Kinh văn : “Ngày
nay Thế tôn” tới “việc công đức lớn
này”.
Tán rằng : đây là
chính thức bày tỏ ý nghi ngờ.
*
-Kinh văn : “Chúng
con tuy vẫn” tới “cũng chẳng sinh nghi”.
Tán rằng : đây là
bày tỏ lý do nghi ngờ, có ba phần :
- Phần đầu : nói
rõ bản thân có thể thông hiển.
- Phần sau : nói
rõ người khác còn nghi hoặc.
- Phần cuối :
chính thức thỉnh Phật giải quyết.
Tuy bản thân tôi
không nghi ngờ gì, nhưng thị hiện ra tướng chẳng liễu giải (chẳng hiểu), thỉnh
(Phật) giải quyết điều nghi hoặc của tôi. Sẽ tùy theo lời (Phật) tuyên thuyết mà
rất tin tưởng, vì được Tín thành tựu. Sẽ đạt đến sự hiểu biết của Phật, vì được
Chứng thành tựu. Vì lời Phật chẳng dối, Tứ (đế) chẳng sai.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Di Lặc” tới “như thực phân biệt thuyết”.
Tán rằng : dưới là
14 tụng chia làm ba phần :
- Phần đầu, gồm 5
tụng : nêu sự kiện khó tin.
- Phần sau, gồm 2
tụng : tụng dụ là khó tin.
- Phần cuối, gồm 7
tụng : bày tỏ điều nghi nan thỉnh Phật giải đáp.
Đây là phần đầu,
có ba ý :
+ 1 tụng : lúc
xuất gia gần.
+ 3 tụng : Bồ tát
đức cao khó tin.
+ 1 tụng : thành
tựu của Phật rất nhiều, thỉnh Phật giải quyết mối ngờ.
*
-Kinh văn : “Ví
như người trẻ khoẻ” tới “cả thế gian chẳng
tin”.
Tán rằng : đây là
tụng về dụ. “Tóc bạc và da nhăn” : đây cùng trường hàng bổ sung thuyết minh lẫn
cho nhau.
“Cha” : nói rằng
cha thì “sắc đẹp tóc đen”, tượng trưng cho sự đầy đủ tướng hảo, về thăm chốn cũ
(của Phật).
“Con” : nói rằng
con thì “tóc bạc da nhăn”, tượng trưng cho sự tu lâu mà vẫn còn thiếu sót (của
Phật tử).
“Tóc bạc” : tượng trưng
cho thánh đạo phải tu lâu. “Da nhăn” : tượng trưng tuy có tướng hảo nhưng chưa
viên mãn.
* Chữ [鶵] (da dẻ nhăn nheo) đọc là Sô.
*
-Kinh văn : “Thế
tôn cũng như vậy” tới “trụ hư không phương
dưới”.
Tán rằng : dưới
là 7 tụng, tụng về mục bày tỏ về điều nghi nan thỉnh Phật giải đáp, chia làm 2
phần :
• Phần đầu, gồm 4
tụng : lặp lại sự kiện có nỗi nghi.
• Phần sau, gồm 3
tụng : bày tỏ điều nghi, thỉnh Phật giải đáp.
Đây là phần đầu,
có ba mục :
- Nửa tụng đầu :
Phật thành đạo gần.
- 3 tụng sau : tán
thán Bồ tát có mười đức.
- Nửa tụng cuối :
thuyết minh trụ xứ.
*
-Kinh văn : “Chúng
con nghe theo Phật” tới “mà trụ Bất thoái
địa”.
Tán rằng : đây là
chính thức bày tỏ điều nghi hoặc, thỉnh Phật giải đáp, chia làm bốn mục :
1) Nửa tụng đầu :
bản thân không nghi.
2) Nửa tụng kế :
người khác có điều nghi hoặc.
3) Một tụng sau :
nếu nghi thì sẽ bị tổn thất.
4) Một tụng cuối :
chính thức thỉnh Phật thuyết.
PHẨM THỌ LƯỢNG
Ba môn phân
biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG
Ý.
Có năm ý :
1. Trong 7 phẩm
học hành lưu thông thì 6 phẩm dưới phẩm Dũng Xuất nói về người có thể học hành.
Trong đó chia làm bốn. Đoạn thứ hai Thọ Lượng và Phân Biệt Công Đức, nhân giải thích
điều nghi hoặc trước mà các phẩm lần lượt được nảy sinh. Trong phần trước
thuyết minh về Dũng Xuất, đều nói về sự giáo hóa của Phật, ngôi cao, chúng
đông, trong hội lúc ấy sinh ra nghi hoặc. Nay vạch rõ pháp thân vốn không khởi
diệt, hóa Phật gần đây mới thành, nhưng báo thân từ lâu đã chứng, cho nên Phật
giáo hóa chúng Bồ tát dũng xuất ấy thì có gì mà nghi ngờ ? Cho nên, sau Dũng
Xuất thì thuyết minh về phẩm Thọ Lượng,
2. Trong 19 phẩm
chính tông thì 5 phẩm dưới thuyết minh về quả nhất thừa. Trong đó chia làm hai
phần :
- 2 phẩm đầu,
thuyết minh về quả đã mãn.
- 3 phẩm sau,
thuyết minh về quả chưa mãn.
Trong phần đầu
chia làm hai mục :
- Mục đầu thuyết
minh về quả đã mãn.
- Mục cuối nói rõ
đại chúng lúc ấy nhân đó mà chứng đắc khác nhau. Cho nên mới có phẩm này.
3. Trong phần luận
nói về đối trị bảy mạn thì loại thứ bảy là người không có công đức, loại người
này đối với đệ nhất thừa chẳng tích tập thiện căn và chẳng tranh thủ, đó là
loại đệ nhất tăng thượng mạn. Để đối với trị loại này, thì thuyết về ví dụ thầy
thuốc.
Luận còn nói rằng
: Loại người thứ bảy là loại căn chưa thuần thục. Để khiến họ căn cơ thuần thục
cho nên thị hiện Niết bàn lượng. Hiện tại chưa tích tập thiện căn thì gọi là
căn chưa thuần thục. Khiến họ tích tập thiện căn, mong muốn tranh thủ đệ nhất
thừa, thị hiện Phật nhập Niết bàn, phân hạn thì gọi là lượng. Khiến họ gom góp thiện
căn, rồi sau mới điều hóa, thầy thuốc đã ở tại phẩm này. Cho nên mới có phẩm
này.
4. Luận nói rằng :
trong mười thứ Vô thượng thì cái thứ tám là thị hiện thành đại Bồ đề Vô thượng.
Cho nên thị hiện ba loại Phật Bồ đề. Ba thân ở đó, cho nên có phẩm này. Đây là
văn tàn, vì trong bảy dụ chỉ thuyết về thầy thuốc ở hậu văn, chẳng thuyết về
Phật ở sơ văn.
5. Vì trong mười
thứ Vô thượng thì cái thứ chín là Thị hiện Niết bàn Vô thượng, cho nên thuyết
dụ về thầy thuốc. Trong trừ bảy mạn nói trên, thuyết về thầy thuốc là vì hóa
căn (của chúng sinh) chưa thành thục, nên (Phật) thị hiện nhập diệt khiến căn
của họ thành thục. Ở đây thuyết về thầy thuốc, là để nêu rõ Phật nhập
Niết bàn hóa diệt nhưng thực ra chẳng diệt. Chẳng phải như nhị thừa diệt là
diệt hẳn. Cho nên gọi là vô thượng. Đây chính là nghĩa tàn trong bảy dụ.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
“Như Lai” : là tên
chung của cả pháp thân, báo thân và hóa thân.
“Thọ” : là mệnh sở
thụ.
“Lượng” : chỉ hạn
lượng bằng nhau (tề hạn).
Phẩm này thuyết
minh về ba loại Phật thân, mệnh thể hạn lượng bằng nhau, dựa vào pháp tính, tùy
nguyện duyên, ứng các cơ, thụ tự thể. Nay nói rõ mệnh của ba loại Phật này có
hạn lượng bằng nhau, cho nên gọi là Như Lai Thọ Lượng phẩm.
“Thọ lượng” : chỉ
biếm lượng, giảo lượng Phật thọ lượng, khen chê, so đọ, trù tính thọ mệnh của
ba Phật.
* Chữ [壽] đọc là Thọ. Chữ [量] đọc là Lường, cũng đọc
là Lượng, nghĩa đều giải thích như trên. Vì vậy cho nên gọi là Thọ lượng.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
-Hỏi : vì sao
chẳng lấy y sư (thầy thuốc) đặt tên cho phẩm này mà lại lấy thọ lượng làm tên
phẩm ?
Đáp : nhân thọ
mệnh của ba thân, mới mượn ví dụ về y sư, cho nên đặt tên theo cái gốc là “thọ
lượng”, chứ chẳng lấy y sư làm tên gọi của phẩm.
-Hỏi : như ở phần
I giải thích về dụng ý của phẩm này, nói rằng : trước tiên trình bày về thọ
lượng để trừ thói tăng thượng mạn cho hạng người chẳng gom công đức, căn chưa
thuần thục. Vậy cớ sao phẩm này chẳng phải là chính tông Pháp Hoa, mà lại thuộc
về lưu thông phần ?
Đáp : đương cơ ứng
thời thì liền thành thục về nhất thừa. Chính tại Thanh văn, nên là chính tông.
Tỏ rõ sự giáo hóa sau khi Phật nhập diệt, căn cơ ban đầu chưa thành thục, cho
nên chẳng phải là chính thuyết. Bởi vậy tuy thuyết thọ lượng, chẳng thụ ký cho
Thanh văn, dẫu thuyết về thầy thuốc, cũng không có Thanh văn thụ ký. Vì vậy Trí
Tích trước đã xin về. Chẳng thế nửa đường, sao mà vội xin về như vậy ? Do đó
phẩm này chỉ là lưu thông. Nói là chính tông, thì không có điều thắc mắc này.
*
-Kinh văn “Bấy
giờ Phật bảo” tới “lời chân thành của
Như Lai”.
Tán rằng : phẩm
này có ba phần :
- Phần đầu : Thích
Ca ba lần dặn dò.
- Phần hai : Di
Lặc bốn lần thỉnh cầu.
- Phần cuối : Như
Lai chính thức bảo ban.
Đây là phần đầu.
Ba thân diệu thể,
địa vị tại cực quả, bậc thượng trí còn chẳng thể lường, kẻ hạ ngu do đâu mà
hiểu nổi. E rằng họ tâm sẽ nghi ngờ, miệng sẽ phỉ báng, do pháp mà có sự hủy
hoại, cho nên (Phật) đã dặn đi dặn lại, rồi sau mới chính thức thuyết pháp cho.
Lại sợ họ tai chẳng chuyên chú vào pháp giáo, tâm ý chẳng nhằm vào tông chỉ huyền
diệu.
Thêm nữa, chúng
sinh tính độn, nghe rồi chẳng thể hiểu nổi. Muốn khiến pháp nhập tâm họ, cho
nên bảo ban hai ba lượt. Vì thuyết về ba thân cho nên phải bảo ba lượt.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Bồ tát” tới “tín thụ lời Phật”.
Tán rằng : đây là
Di Lặc bốn lần thỉnh cầu.
Phật đã từ bi bảo
ban ba lượt. Đại chúng sao được hững hờ. Cho nên thêm bốn lần thỉnh, biểu thị
nặng lòng cầu pháp. Ba lần chỉ bảo, thuyết về ba thân. Bốn lần thỉnh cầu, vì ba
thân mỗi thân đều bốn.
Cầu bốn đức, mong
bốn trí, tế độ tứ sinh. Đó là ý này vậy.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “lực thần thông”.
Tán rằng : dưới là
mục Như Lai chính thức bảo ban. Trong trường hàng ở đầu chia làm hai phần :
• Phần đầu : dặn
dò phải chú ý nghe.
• Phần sau : chính
thức thuyết về thọ lượng.
Đây là phần
đầu.
“Ba lần thỉnh” :
là ba lần đầu.
“Bí mật” : là thể
thâm diệu của hai thân Pháp Báo.
“Thần thông” : là
hóa thân ứng với vật mà thị hiện.
Do Phật cất chứa
giữ gìn, nên gọi là “Bí”. Nghĩa sâu khó giải, nên gọi là “Mật”. Diệu dụng vô
phương thì gọi là “Thần”. Thể không che chắn nên gọi là “Thông”. Hai thứ này uy
thế khó thể khuất phục, nên gọi là “Lực”.
Thêm nữa Đối Pháp
v.v… nói có bốn (thứ) bí mật. Ở trong Phương quảng, bí mật của Phật đều nên
quyết liễu (lý giải dứt khoát, thấu hiểu cặn kẽ) :
1. Linh nhập bí
mật : chỉ (bí mật) vì Thanh văn mà thuyết về sắc v.v… là có, để khiến họ không
sợ hãi, dần dần nhập thánh giáo, chứ chẳng phải hết thảy đều là có.
2. Tướng bí mật :
có nghĩa là y vào ba tự tính mà nói hết thảy pháp đều là không có tự tính,
không sinh diệt v.v… , phá hữu tướng mà họ chấp trước, nên nói là không có, chứ
chẳng phải là hết thảy đều không có.
3. Đối trừ bí mật
: để đối trừ các điều lầm lỗi, cho nên Phật đã thuyết giáo nhiều điều. Ngài đã
thuyết về tối thượng thừa để trừ tám chướng :
1) Trừ khinh Phật.
2) Trừ khinh pháp.
Cho nên ngài nói ta đã từng có tên gọi là Thắng Quán Như Lai, vì pháp
thân không có sự khác biệt.
3) Trừ giải đãi
(lười biếng) : như nói nguyện sinh ở thế giới Cực lạc đều được vãng sinh v.v…
4) Trừ tiểu thiện,
sinh hỉ túc (trừ thói mới có điều thiện nhỏ đã hí hửng thỏa mãn). Đối với một
thiện căn hoặc khen hoặc chê.
5) Trừ tham hành.
Ca ngợi cõi Phật giàu có sung sướng đẹp đẽ trang nghiêm.
6) Trừ mạn hành.
Ca ngợi chư Phật hoặc có sự tăng thắng.
7) Trừ ác tác hối
tu thiện chướng (trừ chướng làm ác, hối hận về việc tu thiện). Ngài nói rằng : những
kẻ đối với Phật v.v... tuy đã có các hành động khinh mạn, chê bai, song các hữu
tình đó vẫn sinh ở cõi trời.
8) Trừ bất định
tính chướng (trừ chướng bất định tính). Khiến họ từ bỏ ý thích hèn kém của hạng
Thanh văn, thụ ký cho các bậc đại Thanh văn sẽ được làm Phật. Lại nói chỉ có
một Phật thừa duy nhất, không có thừa thứ hai.
4. Chuyển biến bí
mật : như nói giác bất kiên là kiên, khéo trụ ở điên đảo cực phiền não sở não,
đắc tối thượng Bồ đề. Các thứ ẩn mật như vậy gọi là Dùng ngôn ngữ giải thích khiến
cho khác đi. Bí mật trong này tức là bí mật thứ ba : Đối trừ bí mật. Do có kẻ
khinh Phật đức và có tham mạn hành, nên Phật thuyết về thân Phật khác, lấy đó
làm tự thể, đó là để ca ngợi Phật, như kinh phần sau đã nói “Này thiện nam tử !
nơi chặng giữa này thuyết về Nhiên Đăng Phật v.v… như vậy đều là dùng phương tiện
mà phân biệt”.
Nói “thần thông”,
có nghĩa là những người được Phật giáo hóa rất đông. Phật đã dùng thần lực mà
giáo hóa họ, khiến họ phát tâm.
*
-Kinh văn : “Hết
thảy thế gian” tới “Tam Bồ Đề”.
Tán rằng : dưới là
chính thức thuyết về thọ lượng, theo luận thì chia làm hai đoạn :
• Đoạn đầu :
thuyết minh về Bồ đề vô thượng.
• Đoạn sau : từ
“Này các thiện nam tử ! Thọ mệnh của ta vốn tu hành đạo Bồ tát mà thành” trở
xuống, thuyết minh lại về tướng sai biệt của hai thân Báo Hóa, Niết bàn vô thượng.
Trong văn đầu luận
chia làm ba đoạn, để thị hiện ba Phật Bồ đề :
1. Ứng hóa Bồ đề :
tùy theo sự cảm ứng của chúng sinh mà thị hiện. Cho nên như kinh văn : “đều nói
rằng Như Lai xuất thân từ cung họ Thích, cách thành Già Da không xa, ngồi nơi
đạo tràng, chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ đề”. Đó tức là đoạn kinh văn
này.
2. Báo Phật Bồ đề
: Thập địa đã tu hành đầy đủ, được “Thường Niết bàn” như kinh đã nói : từ “Này
thiện nam tử ! Ta thực sự thành Phật cho tới nay đã trải vô lượng vô biên trăm
ngàn vạn ức na do tha kiếp” trở xuống. Đó là đoạn kinh văn ở sau.
3. Pháp Phật Bồ đề
: chỉ Như Lai tạng tính “Tịnh Niết bàn”, thường hằng thanh tịnh bất biến, như
trong kinh đã nói : từ “Như Lai thấy biết tướng của ba cõi đúng như thực” cho
tới “chẳng như ba cõi thấy như ba cõi” trở xuống. Đây là đoạn kinh văn cuối.
Đây là căn cứ vào
Vô thượng đầu có đủ ba thân coi là ba nghĩa.
CÁC CÁCH PHÂN LOẠI PHẬT THÂN
Các kinh luận
phân chia Phật thân ra làm 1, 2, 3, 4 và 10 loại như sau :
I. Chỉ 1 Phật thân
:
Có tên gọi chung
là Phật bảo.
II. Chia làm 2
loại :
II. 1 - Theo Phật
Địa luận :
1) Sinh thân.
2) Pháp
thân.
Pháp thân, thực
báo gọi là Pháp thân, vì là công đức thực. Tha báo, hóa thân, đều gọi là Sinh
thân.
II. 2 - Theo Bát
Nhã luận :
1) Chân Phật
2) Phi chân
Phật.
- Loại đầu là Pháp
thân.
- Loại sau là hai
thân còn lại.
III. Chia làm 3
loại :
Tức là ba Phật Bồ
đề nói ở đây.
IV. Chia làm 4
loại :
IV. 1 - Theo Kinh
Lăng Già :
1) Ứng hóa Phật.
3) Trí tuệ Phật.
2) Công đức Phật.
4) Như như Phật.
Loại đầu là hóa
thân. Hai loại sau là báo thân. Loại cuối cùng là pháp thân.
IV. 2 - Theo Kinh
Kim Quang Minh :
1) Hóa phi ứng,
Phật vì vật mà thị hiện thành hình rồng, quỉ, chẳng phải là thân Phật. Đó gọi
là Hóa phi ứng.
2) Ứng phi hóa,
chỉ Phật thân mà Bồ tát địa tiền nhìn thấy, dựa vào định mà thị hiện. Đó gọi là
Ứng phi hóa. Tức là 1 đại thiên, 1 ứng thân mà 4 thiện căn nhìn thấy.
3) Diệc ứng diệc
hóa (vừa ứng vừa hóa), chỉ Phật thân mà Thanh văn nhìn thấy. Hiện tướng tu
thành, nên gọi là “ứng”, thấy đồng loại với người nên gọi là “hóa”.
4) Phi ứng phi
hóa, chỉ chân thân của Phật.
Ba loại đầu là hóa
(thân). Còn loại cuối cùng là pháp (thân) báo (thân).
IV. 3 - Theo Phật
Địa luận :
1) Thụ dụng phi
biến hóa, đó gọi là Tự thụ dụng thân.
2) Biến hóa phi
thụ dụng, đó gọi là Biến hóa thân, hóa loại địa tiền.
3) Diệc thụ dụng
diệc biến hóa (vừa là thụ dụng vừa là biến hóa), chỉ Tha thụ dụng thân, hóa
Thập địa Bồ tát.
4) Phi thụ dụng,
phi biến hóa, chỉ pháp thân.
V. Chia làm 10
loại :
Kinh Hoa Nghiêm
nói có 10 loại Phật thân :
1) Vô trước Phật,
vì an trụ thế gian thành chính giác. Phật Địa luận gọi là Hiện đẳng giác Phật.
2) Nguyện Phật, vì
nguyện xuất sinh. Đó gọi là Hoằng thệ nguyện Phật.
3) Nghiệp báo
Phật, vì Tín thành tựu, các hành đều là nhân, nhưng chỉ nói về một hành là Tín.
Đó gọi là Nghiệp dị thục Phật.
4) Trì Phật, vì
tùy thuận thế gian, chẳng đoạn tuyệt. Đó gọi là Trụ trì Phật.
5) Niết bàn Phật, vì
thị hiện diệt độ. Đó gọi là Biến hóa Phật.
6) Pháp giới Phật,
vì thị hiện ở hết thảy mọi chốn.
7) Tâm Phật, vì
thị hiện an trụ, hai loại tên Phật này có tên gọi giống vậy.
8) Tam muội Phật,
vì thành tựu vô lượng công đức không hề chấp trước. Đó gọi là Định Phật.
9) Tính Phật, vì
thiện quyết định. Đó gọi là Bản tính Phật.
10) Như ý Phật, vì
che khắp. Đó gọi là Tùy lạc Phật.
Năm loại đầu
là thế tục Phật, năm loại sau là thắng nghĩa Phật.
Tùy theo sở ứng mà
bao gồm trong 3 thân :
- 5 loại đầu thuộc
hóa thân, gọi là thế tục (Phật).
- 1 loại Pháp giới
Phật thì thuộc về pháp thân.
- 1 loại Bản tính
Phật thì gồm chung cả pháp thân và thụ dụng thân.
- 3 loại còn lại
chỉ là thụ dụng thân.
Luận nói rằng :
năm loại này là thắng nghĩa (Phật). Tuy pháp thân và thụ dụng thân chẳng đồng
hình. Loại biến hóa thân trước đây đều là Thắng nghĩa (Phật).
Đối chiếu phẩm
Quán Như Lai trong kinh Vô Cấu Xưng và Sớ Kinh Lăng Già nói rằng : “Đại Tuệ !
Pháp Phật thì thuyết pháp lìa phan duyên, vì lìa năng quán, sở quán, sở tác
tướng lượng v.v… Đại Tuệ ! Báo Phật thì thuyết về tự tướng, đồng tướng của mọi
pháp, do tự tâm mà hiện tướng huân tập. Cho nên nói ví như nhà ảo thuật biến
hóa ra hình tượng, những người ngu si liền cho đó là thực, nhưng các hình tượng
hư huyễn kia thật ra chẳng có thể nắm bắt được. Đó gọi là phân biệt hư vọng
pháp thể. Đại Tuệ ! Hóa Phật thì thuyết về các pháp Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tiến,
Thiền định, Trí tuệ, Ấm, Giới, Nhập v.v…
Kinh Bát Nhã nói
rằng : “Ứng hóa chẳng phải là chân Phật, cũng chẳng phải là người thuyết pháp
v.v… vì xét công đức qui về gốc chỉ có pháp thân mà thôi”. Vì kinh đó chủ yếu
thuyết minh về chân pháp thân, cho nên nhân tiện thuyết minh sơ qua về nghĩa
của từ “Phật”, ba thân thành Phật thì như trong Di Lặc sớ. Biệt nghĩa thì như
Phật Địa luận, Duy Thức luận và Pháp Uyển đã nói.
Tuy thuyết về các
loại Phật thân có sự tăng giảm khác nhau, nhưng nay căn cứ vào chủng loại mà
xét, chẳng qua chỉ có hai loại :
1) Chân (thân). 2)
Hóa (thân).
Thân Phật mà
Bồ tát địa tiền và nhị thừa nhìn thấy, đó gọi là hóa thân. Hai thân Pháp, Báo
gọi là chân thân. Do lý này mà thuyết minh về ba Phật Bồ đề, trong đó chia làm hai
phần :
• Phần đầu thuyết
minh về (Phật) thân mà ba thừa nhìn thấy, ba thừa nghi ngờ.
• Phần sau thuyết
minh về chân thân (Phật) mà ba thừa chẳng biết.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn :
“Nhưng, thiện nam tử” tới “na do tha
kiếp”.
Tán rằng : dưới
đây là thuyết minh về chân thân mà ba thừa chẳng biết. Chia làm ba phần :
1. Phần đầu : nêu
rõ (Phật) thành đạo đã lâu.
2. Phần hai : giải
thích về thời gian từ lúc thành đạo cho tới nay.
3. Phần cuối : kết
luận thành thuyết trên. Đó là đoạn từ “Như ta từ lúc thành đạo cho tới nay
(khoảng thời gian) cực kỳ lâu dài” trở xuống.
Đây là phần
đầu.
Luận giải thích
chỉ nói về báo thân thành đạo. Song căn cứ vào thực tế thì :
- Báo thân tu
sinh, giác mãn gọi là thành.
- Pháp thân tu
hiển chứng viên thì gọi là thành.
(Như vậy) cũng có
gì sai đâu ! Trong này tuy chỉ nêu báo thân thành đạo đã lâu. Nhưng trong sự
giải thích của phần sau cũng nêu rõ pháp thân thể nghĩa.
*
-Kinh văn : “Ví
như năm trăm” tới “biết số ấy không
?”.
Tán rằng : dưới là
giải thích thời gian từ lúc thành đạo tới nay. Có hai phần :
1. Phần đầu : nói
rõ về báo thân Bồ đề từ khi thành đạo tới nay vốn lâu, nhưng vì chúng sinh mà
nói là gần.
2. Phần sau : là
đoạn từ “Này các thiện nam tử ! Kinh điển mà Như Lai thuyết” trở xuống : bí mật
thuyết về pháp thân, do chứng được thân này cho nên thực ra là thành đạo đã
lâu, nhưng để thích ứng với chúng sinh mà quyền nghi thị hiện. Đầu là trí năng
chứng, sau là lý sở chứng, vì hai đức : Trí đức và Đoạn đức, Trí và Trí xứ đã lần
lượt sáng tỏ.
Văn phần đầu có ba
mục :
1) Mục đầu : nêu
dụ vấn.
2) Mục hai: Di Lặc
v.v… đáp.
3) Mục cuối : Phật
giải thích rộng.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Di
Lặc Bồ tát” tới “vô lượng vô biên”.
- Tán rằng : đây là Di Lặc v.v… đáp. Có ba mục :
1) Nói chung về vô
lượng.
2) Nói rõ nhị thừa
chẳng biết.
3) Kết luận là vô
biên.
Có người nói “A
Duy Việt Trí địa”, nên phiên là A Bề Bạt Trí địa, có nghĩa là Bất thoái chuyển
địa (địa vị bất thoái chuyển).
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật bảo” tới “A tăng kỳ
kiếp”.
Tán rằng : dưới là
Phật giải thích rộng. Chia làm hai phần :
• Phần đầu : bảo
rõ báo thân thành đạo đã lâu.
• Phần sau : là
đoạn từ “Này các thiện nam tử ! Ở giữa khoảng đó” trở xuống : bảo rõ về hóa
thân, giải thích điều nghi hoặc của họ.
Văn phần đầu này
lại có hai phần :
1) Phần đầu thuyết
minh về số kiếp từ lúc thành đạo tới nay.
2) Phần sau thuyết
minh về trụ xứ hằng ở.
Phần đầu này lại
có hai mục :
a) Mục đầu : nêu ý
bảo rõ.
b) Phần sau : giải
thích là nhiều kiếp.
*
-Kinh văn : “Từ đó
tới nay” tới “dẫn dắt làm lợi cho chúng
sinh”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về trụ xứ hằng ở.
Tự thụ dụng thân
thực ra là ở khắp pháp giới, tướng trạng khó thấy, vì thế tùy theo tình huống
cụ thể nhằm giải thích tự thể, thì nêu tác dụng để hiển lộ thân ấy.
Nói rằng : có chỗ
sở tại riêng, vì chốn nào có khởi dụng thì thân ấy có ở đó. Cũng như hư không
rộng khắp, chốn nào vô ngại thì thể hiện rõ tướng của hư không. Cái Thể thực
của báo thân pháp thân thì đều viên mãn. Cái Dụng chứng tỏ các thân ấy tùy nghi
hiển lộ. Cho nên, Tự báo thân nêu tác dụng làø hiển hiện riêng.
Lại thuyết về Tha
thụ dụng thân dẫn dắt làm lợi cho hàng Thập địa Bồ tát, nêu tha sở tri để
thuyết minh về việc thành đạo đã lâu. Đó chẳng phải là Tự báo thân.
*
-Kinh văn : “Các
thiện nam tử” tới “phương tiện phân
biệt”.
Tán rằng : dưới là
bảo rõ về hóa thân, giải thích điều nghi hoặc của ho,ï có ba phần :
1. Tiêu thích (nêu
vấn đề và giải thích).
2. Biệt thích
(giải thích riêng).
3. Kết thích (kết
luận việc giải thích), đó là đoạn từ “Này các thiện nam tử ! Như Lai thấy các
chúng sinh” trở xuống.
Đây là phần đầu.
Các chúng sinh
khác có điều nghi rằng : (Phật) thành đạo đã lâu, thường giáo hóa ở cõi
này, như vậy thì trong khoảng thời gian đó các vị Nhiên Đăng (Phật), Tỳ Bà Thi
(Phật) v.v… thành đạo, nhập diệt, thuyết pháp, độ sinh lại là ai vậy ?
Nay nêu ra và giải
thích rằng : kinh nói “Ở chặng giữa này, nói Phật Nhiên Đăng v.v… thành đạo,
nhập diệt” như vậy đều là dùng phương tiện trí tuệ, khéo léo phân biệt thuyết về
tha báo Phật thân, chớ chẳng phải là lìa thân ta (chỉ thân Phật) ra còn có các
vị Phật đó.
*
-Kinh văn : “Các
thiện nam tử !” tới “các căn lợi
độn”.
Tán rằng : dưới là
giải thích riêng từng điều nghi hoặc. Có hai phần :
- Phần đầu :
thuyết minh sở do (nguyên do).
- Phần sau : tức
đoạn từ “tùy theo hạng đáng độ” trở xuống : nói rõ sự sai biệt.
Đây là phần
đầu.
Do các chúng sinh
phát tâm tu hành, nguyện thấy Phật, đó gọi là “kéo tới chỗ ta”, quán căn của họ
lợi độn khác nhau, cho nên :
- Vì hạng lợi căn,
ta nói thành đạo đã lâu ; vì hạng độn căn thì ta thị hiện là gần mới thành
đạo.
- Vì hạng lợi căn,
thì ta nói thành Chính giác ; vì hạng độn căn, thì ta thị hiện nhập Niết bàn.
- Vì hàng lợi căn
thì hiện đại thân ; vì hạng độn căn thì hiện tiểu thân.
- Vì hạng lợi căn
thì thuyết pháp sâu ; vì hạng độn căn thì thuyết pháp nông.
Tùy theo sự cảm
ứng của mỗi hạng mà thể hiện sự sai biệt.
*
-Kinh văn : “Tùy theo hạng đáng độ” tới “phát tâm hoan
hỉ”.
Tán rằng : đây là
thể hiện sự sai biệt.
Do những người kéo
tới căn tính khác nhau, cho nên Thế tôn tự nói tên mình khác nhau, từ khi thành
đạo tới nay năm tháng lâu mau, thân lượng lớn nhỏ khác nhau. Đó là thành đạo và
hiện nhập diệt, thị tướng (tướng thị hiện ra) khác nhau, thuyết pháp nhất nhị
thừa, tam tứ thừa, phương tiện khác nhau, để thích ứng với tâm họ, khiến họ đều
hoan hỉ.
Chỉ như hư không
trong vắt, như ngọc bích sáng trong suốt vô bờ, mặc cho nước cuốn ánh sáng,
thành cảnh huy hoàng tột bậc, nước trong thì bóng trăng hiện, nước đục thì bóng
trăng chìm, khí vật hiện ra toàn vẹn hay bị phá vỡ chẳng hề giống nhau, do sáng
hay tối mà có sự khác nhau. Đó chính là sự sai biệt giữa báo thân và hóa thân.
Văn này giải thích hai điều :
1) Chẳng phế bỏ
việc Thích Ca thực ra thành đạo đã lâu, nhưng hóa hiện ra là mới thành
đạo.
2) Nào có phế bỏ Ý
thú bình đẳng trong bốn ý thú, Bí mật đối trị trong bốn bí mật. Trừ các chướng
khinh Phật khinh pháp và phá mạn hạnh. Nói tha (thân khác) là tự (bản thân), ca
ngợi chư Phật và ca ngợi người thắng trội hơn (mình). Chẳng thế thì trước Phật
Nhiên Đăng, ai là người thụ ký biệt. Thế thì việc hóa hiện cũng có chỗ nào trái
ngược nhau đâu !
*
-Kinh văn : “Này
các thiện nam tử” tới “nên nói như vậy”.
Tán rằng : đây là
kết luận việc giải thích.
Vì thiện ít, vì
đức mỏng tội nhiều, cho nên cấu nặng. Ứng với tiểu khí thì là mới thành chính
giác. Đối với đại căn thì thực sự thành đạo đã lâu. Đó là phương tiện giáo hóa
chúng sinh, khiến họ nhập đạo, luôn luôn hiện ra để khiến họ khát ngưỡng.
*
-Kinh văn : “Này
các thiện nam tử” tới “đều thực chẳng hư
”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ hai : bí mật nói về pháp thân, do chứng thân này, nên thực thành đạo
đã lâu, nhưng để thích ứng với chúng sinh, nên quyền nghi thị hiện. Đoạn này có
ba phần :
1. Phần đầu là nêu
lên : để thích ứng với chúng sinh, nói bày chẳng giống nhau, nhưng đều chẳng
phải là xướng xuất ra một cách dối trá.
2. Phần sau là
giải thích : do chứng pháp thân cho nên có thể thị hiện ra sự này. Song căn cứ
vào chân lý thực tế thì vốn không có sự này.
3. Phần cuối là
đoạn từ “Vì các chúng sinh” trở xuống : giải thích lý do vì thích ứng với chúng
sinh mà quyền nghi thị hiện.
Đây là phần đầu,
có 3 ý :
1) Nêu ra.
2) Nói rõ.
3) Kết luận :
chẳng hư dối.
“Thuyết” : nghĩa
là ngôn thuyết. “Thị” : nghĩa là thị hiện.
“Thân” : tức nội thể.
“Sự” : nghĩa là sự nghiệp.
“Thuyết kỷ thân” :
nghĩa là thuyết về thân ta (tức thân Phật) đã từng làm vua các loài chúng sinh,
vua Tát Đoá, vua Thi Tỳ v.v…
“Thuyết tha thân”
: như nói Di Lặc trước kia là người tiên tên Nhất Thiết Trí Quang, Phật A Di Đà
xưa kia là Pháp Tạng tỳ kheo v.v…
“Thị kỷ thân” :
như hiện làm Thích Ca, thân tự xuất thế, khi Thắng Man từ xa thỉnh thì Phật
hiện ở không trung v.v…
“Thị tha thân” :
như hiện làm Phật Tỳ Bát Thi xuất hiện thế gian; mở tháp hiện ra Phật Đa Bảo
v.v…
“Thị kỷ sự” :
nghĩa là nói về các sự nghiệp của Phật Thích Ca như hàng ma, thành đạo, thuyết
pháp, hiện thần thông v.v…
“Thị tha sự” : như
nói về sự nghiệp của Phật Đại Thông Trí Thắng hiện thần thông, động địa phóng
quang, thành đạo v.v…
Để độ chúng sinh,
(Phật) có thể nói về các sự này, “đều thực chẳng dối”.
*
-Kinh văn : “Vì
sao như vậy” tới “không có sai lầm”.
Tán rằng : đây là
phần giải thích : do chứng pháp thân cho nên có thể thị hiện ra sự này. Song
chân lý vốn không có sự này.
Vì nguyên nhân gì
mà có thể vì chúng sinh mà thuyết và những điều nói ra đều chẳng dối như vậy ?
: do “như thực thấy” chân lý này.
Đây có năm câu.
“như thực thấy” là nói quán thông năm xứ :
1. Câu đầu : y vào
vọng xứ để hiển hiện pháp thân.
Luận nói rằng :
“tam giới tướng” có nghĩa là nói chúng sinh giới tức Niết bàn giới, chẳng lìa
chúng sinh giới, vì có tính chất của Như Lai tạng. Phẩm Phương Tiện nói : “thế gian
tướng thường trụ” tức là chỗ này.
2. Câu thứ hai : y
vào thường tịnh để hiển pháp thân.
Luận nói rằng :
“không có sinh tử dù thoái hay xuất”. Nghĩa là thường hằng thanh tịnh bất biến.
“Thoái” : nghĩa là
trầm luân (chìm đắm). “Xuất” : nghĩa là lìa khỏi mọi sự trói buộc.
Hoặc tức là sự
sinh đã diệt tận, nghĩa là pháp sinh tử có thoái có xuất, còn pháp chân thì
không có sự này, cho nên thường thanh tịnh.
3. Câu thứ ba : y
vào “bất tức bất ly” (chẳng phải chính là mà cũng chẳng lìa) để hiển pháp
thân.
Luận nói rằng :
“cũng không có tại thế và diệt độ” nghĩa là thể của Như Lai tạng chân như ,
chẳng phải chính là chúng sinh giới mà cũng chẳng lìa chúng sinh giới,
Vì “không tại thế
” cho nên chẳng phải chính là chúng sinh giới. Vì “không diệt độ” cho nên chẳng
lìa chúng sinh giới.
4. Câu thứ tư : y
vào “lìa bốn tướng” để hiển pháp thân.
Luận nói rằng :
“phi thực, phi hư, phi như, phi dị” nghĩa là lìa bốn loại tướng ; vì bốn loại
tướng đó là vô thường : Sinh tướng thực hữu, Diệt tướng là hư, Trụ tướng là như,
Biến tướng là dị. Pháp thân không có các thứ đó, cho nên cả bốn đều là phi
(chẳng phải).
5. Câu thứ năm : y
vào sự nội chứng của Phật, chẳng phải là thứ mà hạng phàm phu chứng đắc để hiển
pháp thân.
Luận nói rằng :
“chẳng như tam giới mà thấy tam giới” Như Lai có thể thấy được, có thể
chứng được pháp thân chân như, mà phàm phu chẳng thấy. Cho nên kinh nói rằng:
“Như Lai thấy rõ, không có sai lầm”.
Luận giải đó chỉ
thuộc câu thứ năm. Tựa hồ tổng kết về các câu trên, câu này nói rằng Như Lai
chính trí có thể thấy rõ ràng rạch ròi, “chẳng như vọng tướng của tam giới”, mà
có thể chứng “thấy được thể tính của tam giới” là pháp thân chân như. Cho nên
nói rằng “Như Lai thấy rõ không sai”.
*
-Kinh văn : “Vì
các chúng sinh” tới “chưa từng tạm thời phế
bỏ”.
Tán rằng : dưới là
giải thích lý do để thích ứng với chúng sinh mà quyền nghi thị hiện.
“Chủng chủng tính”
: đó là giới.
“Dục” : là thắng
giải.
“Hành” : chỉ tâm
hành.
“Ức tưởng” (nhớ
lại) : chỉ biến thú hành. Do các thứ này mà “Phật sự không bỏ”.
“Các thứ nói bày”
: trước nói báo thân thật ra thành đạo đã lâu, mắt Phật quan sát thấy các căn
lợi độn của họ, cho nên nói bày khác nhau. Đây nói pháp thân thực ra không có
các tướng, do tùy theo chúng sinh “tính, dục” v.v… khác nhau, cho nên nói bày
khác nhau.
*
-Kinh văn : “Như
vậy ta thành” tới “thường trụ bất
diệt”.
Tán rằng : trong
phần nói rõ về chân thân là cái mà tam thừa chẳng biết, thì đây là mục thứ ba :
Kết luận về những điều đã nói ở trước.
*
-Kinh văn :
“Này các thiện nam tử !” tới “còn gấp bội
số trên”.
Tán rằng : trên là
thuyết minh về Bồ đề vô thượng, dưới đây là đoạn lớn thứ hai nói rõ một lần nữa
về tướng sai biệt của hai thân báo hóa, đó là Niết bàn vô thượng, trong chia
làm hai phần :
• Phần đầu : là
pháp thuyết về hai thân thường trụ khởi diệt.
• Phần sau : là dụ
thuyết về hai thân thường trụ khởi diệt.
Phần đầu lại chia
làm hai phần :
1. Phần đầu :
thuyết minh về hai thân thường trụ khởi diệt.
2. Phần sau : là
đoạn từ “Thêm nữa, này thiện nam tử ! Pháp của chư Phật Như Lai đều như vậy”
trở xuống : giải thích và kết luận : cái đã thuyết trước kia là “Các pháp xưa
nay vốn y nhiên như htế, chẳng hư dối” (Pháp nhĩ bất hư).
Văn phần đầu này
lại có hai :
a) Phần đầu nói rõ
: vì báo thân tùy theo chúng sinh giới và bản nguyện lực đều là vô tận, cho nên
thọ mệnh thường trụ.
b) Phần sau nói rõ
: vì hóa thân tùy theo chúng sinh thân và ý nhạo (tức ý thích), cho nên hiện có
khởi diệt.
Đây là phần
đầu.
Lúc bản thân tu
hành đạo Bồ tát, nguyện độ hết chúng sinh, mới nhập Vô dư Niết bàn. Vì chúng
sinh giới không có lúc nào hết, cho nên nay tuy đắc quả viên mãn, nhưng hạnh
nguyện vẫn không suy giảm, cho nên “thọ mệnh bất tận, còn gấp bội số trên”.
*
-Kinh văn : “Như
vậy nay chẳng phải là thực” tới “giáo hóa
chúng sinh”.
Tán rằng : dưới là
thuyết minh về hóa thân tùy theo chúng sinh thân và ý nhạo, cho nên hiện có
khởi diệt. Có ba phần :
1) Tiêu (nêu ra).
2) Thích (giải
thích).
3) Thành. Đó là
đoạn từ “cho nên Như Lai dùng phương tiện thuyết” trở xuống.
Đây là phần
đầu.
Như vậy nay báo
thân chẳng phải là thực sự diệt độ mà lại giả vờ nêu lên là sẽ diệt độ. Đây
chính là hóa tướng phương tiện thị hiện để giáo hoá chúng sinh mà thôi.
*
-Kinh văn : “Sở dĩ
như vậy là vì sao” tới “trong
lưới vọng kiến”.
Tán rằng : dưới
đây là phần giải thích, có hai phần :
1. Phần đầu :
thuyết minh về bản tính ác.
2. Phần sau : nói
rõ càng sinh ác.
Đây là phần
đầu.
Bản tính ác có sáu
:
1) Bạc đức, chẳng
thể cảm được thắng nhân, thắng pháp.
2) Chẳng trồng
thiện căn, không có nhân để sinh quả.
3) Bần cùng, không
có của, không có pháp, ý nhỏ chí hèn.
4) Thấp hèn tự
khinh miệt thân.
5) Trước dục,
phiền não, hôn túy.
6) Nhập ở trong
lưới vọng kiến ức tưởng, gian trá khôn ranh học loạn hành sai.
*
-Kinh văn : “Nếu
thấy Như Lai” tới “tâm cung kính”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về càng sinh ác. Có năm thứ :
1) Kiêu tứ phóng
dật.
2) Ôm lòng chán
ghét, chẳng thích thân cận nhiếp thụ.
3) Giữ thói lười
nhác, bị thói lười nhác trói buộc, chẳng thể tự xét.
4) Chẳng sinh cảm
tưởng khó gặp, thấy Phật mà cũng chẳng sinh tâm mong mỏi được gặp.
5) Chẳng sinh tâm
cung kính, chẳng sinh khát mộ, tu nghiệp tùy thuận.
Đây nói do kẻ đó
bản tính ác, cho nên gặp Phật càng sinh ra ba thứ ác đầu, chẳng sinh cảm tưởng
khó gặp, chẳng sinh tâm cung kính.
*
-Kinh văn : “Cho
nên Như Lai” tới “mà nói diệt độ”.
Tán rằng : dưới là
thành tựu. Có ba phần :
1) Nêu lên.
2) Giải thích.
3) Kết luận.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Thêm
nữa, này thiện nam tử” tới “đều là thực,
chẳng hư dối”.
Tán rằng : đây là
giải thích và kết luận : Cái đã thuyết trước kia là “Pháp nhĩ chẳng hư
dối”.
Ý này nói rằng
:
- Báo thân pháp
nhĩ nguyện độ hết thảy mọi chúng sinh, cho nên thường trụ bất diệt.
- Hóa thân pháp
nhĩ thì tùy thuận sự yêu ghét, ưa chán của chúng sinh mà thị hiện có sinh
tử.
Kinh Niết Bàn nói
: Như Lai chẳng nhập Niết bàn. Kệ rằng :
Giả sử quạ, chào
mào,
Cùng đỗ chung một
câ,y
Giống như anh em
ruộ,t
Thì mới Niết bàn
hẳn.
Giả sử rắn, chuột,
sói,
Cùng chơi chung
một hang,
Yêu nhau như anh
em,
Thì mới Niết bàn
hẳn.
Giả sử Nhất xiển
đe,à
Hiện thân thành
Phật đạo,
Thụ mãi đệ nhất
lạc,
Thì mới Niết bàn
mãi.
Như Lai coi hết
thảy,
Giống như La Hầu
La,
Cớ sao bỏ từ bi,
Vĩnh viễn nhập
Niết bàn ?
Đối 3 dụ trước,
mỗi một dụ đều đi kèm một tụng cuối này. Sợ chán văn rườm, cho nên thuyết chung
vào một.
Thế thì đại Niết
bàn ba sự viên mãn là thứ mà nhị thừa chưa chứng được. Hóa tướng nhập diệt, tức
là ở nơi đây diệt rồi, lại hóa ở phương khác, lại sinh ở đây. Thân trí đã chẳng
vĩnh viễn là không có, há lại cùng nhị thừa nhập diệt ? Do đó nên gọi là Niết
bàn vô thượng.
*
-Kinh văn : “Ví
như thầy thuốc giỏi” tới “khéo chữa
nhiều bệnh”.
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ hai : dụ thuyết về hai thân thường trụ khởi diệt. Có hai phần :
1. Phần đầu : dụ
thuyết về thường trụ khởi diệt.
2. Phần sau : dụ
vấn đáp, chỉ rõ đó chẳng phải là hư dối.
Có 12 dụ :
1) Dụ về khéo đạt
cơ nghi.
2) Dụ về từ bi
khởi hóa.
3) Dụ về quán cơ,
đạo ẩn.
4) Dụ về gặp
duyên, Hoặc khởi.
5) Dụ về tế sinh,
thành đạo.
6) Dụ về thấy
Phật, đều mừng.
7) Dụ về ứng cơ
thuyết pháp.
8) Dụ về căn thục,
đạo thành.
9) Dụ về chưa
thục, chán pháp.
10) Dụ về để khiến
mong cầu, thị hiện nhập diệt.
11) Dụ về nhớ
Phật, yêu pháp.
12) Dụ về đắc
thánh, thấy Phật.
Đây là phần
đầu.
Chỉ như nhị thừa,
luyện căn đối nhau, sinh được ít là độn, sinh được nhiều là lợi. Siêng nhác đối
nhau, sinh được ít là lợi, sinh được nhiều là độn. Ở đây nói về cái đối sau
(siêng nhác đối nhau).
12 f dụ này tương ứng
với 4 lần sinh hoặc 3 lần sinh :
I. Bốn lần sinh :
1.Sinh lần đầu :
Hai dụ đầu ở đây
gộp lại là sinh lần đầu, thấy Phật đều bảo phát tâm.
2. Sinh lần hai :
Các dụ thứ 3, thứ
4 hợp lại là sinh lần hai. Kẻ căn thục siêng tu thì chẳng mất bản tâm nhưng
tiệm tu chưa thành thục. Kẻ lười nhác thì bị mất bản tâm và còn bị thoái
chuyển.
Các dụ thứ 5, thứ
6, thứ 7, thứ 8, thứ 9 gộp lại là sinh lần ba. Người căn thục siêng tu thì nhờ
thấy Phật Thích Ca mà vô học mãn, liền phát đại tâm, thụ Biến dịch sinh. Kẻ chưa
thành thục, lười nhác tuy thấy Phật hiện tại nhưng vẫn chưa chứng, vẫn trụ ở
địa vị phàm phu.
4. Sinh lần bốn :
Các dụ thứ 10, thứ
11, thứ 12 hợp lại là sinh lần bốn. Kẻ căn xưa chưa thành thục, lười nhác gặp
Phật Di Lặc đều được đắc đạo, cũng phát đại tâm, trước tiên thụ Biến dịch sinh.
Người căn thành thục, siêng tu, đắc đạo cũng được thấy Phật đó.
Cho nên nói : đều
khiến được thấy Di Lặc tức là ta, Di Lặc là tên khác của ta.
II. Ba lần sinh
:
Hoặc thuyết chung
về ba sinh.
1. Sinh lần đầu :
Bốn dụ đầu là sinh
lần đầu, Phật mới thị hiện Niết bàn, kẻ kia chẳng thấy Phật liền khởi phiền
não.
2. Sinh lần hai :
Năm dụ sau là sinh
lần hai. Đó là Phật Thích Ca đúng pháp mà thị hiện Niết bàn. Kẻ căn cơ thành
thục siêng năng tu đạo còn trụ ở địa vị hữu học, thì đoạn dần phiền não nên gọi
là “chữa khỏi” (trừ dũ), chẳng phải là đều đoạn hết, thành đạo vô học. Còn kẻ
căn chưa thành thục, lười nhác thì vẫn ở địa vị phàm phu và vẫn chưa chứng.
3. Sinh lần ba :
Ba dụ cuối cùng là
sinh lần ba. Những người căn thục siêng tu đều đắc vô học. Những người chưa
thành thục, lười nhác cũng đắc (quả) hữu học.
Cho nên trong việc
thụ ký, thì cả hai loại vô học, hữu học đều có. Vì những loại này mà thị hiện
là có Niết bàn. Đó là đại ý của dụ ở trong này.
Thầy f thuốc giỏi có bốn đức :
1) Biết bệnh
trạng.
2) Biết nguyên
nhân gây bệnh.
3) Biết bệnh diệt
rồi chẳng sinh.
4) Biết bệnh diệt
rồi lại sinh.
Kinh Niết bàn nói
:
Đại từ mẫn chúng
sinh.
Nên nay ta quy y.
Khéo nhổ các tên
độc,
Nên khen đại y
vương.
Thày thế gian chữa
bệnh.
Tuy đỡ rồi lại
sinh.
Bệnh mà Như Lai
chữa,
Không bao giờ tái
phát.
Phật đem thuốc cam
lồ,
Để cho các chúng sinh.
Chúng sinh đã uống
rồi,
Chẳng chết cũng
chẳng sinh.
Cho nên dùng dụ về
“thầy thuốc giỏi” để ví với Phật.
“Trí tuệ” là biết
quán sinh tử. “Thông đạt” thì ứng cơ rủ lòng tế độ.
“Sáng suốt luyện
thuốc hay” là am tường Giáo và Lý.
“Khéo chữa trị các
bệnh” chẳng còn tái phát, giống với bốn đức của thày thuốc.
*
-Kinh văn : “Người
ấy có nhiều con” tới “thậm chí hàng
trăm”.
Tán rằng : đây là
dụ thứ 2 : dụ về việc Phật từ bi khởi hóa.
Có nhị thừa chủng
mới gọi là “con”, cho nên nói “mười, hai mươi”.
Gồm cả Bồ tát tính
nữa, vì là bất định cho nên nói “tới hàng trăm”, vì tu trăm hạnh.
Đây là địa vị Sơ
giáo phát tâm vậy.
*
-Kinh văn : “Vì có
sự duyên phải đi xa tới nước khác”.
Tán rằng : đây là
dụ thứ 3 : dụ về quán cơ, đạo ẩn.
Chúng sinh căn cơ
lúc ấy vẫn chưa thành thục, mà phương khác thì có cơ hội, cho nên hóa thân
(Phật) bèn ẩn đi, tới phương khác mà giáo hóa, hoặc tới tịnh độ, uế độ mà tiến hành
giáo hóa, đó gọi là (tới) “nước khác”.
*
-Kinh văn : “Các
con sau đó” tới “lăn lộn dưới đất”.
Tán rằng : đây là
dụ thứ 4 : gặp duyên, Hoặc khởi.
Sau khi không có
Phật, do ác tri thức, phiền não liền khởi lên, làm cho tâm họ mê muội say đắm,
đó gọi là “uống thuốc độc khác, lăn lộn dưới đất sinh tử”.
Kinh Niết Bàn nói
:
Nghèo túng không
ai cứu,
Giống như người ốm
đau.
Không thày, tùy ý
thích,
Ăn thứ chẳng nên
ăn.
Chúng sinh bệnh
phiền não,
Thường bị chư Kiến
hại,
Xa lìa thầy thuốc
pháp,
Uống bậy thuốc độc
nhảm.
Căn thục hay chưa
thục, tuy đều khởi Hoặc. Nhưng loại căn chẳng thành thục, thì Hoặc nặng và
thoái chuyển. Loại căn đã thành thục thì Hoặc nhẹ và tu hành.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ cha họ trở về nhà”.
Tán rằng : đây là
dụ thứ 5 : nói về tế sinh, thành đạo.
Những người được
(Phật) giáo hóa trước kia, thị hiện ở “nhà” sinh tử. Duyên này mới thành thục,
cho nên Phật hiện thân. Hoặc hóa cảnh trước kia vốn trụ, gọi là “nhà”.
*
-Kinh văn : “Các
con uống chất độc” tới “lại ban thêm
cho thọ mệnh”.
Tán rằng : đây là
dụ thứ 6 : nói về (chúng sinh) thấy Phật đều mừng : trước mừng, sau thỉnh.
“Kẻ mất bản tâm”:
là hạng căn chưa thành thục, mất tịnh khởi nhiễm.
“Người chẳng mất
tâm”: là hạng đắc bản tịnh tâm, các căn thành thục.
“Hoan hỉ” là ý
nghiệp.
“Quỳ lạy” thuộc
thân nghiệp.
“Thăm hỏi” thuộc
ngữ nghiệp.
Ba nghiệp quy y,
thỉnh (Phật) thuyết pháp yếu (những điều quan trọng trong Phật pháp).
“Lại ban cho thêm
thọ mệnh” : nay xin tuệ thọ.
*
-Kinh văn : “Cha
thấy các con” tới “không còn các bệnh hoạn
nữa”.
Tán rằng : đây là
dụ thứ 7 : nói về (Phật) ứng cơ thuyết pháp. Có hai phần :
1. Phần đầu : nhờ
phương tiện diệu xảo.
2. Phần sau :
(Phật) ban cho giáo pháp thiện quyền.
“Y vào kinh
phương” : y vào giáo pháp của chư Phật ba đời.
“Cầu cỏ thuốc tốt”
: nghĩa là dung nạp được Lý (dược) và Hạnh (thảo).
“Sắc hương mỹ vị,
thảy đều đầy đủ” : nghĩa là tam học (Giới, Định, Tuệ) và tam hành (Trừ ác,
Chuộng thiện, Lợi sinh) không hề thiếu sót.
“Đâm nghiền (cỏ
thuốc)” : nghĩa là Trí tuệ giản trạch.
“Sàng lọc” : nghĩa
là bỏ thô lấy diệu (bá dương thô diệu).
“Hòa hợp” : nghĩa
là thực hành thuận theo tam học tam hành nói trên.
“Khuyên nên uống
đại lương dược này” : khuyên người học thực hành hạnh đại thừa này thì diệt
được Hoặc.
*
-Kinh văn : “Trong
các con đó” tới “chữa khỏi bệnh hết”.
Tán rằng : đây là
dụ thứ 8 : nói về căn thục đạo thành.
Chỉ các loại các
căn thành thục, đắc đạo. Hai loại “sắc hương” ví với phúc và tuệ. Hai chữ đắc
đạo đã giải thích như trước rồi.
* Chữ [愈] đọc là Dũ, nghĩa là khỏi bệnh. Đáng ra nên viết là [癒] Sách Ngọc Thiên viết là [愈] và giải thích là “càng
thêm”. Trong tâm lo lắng thì là chữ [ ] ; bệnh khỏi là
[癒].
*
-Kinh văn : “Còn
kẻ mất tâm” tới “mà cho là chẳng
ngon”.
Tán rằng : đây là
dụ thứ 9 : nói về kẻ căn chưa thành thục, (nên) chán pháp. Có hai mục :
- Mục đầu : chẳng
chịu uống thuốc.
- Mục sau : giải
thích lý do.
Tức là căn chưa
thục, tuy ban đầu cũng hơi có ý cầu pháp, nhưng sau chẳng chịu tu hành. Vì
phiền não sâu nặng, cho nên chán pháp.
*
-Kinh văn : “Cha
nghĩ như vầy” tới “khiến uống thuốc
này”.
Tán rằng : đây là
dụ thứ 10 : để khiến (chúng sinh) mong cầu (pháp), cho nên (Phật)
thị hiện nhập diệt. Có ba phần :
- Phần đầu : nghĩ
cách đặt ra phương tiện phù hợp căn cơ.
- Phần hai : để
lại giáo pháp.
- Phần cuối : thị
hiện nói là nhập diệt.
Vì phiền não sâu,
nên chẳng tuân theo diệu giáo. Phải đặt ra phương tiện quyền nghi, để khiến họ
tin phục tu hành.
*
-Kinh văn : “Liền
nói như vầy” tới “chớ lo chẳng khỏi”.
Tán rằng : đây là
(Phật) để lại giáo pháp.
(Phật) thành đạo
đã lâu, nay nói rằng già yếu, sắp sửa tới lúc nhập diệt, nay để lại giáo pháp,
ngươi hãy theo đó mà tu hành, ắt diệt được phiền não cho nên chớ lo.
*
-Kinh văn : “Giáo
huấn như vậy rồi” tới “cha ngươi đã
chết”.
Tán rằng : đây là
(Phật) thị hiện nói là sẽ nhập diệt.
Lui về ở ẩn, không
còn xuất hiện giáo hóa như trước kia, gọi là “tới nước khác”.
“Sai sứ về nói cha
ngươi đã chết” : nghĩa là Phật để lại lời di giáo nói rằng Phật nhập diệt. Thực
ra Phật chẳng diệt, chỉ tạm thời dừng việc giáo hóa.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ các con” tới “không còn có nơi
trông cậy”.
Tán rằng : đây là
dụ thứ 11 : nói về nhớ Phật, yêu pháp. Có hai phần :
- Phần đầu : nhớ
Phật từ bi, nghĩ mình là đứa con côi.
- Phần sau : buồn
thương, làm theo lời giáo huấn, Hoặc khổ đều trừ.
Đây là phần đầu :
đầu là nhớ Phật, sau là yêu pháp.
Phật tại thế, từ
bi cứu tế, cứu hộ, khiến không còn Hoặc khổ. Phật diệt rồi không nơi nương tựa,
con côi ỷ lại vào đâu !
*
-Kinh văn :
“Thường nặng lòng bi cảm” tới “bệnh độc đều
khỏi”.
Tán rằng : đây là
buồn thương, cứ theo di giáo mà tu hành, cho nên Hoặc khổ đều trừ.
Gia hạnh, đế quán,
đó gọi là “tỉnh ngộ”.
Nhập thánh, y theo
giáo pháp mà điều phục, Hoặc khổ đều trừ.
“Độc” : ví với
phiền não.
“Bệnh” : ví với
các nỗi khổ.
*
-Kinh văn : “Người
cha đó nghe con” tới “để khiến thấy
(Phật)”.
Tán rằng : đây là
dụ thứ 12 : nói về đắc thánh thấy Phật.
Nếu khiến đắc
thánh, nhị thừa vô học mà thấy Phật, có nghĩa là nhập Biến dịch sinh tử thấy
hóa thân Phật trụ lâu ở cõi tịnh độ. Nghĩa này trong dụ gọi là “người cha quay
về khiến con nhìn thấy”.
Hoặc là Địa tiền
đắc nhập Thập địa Báo độ thấy Phật. Đây tuy là hóa Phật ở ngôi trên mà giáng
xuống, thì về lý cũng là thế.
*
-Kinh văn : “Này
các thiện nam tử” tới “có lỗi hư
dối”.
Tán rằng : đây là
dụ vấn đáp, giải thích đó chẳng phải là hư dối. (Có ba mục) :
1) Hỏi.
2) Đáp.
3) Thành (kết
luận).
Đây nói hóa thân
ví như thày thuốc kia thị hiện chết. Báo thân như cha, thực thể thường còn.
Nghĩa của Niết bàn thì như chương khác đã nói.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “thường trụ đây thuyết
pháp”.
Tán rằng : đây là
25 tụng rưỡi, chia làm hai phần :
• Phần đầu : gồm
20 tụng rưỡi, tụng Bồ đề vô thượng.
• Phần sau : gồm 5
tụng, tụng Niết bàn vô thượng.
Văn phần đầu chia
làm ba phần :
1. Phần đầu gồm 10
tụng rưỡi, thuyết minh về hai thân báo hóa.
2. Phần hai gồm 8
tụng, thuyết minh về hai cõi báo hóa.
3. Phần cuối gồm 2
tụng : kết luận, khuyên chớ nghi ngờ.
Phần đầu này lại
chia làm ba :
- 3 tụng đầu :
tụng về hai thân báo hóa.
- 6 tụng sau : nói
rõ báo thân Phật nếu không có duyên thì chẳng thấy, nếu có duyên thì được thấy.
- 1 tụng rưỡi cuối
: kết luận lý do thấy hay không thấy báo thân Phật.
Đây là mục đầu gồm
:
+ 2 tụng đầu :
tụng về báo thân.
+ 1 tụng sau : nói
về hóa thân.
*
-Kinh văn : “Ta
thường trụ ở đây” tới “tuy gần mà chẳng
thấy”.
Tán rằng : dưới là
6 tụng nói rõ báo thân Phật nếu không duyên thì chẳng gặp, có duyên mới được
gặp. Trong có hai phần :
• 1 tụng đầu :
không duyên chẳng gặp.
• 5 tụng sau : có
duyên được gặp.
Đây là phần đầu.
Chúng sinh điên
đảo, tự mình chẳng thấy Phật. Huống hồ lại thêm Phật dùng thần thông ẩn đi
khiến họ chẳng thấy. Sợ rằng nếu thấy thì họ sẽ sinh ra lầm lỗi, nên Phật dùng
thần thông mà che đi. Cũng như mặt trời, mặt trăng tự nhiên sáng chói, kẻ mù
lòa chẳng nhìn thấy. Đó là lỗi của kẻ mù lòa, chứ chẳng phải là lỗi của mặt
trời mặt trăng.
*
-Kinh văn : “Chúng
thấy ta diệt độ” tới “chẳng tự tiếc thân
mệnh”.
Tán rằng : dưới là
5 tụng nói về có duyên thì được thấy (Phật). Chia làm hai phần :
1. Phần đầu gồm 2
tụng : đợi chúng sinh căn cơ thành thục có duyên.
2. Phần sau gồm 3
tụng : (Phật) hiện thân thuyết pháp.
Đây là phần đầu.
Có 7 duyên căn
thục :
1) Tu hạnh cúng
dường.
2) Sinh tâm khát
ngưỡng.
3) Tín phục chẳng
phỉ báng việc tu hành.
4) Chất trực, lìa
bỏ thói kiêu mạn v.v…
5) Nhu nhuyễn, từ
bi, nhẫn nại.
6) Nhất tâm muốn
thấy (Phật), một niềm mong gặp (Phật).
7) Chẳng tiếc thân
mệnh, khinh thân trọng đạo.
*
-Kinh văn : “Giờ
ta cùng chúng tăng” tới “chỉ nói ta diệt
độ”.
Tán rằng : đây là
hiện thân thuyết pháp. Có hai phần :
- Nửa tụng đầu :
tụng hiện thân.
- 2 tụng rưỡi sau
: tụng về thuyết pháp.
Thuyết pháp có hai
:
+ 1 tụng đầu : nói
thân Phật tại đây, (thị) hiện có Niết bàn.
+ 1 tụng rưỡi sau
: nói về hóa nhập Niết bàn, làm lợi ích cho phương khác. Hiện ở chốn Linh Sơn,
hoặc hiện có Linh Sơn.
*
-Kinh văn : “Ta
thấy các chúng sinh” tới “bèn ra thuyết
pháp cho”.
Tán rằng : đây là
kết luận về lý do thấy hay chẳng thấy báo thân Phật.
*
-Kinh văn : “Lực
thần thông như vậy” tới “trời người thường
đầy rẫy”.
Tán rằng : dưới là
8 tụng thuyết minh về hai cõi báo độ và hóa độ. Có hai phần :
- 5 tụng đầu :
tụng về độ tướng của hai cõi báo độ và hóa độ.
- 3 tụng sau :
tụng về lý do vô duyên chẳng thấy, có duyên được thấy cõi tịnh độ.
Văn phần đầu có 5
mục. Đây là 2 mục đầu :
1) Một tụng, tụng
trụ xứ.
2) Một tụng, nói
về quyến thuộc.
“Kiếp tận” là hóa
độ. “An ổn” là tịnh độ.
Bồ tát, trời,
người thường ở trong hội.
*
Kinh văn : “Các
nhà cửa trong vườn” tới “đều đầy rẫy như
vậy”.
Tán rằng : trong
này có 3 mục tiếp theo của 5 mục tụng về độ tướng của hai cõo báo hóa :
4) Độ tướng (tướng
trạng cõi nước).
5) Cúng dàng.
6) Lìa sự sợ hãi
(ly bố).
Hóa độ đầy rẫy lo
sợ khổ não, tịnh độ lìa được các thứ đó. Trong độ tướng có sự, có công đức, như
Kinh Vô Cấu Xứng nói về : vườn tược là dụ cho tổng trì, cây rừng là dụ cho đại
pháp v.v… đều nên cứ theo thế mà nói. Còn nghĩa của tịnh độ thì như chương khác
đã nói.
Luận nói rằng
:
“Tịnh độ ta chẳng
hư,
Mà chúng thấy cháy
hết”.
Nghĩa là vì tịnh
độ chân thực của báo Phật Như Lai thuộc đệ nhất nghĩa đế, chẳng giống như hóa
độ thuộc thế tục đế.
* Chữ [樂] có hai âm đọc : “Lạc” : là vui (tha hồ thưởng thức). “Nhạo” : là
thích, chơi chỗ cảnh đẹp, có thể sinh ra ưa thích.
*
-Kinh văn : “Các
tội chúng sinh này” tới “chẳng nghe danh
Tam bảo”.
Tán rằng : dưới là
3 tụng nói về : vô duyên thì chẳng thấy, có duyên thì được thấy. Chia làm hai
phần :
- 1 tụng đầu : vô
duyên chẳng thấy.
- 2 tụng sau : có
duyên được thấy.
Đây là phần đầu.
Vì có bốn chướng :
Hoặc (chướng), Nghiệp (chướng), Báo (chướng), Pháp (chướng), cho nên “chẳng
nghe danh Tam bảo”.
Có ba chướng thì
gọi là “chúng sinh tội”.
Nghiệp chướng gọi
là ác chướng.
*
-Kinh văn : “Người
có tu công đức” tới “bảo họ : Phật
khó gặp”.
Tán rằng :
đây là nói về có duyên thì được gặp Phật. Có hai mục :
1. Tụng đầu, nói
về tu ba nhân, được thấy Phật ở tịnh độ.
2. Tụng sau, nói
về thấy Phật tuổi thọ có dài ngắn (khác nhau).
Tu ba nhân gồm :
1) Công đức.
2) Nhu hòa.
3) Chất trực.
Ba nghiệp thân ngữ
ý, (tu) ba thứ Tu thiện, Lợi sinh, Diệt ác, hoặc tu tam học Giới, Định, Tuệ,
hoặc Thí, Giới, Tu, nên hiểu theo thứ tự như vậy.
Đối với hạng cảm
ứng thường thấy Phật, thì nói tuổi thọ của Phật là vô lượng. Đối với hạng chẳng
cảm ứng được, thì nói là Phật khó gặp.
*
-Kinh văn : “Trí
lực ta như vậy” tới “lời Phật thực chẳng
dối”.
Tán rằng : đây là
kết luận khuyên chớ nghi ngờ.
Tuệ quang chiếu
vô lượng, độ cho hết thảy, cho nên tu hành lâu thì được. Nhờ bi nguyện này cho
nên thọ mệnh dài.
*
-Kinh văn :
“Thày thuốc khéo phương tiện” tới “không
thể nói hư vọng”.
Tán rằng : dưới là
5 tụng : nói về Niết bàn vô thượng. Có hai phần :
- 1 tụng đầu, là
dụ (thuyết).
- 4 tụng sau, là
hợp (thuyết).
Đây là phần
đầu.
“Cuồng tử” : chỉ
hạng căn chưa thành thục.
*
-Kinh văn : “Ta là
cha thế gian” tới “chóng thành tựu thân
Phật”.
Tán rằng : 4 tụng
này hợp thuyết về bốn điều :
- 1 tụng : hiện
thân khác.
- 1 tụng : vì ác
sinh.
- 1 tụng : thuyết
pháp khác.
- 1 tụng : nguyện
làm Phật.
PHẨM PHÂN BIỆT
CÔNG ĐỨC
Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG
Ý.
Có ba ý :
1. Trong hai phẩm
gián tiếp giải đáp những điều nghi nan ở phẩm Dũng Xuất, trước đã thuyết về hai
Phật quyền thực, hai thân lý trí, tổng quát được cơ sở to lớn của muôn đức, tóm
tắt được cực thể của tam minh, cực kỳ thần diệu, khiến người nghe ngộ được tâm
Phật, khế hợp trí Phật, phù hợp với chân lý. Người nào dung hội được thì chứng
được đạo. Nay thuyết minh về đẳng bậc, ngôi vị, cho nên có phẩm này.
2. Năm phẩm nói về
quả nhất thừa, chia làm hai phần. Trong đó hai phẩm đầu thuyết minh về quả đã
mãn, nhân phẩm trước mà trực tiếp thuyết minh về quả đã mãn. Phẩm này phân tích
đại chúng lúc ấy nhân đó mà chứng hoạch khác nhau. Cho nên có phẩm này.
3. Luận giải thích
rằng trong mười thứ vô thượng, thì cái thứ mười là Thắng diệu lực vô thượng,
đây là dư tàn Tu đa la thuyết. Luận còn tự nói rằng : từ đây trở xuống thị hiện
pháp lực và tu hành lực.
Pháp lực tức là uy
thần của kinh.
Tu hành lực là
thắng đức của năng hành sở hành.
Pháp lực có năm
môn :
1) Chứng.
2) Tín.
3) Cúng dàng.
4) Nghe pháp.
5) Đọc tụng, trì,
thuyết.
1- Chứng : chỉ
những người được nghe thuyết về thọ lượng trong các Bồ tát có 11 vị chứng
thánh.
2- Tín : chỉ 8 thế
giới vi trần số Bồ tát phát tâm tín giải.
3- Cúng dàng : chỉ
việc trời đổ mưa hoa v.v…
4- Nghe pháp : chỉ
hai phần trường hàng và kệ ở giữa và cuối phẩm này, cùng phần nghe pháp tùy hỉ
trong phẩm Tùy Hỉ.
5- Đọc tụng trì
thuyết : chỉ phần thuyết minh về công đức thu được của những người đọc tụng trì
thuyết ở trong phẩm Pháp Sư Công Đức. Phần văn tới sẽ giải thích.
Luận tự giải rằng
: bốn môn đầu, phẩm Di Lặc thị hiện, vì đều bảo Di Lặc. Một môn sau, phẩm
Thường Tinh Tiến thị hiện, vì chỉ bảo riêng Thường Tinh Tiến. Do đó, pháp lực chỉ
bao gồm trong 3 phẩm. Còn tu hành lực thì bao gồm trong 11 phẩm :
1) Pháp Sư. 7)
Quan Âm.
2) An Lạc Hạnh. 8)
Đà La Ni.
3) Trì. 9) Diệu
Trang Nghiêm.
4) Thần Lực. 10)
Phổ Hiền.
5) Dược Vương. 11)
Chúc Lụy.
6) Diệu Âm.
Cả 14 phẩm đều là
vô thượng thứ mười : Thắng diệu lực vô thượng.
Do thuyết minh về
ba loại : chứng, tín, cúng dàng, cho nên sau phẩm Thọ Lượng, phải có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
“Công” : có nghĩa
là công lao, lực dụng nghe pháp.
“Đức” : chỉ đạo
đức thể tức phúc tuệ.
Đức do công lực
nghe diệu pháp mà đạt được, cho nên gọi là Công Đức.
* Chữ [分] đọc là Phân, còn đọc là Phận. Chữ [別] đọc là Biệt, còn viết là [ ] hoặc
[ ]. Đây có nghĩa là “biện thích” (phân biệt giải
thích).
“Phân biệt Công
Đức” : có nghĩa là Phân Biệt các sự Công Đức. Phẩm này biện thích Phân Biệt sự
Công Đức đó, cho nên gọi là phẩm Phân Biệt Công Đức.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
- 1.Hỏi : vì
nguyên nhân gì mà Thanh văn nghe thuyết về quyền thực và lĩnh ngộ, thì lại thụ
ký cho, còn Bồ tát, nghe thuyết về chân hóa và hiểu rõ, thì lại chẳng ký biệt
cho ?
Đáp : việc thụ ký
cho Bồ tát, Phật đã nhiều lần nói rõ, nên chỉ thuyết về chứng nhân, mà chẳng
nói về quả sẽ được.Còn Thanh văn mới giác ngộ, thành Phật là việc khó, nhân
chứng chưa thành, cho nên Phật thụ ký cho họ về quả sẽ được.
- 2.Hỏi : vì
nguyên nhân gì mà khi thuyết về thừa quyền thực, Bồ tát cả hai thứ Ký, Chứng
đều không ? Còn khi thuyết về thân chân hóa thì Thanh văn cả hai thứ Ký, Chứng
đều khuyết ?
Đáp : Bồ tát đã
biết trước về quyền thực, nên chỉ nghe về thân mà chứng đạo. Còn Thanh văn chưa
chứng hóa chân, chỉ nghe thuyết về thừa để đắc ký. Đó là vì Bồ tát không có
chuyện lấy hay bỏ, còn Thanh văn thì chưa chứng.
- 3.Hỏi : thoạt
đầu có hỏi rằng, cớ sao thuyết về quyền thực để thụ ký cho Thanh văn, thì lại
lấy đó làm tôn chỉ, còn thuyết về chân hóa để chứng cho Bồ tát, lại thuộc về
lưu thông ?
Đáp : Pháp Hoa
khai dụ, chính đối quyền thực để trình bày tôn chỉ. Chẳng thuyết về ứng chân,
há lại thuyết về thân, lấy đó làm tôn chỉ. Chỉ là nhân phẩm Dũng Xuất ở đằng trước
mà giải thích mối ngờ đó của đại chúng, chứ đó chẳng phải là mục tiêu của việc
khai dụ. Cho nên chẳng phải là (chính) tông.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ đại hội” tới “được lợi ích lớn”.
Tán rằng : phẩm
này chia làm hai phần :
• Phần đầu : một
trường hàng và tụng, thuyết minh về hội lúc ấy được ích lợi, hiện tiền đạt được
pháp lợi theo các cấp độ khác nhau.
• Phần sau : các
trường hàng và tụng thuyết minh về sự so sánh hơn kém, thời sau sẽ được lợi
ích.
Văn phần đầu có
bốn mục :
1) Nêu lợi ích lúc
đó.
2) Phật bảo rõ lợi
ích.
3) Lợi ích của việc
cúng dàng.
4) Tụng về lợi ích
của việc lĩnh thụ.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “pháp luân thanh
tịnh”.
Tán rằng : dưới là
mục Phật bảo rõ lợi ích. Có hai phần :
• Phần đầu thuyết
minh về chứng đắc.
• Phần sau thuyết
minh về tín phát.
Văn phần đầu này
có hai phần :
- 6 môn đầu là y
vị chứng đắc.
- 5 môn sau là y
sinh chứng đắc.
Đây là phần
đầu.
Theo luận, trong 5
môn của pháp lực, thì phần đầu của phẩm này có 3 môn :
- Chứng : đó là 11
vị đầu tiên.
- Tín : đó là 8
thế giới phát tâm.
- Cúng dường : đó
là việc mưa hoa v.v…
Căm cứ vào nghĩa
thù thắng, luận giải như vậy, vì không nói lĩnh thụ.
Sáu f môn y vị chứng đắc là :
1. Vô sinh pháp
nhẫn.
2. Văn trì đà la
ni.
3. Nhạo thuyết
biện tài vô ngại.
4. Triền đà la ni.
5. Chuyển pháp
luân bất thoái.
6. Chuyển pháp
luân thanh tịnh.
1) Vô sinh pháp
nhẫn :
“Vô sinh pháp
nhẫn”, bản luận nói là Sơ địa, là căn cứ vào lúc ban đầu đắc vị. Thời gian dài
tại Thất địa. Tương tục tại Bát địa. Viên mãn tại Phật địa.
“Vô sinh” là cảnh
vô sở chấp. Sinh pháp là giáo, giải thích vô sinh giáo.
Địa tiền xưa kia
nghe pháp chưa thể Trí chứng. Nay được Trí chứng. Xác nhận được Trí chứng (Trí
chứng ấn), gọi là “Vô sinh pháp nhẫn”.
“Nhẫn” : có nghĩa
là ấn chứng.
Vô sinh pháp nhẫn
tức là ấn chứng Trí chứng.
Tam f vô sinh (ba thứ vô
sinh) :
- Biến kế sở chấp,
là Danh tướng vô sinh.
- Y tha khởi tính,
là Tự nhiên vô sinh.
- Viên thành thực
tính, là Hoặc khổ vô sinh.
2) Văn trì đà la
ni :
Văn trì tại Tam
địa, đó là nói theo Phật Địa (luận) v.v…
Thập Địa luận thì
nói tại Ngũ địa. Vì Tam địa lìa Định chướng, Ngũ địa Định tự tại.
3) Nhạo thuyết
biện tài vô ngại :
Nhạo thuyết biện
tài tại Ngũ địa, vì hiểu sâu Ngũ minh luận, biện tài đầy đủ. Duy thức v.v… nói
tại Cửu địa, vì căn cứ vào sự thành mãn.
4) Triền đà la ni
:
Triền đà la ni tại
Thất địa.
* Chữ [旋] đọc là Triền, Tuyền, Toàn : có nghĩa là trở về. Nếu như nước
chảy quẩn thì viết là [漩]. Nay dùng nghĩa trở về.
Quay trở về
ở trong Không và hữu tình để che chở. Thất địa thời gian dài, vì vô tướng và
quán hữu tình .
Kinh Di Lặc Thượng
Sinh nói : Di Lặc đắc tại Đệ thập địa, vì căn cứ vào thành tựu viên mãn.
5) Chuyển pháp
luân bất thoái :
Pháp luân bất
thoái tại Bát địa, vì có đủ bốn thứ bất thoái.
6) Chuyển pháp
luân thanh tịnh :
Pháp luân thanh
tịnh tại Thập địa, vô tướng ly chướng là thanh tịnh thể.
Thêm nữa, đây là
pháp công đức, chỉ tùy theo nghĩa mà nói chứng, chẳng cần theo thứ tự mà phối
với địa.
*
-Kinh văn : “Lại
còn có tiểu thiên” tới “Tam Bồ Đề”.
Tán rằng : đây là
5 vị Y sinh chứng đắc :
1. Bát sinh (tám
đời) sẽ đắc Bồ đề.
2. Tứ sinh (bốn
đời) sẽ đắc Bồ đề.
3. Tam sinh (ba
đời) sẽ đắc Bồ đề.
4. Nhị sinh (hai
đời) sẽ đắc Bồ đề.
5. Nhất sinh (một
đời) sẽ đắc Bồ đề.
Luận rằng : đây
đắc Sơ địa Bồ đề, lìa Phân đoạn tử, tùy phần được thấy Phật tính chân như, đó
gọi là đắc Bồ đề, chẳng phải là đắc quả mãn Phật vị Bồ đề.
Cũng có người giải
thích nói theo Kinh Niết Bàn :
- Bát sinh là
người Tứ hằng, hiểu sâu 1 phần trong 16 phần nghĩa.
- Tứ sinh là người
Ngũ hằng, hiểu sâu 8 phần nghĩa.
- Tam sinh là
người Lục hằng, hiểu sâu 12 phần nghĩa.
- Nhị sinh là
người Thất hằng, hiểu sâu 14 phần nghĩa.
- Nhất sinh là
người Bát hằng, hiểu sâu 16 phần nghĩa.
Tuy có cách giải
thích này nói Bát hằng là Đệ thập địa. Nay theo bản luận đắc Sơ địa Bồ đề,
chẳng nói đắc Phật vị, cho nên chẳng giải thích thế.
*
-Kinh văn : “Lại
còn có tám thế giới” tới “phát tâm Bồ
đề”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về tín phát.
*
-Kinh văn : “Lúc
Phật nói các vị Bồ tát Ma ha tát này” tới “tán thán chư Phật”.
Tán rằng : đây là
môn thứ ba : cúng dàng. Có bảy thứ :
1) Mưa hoa.
2) Mưa hương.
3) Nổi nhạc
4) Mưa các thứ
trang sức.
5) Thắp hương
6) Bồ tát lên
trời.
7) Ca ngâm tán
thán công đức của Phật.
“Hạt châu Mạt ni”
tuy tốt đẹp thích ý nhưng chưa phải là thắng trội. “Hạt châu Như ý” (mới là)
tối thắng.
“Hương” tỏa ra bay
cao xuống thấp, cho nên nói là “chín phương”.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Di Lặc” tới “hoan hỉ đầy khắp
thân”.
Tán rằng : đây là
môn thứ tư : lợi ích của việc lĩnh thụ, gồm 19 tụng chia làm ba phần :
1. Phần đầu gồm 2
tụng : nghe pháp hoan hỉ.
2. Phần sau gồm 15
tụng : tụng về lợi ích.
3. Phần cuối gồm 2
tụng : kết thành hoan hỉ.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Hoặc
trụ Bất thoái địa” tới “quả báo rất thanh
tịnh”.
Tán rằng : dưới là
15 tụng nói về lợi ích, trong chia làm ba phần :
- 7 tụng : Chứng.
- 1 tụng : Tín.
- 7 tụng : Cúng
dường.
Đây là phần đầu.
Có ba mục :
+ 3 tụng :
Vị chứng.
+ 3 tụng :
Sinh chứng.
+ 1 tụng :
Kết.
*
-Kinh văn : “Còn
có tám thế giới” tới “đều phát tâm vô
thượng”.
Tán rằng : đây là
tụng về Tín.
*
-Kinh văn : “Thế
tôn thuyết vô lượng” tới “ca vịnh các Như
Lai”.
Tán rằng : đây là
tụng về cúng dường, có hai mục :
• 1 tụng đầu : nêu
lên để tán thán.
• 6 tụng sau :
cúng dường.
Cúng dường có bảy
thứ :
1) Nửa tụng : mưa
hoa.
2) Một tụng rưỡi :
mưa hương.
* Chữ [繽] đọc là Tân (cũng đọc là Phân). Chữ
[紛] đọc là Phân. Sách Ngọc Thiên nói : [繽 紛] có nghĩa là loạn, rối bời, bời bời.
3) Nửa tụng : nổi
nhạc.
4) Nửa tụng : mưa
áo (quần).
5) Một tụng : thắp
hương
6) Một tụng rưỡi :
lên trời.
7) Nửa tụng : ca
vịnh tán thán.
*
-Kinh văn : “Bao
nhiêu sự như vậy” tới “để giúp tâm vô
thượng”.
Tán rằng : đây là
kết thành hoan hỉ.
Những người thiện
căn đầy đủ khi nghe danh hiệu Phật là trợ giúp tâm Phật vô thượng của họ, giúp
họ tu hành thuận tâm Phật. Hoặc là khiến họ đầy đủ thiện căn, giúp các chúng
sinh phát tâm vô thượng, đó gọi là “Giúp”.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật bảo” tới “không có hạn
lượng”.
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ hai : so sánh hơn kém, thuyết minh về lợi ích thời sau.
Trong chia làm hai
phần :
1. Phần đầu :
trường hàng và tụng nói về nghe (thuyết về) thọ lượng, sinh ra lợi ích tùy hỉ,
tín giải, sinh ra một số bộ phận nói về Tùy hỉ công đức.
2. Phần sau : một
trường hàng và tụng nói về nghe (thuyết về) thọ lượng, hiểu được lợi ích của
các việc trì, đọc, tụng (kinh này), sinh ra mộ bộ phận nói về Pháp Sư Công
Đức.
Phần đầu là giải
thích về người tùy hỉ.
Phần sau nói về
người chính tu hành.
Trường hàng của
phần đầu có ba phần :
1) Phần đầu :
thông minh tín giải.
2) Phần hai : so
sánh hơn kém.
3) Phần cuối : nói
về vô thoái.
Đây là phần
đầu.
Sau Tùy hỉ công
đức thì được Bồ đề, có gì mà phải lượng !
*
-Kinh văn : “Nếu
có thiện nam tử” tới “cũng chẳng thể
biết được”.
Tán rằng : đây là
so sánh hơn kém. Thể nhất thừa ấy tức là Tuệ hữu vi và Trí vô vi, bởi vậy trừ
Bát nhã, nếu coi đó là tối thắng.
Kinh này chỉ nói
xuất sinh nhất thừa, thể tính rộng rãi đầy đủ. Nhất thừa trong kinh Thắng Man
tuy gồm cả nhiếp nhập, nhưng chỉ coi Tuệ vô vi là nhất thừa. Đấy là như kinh đó
nói : “Giả sử có người trải qua hằng hà sa kiếp tu hạnh Bồ đề, hành 6 pháp Ba
la mật thì phúc đức cũng chẳng bằng phúc đức của người tay nghe, thọ trì, đọc
tụng cho đến cầm nắm kinh quyển…”, chẳng nói về trừ Bát nhã.
Cho nên biết kinh
này lấy cả Lý Trí làm nhất thừa, vì Lý Trí nhị thừa hội quy vào nhất thừa. Nếu
chỉ lấy chân lý giống kinh Thắng Man coi đó là nhất thừa, thì cũng nên lấy cả
lục độ mà so sánh để chung cho nghĩa xuất sinh. Cớ sao lại trừ Tuệ ?
Kim Cương Bát Nhã
luận của Thiên Thân nói : Số, Lực, Vô tự thắng (không có cái thù thắng tương
tự), Vô tự nhân (không có cái nhân tương tự) cũng thế :
1) Số thắng.
2) Lực thắng, vì
thắng thời.
3) Vô tự thắng, vì
thắng dụ.
4) Nhân thắng, vì
thắng nhân quả.
Văn này có hai :
“toán số” và “ví dụ”. Cho đến hai thứ khác cũng chẳng bằng, cho nên nói là “cho
đến”.
*
-Kinh văn : “Nếu
thiện nam tử” tới “không có trường hợp
ấy”.
Tán rằng : đây là
nêu bật ý vô thoái.
Tín, Vị, Chứng,
Hành tùy ứng vô thoái.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “tu hành năm Ba la
mật”.
Tán rằng : đây là
19 tụng rưỡi, chia làm hai phần :
• Phần đầu, 14
tụng : so sánh.
• Phần sau, 5 tụng
rưỡi : thuyết minh về năng tín.
Chẳng tụng về một
mục đầu.
Phần đầu lại chia
làm hai :
- 12 tụng đầu :
tụng về tu hành ngũ độ.
- 2 tụng sau :
tụng về so sánh một tín.
Trong phần đầu này
lại chia làm 3 mục :
1) Một tụng : nêu
lên.
2) Mười tụng : ngũ
độ.
3) Một tụng : kết
thành.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Ở
trong các kiếp này” tới “để hồi hướng Phật
đạo”.
Tán rằng : dưới là
10 tụng về ngũ độ, trong chia làm 5 phần.
Ba tụng này nói về
hạng đệ tử nghèo bố thí, hạng đó là Thanh văn.
Ruộng có ba loại :
1) Tôn thắng.
2) Bần khổ.
3) Trung
dung.
Cha mẹ là Ân điền,
thuộc loại đầu là loại tôn thắng. Nay cúng loại ruộng đầu. Ruộng và ơn cả hai
đều thắng trội. Trong các thứ như vậy, có bao gồm cả y dược, cho nên bốn sự sẽ
đầy đủ.
*
-Kinh văn : “Nếu
lại giữ cấm giới” tới “nhất tâm chẳng lười
nhác”.
Tán rằng : đây là
1 tụng về giới, 2 tụng về nhẫn, 1 tụng về cần (chăm chỉ).
*
-Kinh văn : “Lại ở
vô số kiếp” tới “tận tột các thiền
định”.
Tán rằng : đây là
3 tụng về định.
*
-Kinh văn : “Người
ấy ở trăm ngàn” tới “điều đã nói như
trên”.
Tán rằng : đây là
1 tụng kết thành.
*
-Kinh văn : “Có
các thiện nam nữ” tới “phúc họ là như
vậy”.
Tán rằng : 2 tụng
này so sánh về một niệm tín.
*
-Kinh văn : “Còn
có các Bồ tát” tới “thuyết về thọ cũng
thế”.
Tán rằng : dưới là
5 tụng rưỡi, thuyết minh về người năng tín, chia làm ba mục :
- 1 tụng :
tín.
- 3 tụng : phát
nguyện.
- 1 tụng rưỡi :
kết thành.
Phát nguyện có hai
:
1) Tổng (chung).
2) Biệt
(riêng).
Đây là hai mục
đầu.
*
-Kinh văn : “Nếu
có người thâm tâm” tới “không nghi về điều
này”.
Tán rằng : đây là
kết thành. Có đủ 6 đức :
1) Thâm tâm hết
lòng yêu pháp.
2) Thanh tịnh
chẳng cầu danh lợi.
3) Chất trực.
4) Đa văn.
5) Tổng trì.
6) Hiểu sâu lời
Phật.
Mới tin tưởng,
không nghi ngờ.
*
-Kinh văn : “Thêm
nữa, A Dật Đa” tới “Nhất thiết chủng
trí”.
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ hai : giải thích lợi ích của việc Trì, Đọc, Tụng.
Trong trường hàng
có 7 mục :
1) Hành giả công
đức vô biên năng sinh chủng trí.
2) Hành giả thấy
báo thân tịnh độ.
3) Hành giả đầu
đội Phật.
4) Hành giả vì
mình mà xây tháp Phật, xây tăng phòng để cúng dàng.
5) Hành giả kiêm
hành lục độ để tự lợi, chóng được chủng trí.
6) Hành giả kiêm
tu lục độ để lợi tha, để tới đạo tràng.
7) Hành giả ở nơi
nào thì nên xây tháp để cúng dàng.
Đây tức là văn mục
đầu. Có hai phần :
• Phần đầu : nghe
thuyết về thọ lượng, sẽ nảy ra Vô thượng tuệ.
• Phần sau : đối
với một bộ phận, do nghe, thọ trì kinh v.v… mà có thể sinh ra chủng trí, vì ắt
sẽ được.
*
-Kinh văn : “A Dật
Đa” tới “tướng tin chắc hiểu sâu”.
Tán rằng : đây là
mục hai : hành giả thấy báo thân tịnh độ. Có bốn phần :
1) Thấy báo Phật.
2) Thấy tịnh độ.
3) Thấy chúng Bồ
tát.
4) Kết thành điều
trên, vì ắt sẽ được thấy.
Vì thấy hiểu Phật
trí như là thấy báo Phật. Đây là thấy bằng trí, chứ chẳng phải là thấy bằng mắt.
*
-Kinh văn : “Lại
nữa Như Lai” tới “đầu đội Như Lai”.
Tán rằng : đây là
mục ba : hành giả chính là người đầu đội Phật.
Nghe kinh tùy hỉ,
đã tín giải sâu, huống hồ còn đọc tụng, thụ, trì, kính trọng Phật. Cho nên nói
là “đầu đội”.
*
-Kinh văn : “A Dật
Đa” tới “cúng dàøng chúng tăng”.
Tán rằng : đây là
mục bốn : hành giả chính vì mình mà dựng tháp Phật xây tăng phòng để cúng
dàng.
Có ba phần :
- Thoạt đầu nêu
lên.
- Sau đó giải
thích.
- Cuối cùng kết
luận.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Vì
sao như vậy” tới “cúng dàng chúng
tăng”.
Tán rằng : dưới là
giải thích, có hai :
1. Giải thích sơ
lược.
2. Giải thích
rộng.
Đây là phần giải
thích sơ lược.
Toàn thân tại đây,
tức là “xây tháp”.
Nơi các chúng về
học tức là “tăng phường”.
Thụ trì đọc tụng,
thực sự tu hành tức là “cúng dàng”, cho nên nói : “tức là hai thứ cúng dàng
này”.
*
-Kinh văn : “Thì
là vì Phật” tới “làm việc cúng dàng này
rồi”.
Tán rằng : đây là
giải thích rộng, có hai phần :
• Phần đầu giải thích
: “tức là xây tháp cúng dàng”.
• Phần sau giải
thích : “tức là xây tăng phòng cúng dàng”.
Đây là phần đầu,
có ba mục :
1) Lượng.
2) Dụng cụ.
3) Thời
gian.
Vì người này nhất
định siêu thoát khỏi Dục giới, cho nên tạm nêu ra mức tối thiểu là “tới cõi
Phạm thiên”. Vì người hơi có khả năng tu hành thì thiện căn nhỏ, cho nên nêu
mức nhỏ để làm ví dụ. Vì nội pháp cúng dàng thì hơn là ngoại tài (chỉ sự tài
thí bề ngoài).
*
-Kinh văn : “A Dật
Đa” tới “cùng tỳ kheo tăng”.
Tán rằng : đây là
giải thích “tức là xây tăng phòng cúng dàng”.
Có hai phần : phần
đầu chỉ ít, phần sau chỉ nhiều. Phần chỉ ít có 4 mục :
1) Số 3)
Tăng trụ.
2) Lượng. 4) Dụng
cụ.
“Ba mươi hai” : là
để bốn phương tăng ở đó mà sống theo tám Thánh đạo.
“Tám đa la” : là
tu tám giải thoát.
Một cây đa la thì
cao bằng 7 nhận. Tương truyền một nhận bằng 7 thước. Cứ như vậy mà tính ra thì
có thể biết (cao bằng) 8 cây đa La là bao nhiêu. Ngoài ra, mỗi thứ đều có biểu trưng
cả, cứ tùy theo nghĩa mà lý giải.
Từ “Nhà cửa tăng
phòng như vậy” trở xuống : đó là phần chỉ nhiều, tức là xây dựng tăng phòng như
trên, việc đó nói rõ số nhiều.
*
-Kinh văn : “Cho
nên ta nói” tới “cúng dàng chúng
tăng”.
Tán rằng : đây là
phần thứ ba : kết luận.
*
- Kinh văn : “Huống hồ lại có
người” tới “Nhất thiết chủng trí”.
Tán rằng : đây là
mục thứ năm : hành giả kiêm tu lục độ để tự lợi, chóng được chủng trí. Có ba
mục :
- Mục đầu : pháp.
- Mục sau : dụ.
- Mục cuối : hợp
thuyết “chóng thành chủng trí”.
*
-Kinh văn : “Nếu
người nào đọc tụng” tới “khéo giải đáp
những điều thắc mắc”.
Tán rằng : đây là
mục thứ sáu : hành giả kiêm hành lục độ để lợi tha, để tới đạo tràng.
“Đạo tràng” : chỉ
Chính đẳng giác tính. Trước kia là Bồ đề, còn đây là Niết bàn.
Có hai phần :
• Phần đầu :
thuyết minh về lục độ lợi tha.
• Phần sau : kết
luận đã tới đạo tràng.
Đây là phần
đầu.
“Xây tháp xây tăng
phòng để cúng dàng” : đó là Tài thí.
“Tán thán tam
thừa” : đó là Vô úy thí.
“Thuyết Kinh Pháp
Hoa này” : đó là Pháp thí.
Còn các thứ
khác như : Giới, Nhẫn, An, Cần, Tuệ theo thứ tự mà lợi tha.
“Cùng ở trong
nhẫn” : đó là Nại oán hại nhẫn.
“Nhẫn nhục không
sân” : đó là An thụ khổ nhẫn.
“Chí niệm kiên cố”
: đó là Đế sát pháp nhẫn.
“Đạt được định
sâu, siêng gom điều thiện”, đó là đều để lợi tha.
*
-Kinh văn : “A Dật
Đa” tới “ngồi dưới cội đạo thụ”.
Tán rằng : đây là
kết luận : đã tới đạo tràng.
Tới hai đạo tràng
chân và hóa, vì giác thụ (tức cây Bồ đề) tự nó tươi tốt như cây sống vậy.
*
-Kinh văn : “A Dật
Đa” tới “như tháp của Phật”.
Tán rằng : đây là
mục thứ bảy : hành giả ở chốn nào, cũng nên xây tháp cúng dàng.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “đã nói rõ như
trên”.
Tán rằng : đây là
19 tụng rưỡi chia làm năm phần :
1) Phần đầu gồm 1
tụng : nêu lên 3 mục đầu của 7 mục ở phía trước.
2) Phần hai gồm 7
tụng rưỡi : tụng về mục thứ tư ở phần trước : tức là đã xây tháp, xây tăng
phòng cúng dàng.
3) Phần ba gồm 3
tụng : tụng về mục thứ năm : hành giả kiêm hành lục độ để tự lợi, chóng được
chủng trí.
4) Phần bốn gồm 3
tụng : tụng về mục thứ sáu : hành giả kiêm hành lục độ để lợi tha, để tới đạo
tràng.
5) Phần năm gồm 5
tụng cuối : tụng về mục thứ bảy : hành giả ở chốn nào, cũng nên xây tháp cúng
dàng.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Thế
tức là đầy đủ” tới “đầy đủ các cúng
dàng”.
Tán rằng : dưới
đây là 7 tụng rưỡi, tụng về mục thứ tư, trong đó chia làm hai phần :
• Phần đầu gồm 4
tụng rưỡi : tụng về ý “tức là xây tháp cúng dàng”.
• Phần sau gồm 3
tụng : tụng về ý “tức là xây tăng phòng cúng dàng”.
Phần đầu này có ba
mục :
- 2 tụng : tạo
tháp.
- 1 tụng rưỡi :
cúng dàng.
- 1 tụng : kết
luận.
*
-Kinh văn : “Nếu
năng trì kinh này” tới “mọi thứ đều đẹp
đẽ”.
Tán rằng : đây là
phần “tức là xây tăng phòng cúng dàng”.
*
-Kinh văn : “Nếu
có tâm tín giải” tới “phúc ấy cũng như
vậy”.
Tán rằng : đây là
tụng về mục thứ năm ở trên, tức là mục “kiêm hành lục độ để tự lợi, chóng được
chủng trí”.
Chỉ luận về một Bố
thí độ, chẳng nói về ngũ độ còn lại.
*
-Kinh văn : “Huống
lại trì kinh này” tới “công đức chẳng thể
lường”.
Tán rằng : đây là
tụng về mục thứ sáu : mục “kiêm hành lục độ để lợi tha, để tới đạo
tràng”.
“Cung kính với
chùa tháp, Khiêm hạ với tỳ kheo” v.v… đó đều là Tinh tiến độ.
*
-Kinh văn : “Nếu
thấy Pháp Sư này” tới “kinh hành và nằm
ngồi”.
Tán rằng : đây
là tụng về mục thứ bảy : hành giả ở bất cứ chỗ nào cũng nên xây tháp cúng
dàng.
Trong chia làm bốn
phần :
1) Một tụng rưỡi :
kính như Phật.
2) Một tụng : biết
đạo thành
3) Một tụng rưỡi :
nên dựng tháp.
4) Một tụng : chốn
Phật dạo chơi.
KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN
QUYỂN THỨ
CHÍN - PHẦN SAU
ĐÃ XONG
Năm Bảo An
thứ ba, tháng Sáu ngày 21 viết xong, Sư Tăng Giác chùa Pháp Long đem
in.
Ngày 24 tháng
12 năm này, sau khi dùng bản của Viên Như phòng, chùa Hưng Phúc di điểm xong,
Sư Tăng Giác đem in.
“Để pháp được
lưu truyền, để được vãng sinh cực lạc”
Bản viết chữ
son đều là bản di điểm. Dưới là mượn tên… có… bản khác vậy.
Ngày 21 tháng 5
năm Thiên Phụng thứ nhất, tức năm Tân Hợi, vâng mệnh trao cho Thiện Minh phòng,
chùa Dược Sư để bổ chính. Sau khi hoàn tất rồi, thì đem kèm cả lời giải thích
mà sao chép ra. Mọi việc xong xuôi thì giao cho Sư Tăng Giác đem in.