KINH DIỆU
PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN
Đại Sư Khuy Cơ biên
soạn – Việt dịch: Cố Hòa thượng Thích Chân Thường
Biên soạn: Giáo
sư Trương Đình Nguyên – Tu chỉnh và hiệu đính: Tỳ kheo: Thích Đồng Bổn
Nhà Xuất Bản Tôn
Giáo, Hà Nội 2005
QUYỂN THỨ MƯỜI (PHẦN
TRƯỚC)
Sa môn KHUY CƠ,
chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn.
PHẨM TÙY HỈ CÔNG ĐỨC
Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG
Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có ba ý :
1. Trong bảy phẩm học hành lưu thông, sáu phẩm cuối thuyết minh về người năng hành. Chia làm bốn phần. Từ phần thứ ba trở xuống có hai phẩm thuyết minh về công đức của Bàng tu hành và Chính y hành nhiều ít bao nhiêu. Phẩm này thuyết minh về phúc của Bàng tu hành. Cho nên mới có phẩm này.
2. Trong quả nhất thừa, hai phẩm trên thuyết minh về quả đã mãn. Còn ba phẩm dưới thuyết minh về quả chưa mãn, chia làm hai. Phẩm này thuyết minh về phúc quả Bàng tu hành tùy hỉ nhiều ít bao nhiêu. Hai phẩm sau thuyết minh về phúc quả Chính y hành nhiều ít bao nhiêu. Cho nên mới có phẩm này.
3. Luận nói rằng : pháp lực có 5 môn, trước đã thuyết minh 3 môn. Đây là môn thứ tư : nghe pháp, ý như trong phẩm Tùy Hỉ Công Đức đã nói. Do nghe người khác nói, rồi có thể sinh ra tùy hỉ cho nên gọi là nghe pháp. Phẩm này thuyết minh về ý ấy, cho nên phải có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
“Tùy” : có
nghĩa là thuận theo.
“Hỉ” : có nghĩa là
vui thích.
Thân tâm thuận
theo, rất là vui thích, lấy đó làm nhân sinh quả “Công Đức”.
Phẩm này thuyết
minh rộng về ý ấy, cho nên đặt tên phẩm như thế. Có nghĩa là tùy theo các điều
sở Văn, sở Tư, sở Tu mà sinh tâm tùy hỉ.
Luận theo kinh cho
nên lúc đầu chỉ nói về Văn (nghe pháp).
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : phẩm này chẳng những (nói về) tự mình sinh ra tùy hỉ, mà còn giáo dục khuyến khích người khác (tùy hỉ). Vậy cớ sao chẳng đặt tên phẩm này là phẩm Khuyến Nhân ?
Đáp : đó là vì
đặt tên theo cái gốc : nhân tự tùy hỉ rồi mới khuyên người khác.Ngoài ra, cả
hai (tự mình và khuyên người) đều bao gồm trong Tùy Hỉ, cho nên hợp lại làm tên
Tùy Hỉ.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Di Lặc” tới “thì được bao nhiêu phúc
?”.
Tán rằng : phẩm
văn chia làm hai phần :
- Phần đầu là Di
Lặc thỉnh.
- Phần sau là Thế
tôn đáp.
Đây là phần đầu,
gồm 2 mục : trường hàng và kệ tụng.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật bảo” tới “ngươi hãy lắng
nghe”.
Tán rằng : dưới là
Thế tôn đáp. Chia làm ba phần :
1. Phần đầu : dùng
hình thức so sánh để mà hỏi.
2. Phần hai : Di
Lặc đáp.
3. Phần cuối :
Phật mách bảo để thành tựu cho.
Văn phần đầu lại
chia làm ba mục :
1) Mục đầu :
thuyết minh về người hay tùy hỉ.
2) Mục hai :
thuyết minh về cảnh được so sánh.
3) Mục ba : là
đoạn từ “ý ngươi thế nào” trở xuống : chính thức đặt ra câu hỏi.
Văn mục đầu này có
hai phần :
- Phần đầu :
thuyết minh về người đầu tiên tùy hỉ.
- Phần hai : chỉ
người tùy hỉ sau khi đã so đọ.
Văn phần đầu lại
chia làm ba mục :
a) Mục đầu thuyết
minh về lúc ban đầu.
b) Mục hai thuyết
minh về chốn đi tới (vãng xứ).
c) Mục cuối thuyết
minh về việc lần lượt đi tới các ngõ ngách.
* Chữ [陌] Mạch, theo sách Ngọc Thiên là chỉ đường ruộng theo hướng Đông
Tây. Vậy Mạch có nghĩa như Đạo, tức là đường vậy.
*
-Kinh văn : “Nếu
bốn trăm vạn ức” tới “đủ tám mươi năm
rồi”.
Tán rằng : dưới là
cảnh được so sánh. Trong có bốn phần :
1. Chủng loại số
lượng chúng sinh.
2. Các dụng cụ
được bố thí.
3. Tuổi tác.
4. Đắc đạo.
Đây là ba phần
đầu.
Trong phần nói về
chủng loại chúng sinh có hai phần :
- Phần 1 : tách
riêng ra mà bảo thì có năm môn :
a) Lục thú (sáu
nẻo chúng sinh).
b) Tứ sinh (bốn
loại chúng sinh, sinh ra theo bốn cách khác nhau).
c) Hình loại.
d) Tư tưởng khác
nhau (tưởng thù).
e) Số lượng chân
khác nhau (túc dị).
Nghĩa của các môn
này như chương khác đã nói.
“Vàng Diêm phù đề”
: Diêm phù đề là tên loại cây ở Thiệm bộ châu, ở dưới nước gần cây này tại bờ
bắc châu này có loại tử kim ánh sáng át cả ánh mặt trời, mặt trăng cho nên lấy
tên cây ấy mà đặt tên cho loại vàng đó.
- Phần 2 : đoạn từ
“Các loại chúng sinh như vậy” trở xuống : kết luận.
*
-Kinh văn : “Mà
nghĩ như vầy” tới “đủ tám giải
thoát”.
Tán rằng : đây là khiến cho đắc đạo. Trong có hai mục :
1) Khởi niệm.
2) Hóa đạo.
*
-Kinh văn : “Ý
ngươi thế nào ?” tới “há phải là nhiều
chăng ?”.
Tán rằng : đây là
chính thức đặt câu hỏi.
*
-Kinh văn : “Di
Lặc bạch Phật” tới “quả A la hán”.
Tán rằng : đây là
Di Lặc đáp. Thế quả đã nhiều, huống hồ lại còn khiến đắc thánh (quả).
*
-Kinh văn : “Phật
bảo Di Lặc” tới “điều chẳng thể
biết”.
Tán rằng : dưới là
Phật dạy về thành tựu. Có hai phần :
1) Đầu tiên :
thành tựu của người thứ năm mươi.
2) Sau đó : thành
tựu của người thứ nhất.
Đây là phần đầu.
Một niệm tùy hỉ,
khiến sẽ chứng được Bồ đề. Số chúng sinh được giáo hóa sẽ gấp bội số trên. Cho
nên sẽ được nhiều phúc.
Khiến đắc quả A la
hán, thì chẳng thể thành Phật để tế độ rộng rãi cho chúng sinh, cho nên phúc sẽ
kém.
Cũng như so sánh
tướng Phạm âm của Phật với tướng âm thanh của phàm phu.
*
-Kinh văn : “A Dật
Đa” tới “chẳng thể so sánh được”.
Tán rằng : dưới là
thành thứ nhất. Văn chia làm năm phần :
- Phần đầu :
thuyết minh chung về người đầu tiên tùy hỉ công đức hơn người thứ 50 nêu ở phần
trước không gì sánh nổi.
- Phần thứ hai :
quả tùy hỉ của người đi nghe pháp.
- Phần thứ ba :
quả tùy hỉ của người khuyên người khác nghe, hoặc chia chỗ cho người khác ngồi
nghe pháp.
- Phần thứ tư :
quả tùy hỉ của người vâng lời đi nghe pháp.
- Phần thứ năm :
nêu cái kém để thành tựu cái hơn.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Lại
nữa, A Dật Đa” tới “chốn nơi ngồi”.
Tán rằng : đây là
phần hai và phần ba : quả tùy hỉ nghe pháp và quả tùy hỉ khuyên người khác nghe
pháp : cũng được lục thông, tòa kim cương.
Đây là căn cứ vào
thế quả, chẳng phải là xuất thế quả. Nếu có bệnh thì được phép nằm nghe, đây là
căn cứ vào lúc chẳng có bệnh, chỗ rộng thì chỉ khuyên nên ngồi mà nghe, chỗ hẹp
thì khuyên chia chỗ mà ngồi nghe.
*
-Kinh văn : “A Dật
Đa” tới “cùng sinh một chỗ”.
Tán rằng : dưới là
phần thứ tư : quả tùy hỉ thụ giáo đi nghe pháp. Có ba mục :
- Mục đầu : nói rõ
được thiện hữu tốt.
- Mục hai : thuyết
minh về phúc tuệ trang nghiêm.
- Mục cuối : thấy
Phật, nghe pháp.
Đây là mục đầu :
được bạn hiểu pháp làm thiện hữu.
*
-Kinh văn : “Lợi
căn trí tuệ” tới “không có những điều đáng
ghét”.
Tán rằng : dưới là
phúc tuệ trang nghiêm, đó là lợi căn trí tuệ vậy. Các thứ khác đều bao gồm
trong phúc. Trong phúc có 5 thứ :
1) Thanh tướng
(tướng giọng nói).
2) Khẩu tướng
(tướng miệng).
3) Tị tướng (tướng
mũi).
4) Diện tướng
(tướng mặt).
5) Chúng tướng
(các tướng mạo).
Đoạn từ “trăm ngàn
vạn đời” trở xuống : là nói về các quả (khác).
Khẩu tướng có 5
thứ :
1/- Khí (hơi thở).
2/- Thiệt (lưỡi).
3/- Lợi, vòm miệng
v.v… không có bệnh.
4/- Răng không có
6 khuyết tật xấu.
5/- Môi không có
10 tướng xấu.
“Chẳng vẩu chẳng
ngắn” :
* Chữ Khiên [褰] ở đây có nghĩa là khểnh, vẩu (chỉ răng). Chữ Súc [縮] ở đây là ngắn (vốn chữ này nghĩa là rút ngắn).
“Chẳng thô tháp” :
có nghĩa là nhỏ mịn.
“Chẳng lở loét
(miệng)” :
* Chữ
[ ] đọc là Chẩn, chỉ mụn nhọt ở môi.
Có bản chép là
“môi khít chẳng có mụn nhọt”.
“Chẳng méo” : có
nghĩa là miệng chẳng méo.
* Chữ [ ]
đọc là Khỏa (thường đọc là Oa) : méo miệng.
*
-Kinh văn : “Mũi
chẳng tẹt dí” tới “tướng chẳng đáng
ưa”.
Tán rằng : đây là
tướng mũi và tướng mặt.
“Biển thê” :
vốn có nghĩa là mỏng (bẹt), ở đây chỉ mũi tẹt dí.
* Chữ
[ ] đọc là Biển, vốn nên viết là [遍]. Chữ [睇] đọc là Thê, vốn nên viết là
[ ].
“Khúc lệ” : có
nghĩa là gãy gập.
*Hai chữ [窊曲] đọc là Oa Khúc . [窊] Oa : có nghĩa là lõm
xuống. Chữ [曲] Khúc : có nghĩa là “cong vạy”, nghĩa
như chữ [枉] Uổng. Chữ [細] Tế, nghĩa như Tiểu [小], nghĩa là nhỏ.
*
-Kinh văn : “Môi,
lưỡi, răng, lợi” tới “tướng người đầy
đủ”.
Tán rằng : đây là
các tướng (khác), có sáu.
*
-Kinh văn : “Đời
đời sinh ra” tới “tin tưởng tiếp thụ
sự dạy bảo (của Phật)”.
Tán rằng : đây là
thấy Phật nghe pháp.
*
-Kinh văn : “A Dật
Đa” tới “tu hành đúng như lời (Phật) thuyết”.
Tán rằng : đây là
phần thứ năm : nêu cái kém để thành tựu cái hơn.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “chẳng thể làm thí
dụ”.
Tán rằng : đây là
18 tụng, chia làm hai phần :
- 8 tụng đầu :
Bàng tùy hỉ.
- 10 tụng sau :
Chính tùy hỉ.
Đây là phần đầu.
Có ba mục :
+ 2 tụng đầu : nêu
lên việc tùy hỉ.
+ 5 tụng sau : so
sánh.
+ 1 tụng cuối :
kết luận thành tựu.
*
-Kinh văn : “Nghe
lần hồi như vậy” tới “thường từ miệng đó
ra”.
Tán rằng : dưới là
10 tụng, tụng về Chính tùy hỉ. Có 5 phần, đây có 2 phần :
- 1 tụng : thuyết
minh chung về người đầu tiên tùy hỉ.
- 5 tụng : tụng về
người tùy hỉ vâng lời đi nghe (pháp).
*
-Kinh văn : “Nếu
cố tới tăng phường” tới “phúc ấy chẳng thể
lường”.
Tán rằng : đây có
ba phần :
- 2 tụng đầu : tùy
hỉ nghe pháp.
- 1 tụng sau : tùy
hỉ chia chỗ khuyên người khác nghe.
- 1 tụng cuối :
nêu cái kém để thành tựu cái hơn.
***
PHẨM PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC
Ba môn phân
biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có ba ý :
1. Trong sáu phẩm
nói về người có khả năng tu hành trước đây, đã nói về phúc của người gián tiếp
có khả năng tu hành, chưa nói về phúc của Pháp sư trực tiếp có khả năng tu
hành. Nay chính thức thuyết minh về điều này. Cho nên mới có phẩm này.
2. Hai phẩm dưới
nói rõ Chính y hành, phúc quả nhiều ít bao nhiêu. Trong đó, phẩm đầu thuyết
minh chung về đắc quả nhiều ít bao nhiêu, phẩm sau dẫn đã chứng thành (đắc
quả). Cho nên mới có phẩm này.
3. Luận giải rằng
: Pháp lực có năm loại, loại thứ năm là Đọc tụng trì thuyết. Phẩm Thường Tinh
Tiến đã thị hiện rõ. Trong phẩm này Phật bảo với Thường Tinh Tiến về công đức
của Trì thuyết v.v… Cho nên mới có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
Y theo pháp mà tu
hành, có thể làm mẫu mực, cho nên gọi là “Pháp sư”.
Chỉ nói về người
năng hành, chứ chẳng phải là nói về pháp sở hành.
Phẩm này nói rõ
công đức của Pháp sư, cho nên gọi là phẩm “Pháp Sư Công Đức”.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
-Hỏi : vì sao
trong phẩm Pháp Sư trước đây thì Phật bảo Dược Vương ; trong các phẩm Bảo Tháp,
Thiên Thụ thì Phật bảo các Bồ tát và bốn chúng trời người ; trong phẩm An Lạc Hạnh
thì Phật chỉ bảo một mình ngài Văn Thù ; trong các phẩm Như Lai Thọ Lượng, Phân
Biệt Công Đức, Tùy Hỉ Công Đức thì Phật chỉ bảo riêng một mình ngài Di Lặc, thế
mà phẩm Pháp Sư Công Đức này thì Phật lại bảo Thường Tinh Tiến, mà chẳng bảo
các vị khác ?
Đáp : Phẩm Pháp Sư
thuyết minh về hai loại thầy: nhân và pháp. Dược Vương trước kia chẳng tiếc
thân mệnh để hoằng dương Kinh pháp, lấy pháp làm thầy, lấy thân làm Pháp sư. Bởi
vậy Phật mới bảo riêng Dược Vương.
Phẩm Bảo Tháp nói
về pháp chứng, phẩm Thiên Thụ nói về nhân chứng, cốt để khuyến khích mọi người,
cho nên Phật đã bảo chung.
Phẩm An Lạc Hạnh
thuyết minh về ba nghiệp thiện hành để tránh sự hủy hoại thương tổn, ngài Văn
Thù thường khuyên chúng sinh tu hành, thường làm bậc thiện hữu của chúng sinh,
bản thân ngài cũng tự mình đi đầu trong việc tu hành, cho nên Phật chỉ bảo
riêng ngài Văn Thù.
Phẩm Thọ Lượng
thuyết minh về ba Phật Bồ đề. Phẩm Phân Biệt Công Đức thuyết minh về thứ bậc
chứng đạo. Phẩm Tùy Hỉ Công Đức so sánh khuyến khích mọi người mong cầu Phật quả.
Nếu tự mình chẳng phải là bậc địa vị ngang với Chính giác, trí tuệ cỡ bậc đại
thánh thì làm cách nào mà biết được sự huyền vi của chân hóa, xét tỏ được sự
viên chứng của đạo đức ? Cho nên ba phẩm này Phật chỉ bảo riêng cho ngài Di
Lặc.
Phẩm này cũng có
thể bảo chung cả ngài Di Lặc nhưng vì ngài Thường Tịnh Tiến về Danh và Hạnh cả
hai đều phù hợp, cho nên Phật mới bảo riêng Thường Tinh Tiến.
Tu hành diệu hạnh
của ngũ sư, thu được thắng đức sáu ngàn. Nếu tự mình chẳng thật tu hành thành
đạt từ kiếp trước thì chẳng chứng được, và nếu chẳng thường xuyên tinh tiến thì
cũng chẳng chứng được. Há phải là do lười nhác chơi bời mà có thể thành tựu
được ? Cho nên Phật chỉ bảo riêng ngài Thường Tinh Tiến vậy.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật bảo” tới “nếu sao chép”.
Tán rằng : văn
toàn phẩm chia làm ba phần :
1. Phần đầu : bảo
rõ các loại tu hành Pháp sư khác nhau.
2. Phần hai : nói
rõ công đức sẽ đạt được nhiều ít là bao nhiêu.
3. Phần cuối : nói
rõ quả dụng thù thắng của sáu căn.
Đây là phần
đầu.
Căn cứ vào
thực tế thì Pháp sư tổng cộng có mười loại. Đây chỉ nói sơ qua về năm loại :
1) Trì. 4) Thuyết.
2) Đọc. 5) Viết
(kinh).
3) Tụng.
Để lệ chứng năm
loại khác là : Cúng dường, Thí tha (bố thí cho người khác), Thính văn (nghe
kinh), Tư duy, Tu tập cũng đều là Pháp sư. Ba loại đầu dễ nên chẳng bàn, hai
loại cuối khó mà chẳng thuyết, nêu năm loại giữa để làm lệ chứng về khó dễ.
*
-Kinh văn : “Người
ấy sẽ được” tới “đều khiến thanh
tịnh”.
Tán rằng : đây là
nói về công đức đạt được nhiều ítø bao nhiêu : đầu tiên là phân tích, sau đó là
kết luận.
Xưa có 2 cách giải
thích, nay có 4 cách :
I. Hai cách giải
thích theo xưa :
I.1. Cách thứ
nhất :
Thập thiện là gốc,
mỗi thiện đều có sự trợ giúp của chín thiện khác thành tựu cho. Mỗi thiện đều
thành tựu 10 hạnh, mỗi hành đều có 4 môn :
- Tự tác (tự
làm).
- Giáo tha (dạy
bảo người khác).
- Tán thán thắng
pháp.
- Tán hành thập
thiện.
Gộp cả lại thì
thành 400. Bốn thứ này, mỗi thứ đều có 3 bậc tu là : thượng, trung, hạ, nên
nhân lên thành 1200.
Ba căn Nhĩ (tai),
Thiệt (lưỡi), Ý : Thính văn (nghe kinh), đàm thuyết kinh pháp, tâm đắc pháp
nghĩa, sức tu hành thắng trội đầy đủ ba bậc, đều 1200. Còn ba căn khác kém cỏi,
đều không có bậc thượng, cho nên mỗi căn chỉ có 800. Nếu y vào thập thiện, lấy
đó làm đầu thì tu thành đức này. Công đức sáu căn phải là như vậy. Các kinh
khác cũng thế, đâu phải chỉ riêng kinh này.
I.2. Cách thứ hai
:
Sáu căn mỗi căn
đều có 100 phúc, mỗi phúc đều được trang nghiêm bằng 10 thiện, nhân lên thì
thành 1.000. Sáu căn nhân với số này thì tổng cộng thành 6.000. Ba căn trội
hơn, thì mỗi căn được tăng thêm 200. Ba căn kém hơn, thì mỗi căn giảm bớt
200.
Cách giải thích
xưa dẫn kinh Chính Pháp Hoa và Trang Nghiêm luận, thì sáu phẩm mỗi phẩm 1.000.
Vậy ba căn Nhãn, Tị, Thân đều cho thêm 200, số ấy là sao ? Thêm nữa, 100 phúc
là quả đã cảm ứng được gấp 10 lần của nhân là thập thiện.
Nay vì nhân trợ
chưa thấy do đâu, cho nên ở đây giải thích lại cho đúng. Trong bản luận chỉ nói
ba căn mỗi căn đều 1.200, còn căn khác mỗi căn chỉ có 800. Không được đem Trang
Nghiêm luận đánh đồng với kinh này. Hơn nữa lại chưa đối chiếu văn bản của 2
sách đó.
II. Bốn cách giải
thích theo nay :
II.1. Cách thứ
nhất :
Trong kinh này tu
10 pháp hành :
1) Thư tả (sao
chép kinh văn).
2) Cúng
dàng.
3) Thí tha (bố thí
cho người khác).
4) Thính văn (nghe
giảng kinh này).
5) Phi độc (giở
đọc kinh này).
6) Thụ trì.
7) Khai diễn.
8) Phúng tụng.
9) Tư duy.
10) Tu tập.
Ở trong 10 thứ
này, mỗi mỗi giúp nhau, chuyển thành 100 hành. Trăm hành mỗi hành có 4 thứ
:
a) Tự tác.
b) Giáo tha.
c) Tán lệ (tức tán
thán pháp thắng).
d) Khánh úy (tức
tán thán hành thập thiện).
Tổng cộng nhân lên
thì thành 400 thứ, mỗi thứ đều có 3 bậc tu tập, thành ra 1200. Ba căn trội, thì
mỗi căn đều 1200. Ba căn kém, không có thượng phẩm, cho nên mỗi căn chỉ có
800.
II.2. Cách thứ hai
:
Nhân trong 10
pháp hành ở kinh này mỗi mỗi đều dùng 10 thiện để giúp cho, như vậy mười lần
mười đầy đủ thành 100. Nhân với 4 thứ : Tự tác, Giáo tha, Tán lệ, Khánh úy thì thành
400. Nhân với 3 bậc tu tập thì thành 1200. Ba căn trội kém tăng giảm như trên.
Kinh này thắng diệu, riêng thành đức này. Các kinh khác chẳng thế, cho nên
không có đức này. Văn này lược đi cho nên chỉ thuyết về 5 loại Pháp sư, nhưng thực
ra là có 10 loại, loại nào cũng đứng đầu, còn các hành khác giúp đỡ tác thành,
đều được đức đó. Thêm nữa, theo kinh này thì 6 căn đều chỉ nói về 5 loại Pháp sư,
chứ chẳng phải là 10 loại.
III.3. Cách thứ ba
:
Năm loại Pháp
sư này mỗi loại kiêm tu 10 thiện, thì thành 50. Tự tác, Giáo tha, Tán lệ, Khánh
úy là 4 môn, nhân với 50, thì thành 200. Mỗi một căn môn tuy đều 200. Ba căn
Nhãn (mắt), Tị (mũi), Thân vì kém cỏi cho nên đều có ba căn Nhĩ, Thiệt, Ý giúp
đỡ cho, bởi cùng loại kém như nhau thì chẳng giúp được nhau, căn trợ gộp với
căn gốc thì thành 800. Nhĩ, Thiệt, Ý thắng trội cho nên có thể dẫn được tam
trợ, tức Nhĩ, Thiệt, Ý, thành ra 1200.
II.4. Cách thứ tư
:
Chưa thấy văn
thuyết, chẳng thể đoán mò. Kinh nói rằng : “dùng công đức này mà trang nghiêm
cho sáu căn, khiến đều thanh tịnh”.
Luận rằng : các
người phàm phu nhờ lực của kinh này mà được cái dụng thù thắng của căn, tuy
chưa nhập vị Sơ địa – giống như trong kinh đã nói – “mới chỉ dùng mắt thịt do
cha mẹ sinh ra, mà đã thấy được tam thiên đại thiên thế giới v.v…”
Về điều này, có
người giải thích đó là do ở tại Thập trụ Thập hạnh, Thập hồi hướng, chứ chẳng
phải là ở tại Thập tín, vì lực còn yếu.
Nay giải thích
rằng : chỉ tại Tứ thiện căn vị vì dùng mắt thịt mà thấy được đại thiên. Giải
thoát phần vị chưa thể như thế. Vì Giải thoát phần vị chỉ thấy được một châu
trong cõi của một hóa Phật, còn Quyết trạch phần vị mới thấy được đại thiên
trong cõi của một hóa Phật. Tức như kinh nói rằng : “Tam thiên đại thiên là cõi
của một hóa Phật”, cho nên biết rằng Quyết trạch phần mới thấy được đại thiên
thế giới. Chẳng thế thì cõi của một hóa Phật là nói về cõi của ai thấy ?
Luận nói rằng :
“Hơn nữa, sáu căn thanh tịnh” : có nghĩa là ở trong mỗi căn đều có đủ cả : thấy
sắc, nghe thanh, biết hương, vị, xúc v.v…, vì các căn hỗ dụng.
“Mắt thấy” thì có
thể ngửi thấy mùi thơm có thể biết được. Như trong kinh nói : “Do ngửi thấy mùi
mà biết Thích Đề Hoàn Nhân ở trên điện đẹp, năm dục vui sướng, ngồi ở trên
điện”. Sắc ứng với mắt thấy, mà mũi có thể biết được, cho đến thuyết pháp, ngửi
mùi thơm mà biết. Đó là trí cảnh Tị căn biết.
Thuyết pháp ứng
với cái biết của trí, dùng Tị căn biết. Nghĩa này có hai :
1) Chỉ ở Thập địa
thì các căn mới hỗ dụng. Duy Thức (luận) v.v… nói rằng : “đắc vị tự tại thì các
căn hỗ dụng, một căn khởi biết duyên vào mọi cảnh”. Cho nên chẳng phải là Địa
tiền mà có thể gọi là tự tại các căn hỗ dụng được. Điều mà trước đây nói là
“nhìn thấy nghe thấy đại thiên” là chung cho cả Địa tiền vị. Sơ địa trở lên
thấy trăm thế giới; vì chẳng phải chỉ là tam thiên. Thêm nữa, trên Sơ địa thực
ra thấy được 100 tam thiên đại thiên. Căn cứ vào cõi của một hóa Phật, mà tạm
nói là thấy được đại thiên. Về lý không sai.
2) Các căn hỗ
dụng, đắc đại tự tại chỉ tại Thập địa. Duy Thức (luận) v.v… giải thích như vậy.
Nếu Gia hạnh lực phần cũng được thì Địa tiền cũng được.
Cho nên bản luận
nói : Địa tiền mà đắc thì đắc tại phàm phu (vị), vì cho thông với hỗ dụng ở
dưới. (Địa) tiền phàm phu đắc (Địa) tiền công đức. Nay trên Sơ địa, các căn hỗ
dụng, cho nên chẳng phải Địa tiền có hỗ dụng.
*
-Kinh văn : “Thiện
nam tử này” tới “thấy hết biết hết”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ ba : thuyết minh riêng về tác dụng thù thắng của sáu căn.
Đây là phần trường
hàng nói về Nhãn căn, có ba ý :
1) Mắt thịt chẳng
phải thần thông, mà đều biết cả.
2) Tầm nhìn thấy
gần hay xa.
3) Thấy nghiệp
báo.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “sức mắt thịt như
vậy”.
Tán rằng : đây là
5 tụng, chia làm bốn phần :
1) Một tụng : dặn
phải lắng nghe.
2) Một tụng về
số.
3) Hai tụng về gần
xa.
4) Một tụng về
chúng sinh và kết.
Tiểu giáo (tức
tiểu thừa giáo) nói rằng : thiên nhãn của nhị thừa thấy được đại thiên. Nay nói
mắt phàm phu nhờ lực trì kinh này mà thấy được đại thiên. Bồ tát Sơ địa thấy
được 100 đại thiên thế giới. Sáu căn công đức nhiều ít khác nhau nhưng cảnh
giới sở đắc là đại thiên không khác.
Tu nhân có hơn có
kém, quả đức chẳng giống như nhau. Thức dụng chẳng có sai biệt, đại thiên đều
bằng như nhau. Thêm nữa, đức là thành tựu bên trong, do nhân mà tăng giảm, Cảnh
là cõi của một hóa Phật chỉ có ở bên ngoài, nên lượng giống nhau.
Chỉ như nhị thừa
chấp một bên cho nên mới có nhị thiên tam thiên. Điều mà hàng Túc mệnh thiên
nhãn biết được về quá khứ và vị lai, đều được tám vạn kiếp. Lại như Sơ địa
thiên nhãn thấy được 100 đại thiên hơn hẳn nhị thừa, nhưng Túc mệnh sinh tử chỉ
biết trăm kiếp, kém hẳn nhị thừa. Chẳng thể nhất loạt như nhau.
*
-Kinh văn : “Lại
nữa, Thường Tinh Tiến” tới “mà chẳng hoại
nhĩ căn”.
Tán rằng : đây là
Nhĩ căn. Trường hàng có bốn :
1) Lượng.
2) Cảnh giới.
3) Sở văn sai biệt
(kết quả nghe được khác nhau).
4) Kết thắng (kết
luận về tính thắng trội).
Sai biệt có bảy
loại :
1/ Mười hai tạp
khởi thanh.
2/ Mười hai lục
đối thanh.
3/ Tám bát bộ
thanh.
4/ Ba tam tai
thanh.
5/ Tam ác thú
thanh.
6/ Nhị xuất gia
thanh.
7/ Tứ thánh nhân
thanh.
Bồ Tát Địa luận
nói : Bồ tát tu lâu tại thắng giải hành vị mà chưa chứng nghiệm, chú thuật dùng
đều hiệu nghiệm cho nên sáu căn thanh tịnh, ắt tại Địa tiền phàm phu thượng vị,
chẳng phải là ở hạ trung vị.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “âm thanh cõi tam
thiên”.
Tán rằng : đây là
18 tụng, chia làm ba phần :
- 1 tụng đầu : nêu
lên.
- 14 tụng sau :
tụng về phần nói trên.
- 3 tụng cuối :
kết luận về sự thắng trội.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Tiếng
voi, ngựa, xe, trâu” tới “thảy đều nghe
được cả”.
Tán rằng : đây là
phần hai : tụng về phần trên, gồm 14 tụng chia làm bốn mục :
- Đầu tiên là 8
tụng, tụng về âm thanh của Dục giới.
- Thứ đến 1 tụng
rưỡi, tụng về âm thanh ở Sắc giới.
- Thứ nữa 1 tụng
rưỡi, tụng về âm thanh xuất gia.
- Cuối cùng là 3
tụng, tụng về âm thanh của hiền thánh.
“Trong mười phương
thế giới,
Tiếng chim muông
gọi nhau”
“Mười phương thế
giới” : ở đây là cõi 10 phương của tứ thiên hạ trong 1 tam thiên giới, chứ chẳng
phải số đại thiên giới trong 10 phương.
Thêm nữa, đắc tam
thiên, đó là Nhĩ căn phàm phu. Đây là Thập địa cho đến Phật vị, cho nên đắc
thập phương cũng chẳng trái ngược nhau.
*
-Kinh văn : “Tam
thiên đại thiên giới” tới “công đức đã như
vậy”.
Tán rằng : đây là
kết luận về sự thắng trội.
*
-Kinh văn : “Lại
nữa, Thường Tinh Tiến” tới “đủ các loại
hương”.
Tán rằng : đây là
Tị căn, trường hàng có bốn phần :
1) Đức lượng, 3) Sai biệt.
2) Cảnh lượng. 4) Kết thành.
Đây là hai phần đầu.
Trên dưới đã
xa, thì làm sao mà có thể biết được ? Nếu căn xa cảnh thì cái biết chẳng tới
cảnh để biết được. Hoại căn chẳng hoại cảnh. Nếu cái biết tới được cảnh để
biết, há chẳng phải mọi mùi hương đều tới căn được ư ?
Luận rằng : đó là
vì trí cảnh Tị căn biết. Định trí từ xa mà biết, vì y vào Tị căn mà biết cho
nên gọi là ngửi thấy mùi hương, chứ chẳng phải là cái mũi thực sự gặp được cảnh
mà biết. Thêm nữa, các căn hỗ dụng, mũi còn thấy được sắc huống hồ còn y vào
trí của mắt của tai, mà chẳng biết được hương của cả đại thiên ư ? Được thứ giả
tựa như hương, chứ chẳng phải là được thực thể. Vì nếu lìa cảnh mà biết được
cái thể, thì làm hoại tính của cảnh.
*
-Kinh văn : “Hương
hoa Tu mạn na” tới “ghi nhớ chẳng
sai”.
Tán rằng : đây là
hai phần :
- Phần thứ ba :
Sai biệt,
- Phần thứ tư :
Kết thành, đó là đoạn từ “tuy ngửi thấy mùi hương này” trở xuống.
Sai biệt có hai
:
1.
Phàm. 2. Thánh.
Trong phàm lại có
hai :
a) Dục giới. b) Sắc giới.
Dục giới lại có
hai :
1) Phi thiên. 2) Thiên.
Phi thiên có hai
:
- Cảnh
vật. - Sinh thân.
Thiên cũng có hai
:
+ Cảnh vật. + Thiên thân.
Sắc giới vì sao
lại có hương ? Đây là thông quả hương, chẳng phải là nghiệp quả.
Kinh Hoa Nghiêm
nói rằng : “Tị căn của Bồ tát ngửi thấy hương của cung điện Vô sắc giới”.
Đây là căn cứ vào
sự hình thể dựa theo cái do Thông lực biến thành, còn đó thì căn cứ vào sự hình
thể tương tự cái do Định lực biến thành. Cho nên chẳng trái gì nhau.
Song Du Già nói :
“Phải nên biết rằng thắng định quả sắc chỉ có tướng hiển sắc v.v…” . Vì sinh
nhân của hương đó thiếu, lại vô dụng cho nên nương nhờ vào Sắc giới. Vì bản
chất của Định, nếu biến hóa ra Định cảnh thì không hương, vị ; phải dựa vào Dục
cảnh mới có.
Thêm nữa, nếu Gia
hành tâm kém, sinh nhân thiếu thì không có. Nếu Gia hành tâm mạnh, sinh nhân
có, thì có. Bồ tát có, nhị thừa không. Thánh nhân có, phàm phu không. Đệ tử
Phật có, bọn ngoại đạo không, vì yếu kém vậy.
Song Du Già cũng
nói : “Thắng định quả sắc đối với mọi sắc đều được tự tại”. Cho nên biết Định
quả thông biến hết thảy.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “được tướng mũi này
trước”.
Tán rằng : dưới
đây là 30 tụng, được chia làm ba phần :
- 1 tụng : nêu
lên.
- 28 tụng : tụng
về phần trên.
- 1 tụng :
kết.
Trong 28 tụng về
phần trên, lại chia làm hai :
a) 23 tụng đầu :
tụng về phàm hương.
b) 5 tụng cuối :
tụng về thánh hương.
Phàm hương lại có
hai :
+ 21 tụng : tụng
Dục giới hương.
+ 2 tụng : tụng
Sắc giới hương.
Dục giới chia làm
hai phần :
- Phần đầu gồm 7
tụng, thuyết minh sơ qua về hương của người, trời.
- Phần sau gồm 14
tụng, thuyết minh kỹ về hương của người, trời.
Phần đầu này lại
có hai :
a/- 5 tụng lược
tụng về hương của cảnh vật và hương của chúng sinh trong cõi trời.
b/- 2 tụng lược
tụng về hương của chúng sinh và hương của cảnh vật trong cõi trời.
Trong 14 tụng
thuyết minh rộng về hương, chia làm hai phần :
9 tụng đầu : tụng về hương trong cõi
người.
5 tụng sau : tụng về hương trong cõi
trời.
Trong cõi người có
ba :
a. 2 tụng đầu :
hương cảnh vật.
b. 5 tụng sau :
hương chúng sinh.
c. 2 tụng cuối :
hương phục tàng.
Trong 5 tụng về
(hương) chúng sinh :
- 2 tụng đầu : nói
về hiện sinh hương.
- 3 tụng sau :
tụng về ẩn sinh hương.
Năm tụng tụng về
hương trong cõi trời chia làm bốn :
1/- Một tụng về
hoa.
2/- Hai tụng về
cung.
3/- Một tụng về
trời.
4/- Một tụng về
vui đùa (hí).
Trong năm tụng về
thánh hương, chia làm bốn phần :
a) Hai tụng Tỳ
kheo.
b) Một tụng Bồ
tát.
c) Một tụng
Phật.
d) Một tụng chúng
sinh.
*
-Kinh văn : “Thứ
nữa, Thường Tinh Tiến” tới “không thứ gì không ngon”.
Tán rằng : đây là
Thiệt căn. Trường hàng có ba :
1) Đức lượng.
2) Căn dụng (tác
dụng của thiệt căn).
3) Thiệt cụ dụng
(tác dụng cụ thể của lưỡi).
Đây là hai phần
đầu.
Đây không có cảnh
lượng. Cớ sao chẳng giống Tị căn có thể biết được tam thiên ? Đã chẳng thể
biết, cớ sao công đức lại thành 1200 ? Thiệt căn lẽ ra cũng phải được nếm mùi
vị của tam thiên giới, chỉ vì tụng văn nói về Thiệt cụ dụng :
“Người nói kinh
pháp đó,
Nếu muốn dùng
diệu âm,
Khắp cả cõi
tam thiên,
Tùy ý đều
đến được”.
Cho nên chẳng
thuyết về việc nếm vị. Hương lìa chất thì có thể có. Vị lìa chất thì sẽ là
không. Cho nên chẳng thuyết về nếm được vị của Tam thiên giới. Trong kinh cũng nói
Phật có Tị thiệt thông (lực thần thông của mũi, lưỡi), còn hơn là cả nhãn nhĩ.
*
-Kinh văn : “Nếu
dùng Thiệt căn” tới “pháp âm thâm
diệu”.
Tán rằng : dưới
đây là Thiệt cụ dụng, chia làm 5 mục :
1) Khéo thuyết
pháp.
2) Nhiều chúng tới
nghe.
3) Được cúng
dàng.
4) Gần hiền
thánh.
5) Ủng hộ thuyết
pháp.
Mục nhiều chúng
tới nghe có ba :
a) Trời.
b) Rồng v.v…
c) Tứ chúng tới
nghe.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “hoặc có lúc hiện
thân”.
Tán rằng : dưới là
8 tụng rưỡi, chia làm hai :
- Một tụng đầu,
nói về Thiệt căn dụng.
- Các tụng còn
lại, tụng về Thiệt cụ dụng.
Thiệt cụ dụng chia
làm bốn mục :
a) 1 tụng rưỡi :
khéo thuyết pháp.
b) 3 tụng : chúng
tới nghe.
c) 1 tụng : cúng
dàng.
d) 2 tụng : hiền thánh
ủng hộ.
*
-Kinh văn : “Lại
nữa, Thường Tinh Tiến” tới “hiện sắc tướng
của mình”.
Tán rằng : đây là
Thân (căn), văn trường hàng có bốn :
1) Đức lượng.
2) Hỉ kiến (thích
thấy).
3) Cảnh lượng.
4) Sai biệt.
Sai biệt có ba
:
a) Khí giới. b) Thượng hạ. c) Hiền thánh.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “hết thảy hiện ở
trong”.
Tán rằng : đây là
7 tụng rưỡi, chia làm năm phần :
1) Một tụng : hỉ
kiến.
2) Một tụng rưỡi :
độc kiến.
3) Một tụng rưỡi :
cảnh lượng.
4) Hai tụng rưỡi :
sai biệt.
5) Một tụng : kết
thắng.
Sai biệt có hai
:
a) Một tụng rưỡi :
cảnh.
b) Một tụng : hiền
thánh.
*
-Kinh văn : “Lại
nữa, Thường Tinh Tiến” tới “điều đã nói ở trong kinh”.
Tán rằng : đây là
Ý (căn), văn trường hàng có bảy :
1) Đức lượng. 5) Cảnh lượng.
2) Xa rộng. 6) Hiển thắng.
3) Vô cùng. 7) Chân thực.
4) Thuận lý.
Trong cái vô cùng,
thì “một tháng, bốn tháng v.v…” là tạm nêu các phần đều nhau của thời gian năm
tháng.
Trong cái sai biệt
thì :
- “Sở hành của
tâm” : là cảnh giới sở thủ.
- “Tâm sở động
tác” : là hành tướng của tam tính.
- “Tâm sở hý luận”
: là ngôn thuyết phân biệt tính của các pháp.
Hoặc là thân, ngữ,
ý cứ theo thứ tự mà phối hợp.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “nhất thời đều biết
hết”.
Tán rằng : dưới
đây là 11 tụng, chia làm năm phần. Đây có ba phần :
- 1 tụng rưỡi đầu
: tụng về xa rộng.
- Nửa tụng : tụng
về vô cùng.
- 2 tụng : tụng về
sai biệt.
*
-Kinh văn :
“Mười phương vô số Phật” tới “trước đám
đông không sợ”.
Tán rằng : đây là
phần thứ tư : có 4 tụng, tụng về chân thực, chia làm bốn :
1) Một tụng : năng
trì.
2) Một tụng :
chẳng quên.
3) Một tụng : như
thuyết.
4) Một tụng : vô
úy (không sợ).
*
-Kinh văn : “Người
trì kinh Pháp Hoa” tới “vì trì kinh Pháp
Hoa”.
Tán rằng : đây là
phần thứ năm : có 3 tụng, tụng về hiển thắng (thể hiện sự thắng diệu), chia làm
ba :
1) Một tụng : hiển
thắng.
2) Một tụng : hỉ
kiến.
3) Một tụng : khéo
thuyết.
Sợ rằng văn rườm
rà, nên chỉ phân tích những nét lớn khác với trường hàng, cứ phối hợp với
trường hàng mà đọc thì sẽ hiểu hết.
***
PHẨM THƯỜNG BẤT KHINH BỒ TÁT
Ba môn phân
biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý..
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có bốn ý :
1. Nói về người năng
học hành tuy có sáu phẩm, nhưng chia làm bốn đoạn, đây là đoạn thứ tư thuyết
minh về Phật tự thân xưa lúc ở vị trí tu nhân, hành an lạc hạnh, tu nhẫn nhục
v.v…, lưu thông kinh này, nên được an lạc. Nay thuyết kinh này khuyến khích
pháp hội đương thời, cho nên mới có phẩm này.
2. Trong ba phẩm
thuyết minh về quả chưa mãn, trước đã thuyết minh về sự tu hành cái hạnh sáu
căn thanh tịnh, nhưng chưa biết người chứng đắc thực sự là ai ? Nay thuyết tự
thân xưa tu hành hạnh đó, được sáu căn thanh tịnh để khuyến khích pháp hội
đương thời, cho nên mới có phẩm này.
3. Muốn nêu rõ
thực hành an lạc hạnh thì uy thế sẽ không gì sánh nổi. Ta là Bất Khinh, thực
hành an lạc hạnh, chúng sinh lúc đó có những hành động làm tổn hại đến ta,
thoạt đầu tuy bị khổ, nhưng rồi nhờ lực của ta, họ đều chứng đắc Phật đạo.
Huống hồ lại đích thân tự mình tu hành mà chẳng thành Phật được ư ? Nay thuyết
về duyên này để làm lợi cho pháp hội đương thời, cho nên mới có phẩm này.
4. Trong luận thuyết
về sáu loại ký thì đây thuyết minh về Bồ tát đầy đủ nhân tu được dự ký, cho nên
mới có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
“Thường” : có
nghĩa là hằng.
“Bất khinh” : có
nghĩa là cung kính.
Quan sát thấy bốn
chúng ấy đều sẵn có nhân Phật tính, khuyến khích họ tu hành, ắt sẽ được thành
Phật. Ba nghiệp luôn vững chắc cung kính ngưỡng mộ cho nên gọi là “Thường Bất
Khinh”.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
-Hỏi : vì sao phẩm
này (Phật) chỉ bảo cho một mình Đắc Đại Thế ?
Đáp : vì muốn nói
rõ uy thế của kinh này có thể khiến cho mọi người thuận theo mà tu hành thì sẽ
chóng được thành Phật, còn kẻ ác trái với kinh này cũng có thể chóng trừ được nỗi
khổ của họ. Cho nên chỉ bảo riêng cho vị đó mà chẳng bảo người khác.
-Hỏi : phẩm này
cũng thuyết minh về Uy Âm Vương Phật, (thế mà) tại sao chỉ lấy Bất Khinh đặt
tên phẩm ?
Đáp : Phật nhân
tiện mà nói về vị đó, chứ chẳng phải là chủ yếu thuyết minh về vị đó.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật bảo” tới “thân ý thanh
tịnh”.
Tán rằng : toàn
văn phẩm này chia thành 4 phần :
- Phần đầu : nhắc
lại về tội phúc do nghịch hạnh thuận hạnh sinh ra trước đây để chỉ bảo cho mọi
người.
- Phần hai : nêu
bật riêng về nhân tướng thuận nghịch đối với người trì kinh thuyết kinh.
- Phần ba : kết
hội xưa nay để chỉ cho mọi người tướng thuận nghịch.
- Phần bốn : kết
khuyên mọi người trừ nghịch hạnh, tu thuận hạnh.
Đây là phần
đầu.
Tội thì như phẩm
Thí Dụ trước. Công đức thì cũng như các phẩm trước (đã nói).
*
-Kinh văn : “Đắc
Đại Thế” tới “đều cùng một danh
hiệu”.
Tán rằng : dưới là
phần thứ hai : nêu bật riêng về nhân tướng nghịch thuận đối với người thuyết
kinh, có ba :
1. Đầu tiên nêu rõ
thời tiết.
2. Thứ đến là Phật
được gặp.
3. Cuối cùng là
nói rõ nhân tướng thuận nghịch đối với người năng hành.
Đây là hai phần
đầu.
Phật được gặp có
hai loại :
a) Phật đầu
tiên. b) Phật sau.
Phật đầu tiên có 6
mục :
1) Danh hiệu. 2) Kiếp.
3) Nước. 5)
Thọ trụ.
4) Thuyết pháp. 6) Niết bàn.
“Chư Phật cùng
danh hiệu là Uy Âm vương” : nêu bật cái âm thanh thuyết kinh Pháp Hoa là thứ
tôn quí thắng trội như vua, có uy thế lớn có thể khiến chúng sinh được lợi lạc
lớn. Tức là điều mà Thường Bất Khinh chứng đắc lúc lâm chung. Đó là kinh Pháp
Hoa này lợi ích to lớn.
*
-Kinh văn : “Vị Uy
Âm Vương Như Lai đầu tiên” tới “có thế lực to lớn”.
Tán rằng : dưới là
nói rõ nhân tướng thuận nghịch đối với người năng hành.
Trong đó có 8 phần
:
1) Kẻ ác tăng
thế.
2) Thiện sĩ thêm
chăm.
3) Bị lời xúc
phạm, có thể nhẫn nhịn.
4) Thân bị xâm
hại, có thể chịu được.
5) Tiếng lành đã
nổi.
6) Thắng quả bèn
sinh.
7) Kẻ ác theo sự
giáo hóa.
8) Thiện sĩ tăng
đạo.
Đây tức là phần
đầu.
*
-Kinh văn : “Bây
giờ có một” tới “vì sẽ thành Phật”.
Tán rằng : đây là
phần hai : Thiện sĩ thêm chăm. Có ba mục :
1) Nêu danh.
2) Giải thích
danh.
3) Nêu rõ về
hạnh.
Đó là đoạn từ “Vị
tỳ kheo này” trở xuống.
“Bồ tát tỳ kheo” :
nêu rõ đây là Bồ tát chứ chẳng phải chỉ là tỳ kheo, nếu là tỳ kheo mà chẳng
phải là Bồ tát thì chẳng phải là hạnh này, vì đầu tiên thì chẳng đáng trách, nhưng
cuối cùng thì phạm giới.
“Tôi rất kính các
ngài, chẳng dám khinh mạn” : vì các ngài đều có Phật bản tính, là trụ chủng
tính. Nên đây là kính báo thân Như Lai tạng.
“Đều tu hành đạo
Bồ tát sẽ được thành Phật” : có nghĩa là người có chủng tính, nếu khởi tập
tính, phát tâm tu hành, ắt được thành Phật. Thêm nữa, vì y vào pháp thân Như
lai tạng mà hết thảy đều có, nên tôi rất kính trọng các ngài. Nếu tu hành đạo
Bồ tát, tôi tu tập báo thân Như lai tạng, thì sẽ được thành Phật.
Kinh Vô Úy Đức Nữ
nói rằng : Bồ tát vì độ cho các chúng sinh kiêu mạn sân não, khiến họ được khởi
tâm hồi hướng, hơn nữa để phát triển thêm cái gốc các thiện căn của chúng sinh,
cho nên Bồ tát đã lễ các chúng sinh.
-Hỏi : vị Bồ tát
tỳ kheo nàu hễ gặp bốn chúng thỉ việc đầu tiên là lễ. Lễ cả tỳ kheo ni và bạch
y (chỉ người tại gia), như thế chẳng phạm (giới luật) ư ?
Đáp : Bồ tát tỳ
kheo chẳng làm lễ đó, lễ thì có phạm. Nay làm lễ đó, sở dĩ chẳng phạm là vì Bồ
tát đối với Tính tội ắt trì (giới) luật, nhưng đối với Già tội thì có phạm, vì
để khuyến khích việc làm lợi cho đại chúng. Nếu chỉ là tỳ kheo chẳng phải là Bồ
tát mà lễ thì có phạm, chẳng lễ thì không phạm. Thêm nữa, nếu lễ bốn chúng thì
chẳng phạm, nếu chỉ lễ riêng một (chúng) thì sẽ khiếm khuyết.
Lại nữa, (đó là)
kính Phật tính chứ chẳng phải là lễ thân xác. Cho nên đã chẳng chuyên đọc tụng,
cũng chẳng chuyên lễ bái, luôn cả hai sự đó.
Tỳ kheo mới học lễ
chân Duy Ma là vì chưa biết, vì chẳng phải là hạng cựu học. Nhưng có người giải
thích rằng : tỳ kheo này chẳng thực hành việc đọc tụng mà chỉ lễ bái. Nếu thế
thì lẽ ra phải nói rằng : chẳng đọc tụng kinh, chứ cần gì phải dùng chữ
“Chuyên” nữa. Cho nên biết rằng : “chẳng chuyên đọc tụng, cũng không chỉ thực
hành việc lễ bái”. Đó chính là ý trong này.
*
-Kinh văn : “Trong
bốn chúng” tới “ngài sẽ thành Phật”.
Tán rằng : đây là
phần thứ ba : bị lời xúc phạm mà nhẫn nhịn được. Có hai mục :
1) Bị lời xúc
phạm.
2) Có thể nhẫn
nhịn được.
*
-Kinh văn : “Lúc
nói lời này” tới “là Thường Bất Khinh”
Tán rằng : đây là
phần thứ tư : “thân bị xâm hại có thể chịu đựng được” và phần thứ năm “tiếng
lành đã nổi”.
Trên đây chính là
Tứ thập tâm vị.
*
-Kinh văn : “Tỳ
kheo này” tới “kinh Pháp Hoa này”.
Tán rằng : đây là
phần thứ sáu “thắng quả bèn sinh”, có ba ý :
1) Nghe pháp, có
thể thụ trì.
2) Sáu căn thanh
tịnh.
3) Tăng thọ,
thuyết pháp.
Nếu Thường Bất
Khinh chẳng giở đọc kinh Pháp Hoa trong thời Tượng pháp từ trước, thì há có thể
vào lúc lâm chung nghe xong liền thụ trì ngay được ? Nếu trước chẳng tu nhân,
thì quả làm sao mà sinh ra được ? Trước kia lễ bái là Tứ thập tâm vị. Nghe pháp
căn tịnh là Tứ thiện căn vị. Vì tăng thọ mệnh nên được “sức đại thiện tịch”, dần
thành Lý quán vì quán chân lý.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ, tăng thượng mạn” tới “Tam Miệu Tam Bồ
đề”.
Tán rằng : đây là
phần bảy “kẻ ác theo sự giáo hóa”. Có hai mục :
1) Kẻ ác theo sự
giáo hóa.
2) Số được giáo
hóa trở thành nhiều.
“Đại thần thông
lực” : (khiến) tăng thọ, căn tịnh.
“Nhạo thuyết biện
lực” : (khiến) nhớ kệ, thuyết pháp.
“Đại thiện tịch
lực” : (khiến) dần dần thành đế quán, nghe pháp hiểu lý.
*
-Kinh văn : “Sau
khi mệnh chung” tới “tâm không sợ
gì”.
Tán rằng : đây là
phần thứ tám : (nói về) thiện sĩ tăng đạo. Có 5 phần, văn này có 4 :
1) Gặp Phật thuyết
pháp.
2) Gặp Phật trì
tụng.
Hai thứ này tại
phàm Tứ thập tâm vị.
Do như vậy mà :
3) Được sáu căn
thường tịnh, liền nhập Sơ địa.
4) Trừ được năm
điều sợ hãi, đạt được bốn vô úy.
Cho nên biết là
thường được sáu căn thanh tịnh, nhập trong Sơ địa.
Bồ tát lẽ ra phải
trụ ở trong vòng sinh tử để hóa độ chúng sinh. Người thường gặp Phật thì chưa
nhập Thập địa. Nếu chẳng gặp chư Phật thì như thuyền nát rò, tự mình chẳng thể
độ, làm sao mà có thể độ cho người, như đem chút nước nóng đổ xuống ao băng
lớn, ban đầu dẫu có làm tan một ít, nhưng sau đó lại đóng băng. Người chưa lìa
được phiền não lại chẳng gặp Phật, mà làm việc lợi sinh thì cũng như thế.
Kinh Hoa Nghiêm
trong phần thuyết về Thập địa nói : “Bồ tát được Hoan hỉ địa, thì lìa xa mọi sự
sợ hãi liền. Đó là nỗi sợ chẳng sống, sợ tiếng xấu, sợ chết, sợ sa vào đường
ác, sợ uy đức đại chúng. Vì sao vậy ?
Vì Bồ tát đó lìa
ngã tướng, cho nên ngay đến thân còn chẳng tham, huống hồ là các vật dụng. Cho
nên Bồ tát không có nỗi sợ chẳng sống.
Tâm chẳng hy vọng
được cung kính cúng dàng, ta phải cúng dàng hết thảy chúng sinh, cung cấp cho
họ những thứ mà họ cần, cho nên Bồ tát không sợ tiếng xấu.
Vì lìa xa ngã
kiến, không có ngã tướng, nên không có nỗi sợ chết.
Lại nghĩ như vầy :
nếu ta chết rồi, lúc tái sinh ắt sẽ trông thấy chư Phật, Bồ tát, cho nên không
có nỗi sợ bị sa vào đường ác.
Chí nguyện của ta
không ai bằng được, huống chi là có sự trội hơn ! Cho nên không có nỗi sợ uy
đức đại chúng”.
Nếu theo cách giải
thích của luận, thì Vô úy có hai loại :
1) Vô sở úy của Bồ
tát.
2) Vô sở úy của
Phật.
Vô sở úy của Phật
tức là Chính đẳng giác. Ở đây là Vô sở úy của Bồ tát, có 4 thứ :
1/- Vì chúng sinh
mà thuyết pháp, Vô sở úy (không sợ gì hết) vì mọi điều đã được nghe đều có thể
thụ trì, vì được các Đà la ni, cho nên thường nhớ chẳng quên.
Ba thứ sau đây gọi
là Thuyết pháp giữa đại chúng Vô sở úy :
2/- Vì biết Dục,
Giải, Nhân duyên, các căn lợi độn của hết thảy chúng sinh, cho nên tùy theo sự
hưởng ứng của họ mà thuyết pháp cho họ.
3/- Chẳng thấy
thập phương có ai đến hỏi vặn mà khiến ta chẳng thể giải đáp được như pháp, vì
chẳng thấy chút tướng trạng nào như vậy.
4/- Hết thảy chúng
sinh thính thụ, vấn nạn thì đều tùy ý như pháp khéo biết phá dứt mọi điều nghi
ngờ.
Lìa năm thứ sợ hãi
nói trên, đạt được bốn thứ vô úy này thì nhập Sơ địa. Sau này nhập Bát địa rồi
thì mới lìa được Bố nhân (nguyên nhân của sự sợ hãi).
*
-Kinh văn : “Đắc
Đại Thế” tới “sẽ được thành Phật”.
Tán rằng : đây là
phần thứ năm : duyên tu đạo mãn, nhập chư địa rồi, sau đó càng được gặp Phật,
càng thuyết kinh điển này.
*
-Kinh văn : “Đắc
Đại Thế” tới “Tam Miệu Tam Bồ đề”.
Tán rằng : dưới là
đoạn lớn thứ ba : kết hội kim cổ để chỉ mọi người tướng thuận nghịch. Chia làm
hai phần :
Phần đầu : hội Bất Khinh.
Phần sau : hội bốn chúng.
Đây là phần đầu,
có hai mục :
- Đầu là hội thân.
- Sau là hội pháp.
*
-Kinh văn : “Đắc
Đại Thế” tới “đó là người chẳng thoái
chuyển”.
Tán rằng : đây là
hội bốn chúng, có ba phần :
Đầu tiên là hội lúc xưa hành ác hạnh chịu quả
báo (Sơ hành ác hạnh quả).
Thứ hai là hội quả của người nữa chừng mới theo
sự giáo hóa của Phật (Trung đồ tòng hóa quả).
Cuối cùng là hội các chúng xưa nay.
-Hỏi : Thanh văn
Thiện Hiện vẫn còn đang trụ ở hạnh Vô tránh. Vốn phải giúp đỡ chúng sinh và làm
lợi ích cho họ, cớ sao Bồ tát lại thụ ký gượng ép cho tứ chúng, khiến họ đánh
chửi ông ta chuốc lấy tội báo này ?
Đáp : Bồ tát địa
nói : Bồ tát thường lấy sự vui được yên ổn để giáo hóa chúng sinh. Nếu chẳng
phải là sự vui được yên ổn thì cũng biết được đúng như thực, rồi tùy lực mà
phương tiện giáo hóa khiến họ đoạn trừ. Nếu lúc đầu khổ mà sau được yên ổn, họ
tuy ưu não nhưng rốt cuộc cũng được lợi ích. Đó là Bồ tát y vào phương tiện
thiện xảo.
-Hỏi : nếu lúc đầu
tuy vui mà sau chẳng yên, họ dù chịu ưu khổ nhưng chẳng muốn theo, thì phải
dùng lực phương tiện để giúp họ đoạn trừ. Vì sao vậy ?
Đáp : vì sau này
ắt sẽ vui. Nay Bất Khinh quan sát thấy lúc đầu tuy khổ, nhưng sau này trở lại
hóa đạo sẽ khiến họ nhập đạo. Giống như vị đại lương y quan sát người ốm nặng, trước
hết phải làm cho bệnh của người đó phát ra rồi sau mới cho thuốc để chữa khỏi.
Lại giống như người đánh cá giỏi, khéo léo khiến cá ở dưới suối xuất hiện.Cũng giống
như người thợ săn giỏi, khéo léo khiến gấu beo xuất hiện. Nếu biết sân là cái
nhân có ích, thì khiến kẻ đó nổi sân lên, để rồi độ cho họ. Nếu biết tham là
cái nhân có ích thì, khiến họ nổi tham lên, để rồi độ cho họ. Cũng như cảm hóa
dâm nữ, để ả mặc sức bừa bãi rồi sau đó mới độ cho ả.
Nhị thừa thì chẳng
thể làm nổi, cho nên trụ ở Vô tránh, hiện tuy trừ được Tranh, nhưng chẳng thể
giúp người khác rốt ráo trừ bỏ được mọi sự tranh cạnh. Bồ tát tự mình chứng
được Vô tránh chân như, rồi giúp người khác trừ được gốc rễ của mọi sự tranh
cạnh, rốt ráo khiến họ cũng chứng được chân lý vô tránh này. Cho nên, thoạt đầu
tuy khởi Tránh, nhưng sau lại khiến diệt Tránh. Đó là “hành Đại vô tránh” chẳng
giống với “hiện Tiểu vô tránh” của nhị thừa. Cho nên không hề gì.
*
-Kinh văn : “Đắc
Đại Thế” tới “sao chép kinh này”.
Tán rằng : đây là
đoạn lớn thứ tư : kết luận khuyên mọi người trừ nghịch hạnh, tu thuận
hạnh.
Có hai phần
:
- Phần đầu : lợi
ích kinh này lớn.
- Phần sau :
khuyên lưu thông kinh này.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “chóng được thành Phật
đạo”.
Tán rằng : đây là
19 tụng rưỡi, tụng về ba đoạn cuối, chia làm ba phần :
1. Phần đầu : gồm
10 tụng, tụng về tướng thuận nghịch đối với người thuyết kinh.
2. Phần hai : gồm
3 tụng rưỡi, kết hội cổ kim để chỉ cho mọi người tướng thuận nghịch.
3. Phần cuối : gồm
6 tụng, kết luận khuyên mọi người trừ nghịch hành thuận.
Đây là phần đầu,
có hai mục :
+ 1 tụng rưỡi đầu
: được gặp Phật.
+ 8 tụng rưỡi sau
: hành thuận nghịch.
Trong hành thuận
nghịch lại chia làm năm :
- 3 tụng đầu : kẻ
ác tăng thế, thiện sĩ thêm chăm.
- 1 tụng sau : bị
lời xúc phạm vẫn nhẫn nhịn được, thân bị xâm hại vẫn chịu đựng được.
- 2 tụng sau :
thắng quả bèn sinh.
- 1 tụng sau : kẻ
ác thuận theo sự giáo hóa.
- 1 tụng rưỡi cuối
: thiện sĩ tăng đạo.
Chẳng tụng về mục
“tiếng lành đã nổi”.
“Tội hết rồi” : có
nghĩa là các nạn bị ác mạ (chửi rũa độc địa), bị gia hại (làm hại) chuyển từ
nặng thành nhẹ, vì là tội nghiệp đời trước.
*
-Kinh văn :
“Lúc đó Thường Bất Khinh” tới “đó là người
nghe pháp”.
Tán rằng : đây là
kết hội cổ kim.
Chia làm hai mục
:
- Nửa tụng đầu :
hội thân.
- 3 tụng sau : hội
chúng.
*
-Kinh văn : “Ta ở
trong đời trước” tới “chóng được thành Phật
đạo”.
Tán rằng : đây là
kết luận, khuyên mọi người bỏ nghịch hạnh, tu thuận hạnh.
Có bốn mục :
- 2 tụng đầu :
những người trước đây đã được giáo hóa.
- 1 tụng sau :
kinh này khó được nghe.
- 1 tụng sau :
kinh này hiếm khi thuyết.
- 2 tụng cuối :
khuyên chớ sinh nghi.
***
PHẨM THẦN LỰC NHƯ LAI
Ba môn phân
biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG
Ý.
Có ba ý :
1. Trong ba lưu
thông, tám phẩm dưới đây là Phó thụ lưu thông : thị tướng phó chúc, thụ mệnh
lưu hành kinh này. Hai phẩm Thần Lực, Chúc Lụy phó chúc cho việc lưu hành kinh
này. Sáu phẩm kia là thụ mệnh lưu thông. Phó chúc có hai phần :
1) Hóa phép thần
thông khiến tin lời phó chúc.
2) Tay xoa đỉnh
đầu khiến thi hành lời phó chúc.
Nay đây tức là
phần đầu. Phật phó chúc cho họ, sợ họ chẳng tin tưởng, cho nên đã hóa phép thần
thông phóng quang v.v… để thị hiện, để khiến cho họ biết Thế tôn có phép đại
thần thông từ lâu chẳng hề vọng ngữ, nói ra lời chân thực, khiến họ sinh tín
giải rồi mới nói lời phó chúc. Cho nên mới có phẩm này.
2. Theo trong khoa
thứ hai, 1 phẩm đầu tiên ở phần trên gọi là Tự phần, thứ đến 19 phẩm là Chính
tông, 8 phẩm dưới là Lưu thông phần. Hai phẩm Thần Lực, Chúc Lụy khuyên tin phó
thụ, 6 phẩm cuối là vâng mệnh lưu thông, thế giống như trước, đây không thuật
nữa.
3. Luận nói rằng :
tu hành lực có bảy loại, thì loại thứ hai là Thuyết lực, có ba loại pháp môn
được thị hiện trong phẩm Thần Lực. Phẩm này nói rõ Phật Thế tôn có thần lực này
cho nên có thể thuyết pháp đều thật chẳng dối để khuyên bảo chúng sinh. Cho nên
mới có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
Phân thân, Năng
tịch đều gọi là “Như Lai”.
Diệu dụng vô
phương thì gọi là “Thần”.
Uy thế có thể phá
trừ được thì gọi là “Lực”.
Phẩm này thuyết
minh rộng về thần lực của Như Lai, các phân thân Phật đều thị hiện diệu dụng
không gì sánh nổi, có uy thế có thể đả phá được tà kiến bất tín để khuyến chúng
sinh sinh tín, cho nên gọi là phẩm “Thần Lực Như Lai”.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
-Hỏi : Bồ tát dũng
xuất là những vị đã từng được Phật giáo hóa, (Phật) cần gì phải hiện thần thông
để khiến sinh tín ?
Đáp : Bồ tát dũng
xuất từ lâu đã tin tưởng, chẳng cần Phật phải hiện thần thông, nhưng khuyến
phát (kẻ) sơ cơ thì phải hiện thần lực. Thêm nữa, tín tâm có nông có sâu, phó
chúc có nặng có nhẹ. Nếu chẳng hiện thần thông để phó chúc thì e rằng sự phó
chúc còn nhẹ. Nếu chẳng khiến tin tưởng sâu sắc thì tín tâm ấy còn nông, họ sẽ
hy vọng là pháp sẽ dễ tu hành, cho nên phải hiện thần lực.
-Hỏi : vì sao kinh
này phó chúc phải hiện thần lực, còn các kinh khác thì phó chúc không có sự
kiện này ?
Đáp : vì kinh này
bí mật hội nhị quy tông, còn các kinh khác chẳng thế, nên phải hiện thần lực.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ ngàn thế giới” tới “mà cúng dàng
ngài”.
Tán rằng : toàn
văn phẩm này được chia làm hai phần :
1) Phần đầu : Dũng
Xuất thỉnh.
2) Phần sau : Như
Lai phó chúc.
Đây là phần đầu.
Có hai : đầu tiên nên lên, sau đó giải thích.
Chẳng những muốn
để tế độ người khác mà còn muốn tự tu hành, cho nên thỉnh (Phật) hãy thuyết
cho. Nếu chẳng thế mà cũng nói, thì sẽ là vô dụng.
“Chân” : có nghĩa
là chân thực.
“Tịnh” : có nghĩa
là lìa nhiễm.
“Đại pháp” : chỉ
nhất thừa.
“Thân cung, Ngữ
diễn, Thuật tâm”: dùng cả ba (nghiệp thanh tịnh) mà thỉnh (Phật).
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “hiện đại thần lực”.
Tán rằng : đây là
phần sau : “Như Lai phó chúc”.
Có hai phần : đầu
là trường hàng, sau là kệ tụng. Trong trường hàng có hai phần :
Phần đầu : hiện thần lực.
Phần hai : nói lời phó chúc.
Văn phần đầu có
bảy đoạn :
1) Nêu lên việc
hiện thần lực,
2) Lè lưỡi, phóng
quang.
3) Đằng hắng, búng
ngón tay.
4) Đất đều chấn
động.
5) Họ thấy, qui
y.
6) Ghép lọng thành
màn.
7) Thế giới thông
làm một.
Đây là đoạn đầu.
Nói qua Phật hiện thần lực là vì ba nghĩa :
+ Một là để nêu rõ
thắng đức của kinh này, đặng khuyến khích việc lưu thông kinh này. Đó là đoạn
văn trường hàng từ “Phật bảo Bồ tát thượng hạnh v.v…” trở xuống.
+ Hai là để làm
vui lòng chúng sinh khiến họ sinh tín. Đó là 1 tụng đầu.
+ Ba là thấy các
Bồ tát phát nguyện lưu thông, thuận tâm chư Phật, cho nên (Phật) hiện thần lực.
Đó là tụng thứ tư.
*
-Kinh văn : “Thè
lưỡi dài rộng” tới “phóng vô lượng
quang”.
Tán rằng : dưới
đoạn thứ hai : “Thè lưỡi, phóng quang”. Có ba mục :
1. Thích Ca thè
lưỡi phóng quang.
2. Phân thân
(Phật) thè lưỡi phóng quang.
3. Thuyết minh
thời tiết.
Cổ đức tương
truyền (Phật) có bảy thần lực :
1) Thè lưỡi.
2) Phóng
quang.
3) Đằng hắng.
4) Búng ngón
tay.
5) Động đất.
6) Ghép lọng.
7) Biến độ (biến
đổi cõi nước).
Nay thêm thứ 8 nữa
là Thị hiện, tức là khiến phương khác từ xa mà ở đây vẫn nhìn thấy, đó là Thần
cảnh thông - đầu tiên trong sáu thông.
Thầ cảnh thông có
hai thứ :
a) Năng biến. b) Năng hóa.
Năng hóa : là vốn
không có mà bỗng nhiên có, nhĩa là hóa thân, hóa ngữ ,hóa cảnh.
Năng biến : nghĩa
là chuyển đổi chất cũ, đây chỉ 18 biến :
1) Chấn động : đó
là đất động sáu cách v.v…
2) Rực lửa : trên
dưới người bốc lửa v.v…
3) Lưu bố : phóng
quang dần dần chiếu hết nơi này nơi kia.
4) Thị hiện : thị
hiện đủ mọi sự vật của các nẻo, các cõi v.v… ở phương khác, khiến chúng trong
hội từ xa thảy đều nhìn rõ.
5) Chuyển biến :
biến đất thành vàng, biến nước thành sữa v.v..
6) Qua lại : tung
người qua lại khắp hết mọi chốn, thảy đều không gặp chướng ngại gì.
7) Co lại : có thể
co cái to lại bỏ lọt trong cái nhỏ.
8) Duỗi ra : có
thể duỗi cái nhỏ ra thành to. Dùng một hạt cải mà có thể chứa cả núi Tu Di,
phình một sợi lông thành chật pháp giới v.v…
9) Đưa nhiều cảnh
tượng vào trong bản thân : như có thể đưa các thế giới vào trong lỗ chân lông,
thân mình v.v…
10) Biến thành
cùng loài : ứng với từng loại chúng sinh mà hiện thành hình loài đó để thuyết
diệu pháp cho chúng, xong việc lại biến mất, khiến chúng chẳng biết.
11) Hiện.
12) Ẩn : ẩn mất
giữa đại chúng, rồi lại khiến tự thân hiển hiện ra.
13) Sở tác tự tại
: có nghĩa là biến chuyển hữu tình khiến chúng qua lại, còn bản thân lẳng lặng
mà hết thảy đều được tự tại.
14) Chế tha thần
thông : nghĩa là Phật dần dần lần lượt có thể chế phục được các phép thần thông
của các ngôi dưới là Bồ tát, thánh phàm nhị thừa thể hiện.
15) Năng thí biện
tài : bố thí Thất biện và Tứ biện.
16) Năng thí ức
niệm (có khả năng bố thí cho trí nhớ) : nếu ai quên về pháp thì có thể bố thí
cho trí nhớ.
17) Năng thí an
lạc (có thể bố thí cho sự an lạc) thuyết pháp cho v.v… giúp đỡ trừ bỏ những sự
hiểm nguy sợ hãi, dịch bệnh, tai họa khiến được các sự an lạc.
18) Phóng đại
quang minh : có thể chỉ phóng một tia quang minh bỗng chốc chiếu sáng được vô
lượng nước, làm ra sự lợi lạc lớn.
“Tám f thần lực” ở đây :
- Thần lực thứ
nhất “Lè lưỡi” : là biến thứ 8 “Duỗi ra” trong 18 biến.
- Thần lực thứ hai
“Phóng quang” : là biến thứ 18 phóng “Đại quang minh” trong 18 biến.
- Thần lực thứ ba
“Đằng hắng” : ở đây tức là năng hóa “Không mà bỗng có”, cho nên chẳng phải là
18 biến.
- Hoặc phép này và
Thần lực thứ tư “Búng ngón tay” : là biến thứ 13 “Sở tác tự tại”.
- Thần lực thứ năm
“Động đất” : là biến thứ 1 “Chấn động”.
- Thần lực thứ sáu
“Khiến phương khác thấy” : đây là biến thứ 4 “Thị hiện”.
- Thần lực thứ bảy
“Ghép lọng” : là biến thứ 7 “Co lại”.
- Thần lực thứ tám
“Thông làm một cõi” : đó là biến thứ 5 “Chuyển biến”, biến nhiều thành một,
biến uế thành tịnh.
Ở đây, luận nói
rằng :
“Phật lè lưỡi”
: là để khiến chúng sinh nhớ lại, tin điều Phật thuyết. Như Phật vào thành Ba
La khất thực, chẳng được. Sau ra khỏi thành rồi gặp một cô gái bố thí cho Phật
cơm thiu canh cặn, Phật thụ ký cho quả báo sau này. Bấy giờ có vị Bà la môn rất
không tin, Phật bèn thè lưỡi cho vị đó xem, khiến vị đó tin điều thụ ký của
Phật sẽ chẳng sai ngoa. Lưỡi thè chạm tới mũi, còn chẳng vọng ngữ, huống hồ là
lại che kín mặt. Giảng rộng ra thì như kinh đã nói.
“Tới cõi trời Phạm
thế” : vì có lời biểu đạt. Vì trên cao hơn nữa thì không dùng lời để diễn đạt,
nên chẳng tới trên.
“Phóng quang” : là
để thức tỉnh những ai có duyên. để phá si ám.
“Mỗi một lỗ chân
lông” : biểu hiện kinh này có đầy đủ từ bi, nhất thừa bình đẳng.
“Vô số quang” : vì
đủ muôn đức.
“Khắp mười phương”
: nghĩa là che chở hết thảy.
Vì Phật Đa Bảo đã
chứng kinh rồi, nên chẳng thị hiện thần thông, chỉ có hóa Phật thị hiện.
*
-Kinh văn : “Thích
Ca” tới “thu tướng lưỡi lại”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về thời tiết (tức thời gian).
Kẻ ngu vì tâm mê
cho là thời gian ngắn. Người trí hiểu rõ thực tình thấy đủ trăm ngàn năm (Phật)
chuyển đổi tâm họ, khiến họ chẳng cảm thấy. Thêm nữa lợi lạc của báo (Phật) hóa
(Phật) có sự khác nhau, kiến giải của thánh phàm cũng có sự phân biệt.
Lại nữa, Phật hiện
thần lực thực ra là trăm ngàn năm, nhưng thần lực của Phật khiến chúng sinh
chẳng cảm thấy. Song rút ngắn lại, chẳng kéo dài thời gian ra, đó là định luận,
cho nên chỉ nói là Thế tôn tám mươi tuổi nhập diệt.
Lại nữa, những
điều thánh phàm được nghe tuy giống nhau, nhưng thời gian chứng đạo được giác
ngộ hoàn toàn khác nhau, (như vậy) cũng chẳng trái ngược nhau.
*
-Kinh văn : “Nhất
thời đằng hắng” tới “đất đều chấn động sáu cách”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ ba : “Đằng hắng, búng ngón tay” và đoạn thứ tư : “Động đất”.
“Đằng hắng” : là
để thuyết kệ cho mà nghe, đã nghe tiếng rồi thì như thực mà tu hành, chẳng
phóng dật nữa.
Luận nói rằng :
“búng ngón tay” là để khiến cho giác ngộ, khiến cho tu hành, giác ngộ rồi thì
tinh tiến tu hành.
“Động đất” : là để
nhắc nhở đôn đốc những kẻ chưa phát tâm ở mười phương hãy phát tâm.
* Chữ [謦] đọc là Khánh. Sách Ngọc Thiên nói : nghĩa chữ Khánh giống chữ
Khái [咳], có nghĩa là “ra tiếng” (để khiến người khác chú ý). Chữ [欬] đọc là Khái, còn viết là [咳]. Ngọc Thiên giải thích
là “Hơi ngược” (nghịch khí). Hai chữ “Khánh khái” có nghĩa là đằng hắng, dặng hắng.
*
-Kinh văn : “Chúng
sinh trong đó” tới “Mâu Ni Phật”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ năm : “họ thấy rồi thì quy y”, có ba ý :
1) Nhìn thấy rồi
sinh ra ưa thích.
2) Tiếng trong
không trung chỉ giáo.
3) Theo lời mà
kính lễ.
*
-Kinh văn : “Đem
đủ mọi thứ hương hoa” tới “như một cõi
Phật”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ sáu nói về “ghép lọng thành màn” và đoạn thứ bảy nói về “thế giới
thông làm một”. Đầu là tán hoa, sau là thành màn.
“Tán hoa” : có
nghĩa là nghe kinh Pháp Hoa.
“Ghép lại thành
lọng” :nghĩa là vì ba thừa đầu tiên khác nhau, cuối cùng thành một, che cho hết
thảy chúng sinh ở thế giới này.
“Thế giới thông
làm một” : Trí tâm không gì ngăn ngại, Tịnh độ chẳng gì khác nhau, vì chỉ có
một thừa, không có thừa nào nữa.
Trên biểu hiện
thần lực 8 loại khác nhau, luận chỉ giải thích nghĩa của 3 loại : lè lưỡi, búng
ngón tay, đằng hắng. Các kinh khác có 5 loại, chẳng phải thắng nghĩa, nên chẳng
giải thích. Còn 3 loại trên phần nhiều các kinh khác cũng không theo thắng
nghĩa mà giải thích. Thêm nữa vì 3 loại này chính thức dùng để phó chúc, bởi
vậy giải thích riêng. Các thần thông khác chẳng phải là chính, cho nên chẳng
thuyết.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật bảo” tới “tu hành như
thuyết”.
Tán rằng : dưới là
lời phó chúc. Có năm phần. Trong này có bốn :
1) Kết luận : thần
lực nói trên vô lượng khó lường.
2) Để dặn dò phó
thác, thuyết về công đức khôn cùng.
3) Nêu bật bốn
loại đều do kinh này thuyết :
a. Đạo quyền
thực.
b. Lực thần
thông.
c. Lý Phật
còn cất giấu.
d. Trí tuệ
thâm sự.
4) Kết thành
khuyến thụ.
*
-Kinh văn : “Đất
nước sở tại” tới “mà bát Niết bàn”.
Tán rằng : đây là
phần thứ năm : “khuyên tùy hỉ cúng dàng”. Đầu tiên nêu ra, sau đó giải
thích.
Giải thích do bốn
nghĩa cho nên phải cúng dàng, vì pháp thân diệu lý đầy đủ trong này. Chốn chứa
đạo thì gọi là đạo tràng ; chốn thành đạo, chốn đắc Bồ đề, chốn thuyết pháp,
chốn Niết bàn, gọi chung là đạo tràng. Ba nghĩa dưới sẽ giải thích riêng.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “hiện vô lượng thần
lực”.
Tán rằng : đây là
16 tụng, chia làm hai phần :
- 4 tụng đầu :
tụng thần lực.
- 12 tụng sau :
tụng phó chúc.
Đây là phần đầu,
có ba mục :
+ 1 tụng : nêu ý
nghĩa của việc hiện thần lực..
+ 2 tụng : năm
thần lực.
+ 1 tụng : thuận
Phật tâm.
*
-Kinh văn : “Để
giao phó kinh này” tới “chẳng thể được bờ
bến”.
Tán rằng : dưới là
12 tụng, tụng về phó chúc, trong đó chia làm ba :
a) 2 tụng :
nêu bật công đức vô cùng.
b) 8 tụng rưỡi :
tán thán riêng.
c) 1 tụng rưỡi
cuối : kết luận khuyến khích (tu hành).
Đây là phần đầu
: tán thán phúc quả của người trì kinh để khuyến khích mọi người.
*
-Kinh văn : “Người
trì được kinh này” tới “rốt ráo trụ nhất
thừa”.
Tán rằng : đây là
tán thán riêng biệt, có năm mục :
1) Một tụng rưỡi :
thấy Phật.
2) Hai tụng : hoan
hỉ.
3) Một tụng : đắc
pháp.
4) Một tụng rưỡi :
năng thuyết.
5) Hai tụng rưỡi :
năng ích.
Trong mục năng
thuyết thì “các pháp nghĩa” là :
- Nghĩa vô ngại.
- Pháp (danh tự)
vô ngại.
- Từ (ngôn từ) vô
ngại.
- Nhạo thuyết biện
tài vô ngại.
Bốn vô ngại này
đầy đủ, “như gió vô ngại”.
*
-Kinh văn : “Bởi
vậy người có trí” tới “quyết định không có
nghi”.
Tán rằng : dưới là
kết luận khuyến khích (tu hành).
***
PHẨM CHÚC LŨY
Ba môn phân
biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có ba ý :
1. Căn cứ vào thứ
tự kinh phẩm, giờ đây phó chúc có hai :
- Trên kia là thần
lực là khiến tin lời phó chúc.
- Đây là xoa đỉnh
đầu, khiến thực hành lời phó chúc.
Cho nên có phẩm
này.
2. Căn cứ vào bản
luận, thì phẩm này được thuyết sau phẩm Phổ Hiền. Cho nên luận nói rằng : lực
hộ pháp là chỉ những điều mà phẩm Phổ Hiền và phẩm sau đó thị hiện. Đây dùng
tay xoa đỉnh đầu, Phật tự mình hộ pháp, khiến họ lưu hành. Cho nên có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
“Chúc” : nghĩa là
phó thác.
“Lũy” : nghĩa là
trùng điệp, hai ba lần phó thác khiến họ hộ trì, cho nên gọi là “phẩm Chúc
Lũy”.
“Thác” : nghĩa
như Chúc. “Phó” : cũng nghĩa như Chúc.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
-Hỏi : đây là một
tay xoa đầu các Bồ tát, hay là các Bồ tát mỗi người (được) một tay xoa ?
Đáp : dùng một tay
xoa cùng một lúc, vì thần lực (của Phật) lớn. Mỗi người (được) một tay xoa, vì
diệu dụng đều khắp. Song các Bồ tát ai nấy chỉ thấy có một mình mình được xoa,
do đó thâm tâm nghe theo lời mà lĩnh thụ.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thích Ca” tới “khiến mọi người được
thêm ích lợi rộng khắp”.
Tán rằng : toàn
văn phẩm này chia làm bốn phần :
1. Như Lai phó
chúc.
2. Bồ tát kính
thụ.
3. Khiến tháp quay
về.
4. Các chúng đều
hoan hỉ.
Trong phần đầu lại
có ba phần :
a) Phần đầu ba
nghiệp gia trì phó chúc, khiến lưu hành kinh này.
b) Phần hai là
đoạn từ “Nếu có chúng sinh chẳng tín thụ” trở xuống : nếu chẳng tín thụ kinh
này, thì khiến lưu hành kinh khác.
c) Phần ba là đoạn
từ “nếu các ngươi có thể được như vậy” trở xuống : kết luận thành ý khuyến
khích “để báo ơn Phật”.
Văn phần đầu này
có ba đoạn :
1) (Phật) lấy tay
xoa đỉnh đầu mà phó chúc khiến lưu thông truyền bá kinh này, làm lợi ích một
cách rộng rãi.
2) Lại xoa đầu phó
chúc, khiến thụ trì, khiến khắp cả đều nghe biết.
3) Giải thích lý
do tại sao mà khuyến khích diễn thuyết (kinh này).
Hai đoạn đầu là
dùng thân ngữ để gia trì, một đoạn cuối cùng là dùng ý nghiệp mà gia trì.
Đây là đoạn đầu.
“Dùng tay phải mà
xoa” : để biểu thị sự đại cát tường.
Ngài Long Thụ giải
thích rằng : các kinh khác chẳng phải là bí mật, chỉ có Pháp Hoa là bí mật nói
rằng nhị thừa sẽ thành Phật. Chỉ có đại Bồ tát mới có thể vận dụng lưu hành
kinh này, giống như bậc đại lương y mới có thể dùng độc dược.
*
-Kinh văn : “Xoa
ba lần như vậy” tới “khắp cả được nghe
biết”.
Tán rằng : đây là
lại xoa đầu phó chúc lần nữa, khiến thụ trì, khiến khắp cả đều nghe biết.
“Xoa tới ba lần” :
để tỏ ý phó chúc ân cần, khiến thụ trì pháp, nên đều ba lần, vì pháp truyền
đăng ắt phải coi trọng việc phó chúc.
*
-Kinh văn : “Vì
sao như vậy” tới “trí tuệ tự nhiên”.
Tán rằng : đây là
giải thích lý do vì sao mà lại khuyên phải diễn thuyết (kinh này).
Ý nghiệp gia trì
có ba :
1) Hiểu rõ ba căn
bất thiện của bản thân mình đã hết, có thể bố thí trí tuệ.
2) Tỏ rõ Phật có
thể làm đại thí chủ, khuyên hãy tùy thuận chớ có bủn xỉn.
3) Dạy bằng pháp
thí hóa độ, khiến được Phật tuệ.
Đây là phần đầu.
Vì “từ bi” cho nên
không sân, vì ban vui nên cứu khổ, vì “không bủn xỉn” cho nên không tham. Vì
“không sợ hãi” nên không hề tiếc pháp. Vì “không ngu si” nên thuyết pháp một
cách quyết định.
Có thể dựa vào
chúng sinh đạt được “Phật trí” tức Chủng trí, “Như Lai trí” tức Nhất thiết trí.
Hai trí này do
nhậm vận sự vần xoay không thày mà chứng được (Vô sư trí) nên gọi là “Tự nhiên
trí”.
Hoặc là
:
- Hai loại trước
là trí hữu vi.
- Một loại sau là
trí vô vi, gọi là “Tự nhiên trí”.
*
-Kinh văn : “Như
Lai là” tới “chớ sinh bủn xỉn”.
Tán rằng : đây là
nêu rõ rằng Phật có thể làm bậc đại thí chủ, khuyên hãy tùy thuận chớ có bủn
xỉn.
Thành Thực luận
nói : bủn xỉn có năm loại :
1 Bủn xỉn về chỗ
ởù. 4. Bủn xỉn về ca ngợi.
2. Bủn xỉn về gia
đình. 5. Bủn xỉn về pháp.
3. Bủn xỉn về bố
thí.
1. Bủn xỉn về chỗ
ở.
Đối với trụ xứ của
mình, nảy ra ý nghĩ bủn xỉn, nghĩ rằng một mình ta ở đây, chẳng cần đến người
khác, để ta được tự tại. Đây có năm loại :
1) Đối với các tỳ
kheo tốt chưa tới, thì chẳng muốn khiến họ tới.
2) Đối với các tỳ
kheo tốt khi họ tới rồi, thì giận dỗi chẳng ưa.
3) Muốn khuyến họ
sớm ra đi.
4) Giấu thí vật
của tăng đi, chẳng muốn cho họ.
5) Đối với các thí
vật của tăng, sinh ra tâm lý cho đó là của mình, kể làm ơn đức.
Người đó đối với
vật sở hữu cộng đồng mà còn chẳng thí xả, huống chi là các vật sở hữu của bản
thân. Cho nên cuối cùng không có phần về sự giải thoát.
2.Bủn xỉn về gia
đìnhø.
Đối với những gia
đình mà mình qua lại, sinh ra tư tưởng bủn xỉn nói rằng : nhà này là nơi ta
thường một mình vào ra, chẳng cần đến người khác, nếu còn có người khác thì phải
khiến ta thắng trội nhất. Đây cũng có năm :
1) Nếu bạch y (chỉ
người tại gia) có chuyện chẳng may thì cùng lo với họ.
2) Nếu họ có sự
lợi lạc, thì mình cùng vui với họ.
3) Mừng người bạch
y có sự giàu sang thắng trội.
4) Chặn mất đường
của người nhận của bố thí, khiến họ chẳng được bố thí.
5) Sẽ phải sinh
vào nhà ấy làm quỷ trong chuồng xí cùng các chốn xấu xa.
3. Bủn xỉn về bố
thí.
Đối với vật bố thí
của người khác, nảy ra tư tưởng bủn xỉn nghĩ rằng : khiến ta ở đây một mình
được vật bố thí, người khác chẳng được. Ví dù có cho họ, cũng chớ cho hơn phần
của ta. Đây cũng có năm :
1) Thường bị thiếu
thốn trong sinh hoạt.
2) Khiến người bố
thí chẳng được làm phúc.
3) Khiến người nhận
(bố thí) chẳng được tài lợi.
4) Chê bai nói xấu
người tốt.
5) Tâm thường lo
lắng phiền não, cho nên sẽ sinh ở địa ngục.
Nếu có được sinh
ra ở cõi người, cõi trời cũng chịu cảnh túng thiếu.
4. Bủn xỉn về tán
thán (ca ngợi).
Sinh ra tâm địa
bủn xỉn đối với việc khen ngợi người khác, muốn khiến chỉ khen một mình ta,
đừng khen người khác. Nếu khen người khác thì cũng đừng khiến hơn ta. Đây cũng
có năm :
1) Nghe khen người
khác, tâm thường lo lắng xáo động.
2) Chê bai nói xấu
người tốt.
3) Tự cao, khinh
rẻ người khác.
4) Thường bị tiếng
xấu.
5) Sẽ không có
tịnh tâm trong trăm ngàn đời vị lai.
5. Bủn xỉn về
pháp.
Ở trong chính pháp
sinh ra tư tưởng bủn xỉn, muốn khiến một mình ta biết 12 bộ kinh, đừng để người
khác biết. Giả sử có để cho người khác biết thì cũng đừng để cho người khác hơn
ta. Thêm nữa, tự mình biết nghĩa bí mật mà không nói. Lỗi này có bảy thứ :
1) Sinh ra thường
bị mù lòa.
2) Thường bị ngu
si.
3) Sinh ra trong
nhiều sự oán hận, chẳng được tự tại.
4) Thoái mất thánh
thai.
5) Chư Phật oán
tặc.
6) Người thiện xa
lìa.
7) Không điều ác
nào không làm.
Có đủ mọi lỗi lầm
mất mát như vậy, cho nên (Phật) khuyên chớ nên bủn xỉn.
Vì Thế tôn đã thực
hành được ba loại xả, cho nên ngài là “đại thí chủ của hết thảy chúng sinh”.
Bởi vậy, hãy “học theo pháp của ta, chớ sinh bủn xỉn”.
*
-Kinh văn : “Ở đời
vị lai” tới “vì được Phật tuệ”.
Tán rằng : đây là
dạy bằng pháp thí hóa độ, để khiến được Phật tuệ.
*
-Kinh văn : “Nếu
có chúng sinh” tới “chỉ giáo khiến họ được
lợi lạc”.
Tán rằng : nếu
chẳng tin kinh này thì khiến tin kinh khác.
Ý nói gặp hạng nhị
thừa, dùng diệu pháp này để giáo hóa, nếu họ chẳng tin thì hãy thuyết Bát nhã
đại thừa thâm pháp để điều phục tâm họ, rồi sau hãy giáo hóa bằng pháp này.
*
-Kinh văn : “Các
ông nếu được như thế, tức là đã báo ân của chư Phật”.
Tán rằng : đây là
kết luận thành ra ý khuyên bảo.
Ý Phật muốn khiến
mọi người thành Phật cho nên đặt ra đủ mọi môn.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ các Bồ tát” tới “xin Thế tôn chớ
lo”.
Tán rằng : đây là
đoạn lớn thứ hai : nói về Bồ tát kính thụ, chia làm hai đoạn, (dùng) ba nghiệp
mà kính lĩnh.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ” tới “hãy quay về như cũ”.
Tán rằng : đây là
đoạn lớn thứ ba : khiến tháp v.v… quay về.
Từ đây về sau
không còn chốn quay về nào nữa. Cho nên biết rằng phẩm này lẽ ra phải ở cuối
kinh.
*
-Kinh văn : “Lúc
nói lời này” tới “đều rất hoan hỉ”.
Tán rằng : đây là
đoạn lớn thứ tư : nói về đại chúng đều hoan hỉ, nghe và khen pháp thắng diệu.
Được giao phó và
dặn dò đinh ninh, bởi vậy hoan hỉ. Chứ chẳng phải là vì thấy sai hóa Phật v.v…
quay trở về mà hoan hỉ.
Cứ theo lý do đó,
cho nên hết việc thì giải tán. Thiên Thân Bồ tát giải thích kinh Già Da Sơn
Đỉnh, nói rằng hoan hỉ phụng hành có ba nghĩa :
1) Người thuyết
pháp thanh tịnh, vì được tự tại đối với các pháp.
2) Pháp sở thuyết
thanh tịnh, vì chứng tri đúng như thực pháp thể thanh tịnh.
3) Sở y thuyết
pháp đắc quả thanh tịnh, vì đắc cảnh giới tịnh diệu.
Như kinh chép “đều
rất hoan hỉ”, tức là tín thụ phụng hành.
***
PHẨM DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT BẢN SỰ
Ba môn phân
biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Hai phẩm trên đã
thuyết minh về Phó thụ, sáu phẩm dưới là Thụ mệnh lưu thông. Căn cứ vào lời văn
bản luận thì chia làm năm phần :
1) Dược Vương tự
tu hành khổ hạnh lực để lưu thông.
2) Diệu Âm giáo
hóa chúng sinh tu hành khổ hạnh lực để lưu thông.
3) Quan Âm, Đà la
ni dùng lực cứu các nạn cho chúng sinh để lưu thông.
4) Diệu Trang
Nghiêm Vương dùng công đức thắng lực để lưu thông.
5) Phổ Hiền, Chúc
lũy dùng hộ pháp lực để lưu thông.
Chúc lũy đã trình
bày ở trên, còn hộ pháp thì chỉ có một.
Dược Vương lúc ấy
ở tại pháp hội, nghe Phật nói về mình trước kia đã từng thiêu thân, đốt tay tự
tu hành khổ hạnh để lưu thông chính pháp, làm lợi ích cho pháp hội đương thời. Cho
nên mới có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH
TÊN PHẨM.
“Dược” : là công
hiệu thần kỳ có thể trị được bệnh tật.
“Vương” : là có uy
lực tự tại.
“Bản” : là nhân
do.
“Sự” : là thể
nghiệp.
Nay vị Bồ tát này
nguyện làm cây thuốc để trị bệnh kinh niên Bát trần, để trừ bệnh nặng Thất lậu,
thế lực vô song, uy thần hiếm sánh, cho nên gọi là Dược Vương Bồ tát.
Nay trong phẩm này
kể về bản nhân, tức là sự tu hành của vị ấy để làm lợi cho pháp hội đương thời,
cho nên gọi là phẩm Dược Vương Bồ tát Bản Sự.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
-Hỏi : Bồ tát về
nguyện lực, thần công đều bằng nhau, cớ sao chỉ có một mình vị này gọi tên là
Dược Vương ?
Đáp : xét về công
đức, căn cứ vào hạnh quả thì không khác nhau nhưng nguyện lợi tha, tu nhân xưa
cũng hơi khác nhau. Chỉ như hạnh nguyện Cứu sinh bạt khổ, các Bồ tát đều giống nhau,
nhưng riêng một mình ngài Quán Âm được gọi tên là Cứu (khổ cứu nạn Quán Thế
Âm). Còn Dược Vương có sự thắng trội riêng, há lại không được lấy hạnh đặt tên như
thế ư !
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Túc Vương” tới “nghe đều hoan
hỉ”.
Tán rằng : toàn
văn phẩm này chia làm 6 đoạn lớn :
1. Đầu tiên là Túc
Vương Hoa hỏi.
2. Như Lai giải
đáp.
3. Đoạn từ “Nếu
lại có người đem bảy thứ báu chứa đầy tam thiên đại thiên” trở xuống : tán thán
diệu đức của kinh.
4. Đoạn từ “Túc
Vương Hoa, nếu có người nghe phẩm Dương Vương Bồ Tát Bản Sự này” trở xuống :
tán thán sự phó thụ thắng diệu.
5. Đại chúng đương
thời được lợi ích.
6. Phật Đa Bảo tán
dương.
Hai đoạn này đều ở
cuối phẩm.
Đây là đoạn đầu,
có ba :
1) Hỏi.
2) Thỉnh.
3) Biện thỉnh
ý.
“Tú Vương Hoa hỏi”
: từ đời xưa “Túc” đến nay đều trì kinh Pháp “Hoa”, tự tại như vua “Vương” (bởi
vậy gọi là Túc Vương Hoa).
Kinh Bảo Vân nói
rằng : Bồ tát có mười pháp gọi tên là “cây thuốc lớn”. Ví như cây thuốc gọi là
Thiện kiến, nếu có chúng sinh nào được rễ, củ, cành, lá, hoa, quả của nó thì
cũng nhìn thấy sắc, ngửi thấy hương, nếm thấy vị, được tiếp xúc ; cảm nhận được
mười pháp này thì mọi bệnh đều chữa khỏi.
Bồ tát cũng thế,
từ lúc mới phát tâm, đã vì các chúng sinh có biết bao nhiêu thứ bệnh phiền não
mà dựa vào Thí, Giới, Nhẫn, Cần, Định, Tuệ để cứu sống được họ. Có người nhờ
thấy pháp, có người nhờ nghe âm thanh, có người nhờ biết mùi vị, có người nhờ
đồng sự mà được sống. Bồ tát tùy ứng dẫn đạo, khiến cho họ được lợi ích. Cho
nên gọi Bồ tát là cây thuốc, vì có thể trừ bệnh phiền não, cứu sống được tuệ mệnh.
“Du” : là phương
pháp du hóa lợi ích, tế độ làm lợi lạc cho chúng sinh.
“Bao nhiêu vân
vân” : là hỏi về các khổ hạnh khác nhau : đó là thiêu thân, đốt tay để cúng
dàng chính pháp.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật bảo” tới “thuyết kinh Pháp Hoa”.
Tán rằng : dưới là
đoạn lớn thứ hai : Như Lai giải đáp cho. Có bốn phần :
1. Kể về thời
gian.
2. Thuyết minh về
Phật.
3. Nói rõ việc tu
hành.
4. Hội họp xưa
nay.
Đây là 2 phần đầu.
Trong phần thuyết
minh về Phật có 7 thứ :
1) Danh hiệu.
2) Quyến thuộc.
3) Trụ thọ.
4) Không ác.
5) Tướng cõi
(Phật).
6) Lâu đài cây cối
trang nghiêm.
7) Kinh pháp sở
thuyết.
*
-Kinh văn : “Bồ
tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến” tới “Hiện nhất thiết sắc thân tam muội”.
-Tán rằng : đây là
phần thứ ba : nói về sự tu hành. Có ba mục :
1) Tinh tiến, đắc
định.
2) Cúng dàng Phật
pháp.
3) Cúng dàng xá
lợi.
Đây là mục đầu.
Đắc định này rồi
thì có thể tùy thích mà hiện thân. Sơ địa thì đắc, Bát địa thì được tự tại ;
Thập địa thì trong bình đẳng có thể tùy theo sự ưa thích của chúng sinh mà thị
hiện, vì Sơ địa đã đắc (định).
Kinh Vô Cấu Xưng
cũng có Bồ tát này.
*
-Kinh văn : “Đắc
tam muội này rồi” tới “và kinh Pháp
Hoa”.
Tán rằng : đây là
phần thứ hai : cúng dàng Phật pháp. Có 7 mục :
1) Hỉ niệm cúng
dàng.
2) Nhập định khởi
thần thông.
3) Lại nghĩ là
chưa đầy đủ.
4) Thiêu thân để
cúng dàng.
5) Quang minh
chiếu xa.
6) Chư Phật cùng
tán thán.
7) Thời gian thiêu
thân.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Tức
thì nhập định này” tới “để cúng dàng
Phật”.
Tán rằng : đây là
nhập định, khởi thần thông. Có ba thứ :
1) Lúc mới nhập
định thì đổ mưa hoa.
2) Đổ mưa chiên
đàn.
3) Đổ mưa hương
Hải thử ngạn chiên đàn.
*
-Kinh văn : “Cúng
dàng như vậy rồi” tới “đem thân ra cúng
dàng”.
Tán rằng : đây là
mục thứ ba : Lại nghĩ là chưa đủ.
*
-Kinh văn : “Liền
xức các thứ hương thơm” tới “mà tự thiêu
thân”.
Tán rằng : đây là
mục thứ tư : Thiêu thân cúng dàng. Có ba ý :
1) Xức dầu
thơm.
2) Nói rõ năm
tháng.
3) Chính thức
thiêu thân.
*
-Kinh văn : “Quang
minh chiếu khắp” tới “các đức Như
Lai”.
Tán rằng : trong
này có hai mục : mục thứ năm “quang minh chiếu khắp” và mục thứ sáu “chư Phật
cùng khen”. Trong mục cùng khen có ba ý :
1) Khen bằng cách
nêu lên sự chân thực.
2) Khen bằng cách
so sánh.
3) Kết luận lời
khen.
*
-Kinh văn : “Nói
lời này xong” tới “thân ấy mới hết”.
Tán rằng : đây là
mục thứ bảy nói về thời gian. Có hai phần : đầu tiên là im lặng, sau đó là thời
gian.
*
-Kinh văn : “Bồ
tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến” tới “bỗng nhiên hóa sinh”.
Tán rằng : đây là
mục thứ ba “cúng dàng xá lợi” trong phần nói về sự tu hành. Có 14 mục nhỏ :
1) Sinh xứ (chốn
sinh).
2) Thuyết pháp.
3) Khải bạch.
4) Tới chỗ Phật.
5) Phó chúc.
6) Nhập diệt.
7) Dựng tháp.
8) Nghĩ bảo.
9) Đốt tay.
10) Lợi ích.
11) Chúng sinh
buồn rầu.
12) Tự thề.
13) Nguyện mãn.
14) Cảm sinh thụy
ứng.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Liền
vì cha mình” tới “xả bỏ thân yêu
quý”.
Tán rằng : đây là
mục thứ hai : Thuyết pháp.
*
-Kinh văn :
“Thuyết kệ ấy” tới “cúng dàng Phật
này”.
Tán rằng : đây là
mục ba : Khải bạch.
Đầu tiên bạch vì
sự trước kia, sau đó là bạch thỉnh đi tới. Văn phần đầu có 3 ý :
1) Luận về Phật
tại thế.
2) Đắc tổng
trì.
3) Nghe thắng
pháp.
“Chân ca la v.v…”
: Câu Xá luận, quyển thứ 12 nói rằng : Số có 60, quên mất 8 số khác, cứ lấy 10
mà nhân với nhau dần tới thứ 16 thì gọi là Căng yết la (còn gọi là Chân ca la),
thứ 17 gọi là Đại Căng yết la, thứ 18 gọi là Tần bạt la, thứ 19 gọi là Đại Tần
bạt la, thứ 20 gọi là A sô bà, thứ 21 gọi là Đại A sô bà. Đây tóm lại là có ba
loại tức là các số thứ 16, 18, 20.
*
-Kinh văn : “Bạch
xong liền ngồi” tới “vẫn còn tại thế ư
?”.
Tán rằng : đây là
mục bốn : tới chỗ Phật. Có ba phần :
1) Đầu tiên : đi
tới.
2) Thứ đến : tán
thán.
3) Cuối cùng : tác
bạch.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ, Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức” tới “bao nhiêu ngàn tháp”.
Tán rằng : đây là
mục năm nói về phó chúc.
Có bốn ý :
1) Nêu lên việc
nhập diệt.
2) Phó chúc về
pháp.
3) Phó chúc về cõi
giới.
4) Phó chúc về
thể.
Theo Tăng Kỳ luật,
nếu có xá lợi thì gọi là Tháp bà, không có xá lợi thì gọi là Chi đề.
Trong Du Già v.v…
thì nếu có xá lợi thì chỉ gọi là Tốt đổ bà, nếu không có xá lợi thì chỉ gọi là
Chế đa.
Không có danh từ
Tháp bà, đó là (phiên âm) sai.
*
-Kinh văn : “Phật
Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức” tới “nhập Niết
bàn”.
Tán rằng : đây là
mục sáu : nhập diệt.
Kinh Hoa Nghiêm
nói rằng : Phật sự cứu cánh rồi, thì vì có 10 nghĩa mà Phật thị hiện nhập
đại Niết bàn :
1) Để chứng minh
mọi hạnh đều vô thường.
2) Để chứng minh
mọi thứ hữu vi chẳng phải yên ổn.
3) Để chứng tỏ nẻo
Niết bàn là yên ổn nhất.
4) Chứng tỏ bát
Niết bàn lìa xa mọi sự sợ hãi.
5) Vì các người,
trời thích chấp trước sắc thân, cho nên chứng minh rằng sắc thân là vô thường,
là pháp mòn diệt, để khiến họ cầu trụ ở pháp thân thanh tịnh.
6) Để chứng minh
lực vô thường là mạnh, chẳng thể chuyển đổi.
7) Để chứng minh
pháp hữu vi chẳng được tự tại.
8) Để chứng tỏ tam
giới pháp thảy đều giống như khí cụ bị hư hoại vì không bền chắc.
9) Để chứng minh
bát Niết bàn là chân thực nhất, vì chẳng thể hoại.
10) Để chứng minh
bát Niết bàn lìa xa sinh tử, chẳng phải khởi diệt.
(Phật) vì 10 nghĩa
này mà thị hiện Niết bàn.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ, Bồ tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến” tới “treo các lục lạc báu”.
Tán rằng : đây là
mục thứ bảy : Dựng tháp. Có 3 ý :
1) Buồn thương lưu
luyến.
2) Thiêu
thân.
3) Dựng
tháp.
Đây là Tha thụ
dụng, nên lượng cực cao.
*
-Kinh văn : “Bây
giờ, Bồ tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến” tới “của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức”.
Tán rằng : đây là
mục thứ tám : Nghĩ bảo.
Có hai phần : đầu
là Nghĩ, sau là Bảo.
*
-Kinh văn : “Nói
lời này xong” tới “tự nhiên hoàn trở
lại”.
Tán rằng : trong
này có 5 mục :
- Mục thứ 9 : đốt
tay.
- Mục thứ 10 : lợi
ích.
- Mục 11 : chúng
sinh buồn khổ.
- Mục 12 : tự
thề.
- Mục 13 : nguyện
mãn.
*
-Kinh văn : “Do
phước đức trí tuệ thuần hậu của Bồ tát này” tới “được thứ chưa từng có”.
Tán rằng : đây là
mục 14 : Cảm sinh thụy ứng.
Có ba ý :
1) Nhân do.
2) Thụy ứng.
3) Được thứ chưa
từng có.
*
-Kinh văn : “Phật
bảo Túc Vương Hoa” tới “mà cúng
dàng”.
Tán rằng : dưới là
mục thứ tư : nói về hội cổ kim, trong đoạn lớn thứ hai nói về Như Lai giải
đáp.
Có 3 phần :
1) Đầu là
hội.
2) Sau là tán
thán.
3) Cuối là khuyên
tu.
*
-Kinh văn : “Nếu
lại có người” tới “phúc ấy nhiều
nhất”.
Tán rằng : dưới là
đoạn lớn thứ ba trong phẩm, nói về sự tán thán diệu đức kinh này. Có bốn mục
:
1) Giảo lượng
thắng.
2) Tỉ dụ thắng. Đó
là đoạn từ “thí như…” trở xuống.
3) Tác dụng thắng.
Đó là đoạn từ “kinh này cứu được…” trở xuống.
4) Vô biên thắng.
Đó là đoạn từ “nếu người nào được nghe kinh Pháp Hoa này, nếu tự mình sao
chép…” trở xuống.
Đây là mục
đầu.
*
-Kinh văn : “Túc
Vương Hoa ! Thí như” tới “vua của các
kinh”.
Tán rằng : đây là
văn nói về mục thứ hai : Tỷ dụ thắng. Trong có mười :
1) U quảng thắng
(thắng diệu về mức độ sâu rộng).
2) Cao hiển thù
thắng.
3) Liễu đạt
thắng.
4) Trừ Hoặc
thắng.
5) Uy thế
thắng.
6) Tự tại
thắng.
7) Xuất sinh
thắng.
8) Khế lý thắng,
hoặc gọi là Nhân pháp thắng.
9) Nhị lợi
thắng.
10) Viên đức
thắng.
Trong Khế lý thắng
có pháp có nhân. Kể ra văn về nhân này lẽ ra phải nói sau cùng, nhưng tiện mạch
văn cho nên nói luôn.
“Tu đà hoàn” :
dịch là Dự lưu, vì dự vào thánh lưu (hàng thánh).
“Tư đà hàm” : dịch
là Nhất vãng lai, chỉ có một lần sinh qua lại vòng sinh tử nữa là thành Ứng
quả, gọi là Nhất lai.
“A na hàm” : dịch
là Bất hoàn. Dục giới nghiệp tận, ắt chẳng quay trở lại sinh ở trong Dục giới
nữa, cho nên gọi là Bất hoàn.
*
-Kinh văn : “Túc
Vương Hoa” tới “thỏa mãn nguyện ấy”.
Tán rằng : dưới là
mục thứ ba : Tác dụng thắng. Có ba phần :
1. Pháp.
2. Dụ.
3. Hợp.
Đây là phần đầu,
có 3 câu :
1) Câu đầu : có
thể trừ được Hoặc nghiệp.
2) Câu sau : có
thể trừ được khổ quả.
3) Câu cuối : có
thể thỏa mãn được nguyện vọng tốt lành.
Thêm nữa : Phát
tâm, Tu hành, Đắc quả là ba.
Lại nữa : Tổng
biệt, Ly ác, Nhiếp thiện đó là ba.
*
-Kinh văn : “Như
ao nước mát mẻ” tới “như đuốc trừ được bóng
tối”.
Tán rằng : đây là
Dụ thuyết. Có 12 ý :
1) Mãn nguyện.
2) Đạo
thành.
3) Đủ đức Tàm quý
(biết hổ thẹn).
4) Được đạo
sư.
5) Được nẻo
về.
6) Vượt thoát vòng
sinh tử.
7) Trừ phiền
não.
8) Được trí
tuệ.
9) Được thánh
tài.
10) Có sự kế thừa
bẩm thụ.
11) Biết bảo
sở.
12) Phá si
ám.
Tùy theo sự tương
ứng mà ghép vào ba câu trên.
*
-Kinh văn : “Kinh
Pháp Hoa này” tới “rợ buộc sinh tử”.
Tán rằng : đây là
Hợp thuyết.
- Lìa được sự đau
khổ, trừ được các nỗi khổ, đó là câu đầu.
- Cởi được rợ trói
buộc sinh tử, ý nói trừ được Hoặc nghiệp, đó là câu thứ hai.
Chẳng hợp thuyết
câu cuối “thỏa mãn nguyện vọng” nói ở trên.
Hoặc là trừ nỗi
khổ sau này, nỗi khổ hiện tại, nguyên nhân gây khổ. Cứ theo thứ tự mà ghép vào.
*
-Kinh văn : “Nếu
người nào được nghe” tới “cũng lại vô
lượng”.
Tán rằng : đây là
mục thứ tư nói về Vô biên thắng. Có hai ý :
1) Công đức nghe
pháp, chép kinh vô biên.
2) Công đức cúng
dàng vô biên.
Đắc vô biên biên,
chẳng đắc hữu biên biên, cho nên nói Phật chẳng đắc.
*
-Kinh văn : “Túc
Vương Hoa” tới “sau chẳng thụ nữa”.
Tán rằng : đây là
đoạn lớn thứ tư trong phẩm : tán thán Phó thụ diệu. Có 7 mục :
1) Nêu rõ Văn pháp
(nghe phẩm này) thắng.
2) Chuyển nữ
thân.
3) Sinh tịnh
độ.
4) Tùy hỉ được
phúc.
5) Chính thức nói
rõ điều phó chúc.
6) Khiến thủ
hộ.
7) Khuyên cúng
dàng thụ trì.
Đây là hai mục
đầu.
*
-Kinh văn : “Nếu
sau khi Như Lai nhập diệt” tới “bằng
với ngươi”.
Tán rằng : đây là
mục ba : Sinh tịnh độ.
Có năm ý chính
:
1) Sinh tịnh
độ.
2) Lìa phiền
não.
3) Đắc thần
thông.
4) Thấy nhiều Phật.
5) Phật từ xa tán
thán.
- Trong “Phật từ
xa tán thán” có năm ý :
1/- Tán thán phúc
vô biên.
2/- Tán thán đức
vô biên.
3/- Có thể phá
được phiền não.
4/- Cùng nhau thủ
hộ.
5/- Nói rõ phương
tiện tối thắng để nhiếp dẫn. Rằng : “Bồ tát, tuệ không bằng ngươi”.
*
-Kinh văn : “Túc
Vương Hoa” tới “như trên đã nói”.
Tán rằng : đây là
mục thứ tư : tùy hỉ được phúc.
*
-Kinh văn : “Cho
nên Túc Vương Hoa” tới “chẳng già chẳng
chết”.
Tán rằng : trong
này có hai mục : mục thứ năm “Chính thức nói rõ điều phó chúc” và mục thứ sáu
“khiến phải thủ hộ”.
Trong mục “Thủ hộ”
: đầu tiên nêu lên, sau đó giải thích.
“Năm trăm năm sau”
: kinh Đại Tập nói rằng : sau khi Phật diệt độ thì :
- 500 năm đầu là
Giải thoát kiên cố.
- 500 năm thứ hai
là Thiền định kiên cố.
- 500 năm thứ ba
là Đa văn kiên cố.
- 500 năm thứ tư
là Phúc đức kiên cố.
- 500 năm thứ năm
là Đấu tranh kiên cố.
Đều lấy 500 năm là
đơn vị tính để ghi.
Cho nên nói rằng
“500 năm sau, sau khi Phật diệt độ” : thì có thể là Chính pháp 500 năm, Tượng
pháp 1000 năm và ở sau Tượng pháp trong 500 năm đầu của Mạt pháp.
*
-Kinh văn : “Túc
Vương Hoa” tới “tâm cung kính”.
Tán rằng : đây
là mục thứ bảy : khuyên cúng dàng thụ trì. Có ba :
1) Rắc hoa.
2) Tâm niệm.
3) Kết thành.
*
-Kinh văn : “Khi
Phật thuyết phẩm Dược Vương” tới “hết thảy
chúng sinh”.
Tán rằng : đây là
đoạn lớn thứ năm : nói về “đại chúng đương thời ích lợi” và thứ sáu : nói về
việc “Phật Đa Bảo tán dương”.
KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN
QUYỂN THỨ MƯỜI
- PHẦN TRƯỚC
ĐÃ XONG
Ngày 12
tháng Chạp năm Bảo An thứ ba, Sư Tăng Giác chùa Pháp Long đã dùng bản của Viên
Như phòng, chùa Hưng Phúc đem in và di điểm xong.
Bản… đều là
điểm bản này. Đó là bản do bậc cao danh viết.
“Để khiến pháp
trụ lâu dài, để được vãng sinh Cực lạc”
QUYỂN THỨ MƯỜI (PHẦN
SAU)
Sa môn KHUY CƠ,
chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn.
PHẨM DIỆU ÂM BỒ TÁT
Ba môn phân biệt
I. DỤNG Ý CỦA
PHẨM NÀY.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. DỤNG Ý CỦA PHẨM NÀY.
Luận nói rằng
phẩm Diệu Âm thị hiện việc giáo hóa chúng sinh ra sức tu hành khổ hạnh. Diệu Âm
hiện ở Đông thổ, bí mật tại phương này, vốn truyền bá giáo pháp của kinh Pháp hoa,
thực hành khổ hạnh.
Nay Phật phóng
quang triệu tập Diệu Âm để chỉ bảo cho mọi người, khuyến phát thắng tâm, hoằng
thông kinh pháp. Cho nên mới có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
“Âm” chỉ âm
thanh.
“Diệu” là thù
diệu.
Xưa khi ở vị trí tu nhân, hay tấu nhạc để cúng Phật. Nay ở quả vị, khéo thuyết pháp để lợi sinh. Nói rõ cả hai thứ nghiệp và đức để nêu thành tên gọi. Cho nên gọi là Diệu Âm Bồ tát. Phẩm này thuyết minh về sự tích vị đó, cho nên gọi là phẩm Diệu Âm Bồ tát.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : vì sao
lại phải triệu tập Diệu Âm để thành phẩm này ?
Đáp : Dược Vương
tu khổ hạnh ở phương này, tự mình khuyến hóa chúng sinh. Chưa có bậc thượng
nhân của phương khác khuyến hóa thuyết pháp ở phương khác. Cho nên triệu tập Diệu
Âm đi phương xa hành pháp, khuyên những người khác tu hành khổ hạnh. Cho nên
cần triệu.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thích Ca” tới “bạch hào tướng
quang”.
Tán rằng : toàn
phẩm này chia làm 4 đoạn lớn :
1. Thần quang
đi triệu.
2. Diệu Âm
tới nơi.
3. Việc xong
về nước.
4. Đại chúng
đương thời đắc đạo.
Đoạn lớn đầu có
hai phần :
1) Phóng
quang.
2) Nơi tới.
Đây là phần đầu.
Phóng quang ở nhục
kế, tỏ rõ tướng triệu bậc đại nhân.
Phóng quang ở giữa
lông mày, biểu thị vì kinh này mà ra lệnh.
*
-Kinh văn : “Chiếu
khắp phương đông” tới “chiếu khắp nước
ấy”.
Tán rằng : đây là
phần thứ hai : nơi tới.
Có ba ý :
1) Nơi chốn
phương nào.
2) Nước Phật.
3) Kết chiếu.
Nước Phật có ba
điều :
a) Tên
nước.
b) Tên
Phật.
c) Lợi ích
của sự giáo hóa.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ hết thảy” tới “trí tuệ rất sâu”.
Tán rằng : dưới là
đoạn lớn thứ hai trong phẩm, nói về Diệu Âm tới nơi. Có ba phần :
1) Vị đó tới.
2) Đoạn từ “Bấy
giờ Diệu Âm chẳng từ tòa đứng dậy” trở xuống : tới chốn này.
3) Đoạn từ “Bấy
giờ Hoa Đức Bồ tát bạch Phật” trở xuống : nói về hóa hạnh.
Phần đầu lại có
bốn phần :
a) Kể về
đức.
b) Thỉnh
tới.
c) Phật răn
dạy.
d) Vâng lời
dạy.
Phần kể về đức lại
có bốn mục :
1/- Nhân
tốt sớm trồng.
2/- Thiện
hữu sớm gặp.
3/- Bát nhã
sớm viên thành.
4/- Đẳng
trì đã mãn.
Đây tức là ba mục
đầu.
*
-Kinh văn : “Đắc
tam muội Diệu tràng tướng” tới “các đại tam muội”.
Tán rằng : đây là
mục bốn : đẳng trì đã mãn.
Có hai phần :
. Phần đầu :
Liệt kê 16 đẳng trì.
. Phần sau :
kết luận Vô lượng.
Mười sáu đẳng trì
gồm :
1) Diệu tràng
tướng : như tràng phan cao nổi, mọi đức trang nghiêm.
2) Pháp hoa :
thông đạt lý nhất thừa.
3) Tịnh đức : đoạn
chướng nhiễm, được thắng đức.
4) Tú vương hý :
“Tú” là giống như các vì sao, “Vương” là tự tại. “Hý” là du hý. Có nghĩa là đắc
tự tại, có thể thị hiện thành mọi hình tượng giống như tinh tú, thường nhập du
hý để làm lợi chúng sinh.
5) Vô duyên : chỉ
Diệt tận định hoặc Vô sở duyên định, lìa mọi phan duyên.
6) Trí ấn : lấy
Không lý chân như làm trí ấn ; hoặc dùng trí mà ấn định đúng sai, chân vọng.
7) Giải chúng sinh
ngữ ngôn : tức Từ vô ngại giải định.
8) Tập nhất thiết
công đức : chỉ Tập phúc vương định.
9) Thanh tịnh : có
khả năng sinh ra thất tịnh, cửu tịnh, tứ tịnh v.v… Tứ tịnh: gồm Sở y tịnh, Sở
duyên tịnh, Tâm tịnh và trí tịnh.
10) Thần thông du
hý : có khả năng khởi đại thần thông.
11) Tuệ cự (đuốc
tuệ) : chiếu sáng các cảnh giới chân tục.
12) Trang nghiêm
vương : có thể có đủ hai thứ trang nghiêm nội ngoại.
13) Tịnh quang
minh : vì phóng thần quang.
14) Tịnh tạng : vì
hàm chứa mọi đức.
15) Bất cộng tam
muội : vì chẳng cùng nhị thừa chứng đắc.
16) Nhật triền :
vì như ánh mặt trời xoay quanh mà chiếu sáng cho chúng sinh. Đây là thứ mà Bồ
tát Thập địa vận dụng dễ dàng, phần nhiều là đệ tứ định vì định này thắng diệu.
*
Kinh - văn : “Ánh sáng của
Phật Thích Ca Mâu Ni” tới “Dược Thượng Bồ
tát”.
Tán rằng : đây là
phần hai : thỉnh tới.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí” tới “sinh
ra cảm tưởng thấp kém”.
Tán - rằng : đây là phần ba :
Phật răn dạy.
Có bốn ý :
1. Răn dạy.
2. Kể về sự kém
cỏi của con người và cõi nước khác.
3. Nói rõ sự thắng
trội của bản thân.
4. Kết luận và răn
dạy.
Trong này chỉ luận
về sự thắng trội của bản thân, sự kém cỏi của người khác để mà răn dạy
họ.
Như trong kinh Tư
Ích, Tư Ích Phạm thiên Bồ tát muốn tới thế giới Sa bà, thì Phật Nhật Nguyệt
Quang bảo Tư Ích rằng : “Ngươi nên dùng mười pháp để mà du lịch ở đất nước ấy :
1) Đối với lời chê
hay khen, tâm đều không tăng giảm.
2) Nghe thấy điều
thiện hay điều ác, tâm không phân biệt.
3) Đối với kẻ ngu
hay người trí, bi tâm đều như nhau.
4) Đối với chúng
sinh ở trên hay dưới, ý thường bình đẳng.
5) Đối với sự cúng
dàng hay sự khinh rẽ chê bai, tâm không tách bạch là có hai.
6) Đối với sai sót
của người khác, chẳng thấy là lỗi của người đó.
7) Thấy mọi loại
thừa đều là nhất thừa.
8) Nghe nói ba
đường ác cũng chẳng kinh sợ.
9) Sinh cảm tưởng
tôn trọng đối với các Bồ tát.
10) Phật xuất ngũ
trược, sinh hy hữu tưởng.
Trong Kinh Vô Cấu
Xưng thì Phật Hương Đài răn dạy Bồ tát Văn Thế đại loại cũng giống như vậy.
*
-Kinh văn : “Diệu
Âm Bồ tát” tới “trí tuệ trang
nghiêm”.
Tán rằng : đây là
phần bốn : vâng lời răn dạy. Có ba ý :
- Ý đầu là nói
chung về lực của Như Lai.
- Hai ý sau nói
riêng.
*
-Kinh văn : “Thế
là Diệu Âm” tới “coi là đài của vị
ấy”.
Tán rằng : đây là
phần thứ hai của đoạn lới thứ hai : “tới đây”.
Trong văn có 11
mục, đây là mục đầu : sắp tới thì hoa hiện.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Văn Thù Sư Lợi” tới “làm đài của
mình”.
Tán rằng : đây là
mục hai : Văn Thù hỏi nguyên do.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thích Ca” tới “nghe kinh Pháp
Hoa”.
Tán rằng : đây là
mục ba : Phật thuyết về nguyên do.
*
-Kinh văn : “Văn
Thù Sư Lợi” tới “khiến tôi được
thấy”.
Tán rằng : đây là
mục bốn : Văn Thù hỏi về hạnh. Có ba ý :
1) Hỏi về phúc
tuệ.
2) Nhập định gì ?
3) Y vào định mới
có thể thấy.
Thỉnh (Phật) thông
lực gia bị để khiến tôi được thấy. Thị hiện tướng chẳng biết, thực ra đã biết
cái Định đó từ lâu rồi.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thích Ca” tới “mà hiện tướng ấy”.
Tán rằng : đây là
mục năm : Thích Ca giải đáp.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật Đa Bảo” tới “muốn
thấy thân ngươi”.
Tán rằng : đây là
mục sáu : Đa Bảo gọi đến.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Diệu Âm” tới “chẳng tấu mà tự vang
lừng”.
Tán rằng : dưới là
mục thứ bảy : Diệu Âm tới đây. Có bốn mục nhỏ :
1) Số Bồ tát tới
(lai số).
2) Nơi đi qua.
3) Thân tướng.
4) Tới nơi.
Đây tức là văn hai
mục đầu.
*
-Kinh văn : “Mắt
Bồ tát này” tới “thân kiên cố”.
Tán rằng : đây là
mục nhỏ thứ ba : Thân tướng.
Có tám đức :
1) Mắt tịnh.
Kinh Vô Cấu Xưng
nói rằng : Mắt tịnh, dài rộng diệu đoan nghiêm, đẹp như lá của loài sen có hoa
đỏ tím.
2) Mặt tròn sáng.
6) Quang minh.
3) Thân sắc. 7)
Tướng cụ.
4) Trang nghiêm.
8) Kiên cố.
5) Uy đức.
*
-Kinh văn : “Nhập
đài thất bảo” tới “núi Kỳ Xà Quật”.
Tán rằng : đây là
mục bốn nhỏ : Tới đây.
*
-Kinh văn : “Tới
rồi, xuống đài” tới “kham nhẫn trụ lâu hay
không ?”.
Tán rằng : đây là
mục thứ tám (của 11 mục) : xuống đài, làm lễ rồi hỏi. Có hai phần :
• Phần đầu là lễ
hiến.
• Phần sau là
thỉnh vấn.
Thỉnh vấn có bốn ý
:
1) Hỏi về Phật thân, có 5 câu.
2) Hỏi về chúng sinh, có 7 câu.
3) Hỏi về giáo hóa hàng phục ma, có 4 câu.
4) Hỏi về Đa Bảo, có 2 câu :
a. Hỏi về
việc tới đây.
b. Hỏi thăm
kham nhẫn ở lâu chăng ?
*
-Kinh văn : “Thế
tôn ! Tôi nay…” tới “chỉ bảo cho tôi được
thấy ”.
Tán rằng : đây là
mục thứ chín (của 11 mục) : xin được thấy Phật Đa Bảo.
Đa Bảo và Thích Ca
tuy ngồi cùng một tháp, nhưng thần lực che khuất khiến chẳng thấy được. Cho nên
xin được thấy ngài.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thích Ca” tới “cho nên tới đây”.
Tán rằng : đây là
mục mười : “Thích Ca xin giúp” và mục thứ mười một (của 11 mục) : “Đa Bảo tán
dương”.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Hoa Đức” tới “có thần lực này ?”.
Tán rằng : đây là
phần thứ ba của đoạn lớn thứ hai, nói về hóa hạnh. Có 5 mục :
1) Hoa Đức
hỏi về nhân.
2) Như Lai
bảo rõ.
3) Tán thán
hỏi về tu định.
4) Sau đó
Phật giải đáp.
5) Đại chúng
đương thời được lợi ích.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Phật
bảo Hoa Đức” tới “có thần lực này”.
Tán rằng : dưới là
mục hai : Như Lai bảo rõ.
Có 5 ý :
1) Chỉ rõ nhân
xưa.
2) Hội thành quả
nay.
3) Gặp chư Phật đã
lâu.
4) Thực hành rộng
rãi lợi hành.
5) Kết luận giải
đáp nguyên do.
Đây là ý đầu, gồm
ba thứ :
a) Phật. b)
Hạnh. c) Kết.
*
-Kinh văn : “Này
Hoa Đức ! Ông nghĩ sao ?” tới “Diệu Âm Bồ
tát Ma ha tát”.
Tán rằng : đây là
ý thứ hai :hội thành, quả nay.
*
-Kinh văn : “Này
Hoa Đức ! Diệâu Âm Bồ tát này” tới “na do
tha đức Phật”
Tán rằng : đây là
ý thứ ba : gặp chư Phật đã lâu.
*
-Kinh văn : “Này
Hoa Đức ! Ông chỉ” tới “không tổn giảm
gì”.
Tán rằng : dưới là
ý thứ tư : thực hành rộng rãi lợi hành. Có hai phần :
• Phần đầu : ở
phương này.
• Phần sau : tại
mười phương.
Đây là phần đầu.
Có 4 mục :
1) Nêu việc
hiện thân thuyết pháp.
2) Đặc biệt
nói rõ việc hiện thân thuyết pháp.
3) Kết luận
việc hóa hiện.
4) Trí tuệ
không tổn.
Trong mục đặc biệt
nói rõ việc hiện thân thuyết pháp, có hai ý :
a) Tùy nghi hiện
18 loại thân để thuyết pháp.
b) Vì trừ khổ nạn
mà hiện thân thuyết pháp.
*
-Kinh văn : “Bồ
tát ấy dùng bao nhiêu” tới “thị hiện diệt
độ”.
Tán rằng : đây là
tại mười phương, hiện thân thuyết pháp. Có ba phần :
. Đầu tiên nêu ra
ví dụ về việc làm lợi ích tại mười phương.
. Thứ đến tùy theo
sự thích nghi của căn cơ (chúng sinh) mà hiện thân thuyết pháp.
. Cuối cùng là kết
luận về hiện thân thuyết.
*
-Kinh văn : “Này
Hoa Đức ! Diệu Âm…” tới “sự tích vị đó là
như vậy”.
Tán rằng : đây là
ý thứ năm (của 5 ý) : kết luận giải đáp nguyên do.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Hoa Đức” tới “vô lượng chúng sinh”.
Tán rằng : đây là
mục thứ ba “tán thán hỏi về tu định” và mục thứ tư (của 5 mục) : “Phật giải đáp
cho”.
*
-Kinh văn : “Lúc
Phật thuyết phẩm Diệu Âm Bồ tát này” tới “cùng Đà la ni”.
Tán rằng : đây là
mục thứ năm (của 5 mục) trong phần thuyết minh về hóa hạnh, nói về đại chúng
đương thời được lợi ích.
Do nghe về hóa
hạnh mà được thắng lợi.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Diệu Âm” tới “sắc thân tam muội”.
Tán rằng : đây là
đoạn lớn thứ ba trong phẩm, nói rõ : việc xong thì về nước. Có ba ý :
1) Nêu lên việc về
nước.
2) Tướng nơi kinh
qua.
3) Về đến nơi rồi
thì trình.
*
-Kinh văn :
“Thuyết về Diệu Âm này” tới “Pháp Hoa tam
muội”.
Tán rằng : đây là
đoạn lớn thứ tư trong phẩm, nói về đại chúng đương thời đắc đạo, đều nghe một
phẩm mà được thắng ích.
***
PHẨM QUAN THẾ ÂM PHỔ MÔN
Ba môn phân
biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Luận nói rằng :
sức cứu nạn cho chúng sinh như hai phẩm Quan Thế Âm và phẩm Đà La Ni thị hiện :
- Quan Âm cứu nạn
cho chúng sinh chưa phát tâm, khiến họ lìa các nỗi khổ, phát tâm trì kinh này.
- Đà La Ni cứu nạn
cho những kẻ đã phát tâm trì kinh, khiến họ lìa khổ trì kinh.
Thêm nữa :
- Quan Âm dùng ba
thứ Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông và Tha tâm thông để cứu hộ cho người trì
kinh bị hoạn nạn.
- Trong phẩm Đà La
Ni thì hai thánh, hai thiên, mười thần, dùng minh chú để cứu hộ cho người trì
kinh bị nạn.
Thêm nữa :
- Quan Âm niệm
nhân cứu nạn.
- Đà La Ni tụng
pháp cứu nạn.
Lực trì kinh đã
lìa các nạn, nếu chẳng dùng phương pháp dễ cứu mà thêm vào, thì sẽ khó tu
nghiệp trì kinh. Cho nên đem cái công dễ mà giúp để thành tựu cái nghiệp khó,
để khuyến khích việc trì kinh. Cho nên mới có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
* Chữ [觀] có âm đọc là Quan, lại có âm đọc là Quán. Nay theo âm đầu
“Quan”.
“Quan” : có nghĩa
là quan sát rồi dùng bi tuệ mà rủ lòng cứu giúp.
“Thế” : là thứ
mang ý nghĩa có thể phá hoại, tức là thế gian hữu tình sinh tử.
“Âm” : chỉ âm
thanh, ngữ nghiệp của loài hữu tình.
Thế gian hữu tình
khởi lên âm thanh để quy niệm Bồ tát. Bồ tát dùng Đại bi tuệ rủ lòng thương mà
quan sát rồi tùy cơ ứng cứu, đó gọi là “Quan Thế Âm”.
Đúng nghĩa thì
phải gọi là Quán Tự Tại. Nếu các (chúng sinh) ba nghiệp đều quy y, thì (Bồ tát)
lục thông ắt rủ lòng giáo hóa, chẳng phải đợi đến lúc họ bị khổ nguy cấp rồi
mới phóng xe đến cứu giúp. Làm người bạn chẳng mời mà đến, làm thày thuốc ứng
bệnh, tquyền lực ứng xử linh hoạt khôn lường, cho nên gọi là Quán Tự Tại Bồ tát
như trên.
“Phổ” : có nghĩa
là bình đẳng khắp cả.
“Môn” : là chỗ để
từ đó mà ra vào.
Các chúng sinh đã
ba nghiệp quy y thì (Bồ tát) lục thông ắt sẽ rủ lòng cứu giúp bình đẳng, chỉ
cho họ nơi chốn để từ đó họ ra khỏi cảnh khổ mà đi vào cảnh vui, cho nên gọi là
“Phổ Môn”.
Ba thứ : thần
thông, ký thuyết, giáo giới là nơi chốn để lìa khổ, làm nhân do để nhập tịch,
đó là các hình thái của Phổ Môn. Song, người có khổ phần nhiều phát ra âm thanh
để quy niệm, bậc đại bi ắt ứng niệm mà đến cứu vớt, cho nên gọi là “Quan Âm”.
Phẩm này thuyết minh rộng về điều ấy, cho nên gọi là phẩm Quan Thế Âm Phổ Môn.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
-Hỏi : Bồ tát đại
bi, quan sát thấy khổ thì cứu, tại sao lại phải đợi niệm, rồi sau mới rủ lòng
từ mẫn mà cứu giúp ?
Đáp : nếu chúng
sinh vô tâm mà Phật cứu, thì đó là điều bậc đại thánh chẳng thông. Nếu chúng
sinh tự mình phát ý mà cầu duyên, thì các thánh đều cùng giúp đỡ. Trước hết nhân
ở tự nghiệp, rồi sau mới mượn đến duyên. Tự mình đã chẳng tu, thì duyên làm sao
mà khởi được ? Cho nên phải đợi họ quy niệm rồi sau mới cứu họ. Giả sử họ tự mình
tu tập nhưng chưa hiểu phương tiện, thì phải nhờ bạn tốt chỉ bảo cho, thì cái
khổ mới diệt được.
-Hỏi : mọi Bồ tát
đều có năng lực này, cớ sao chỉ một mình ngài Quan Âm bao trùm danh hiệu của
các vị đó ?
Đáp : vì bản
nguyện chẳng giống nhau, lợi sự khác nhau. Quan Âm kế nghiệp Phật Vô Lượng Thọ,
sẽ làm Phật Bảo Quang Công Đức Sơn Vương, cho nên nêu riêng vị này.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Vô Tận Ý” tới “gọi tên là Quan Thế
Âm”.
Tán rằng : toàn
văn phẩm này chia làm 4 đoạn lớn :
1. Vấn đáp về danh
nhân (nguyên nhân vì sao mà đặt tên như thế).
2. Vấn đáp về hóa
hạnh.
3. Trì Địa tán
thán.
4. Kết thành lợi
ích đương thời.
Văn hai đoạn lớn
đầu có tụng. Trong đoạn lớn đầu có 3 phần :
a) Hỏi về danh
nhân (nguyên nhân của tên gọi).
b) Đáp về tự nghĩa
(nghĩa chữ).
c) So đọ công đức
trì danh hơn kém ra sao.
Đây là phần
đầu.
“Vô Tận Ý” : kinh
A Sai Mạt nói : tu hành đủ các thứ hạnh như lục độ, tứ nhiếp v.v… , thề độ cho
chúng sinh, chúng sinh giới tận thì ý của Bồ tát mới tận. Chúng sinh chưa tận
thì ý của Bồ tát chưa tận. Cho nên gọi là Vô Tận Ý.
Trong Thập Địa
kinh dùng mười câu “giới tận” mà làm thành các đại nguyện :
1) Nhất thiết
chúng sinh giới tận.
2) Thế giới tận.
3) Hư không giới
tận.
4) Pháp giới tận.
5) Niết bàn giới
tận.
6) Phật xuất thế
giới tận.
7) Như Lai trí
giới tận.
8) Tâm sở duyên
giới tận.
9) Phật cảnh giới
trí nhập giới tận.
10) Thế giới
chuyển pháp luân trí chuyển giới tận.
Câu đầu làm thành
đại nguyện là : “Nếu như chúng sinh giới tận thì nguyện của ta mới tận”. Như
vậy, nếu chúng sinh giới bất tận thì nguyện của ta cũng bất tận.
Cho đến câu thứ
chín : “Phật trí chứng nhập hết thảy cảnh giới đều tận”, câu thứ mười : “Chuyển
pháp luân trí nếu chuyển, các pháp đều tận, thì nguyện của ta cũng vẫn bất
tận”.
Kinh Vô Cấu Xưng
nói rằng : “Tuy đắc Phật đạo, chuyển pháp luân, nhưng chẳng bỏ đạo của Bồ tát,
đó gọi là Bồ tát hạnh”. Cho nên vị Bồ tát này tên là “Vô Tận Ý”.
Tuy hạnh nguyện
của các Bồ tát đều giống nhau, nhưng các danh hiệu thì khác nhau, vì bản nguyện
khác nhau. Đó là vì muốn thuyết minh kinh này có thể khiến hạnh nguyện đều cũng
vô tận.
“Hỏi về danh” là
muốn khiến dựa vào việc trì niệm (danh hiệu Phật, danh hiệu Bồ tát) để mà dứt
khổ.
“Hỏi về hạnh” là
muốn khiến tu hành để cầu vui.
*
-Kinh văn : “Phật
bảo Vô Tận Ý” tới “đều được giải
thoát”.
Tán rằng : dưới
làø đáp về tự nghĩa. Có ba phần :
. Phần đầu : là
ngữ nghiệp quy y, dùng Thiên nhĩ thông mà xét tìm âm thanh, cứu khổ.
. Phần hai : là
đoạn từ “Nếu có chúng sinh nào nhiều lòng dâm dục” trở xuống : là ý nghiệp quy
y, dùng Tha tâm thông mà quán tâm, cứu khổ.
. Phần cuối : là
đoạn từ “Nếu có nữ nhân nào muốn cầu sinh con trai” trở xuống : là thân nghiệp
quy y, dùng Thiên nhãn thông mà quán sắc, cứu khổ.
Phần đầu này lại
có ba ý :
1) Ý đầu : nêu
chung, nếu có khổ mà niệm Bồ tát Quan Thế Âm thì liền được giải thoát.
2) Ý hai : nêu
riêng, nếu có tai ách mà niệm Bồ tát Quan Thế Âm thì đều được giải thoát.
3) Ý ba : kết
luận, bảo rõ uy thần cao vời vợi như vậy.
Đây là ý đầu.
Tức là ba đường
tám nạn, hết thảy khổ nạn. Chỉ cần như Pháp Lâm quy mệnh là tránh khỏi hình
phạt 7 ngày, như Tế Hoan quy y là thoát khỏi cái họa 3 dao.
Du Già luận, quyển
9 nói : Nghiệp có hai loại :
a) Định dị thục
nghiệp, nghĩa là Cố tư nghiệp, hoặc tạo tác hoặc tăng trưởng.
b) Bất định dị
thục nghiệp, nghĩa là Cố tư nghiệp đã tạo tác mà chẳng tăng trưởng.
Luận trên quyển
thứ 89 nói : các nghiệp đã tạo tác dù chẳng tăng trưởng nhưng nếu không hối
hận, chẳng tu đối trị, vẫn còn phải thụ quả, thì gọi là tăng trưởng nghiệp. Nếu
hối hận v.v… , thì gọi là bất tăng trưởng nghiệp.
Hoặc trước kia là
tăng trưởng nghiệp, nay do hối hận v.v… thì gọi là bất tăng trưởng nghiệp. Như
Vị Sinh Oán (tức A Xà Thế) lúc trước khi chưa hối hận, gọi là tăng trưởng nghiệp
; sau khi đã hối hận rồi, thì gọi là bất tăng trưởng nghiệp.
Luận trên quyển 60
nói rằng : căn cứ vào tình trạng chưa được giải thoát mà kiến lập ra Định thụ
nghiệp.
Nói “giải thoát”
có nghĩa là Thế đạo phục đoạn, cho đến đắc thánh thành bậc vô học v.v…, tức là
chưa nhập Phật pháp như trong kinh Niết Bàn, thì gọi là Quyết định nghiệp. Nếu
nhập Phật pháp, thì gọi Bất định nghiệp.
Đối Pháp luận
quyển 7 nói : Có năm Cố tư tạo :
1) Tha sở giáo sắc
(sự dạy bảo ép buộc của người khác).
2) Tha sở khuyến
thỉnh (sự khuyến khích mời mọc của người khác).
3) Vô sở liễu tri
(không hiểu biết gì).
4) Căn bản chấp
trước, chỉ các nghiệp do ba độc che lấp bản tâm, hăng hái chấp trước khởi lên.
5) Điên đảo phân
biệt, nghĩa là cho đó là thù thắng vô tội, mà sở hành ác nghiệp.
Trong 5 loại này,
2 loại cuối hoặc khởi tác hoặc tăng trưởng, chẳng phải là chẳng thụ dị thục, vì
Tư nặng. Còn 3 loại đầu chỉ có khởi tác mà chẳng tăng trưởng, không hẳn là phải
thụ dị thục, vì Tư nhẹ.
Đây nói “tác”, có
nghĩa là khởi tác các nghiệp khiến chúng hiện hành. “Tăng trưởng” có nghĩa là
khiến tập khí dần dà tăng trưởng. Do đây chỉ nói về Cố tư nghiệp, nên chỉ có
5.
Nhưng Du Già quyển
9 nói : trừ 10 loại ra, số còn lại đều gọi là Cố tư . Mười loại đó là :
1) Mộng.
2) Vô tri.
3) Vô cố tư (không
cố ý nghĩ tới).
4) Bất lợi bất sổ
(không cho là lợi, không hề đếm xỉa).
5) Cuồng loạn.
6) Thất niệm.
7) Phi nhạo dục
(chẳng phải ưa muốn).
8) Tự tính vô ký.
9) Hối sở tổn (do
hối hận mà giảm đi).
10) Đối trị sở tổn
(do đối trị mà giảm đi).
Trừ 10 loại này
ra, số còn lại đều tăng trưởng. Đó tức là điều mà Du Già quyển 9 đã nói : “Tăng
trưởng nghiệp có 6 loại vậy”.
Mười loại bất tăng
và sáu loại tăng trưởng ở đó, chẳng vượt 3 bất tăng và 2 tăng trong Đối Pháp.
Tách ra hay hợp lại là căn cứ phần vị nhiều ít vậy.
Đối Pháp còn nói :
Quyết định có ba :
1) Tác nghiệp
quyết định. Do nghiệp lực cũ cảm quyết định thân, ở trong lần sinh này ắt tạo
nghiệp này, kỳ hạn quyết định, chẳng hề sai vượt, thần lực của Phật v.v… cũng chẳng
thể cứu được.
2) Thụ dị thục
quyết định, tức thuận định thụ nghiệp. Quả (nhất) định sẽ thụ, nhưng thời chưa
định. Chẳng thế thì Phật xuất thế lẽ ra sẽ không có chúng sinh nẻo ác tạo ác.
3) Phần vị quyết
định, là thuận ba thời phần vị định nghiệp. Nếu nghiệp đạo nhiếp thu, thì gọi
là thuận định nghiệp. Gia hạnh và hậu khởi thì chung cho cả định (nghiệp) và
bất định (nghiệp).
Thêm nữa, chưa hối
hận, chưa đối trị v.v… thì gọi là Quyết định nghiệp. Đã hối hận, đã đối trị v.v…
thì gọi là Bất định nghiệp.
Du Già, quyển 10
nói về ba nghiệp :
a) Thuận hiện.
b) Thuận sinh.
c) Thuận hậu thụ
nghiệp.
Du Già, quyển 60
nói về bốn nghiệp :
1) Dị thục định.
3) Nhị câu định.
2) Thời phân định.
4) Nhị câu bất định.
Duy Thức cũng nói
về bốn loại : gồm ba thời và bất định.
Hiển Dương quyển 9
nói về năm loại, đó là :
- Ba loại
Thuận ba thời.
- Thụ báo định.
- Tác nghiệp quyết
định.
Đều giống như Du
Già quyển 9, phần toát yếu đã nói, vì ngại rườm rà nên tạm dừng.
Cho nên niệm Quan
Âm sẽ thêm được duyên lành, tự tâm hối lỗi biết hổ thẹn thì thoát khỏi mọi khổ
não.
Cũng có chỗ giải
thích rằng : Bất tăng trưởng nghiệp và Bất định nghiệp có thể chuyển diệt được.
Còn Tam thời quyết định nghiệp và Báo định thời bất định nghiệp thì chỉ có thể
khiến giảm nhẹ, chẳng phải là khiến hoàn toàn diệt tận.
Kinh Kim Cương Bát
Nhã nói rằng : tội nghiệp đời trước lẽ ra phải đọa vào đường ác nhưng do trì
kinh mà bị người coi rẻ, thì tội nghiệp đời trước liền được tiêu diệt và sẽ
được Bồ đề. Chẳng nói rằng hoàn toàn diệt.
Thêm nữa, trong
Kinh Hiền Ngu, Ương Quật Ma La tuy đắc A la hán, nhưng vì hiện nghiệp có quả
(báo) cho nên bị lửa thiêu.
Còn nói : thành Ca
Tỳ La chỉ trừ một đứa con nít, ngoài ra tất cả nam nữ đều là thánh nhân sơ quả,
lẽ ra chẳng đáng bị vua Lưu Ly kia giết hại, thế mà quyết định tạo nghiệp ấy,
ngay Phật cũng chẳng thể bài trừ được, huống hồ là lại phải thụ quả
(báo).
Tại quả vị giải
thoát mà còn nghiệp thì gọi là Bất định, đó là y vào Bất định nghiệp mà nói.
Đây thì chẳng thế. Nếu đắc A la hán thì mọi điều bất thiện đều hết. Vậy còn
nghiệp gì mà thụ quả ?
Tại hai quả vị
đầu, những điều bất thiện chưa hết hẳn, chẳng ngăn được quả báo kia, thế thì
ngại gì mà chẳng thụ ?
Trong Kinh Bát Nhã
chẳng nói là diệt tận, mà chỉ nêu lên cái vi diệu mầu nhiệm của tâm, nghĩa là
nếu chí thành khẩn khiết thụ trì kinh đó thì nhất định chẳng thụ (báo). Nếu
chẳng thế thì Ngũ vô gián tội đều là Quyết định nghiệp, thế thì vua Vị Sinh Oán
làm sao mà sau khi hối lỗi rồi, lại hết thảy chẳng thụ (quả báo) ?
Thập Địa luận nói
: một là Cảm báo định, hai là Tác nghiệp định, ngay đến uy thần của chư Phật
cũng chẳng thể chuyển được.
Nói : tự mình
chẳng phát tâm hối hận hổ thẹn, chẳng nhập thánh đạo, thì đó là nghiệp quả
quyết định. Chẳng phải là đã hối hận hổ thẹn rồi mà vẫn còn gọi là định nghiệp
ư ?
Kinh Pháp Cú nói :
“không có nơi nào dù ở trên không hay ở dưới biển, hoặc vào trong núi đá mà
thoát được nghiệp khỏi bị nạn”.
Căn cứ theo đó,
thì nếu đã tạo tội rồi mà lại chẳng gặp Phật, gặp Bồ tát v.v… để rồi khởi tâm
hối hận hổ thẹn và nhập đạo, thì dứt khoát là bị nghiệp báo.
Do đó mà kinh
Nghiệp Báo Sai Biệt nói rằng : Nếu nghiệp là do tăng thượng tâm khởi tác, thì
không còn biết hổ thẹn, đã khởi tác rồi còn tạo tác nữa, không có tâm hối cải, thế
thì nghiệp ấy là quyết định. Nếu nghiệp chẳng phải là do tăng thượng tâm khởi
tác, thì tuy làm nghiệp ác, trong lòng vẫn luôn luôn hổ thẹn, thế thì nghiệp ấy
bất định. Chỉ cần biết rằng các nghiệp được tổn giảm điều phục mà chẳng phải do
hối cải, cũng chẳng phải do phát lộ, thì khả năng thụ quả được giảm, nghĩa là
sẽ không còn phải thụ quả nữa.
Song kinh nói rằng
: Chỉ Man lúc đến quả vị A la hán mà còn phải thụ nghiệp báo, đó là vì lúc ấy
vị đó vẫn còn trụ ở phàm vị và ở hai quả vị đầu, thân hiện tại bấy giờ nhất
định sẽ đắc A la hán, đó là nói sẽ được danh hiệu đó, chẳng phải là lúc thụ quả
(báo) gọi là A la hán.
Hơn nữa, nếu gặp
duyên lành thì phải tự phát tâm hối hận hổ thẹn, nhập thánh đạo thì tội nghiệp
mới được diệt trừ. Tuy gặp duyên lành, nhưng không có tâm hối hận hổ thẹn, cũng
chẳng phải nhập thánh đạo, thì dù ngay đến chư Phật cũng chẳng thể chuyển
nổi.
Họ Thích ở thành
Ca Tỳ La bị giết là vì tuy đắc sơ quả, nhưng biệt báo nghiệp tại sơ quả vẫn
chẳng được trừ. Hơn nữa, lại chẳng phải là do đã được nghe pháp đại thừa, thâm
tâm thành khẩn hối hận hổ thẹn, cho nên phải thụ nghiệp (báo) trước kia. Nếu
như đã được nghe đại thừa, thâm tâm thành khẩn hối hận thì cũng chẳng bị
giết.
Đắc A la hán thì
dứt khoát chẳng thụ báo. Nếu có bị giết thì cũng chẳng phải là do nghiệp quả.
Chẳng thế thì Chỉ Man giết người chỉ còn thiếu một mạng là đầy một ngàn, cớ sao
lại đắc thánh quả được ? Nếu không hối hận hổ thẹn, không điều phục, đoạn trừ,
tiêu diệt các tội nghiệp thì chúng sinh sẽ không bao giờ được thụ thánh
quả.
Do đó nên biết
rằng, lúc mới thuyết về làm điều thiện thì chủ yếu phải giống như kinh Niết
Bàn, luận Du Già đã dẫn.
*
-Kinh văn : “Nếu
có người trì” tới “gọi tên là Quan Thế
Âm”.
Tán rằng : dưới
làø ý thứ hai : nêu riêng những ai gặp ách nạn, nếu xưng tụng danh hiệu Quan Âm
thì đều được thoát.
Có 7 đoạn chia làm
2 phần :
. 3 đoạn đầu nói
về 3 thứ tai họa : lửa, nước, gió.
. 4 đoạn sau nói
về tạp tai.
Đây là phần
đầu.
“Hỏa tai (lửa
cháy)”, thì dù to hay nhỏ đều gây tổn hại, nhưng nếu niệm danh thì hết thảy
chẳng cháy.
“Thủy tai (lũ
lụt)”, thì nếu nước sâu mới có thể gây tổn hại, cho nên niệm danh sẽ được ở chỗ
nông.
“Phong tai (bão
giông)”, thì nếu gió nhẹ sẽ chẳng tổn hại, gió mạnh mới gây thiệt hại.
“Hắc phong (gió
dữ)”, ắt sẽ gây thiệt hại cho người, bởi vậy cho nên đã nói riêng về việc gặp
loại gió này. Nếu gió chẳng phải là Hắc phong thì nào có tổn hại gì. Trong đoạn
nói về phong (tai) có 4 mục :
1) Đi tìm châu báu
mà gặp phong (tai).
2) Người thiện bảo
niệm danh.
3) Tránh được tai
nạn.
4) Nguyên nhân của
danh hiệu ấy.
* “Thuyền” : nghĩa
như Chu [舟]. Chữ [舫] có hai âm : Phảng và
Phang. Ngọc Thiên giải thích đó cũng là một loại thuyền, ghép hai thuyền lại
thì thành Phảng [舫] (thuyền đôi).
*
-Kinh văn : “Nếu
lại có người” tới “liền được giải
thoát”.
Tán rằng : đây là
bốn tạp tai :
1) Hình phạt chẳng
tổn thương.
2) Phi nhân chẳng
hại được.
3) Bị tù giam tra
tấn đều thoát được.
4) Giặc thù chẳng
hại được.
* “Nữu” [杻] là cùm tay. “Giới” [械] là cùm chân, tức là
gông cùm. Gông bằng gỗ ở cổ gọi là Già [枷]. Xiềng bằng sắt ở cổ,
ở lưng gọi là Tỏa [鎖]. Chữ [獫] Kiểm : có nghĩa là bắt
bớ, tra tấn, xét hỏi. Chữ [狡] Giảo : vốn nghĩa là so
đọ, so sánh. Ở đây có nghĩa là tra xét. Chữ [繫] Hệ : nghĩa là trói
buộc, đây nghĩa là tù ngục giam hãm.
Trí Độ luận nói
rằng : “giống như gió chẳng lọt vào chỗ đặc, như nước chẳng chảy ngược lên chỗ
cao, như hư không chẳng bị tổn hại, không có nghiệp (báo) cũng giống như vậy”. Vô
tội thì làm sao mà tự dưng lại bị tù hãm tai ương ? Đây là căn cứ vào hiện tại
chẳng làm thì gọi là vô tội, chứ chẳng phải là trước kia chẳng làm.
Bài tụng về Hỏa
trạch (nhà lửa) nói rằng :
“Người phỉ báng kinh,
Hoặc mắc tội
khác,
Phản nghịch cướp
bóc,
Ăn trộm ăn
cắp,
Các tội như
vậy,
Ắt bị tai ương ”.
Do trước kia báng
kinh, cho nên biết là có tội.
Trong mục “giặc
thù chẳng hại được” có bốn ý :
1) Trải qua chốn
nguy nan. 3) Vâng mệnh.
2) Khuyên niệm
hồng danh. 4) Giải thoát.
Trong kinh Thủ
Lăng Nghiêm, Phật bảo Kiên Ý : “có một loại cây thuốc gọi là cây diệt trừ. Lúc
đại quân chiến đấu, có vô số người bị trúng tên độc. Bấy giờ lương y mang cây
Dược vương đó để bôi lên mặt trống, rồi đem khua vang lên ở giữa mọi người, thế
là trong cùng một lúc vô số tên độc liền được tự nhổ ra”. Vì chư Phật Bồ tát
trụ ở Thủ Lăng Nghiêm tam muội lực, cho nên nếu có người nào xưng tụng danh
hiệu tưởng niệm tới các ngài, thì vô lượng tội cấu sẽ tự nhiên trừ diệt, ví như
một loại đề hồ có khả năng làm cho khỏi các hoạn nạn”.
*
-Kinh văn : “Vô
Tận Ý” tới “vòi vọi như vậy”.
Tán rằng : đây là
kết luận bảo rõ thần uy.
* “Nguy nguy” [巍巍] : đồ sộ, to lớn, vòi vọi.
*
-Kinh văn : “Nếu
có chúng sinh” tới “thường nên tâm
niệm”.
Tán rằng : đây là
ý nghiệp quy y, dùng Tha tâm thông mà quan sát tâm để cứu vớt. Có hai :
. Đầu tiên quan
sát tâm ý.
. Sau đó kết uy
thần.
Tạm nêu ba độc,
chứ chẳng phải chỉ có chừng ấy, vì hết thảy phiền não, niệm đều diệt cả.
*
-Kinh văn : “Nếu
có nữ nhân” tới “danh hiệu Bồ tát”.
Tán rằng : đây là
thân nghiệp quy y, dùng Thiên nhãn thông mà quán sắc để cứu vớt. Có hai mục :
. Đầu tiên là quan
sát hai thân nghiệp.
. Sau đó là kết
luận về phúc, khuyên hãy tu trì.
Chẳng phải chỉ có
ngần ấy nghiệp, nhưng tạm theo tâm lý chung mà nêu ra.
*
-Kinh văn : “Vô
Tận Ý” tới “phúc đức lợi ích như
thế”.
Tán rằng : đây là
phần thứ ba : so sánh công đức hơn kém của việc trì danh. Có bốn mục :
1. Hỏi. 3. Thành.
2. Đáp. 4. Kết.
Bản luận so sánh
62 ức hằng hà sa Phật. Còn kinh này thì lại nói là 62 ức hằøng hà sa Bồ tát. Về
điểm này có hai cách giải thích :
1) Cách thứ nhất
nói rằng : kinh đúng, luận sai. Bồ tát thì so sánh với Bồ tát, sao lại được đem
Phật mà so với Bồ tát. Chỉ được như trong kinh Thập Luân đem Địa Tạng so với Di
Lặc, Văn Thù, Quan Âm mà thôi, cũng chẳng so với chư Phật. Nếu chẳng thế thì
công đức của Phật hẳn là ít hơn Bồ tát sao ?
2) Cách thứ hai
nói rằng : theo luận cũng không sai. Ngài Quan Âm từ lâu đã thành Phật, nhưng
vì chẳng xả bỏ hạnh Bồ tát cho nên thị hiện thành Bồ tát. Sao mà chẳng so với
Như Lai được ? Chỉ như khi Quan Âm thành Phật, thì công đức, quốc độ cũng thù
thắng như Phật Vô Lượng Thọ. Hết thảy Phật thân há lại có chuyện hơn kém ư
?
Cho nên biết (đó)
chỉ là lời khuyến tín, tuy trong kinh là so với Bồ tát, mà luận giải thích
thành so với chư Phật cũng không hề có lỗi gì, cả hai đều không sai.
Luận giải thích về
thành tựu, có hai thứ :
1. Tín lực.
2. Tất cánh trí
(trí tuệ rốt ráo).
1. Tín lực. Có hai
:
1/- Cầu cho thân
ta có được Tất cánh tín như Quan Âm, có nghĩa là cầu cho 62 ức hằng hà sa Phật
thân của ta được như Quan Âm, tín tâm không khác. Thánh số sở cầu tuy nhiều ít khác
nhau, nhưng công đức không khác vì nguyên nhân là cái tâm bình đẳng.
2) Sinh tâm cung
kính. Cầu sao ta rốt ráo cũng sẽ được công đức như vị đó. Có nghĩa là cầu sao
có được trí tuệ công đức như bản thân Quan Âm kia thành Phật đã lâu. Ta 62 ức
hằng hà sa Phật (thân) cũng rốt ráo sẽ được công đức như chư Phật này, vì tin
tưởng công đức của Phật Bồ tát chẳng khác gì nhau.
Hai thứ này là tín
lực. Thoạt đầu chẳng quán cảnh nhiều ít hơn kém, chỉ có tín tâm bình đẳng như
nhau. Sau đó quán cảnh nhiều ít tuy có khác nhau, nhưng công đức không hề khác
nhau, tín tâm cung kính cũng không có hai. Cho nên phúc không khác nhau.
2. Tất cánh trí
.
Có nghĩa là quyết
định biết rõ pháp giới. Đây là do Quan Âm đã đắc Tất cánh trí pháp giới, cho
nên không khác gì Phật, có thể chứng được pháp giới bình đẳng vô nhị, cho nên thành
phúc bình đẳng (với Phật).
Pháp giới tức là
pháp tính. Bồ tát nhập sơ địa có thể chứng được “thân bình đẳng” giống như tất
cả Phật Bồ tát, huống chi là hàng Thập địa mãn túc..
“Thân bình đẳng”
nghĩa là pháp thân chân như. Bởi vậy, thụ trì danh hiệu Quan Thế Âm, công đức
sẽ không khác gì công đức của việc thụ trì danh hiệu 62 ức hằng hà sa Phật. Chẳng
thế thì Bồ tát há lại hơn Phật ư ?
Tạm đem bấy
nhiêu để tán thán, rồi khuyến khích phát tâm. Kinh Thập Luân, quyển nhất nói :
“Giả sử đối với hằng hà sa số các vị đại Bồ tát thuộc bậc thượng thủ như các ngài
Di Lặc, Diệu Cát Tường, Quán Tự Tại, Phổ Hiền v.v…, trong cả trăm kiếp chí tâm
quy y xưng danh, niệm tụng, lễ bái cúng dàng, cầu các điều sở nguyện ; thì cũng
chẳng bằng có người chỉ trong khoảnh khắc một niệm chí tâm quy y, xưng danh
niệm tụng lễ bái cúng dàng Địa Tạng Bồ tát, cầu các điều sở nguyện chóng được
thỏa mãn”.
Hơn nữa, đối
với những người có duyên trong chúng sinh đời mạt như vầy, có những điều họ nên
nghe, bởi vậy nên mới tán thán riêng (ngài Quan Thế Âm). Chẳng thế thì hóa ra
Bồ tát còn hơn cả Phật và các Bồ tát ngôi vị ngang nhau mà lại có sự hơn kém
sao ?
*
-Kinh văn : “Vô
Tận Ý” tới “sự ấy thế nào”.
Tán rằng : dưới
làø đoạn lớn thứ hai : Hỏi đáp về hóa hạnh. Có bốn mục :
1) Hỏi. 3) Hiến
dâng.
2) Đáp. 4) Kết
luận : bảo rõ.
Đây là mục
đầu.
“Du” : nghĩa là
hóa lợi, tức là thần thông.
“Thuyết pháp cho
chúng sinh” : là giáo hóa lợi tha.
“Lực phương tiện”
: là chỉ hai loại trên, tức là khéo léo vận dụng trí tuệ, ứng với tâm của
chúng sinh để mà cứu vớt.
*
-Kinh văn : “Phật
bảo” tới “mà thuyết pháp cho”.
Tán rằng : dưới
làø mục hai : Đáp. Có ba phần :
• Phần đầu : thân
hóa thuyết pháp.
• Phần hai : kết
luận về phần trước, khuyến khích bảo ban.
• Phần cuối : có
thể cứu được hoạn nạn nguy cấp.
Đây là phần đầu.
Tổng cộng có 19
loại, phần làm 8 hạng :
1) Ứng thánh thân,
có 3 loại.
2) Ứng thiên thân,
có 6 loại.
3) Ứng quân thần
(vua tôi), có 5 loại.
Tâm bình tính
thẳng, nói năng thật thà, hành động đôn hậu, sống lâu, nhiều của, đó gọi là
“Trưởng giả”. Giữ đạo điềm đạm, ít dục, tích đức thì gọi là “Cư sĩ”.
Ở ngôi trị người,
gọi là “Quan tể”.
4) Ứng tứ chúng,
có 1 loại.
5) Ứng phụ nữ
thân, có 1 loại.
6) Ứng đồng nam
đồng nữ, có 1 loại.
7) Ứng bát bộ, có
1 loại.
8) Ứng Chấp kim cương
thần, có 1 loại,
Tay cầm chày kim
cương, là một loại hình tượng khác của Quan Âm.
*
-Kinh văn : “Vô
Tận Ý” tới “Thí Vô Úy”.
Tán rằng : đây có
hai :
1) Kết luận về
phần trước, rồi khuyến khích bảo ban.
2) Có thể cứu giúp
hoạn nạn nguy cấp.
Đàn độ (tức bố
thí), có ba loại :
a) Tài thí.
b) Vô úy thí.
c) Pháp thí.
Thuyết pháp là
Pháp thí. Cứu giúp lúc hoạn nạn tức là Vô úy thí. Khiến được châu báu v.v…, đó
là Tài thí.
*
-Kinh văn : “Vô
Tận Ý” tới “tháp Phật Đa Bảo”.
Tán rằng : đây là
mục thứ ba : Hiến dâng.
Có 7 ý :
1) Bạch Phật.
2) Hiến dâng.
3) Quan Âm chẳng
nhận.
4) Bẩm bạch, thỉnh
nhận.
5) Phật bảo phải
nhận.
6) Quán Âm nhận
lấy.
7) Chuyển thí cúng
dàng.
Vì phúc điền khó
gặp, vì thí thuận đạo lý, vì là chân chính hạnh để cầu Bồ đề, cho nên gọi là
“Pháp thí”.
Quan Âm chẳng thụ
vì có ba lẽ :
a) Thiểu dục.
b) Pháp nhĩ (phép
phải như thế).
c) Chuyển thí.
Sợ trái với tâm
ấy, bởi vậy chẳng thụ. Kệ trong Đại Trang Nghiêm luận nói rằng :
“Nếu xòe tay bố thí,
Tay ấy gọi nghiêm
thắng.
Người nhận rụt tay
lại,
Nghiêm thắng còn
hơn thế.
Nếu nói tôi thí
cho,
Lời ấy giá khôn
lường.
Người nhận nói tôi
đủ,
Còn khó lường hơn
thế”.
Trng kinh Thiên
Thỉnh Vấn, đức Phật cũng nói rằng : Người bố thí gọi là người được lợi. Người
nhận bố thí gọi là người mất lợi. Cho nên Bồ tát chẳng chịu nhận, nhưng vì
thương tứ chúng mà phải nhận : một là để khiến họ tùy hỉ, hai là để khiến họ
học hành trừ khỏi khổ não. Cho nên nói là “thương xót họ”.
*
-Kinh văn : “Vô
Tận Ý” tới “thế giới Sa bà”.
Tán rằng : đây là
mục thứ tư : kết luận bảo rõ.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ” tới “gọi là Quan Thế Âm”
Tán rằng : dưới
làø trùng tụng về hai nghĩa Danh Hạnh nói trên. Chia làm hai phần :
- 1 tụng đầu : Hỏi
- 25 tụng sau :
Đáp.
Đây là phần đầu :
chỉ hỏi về nguyên nhân đặt tên, nhưng đáp cả về hóa hạnh.
*
-Kinh văn : “Đấng
đầy đủ tướng tốt” tới “diệt được các cõi
khổ”.
Tán rằng : dưới
làø 25 tụng, tụng về Phật bảo.
Trong chia làm 4
phần :
1. Phần đầu gồm 3
tụng : nêu chung hứa thuyết.
2. Phần hai gồm 12
tụng : chính thức giải đáp về nguyên nhân đặt tên.
3. Phần ba gồm 3
tụng : giải đáp về hóa hạnh.
4. Phần cuốí gồm 7
tụng : tán thán công đức, khuyên hãy quy y.
Phần đầu này chia
làm ba :
- 1 tụng đầu,
thuật lại lời Phật đáp, ứng với các phương sở mà thuyết về cả hai thứ Danh và
Hạnh.
- 1 tụng kế, bàn
về nhân hành trước kia, phát nguyện gặp duyên, nhiều kiếp tu hành hạnh bất tư
nghị.
- 1 tụng cuối, hứa
sẽ trình bày cho về Danh Hạnh. Những thứ đã từng kinh qua tai mắt, tâm niệm
không sai, nhất định có thể diệt được khổ.
*
-Kinh văn : “Giả
sử có ý hại” tới “tức thời bị tiêu
tan”.
Tán rằng : đây là
12 tụng : chính thức giải đáp về nguyên nhân đặt tên, chia làm 9 phần :
1) Một tụng về trừ
hỏa tai.
2) Một tụng trừ
thủy tai.
3) Hai tụng : trừ
nạn núi.
4) Hai tụng : trừ
nạn dao.
5) Một tụng : trừ
nạn bị bắt bớ giam cầm.
6) Một tụng : trừ
nạn chửi rủa.
* Chữ Chú [咒] nghĩa như chữ Chúc [囑], có nghĩa là nhủ bảo, dùng
lời thiện hay ác mà nhủ bảo lẫn nhau thì gọi là Chú [咒].
Chữ Trớ [詛], có nghĩa như chữ [阻] : Trở, trong từ trở
ngại : khiến người ta hành sự bị trở ngại, bị hạn chế bởi lời nói. Có bản viết
là [咀] Tứ, chữ này có nghĩa như chữ Tước [嚼] nghĩa là nhai. Chẳng phải là nghĩa ở đây.
Như thầy thuốc
giỏi thoạt đầu phải làm cho bệnh phát ra, rồi sau đó chữa cho khỏi bệnh. Cho
nên thoạt đầu phải tác động vào bản thân người đó rồi sau mới khiến người đó
phát ra ý tốt.
7) Một tụng : trừ
nạn phi nhân.
8) Hai tụng : trừ
nạn ác thú.
9) Một tụng : trừ
nạn thiên tai : Mây nổi sấm.
“Sấm động” : Tây
vực gọi là “tiếng mây xòe chớp”. Phương này giải thích là âm dương khích động
nhau mà loè sáng.
* Thích Danh giải
thích chữ Xiết [掣] có nghĩa là dẫn. “Điện” nghĩa như chữ
Điển [殄], ý nói vừa mới loé ra đã biến mất ngay. Người Quan Trung
gọi là Tiễn Điện [ 電]. Người Ngô gọi là Sấm
Đạn [ ]. Chữ trên (chỉ chữ [ ])đọc là
Tiễn. Chữ dưới (chỉ chữ [ ]) đọc là Điện. Chữ Bão [雹] (mưa đá) : Trịnh Huyền giải thích Lễ Ký nói rằng : khí Dương làm
mưa, khí Âm uy hiếp nó, ngưng kết lại mà thành mưa đá [雹].
*
-Kinh văn : “Chúng
sinh bị khốn ách” tới “khiến dần dần diệt
hết".
Tán rằng : đây là
giải đáp về hóa hạnh.
- 1 tụng nêu chung
về việc trừ khổ.
- 1 tụng về khả
năng thị hiện thành các thân.
- 1 tụng nêu riêng
về việc trừ khổ.
*
-Kinh văn : “Chân
quán thanh tịnh quán” tới “vậy nên cần đảnh
lễ”.
Tán rằng : đây là
7 tụng cuối : tán thán công đức, khuyên hãy quy mệnh.
Trong chia làm 6
phần :
1) Một tụng nêu
ngũ quán, khuyên hãy phát nguyện thường xuyên chiêm ngưỡng.
* Có bản viết chữ
Thường [常] lầm thành chữ Đương [當] thế là sai. Vì hiện “thường” nguyện điều đó, chứ chẳng phải là
“đương” bắt đầu nguyện.
2) Một tụng nói rõ
Đại trí diệt được tai nạn.
3) Một tụng nói rõ
pháp thí có thể trừ được phiền não.
“Đại bi chế giới”
: tựa như sấm vang, có nghĩa là cái biến động có tác dụng cảnh cáo.
* Phương ngôn gọi
là Giới bị (phòng bị). Chữ Giới [戒] cổ văn viết là [誡] Giới (răn bảo).
“Từ ý” : che khắp
giống như đám mây lớn mầu nhiệm. Có bản chép là “Từ âm”, đó là chép sai, vì
tiếng Phạm là Mai Đát Lị Mạt Na.
4) Một tụng về Vô
úy thí, có thể trừ được bố úy,
5) Một tụng nói rõ
Tài thí, có thể trừ được nghèo khổ.
Giống như thủy
triều ở biển nhất định có thể diệt được các nỗi khổ đúng lúc cần thiết, do
thường quán khởi niệm. Đây có năm Âm : Diệu Âm cho vui, Quan Âm cứu khổ, Phạm
Âm thâm tịnh, Triều Âm đúng lúc, Thắng Âm xuất thế.
6) Hai tụng cuối :
khuyến niệm, khuyến lễ vì lễ có thể diệt khổ ách.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ
Trì Địa” tới “công đức chẳng ít”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ ba trong phẩm nói về Trì Địa tán thán.
Ở đây luận
nêu 2 môn :
1. Mười pháp Trì
Địa tam muội.
2. Mười loại Tự
tại.
1. Mười pháp Trì
Địa tam muội.
Theo Kinh Bảo Vân,
Bồ tát có 10 pháp gọi là Trì địa tam muội :
1) Như đất kia
rộng lớn vô lượng vô biên. Bồ tát cũng thế, công đức trí tuệ trang nghiêm,
nguyện hạnh vô lượng vô biên.
2) Như đất kia là
nơi chúng sinh nương tựa vào, ai nấy tùy theo ý muốn đều được cứu giúp, chu
cấp, đều được vừa ý, không trở ngại gì. Bồ tát cũng thế, thực hành Lục độ mọi
thứ đều cho chúng sinh, tâm không ngần ngại.
3) Như đất kia
không hề có chuyện yêu ghét, (chúng sinh) trút đổ bất cứ thứ gì lên đất để báo
đáp lại, đất cũng chẳng mừng chẳng giận. Bồ tát cũng thế, dưỡng dục chúng sinh
chẳng mong báo đáp.
4) Như đất, trời
đổ mây mưa, thì đất đều tiếp thu cả, đều duy trì được. Bồ tát cũng thế, hết
thảy chư Phật nổi mây đại bi, đổ mưa pháp vũ, thì Bồ tát có thể tiếp thu duy
trì được tất cả đúng như lời Phật thuyết.
5) Như đất kia là
nơi mà hết thảy cỏ cây rừng rú cùng chúng sinh đi đứng nằm ngồi thảy đều nương
tựa vào đó. Bồ tát cũng thế, hết thảy xu hướng tu hành hướng thiện của chúng
sinh, nhị thừa học pháp, Niết bàn đều nhân Bồ tát mà có.
6) Như đất kia,
mọi chủng tử phải dựa vào đó mà sinh trưởng. Bồ tát cũng thế, hết thảy chủng tử
thiện nghiệp của trời người đều dựa vào Bồ tát mà được sinh trưởng.
7) Như đất có thể
sản xuất ra mọi thứ báu. Bồ tát cũng thế, công đức thiện bảo, hết thảy mọi thứ
lạc cụ của chúng sinh đều do Bồ tát mà ra.
8) Như đất sản
xuất ra các thứ thuốc thần diệu có thể chữa khỏi các bệnh. Bồ tát cũng thế, có
thể sản xuất ra mọi thứ pháp dược có thể trừ được hết thảy mọi bệnh phiền não.
9) Như đất kia,
gió chẳng lay động được, ruồi bọ, ong, bọ cạp chẳng thể làm tổn hại được. Bồ
tát cũng thế, hết thảy mọi duyên nội ngoại bức não chẳng thể quấy rối nhiễu
loạn được.
10) Như đất kia,
sư tử gầm rống, long tượng sấm sét, chẳng thể làm cho kinh sợ được. Bồ
tát cũng thế, hết thảy 95 loại ngoại đạo đều chẳng động đến được.
Đủ mười sự ấy, thì
Bồ tát được gọi là Trì Địa tam muội, vì đắc Trì Địa tam muội cho nên gọi là Trì
Địa, hoặc là tu trì Thập địa thì gọi là Trì Địa .
2. Mười loại Tự
tại.
Nói về Tự tại, thì
Nhiếp luận và kinh Hoa Nghiêm đều thuyết có 10 loại. Kinh Hoa Nghiêm nói :
1) Thọ tự tại, vì
vô biên kiếp trụ.
2) Tâm tự tại, vì
xuất vô số định, nhập thâm trí.
3) Trang nghiêm tự
tại, vì có thể trang nghiêm được mọi cõi đất. Nhiếp luận gọi là “Chúng cụ tự
tại”.
4) Nghiệp tự tại,
vì tùy thời mà thụ báo.
5) Sinh tự tại, vì
thị hiện sinh ra ở mọi cõi.
6) Giải thoát tự
tại, vì thấy chư Phật đầy khắp mọi cõi. Nhiếp luận gọi là “Thắng giải tự tại”.
7) Dục tự tại, vì
thành Bồ đề vào bất cứ lúc nào, bất cứ cõi nào.
8) Thần lực tự
tại, vì thị hiện mọi thứ thần biến.
9) Pháp tự tại, vì
thị hiện vô lượng vô biên pháp môn.
10) Trí tự tại, vì
trong mỗi niệm đều thị hiện giác ngộ Như Lai thập lực, vô sở úy.
Song sự giải thích
có hơi khác với Nhiếp luận. Còn hành Lục độ cũng được giải rộng như Nhiếp luận.
Ở đây tức là “Thần
lực tự tại” vì phổ thị chư môn.
*
-Kinh văn : “Phật
thuyết.. đó” tới “Tam Bồ đề tâm”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ tư : Kết luận, thành tựu ích lợi đương thời.
***
PHẨM ĐÀ LA NI
Ba môn phân
biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Luận nói rằng :
phẩm này mục đích thuyết minh cái lực để cứu hộ cho chúng sinh khỏi các hoạn
nạn, như trên đã giải thích.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
Tiếng Phạm : Đà la
ni, ở đây (tức Trung Quốc) gọi là Tổng trì. Niệm tuệ là Thể, dùng thần lực của
một số ít văn tự vô nghĩa bí mật để gia trì, uy linh không gì sánh nổi, phá tà
diệt ác, dựng chính nêu thiện, cho nên gọi là Đà la ni. Phẩm này thuyết minh về
điều đó, cho nên gọi là phẩm Đà La Ni.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
-Hỏi : Tổng trì có
bốn loại : để đạt được Pháp, Nghĩa, Biện tài, Từ vô ngại giải, theo đó mà
thuyết về bốn loại. Còn ở đây thì thuyết về cái gì ?
Đáp : trên kia
trường hàng đã thuyết về Pháp, Nghĩa trì. Nay ở đây thuyết về Chú trì. Để giúp
hai thứ trước, bởi vậy mới thuyết minh về vấn đề này.
Vô đắc, Vô sinh
nhẫn : đó là Tổng trì.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Dược Vương” tới “công đức rất
nhiều”.
Tán rằng : toàn
phẩm chia làm 3 đoạn :
1. Đoạn đầu thuyết
minh về phúc của việc trì kinh.
2. Đoạn hai thuyết
minh về phương thần chú.
3. Đoạn cuối
thuyết minh về đại chúng đương thời được lợi ích.
Đoạn đầu này có 2
phần :
- Đầu tiên là hỏi.
- Sau đó là đáp.
Trong đáp có 3 mục
:
1) Hỏi lại. 2) Đáp
thẳng. 3) Phật thuyết.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Dược Vương” tới “có nhiều điều ích
lợi”.
Tán rằng :
dưới làø thuyết minh về phương thần chú. Có năm, hợp lại thành ba loại :
• Loại đầu là 2
thánh.
• Loại sau là 2
thiên.
• Loại cuối là 10
thần.
Đây là thánh đầu.
Có 4 mục :
1) Nêu.
2) Thuyết.
3) Kết thắng (kết
luận về sự thắng diệu).
4) Phật tán thán.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Dũng Thí” tới “chư Phật đó rồi”.
Tán rằng : đây là
thánh thứ hai. Có 4 mục :
1) Nêu. 3) Chính
thuyết.
2) Công năng. 4)
Kết thắng.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Tỳ Sa Môn” tới “không có suy giảm hoạn
nạn”.
Tán rằng : dưới
làø 2 thiên. Đây là vị thiên đầu, có 3 mục :
1) Nêu. 2) Thuyết.
3) Kết thắng.
“Tỳ Sa Môn” : đây
dịch là Đa văn, là vị thiên (vương) ở phương Bắc trong Tứ thiên vương, thường
tán trợ Phật pháp.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Trì Quốc” tới “chư Phật đó rồi”.
Tán rằng : đây là
vị thiên vương thứ hai. Có 3 mục :
1) Nêu. 2) Thuyết.
3) Kết thắng.
Đây tức là Đông
diện thiên vương.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ có La Sát nữ ” tới “Pháp sư như
vậy”.
Tán rằng : đây
là 10 thần. Có 7 phần :
1) Nêu danh.
2) Thỉnh thuyết.
3) Chính thuyết.
4) Khuyên chớ não
hại pháp sư.
5) Lại thuyết thêm
kệ để ví dụ về tội.
6) Xin đích thân
hộ trì.
7) Phật tán
dương.
Phần Phật tán
dương có ba :
1/- Đầu
tiên là tán dương chung.
2/- Sau đó
là tán dương riêng.
3/- Cuối
cùng là khuyên ủng hộ Pháp sư.
*
-Kinh văn : “Lúc
thuyết phẩm Đà la ni này” tới “Vô sinh pháp
nhẫn”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ ba trong phẩm nói về đại chúng đương thời được lợi ích.
***
PHẨM DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BẢN SỰ
Ba môn phân
biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG
Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có hai ý :
1. Luận nói rằng :
thắng lực công đức là do phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương thị hiện. Phẩm này thuyết
minh về việc Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn trì kinh Pháp Hoa, đã ngộ đạo, dựa vào thắng
lực công đức mà khiến vua cha vốn có tà kiến được hồi tâm, được thụ ký tương
lai sẽ thành Phật. Đó đều là do lực công đức của Pháp Hoa. Nói về bản duyên của
vị đó để làm lợi ích cho pháp hội lúc bấy giờ. Cho nên mới có phẩm này.
2. Phẩm Diệu Âm
trước kia thuyết minh về việc Hoa Đức Bồ tát xin hỏi về tam muội mà Diệu Âm
chứng được, nhờ vậy mà tự mình chứng được Pháp Hoa tam muội. Diệu Trang Nghiêm Vương
ở đây chính là Hoa Đức. Trước khi đắc tam muội thì Diệu Trang Nghiêm Vương vốn
chấp trước tà kiến. Nay thuyết minh về chuyện hai con khuyên giải thuyết phục
vua cha. Làm thiện tri thức thì chẳng chọn kẻ oán người thân mà chỉ bảo cho mọi
người biết, khiến họ hoằng dương kinh này. Cho nên mới có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH
TÊN PHẨM.
Khi còn làm vua
chúa quyền quý tại thế tục thì dùng châu báu lụa là để mà trang sức, nhưng khi
đã bỏ tà kiến nhập chính đạo thì dùng Pháp bảo thắng diệu để khiến bản tâm được
trong sáng như ngọc, cho nên gọi là Diệu Trang Nghiêm Vương. Là nhân duyên đời
trước, cho nên gọi là Bản sự.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
-Hỏi : phẩm này
chủ yếu thuyết minh về Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn là thiện tri thức. Cớ sao chẳng
lấy đó mà đặt tên phẩm ?
Đáp : nhờ công đức
thắng diệu mà bản thân Diệu Trang Nghiêm Vương bỏ tà nhập chính, chứ chẳng phải
là hai con ông ta. Hai con ông tuy là thiện hữu, nhưng cha nhờ công đức mà bản thân
nhập chính.
Thêm nữa, Hoa Đức
trước kia tức là Diệu Trang Nghiêm Vương, muốn hợp nhất thân ấy cho nên lấy đó
làm (tên) phẩm. Lại nữa, Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn tức Dược Vương và Dược Thượng,
trước đã thuyết minh về Dược Vương, sợ tên đầu đề bị phiếm lạm, cho nên chẳng
dùng mà đặt tên phẩm.
*
- Kinh văn : “Bấy
giờ Phật bảo” tới “tên kiếp là Hỉ
Kiến”.
Tán - rằng : toàn phẩm văn
chia làm 4 đoạn :
1. Kể về bản
duyên.
2. Hội kim cổ.
3. Khuyên mọi
người quy lễ.
4. Kết thành lợi
ích của đại chúng.
Đoạn đầu lại chia
làm 4 phần :
1) Kể về thời.
2) Nêu Phật.
3) Thuyết minh về
cha con Bồ tát.
4) Thuyết minh
rộng về nguyên do.
Đây là hai phần
đầu.
*
-Kinh văn : “Trong
pháp Phật đó” tới “thứ hai tên là Tịnh
Nhãn”.
Tán rằng : đây là
phần ba : thuyết minh về cha con Bồ tát.
*
-Kinh văn : “Hai
người con này” tới “cũng đều thông
đạt”.
Tán rằng : dưới
làø phần thứ tư : thuyết minh rộng về nguyên do, chia làm 4 phần :
1. Tán thán đức
của hai con.
2. Thuyết minh về
Phật đương thời thuyết pháp.
3. Đoạn từ “Bấy
giờ Tịnh Tạng Tịnh Nhãn” trở xuống : nói về việc hai con cảm hóa cha.
4. Đoạn từ “Vua ấy
tức thì đem nước giao phó cho em trai” trở xuống : nói về việc (Diệu Trang
Nghiêm) xuất gia được lợi ích.
Đây là phần đầu.
Có 3 mục :
A. Mục đầu : nêu
thành phúc trí.
B. Mục hai : liệt
kê riêng 4 đức.
C. Mục cuối : liệt
kê 7 định.
B. Bốn đức :
1) Lục độ.
2) Phương tiện
thiện xảo, có 12 thứ :
(1) Bi tâm cố
luyến.
(2) Liễu tri chư
hành.
(3) Thường ở chốn
sinh tử.
(4) Vui được diệu
trí Phật.
(5) Luân hồi chẳng
nhiễm.
(6) Hăng hái tinh
tiến.
Sáu thứ này là
nội.
(7) Khiến chỉ dùng
ít thiện mà cảm được vô lượng quả.
(8) Chỉ dùng lực
nhỏ mà thu được thiện căn lớn.
(9) Kẻ ghét thánh
giáo thì khiến họ trừ được sân não.
(10) Kẻ dừng giữa
chừng, thì khiến họ thú nhập.
(11) Kẻ đã thú
nhập rồi, thì khiến họ thành thục.
(12) Kẻ đã thành
thục rồi thì khiến họ được giải thoát.
Sáu thứ này là
ngoại.
3) Tứ vô lượng.
4) Ba mươi bảy
phẩm trợ đạo.
C. Bảy định
:
Đây là “Các tam
muội” :
1. “Tịnh (tam
muội)” : là vì đã đoạn chướng chứng chân.
2. “Nhật tinh tú”
: là vì như mặt trời đại phá, như vô vàn tinh tú phá được các ám.
3. “Tịnh quang” :
là vì phóng đại quang.
4. “Tịnh sắc” : là
vì hiện các diệu sắc.
5. “Tịnh chiếu
minh” : là vì soi tỏ Phật pháp.
6. “Trường trang
nghiêm” : là vì chứng được công đức không hề suy giảm.
7. “Đại uy đức” :
là vì khởi thần thông.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật đó” tới “kinh Pháp Hoa này”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ hai : thuyết minh về Phật đương thời thuyết pháp.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn” tới “cần phải nghe và vâng theo”.
Tán rằng : đây là
phần thứ ba : hai con cảm hóa cha. Có 5 phần nhỏ :
1. (Con) thưa với
mẹ xin tới chỗ Phật.
2. Mẹ sai con cảm
hóa cha.
3. Vâng lời dạy,
tiến hành cảm hóa.
4. Đoạn từ “Bấy
giờ tám vạn bốn ngàn người trong hậu cung của Diệu Trang Nghiêm Vương” trở
xuống : tín tâm theo Phật.
5. Đoạn từ “Bấy
giờ Phật đó thuyết pháp cho vua” trở xuống : Phật đáp ứng, dẫn đạo làm lợi
lạc.
Đây là phần đầu.
Có 2 mục : đầu là nêu ra, sau là giải thích.
* Chữ [爪] (móng vuốt) âm đọc là Trảo. Lại có bản viết là [抓] (Trảo : cào, cấu, ngắt bằng móng vuốt. Sách Ngọc Thiên giải
thích [抓] Trảo là cấu, ngắt, cào (bằng móng vuốt).
Dùng móng vuốt mà
cào cấu vật thì gọi là [抓] Trảo, tuy âm đọc giống chữ [爪] Trảo, nhưng ở đây chẳng phải là chỉ móng vuốt.
*
-Kinh văn : “Mẹ
bảo con rằng” tới “cùng nhau cùng đi”
Tán rằng : đây là
phần thứ hai của 5 phần : mẹ sai con cảm hóa cha.
*
-Kinh văn : “Tịnh
Tạng, Tịnh Nhãn” tới “nhà tà kiến
này”.
Tán rằng : đây là
phần thứ ba của 5 phần : vâng lời dạy tiến hành cảm hóa. Có 9 mục :
1) Hai con sinh
hận.
2) Mẹ khiến nghĩ
tới cha.
3) Thuận theo lời,
liền hóa độ.
4) Cha thấy, mừng
hỏi.
5) Hai con giải
đáp cặn kẽ.
6) Cha nói muốn
đi.
7) Bẩm với mẹ, xin
xuất gia.
8) Mẹ bèn cho
phép.
9) Bạch với cha
mẹ, xin tới chỗ Phật.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Mẹ
bảo con rằng” tới “đi đến chỗ Phật”.
Tán rằng : đây là
mục thứ hai : mẹ khiến nghĩ tới cha.
*
-Kinh văn : “Thế
là hai con” tới “tâm tịnh tín giải”.
Tán - rằng : đây là mục thứ
ba : thuận theo lời (mẹ) tiến hành hóa độ (cho cha). Đầu tiên nêu ra, sau đó
giải thích, cuối cùng kết luận.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ cha thấy con” tới “chúng con là
đệ tử”.
Tán rằng : đây là
mục thứ tư “cha thấy mừng hỏi” và mục thứ năm “hai con giải đáp cặn kẽ”.
*
-Kinh văn : “Cha
bảo con rằng” tới “xin cho con xuất
gia”.
Tán rằng : đây là
mục thứ sáu “cha nói muốn đi” và mục thứ bảy “báo với mẹ, xin xuất gia”.
Mục “báo với mẹ,
xin xuất gia” có hai phần :
- Phần đầu : báo
rằng cha đã tin hiểu, phát tâm.
- Phần sau : xin
mẹ cho xuất gia.
“Xuất gia” : khoan
khoáng dụ như hư không. Như khế kinh nói : “chim Công tuy có màu sắc để trang
điểm cho thân mình, nhưng chẳng bằng chim Hồng, chim Hạc có thể bay xa. Người
bạch y (tức người tại gia) tuy có thế lực giàu sang, nhưng chẳng bằng người
xuất gia có công đức thắng diệu”.
Thập Luân kinh nói
: “hoa Chiêm bác ca tuy héo nhưng vẫn còn hơn các hoa khác lúc đang tươi. Các
Bật sô phá giới ác hạnh vẫn còn hơn hẳn các ngoại đạo tinh tiến”.
Do đó mà hai con
xin mẹ xuất gia.
*
-Kinh văn : “Mẹ
liền bảo rằng” tới “thời cơ cũng khó
gặp”.
Tán rằng : đây là
mục thứ tám “mẹ hiền cho phép” và mục thứ chín “bạch với cha mẹ, xin tới chỗ
Phật”. Mục thứ chín có 3 phần :
- Đầu tiên nêu lên
lời xin.
- Sau đó giải
thích lời xin.
- Cuối cùng là kết
luận về lời xin.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ tám vạn bốn ngàn người trong hậu cung của Diệu Trang Nghiêm
Vương” tới “ưa thích Phật
pháp”.
-Tán rằng : trong
5 phần nói về hai con cảm hóa cha, thì đây là phần thứ tư nói về tín tâm qui
Phật. Có 3 mục :
- Mục đầu : thuyết
minh về đạo khí kham thành.
- Mục hai : hai
con khéo cảm hóa.
- Mục cuối : mọi
người tới chỗ Phật.
Đây là hai mục
đầu.
Trong mục đạo khí
kham thành có bốn loại :
1) Hậu cung. 3)
Tịnh Tạng.
2) Tịnh Nhãn. 4)
Phu nhân.
*
-Kinh văn : “Thế
là Diệu Trang Nghiêm Vương” tới “lùi ra
đứng ở một phía”.
Tán rằng : đây là
mọi người tới chỗ Phật.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật đó” tới “phóng đại quang
minh”.
Tán rằng : trong 5
phần nói về hai con cảm hóa cha, đây là phần thứ năm nói về Phật đáp ứng, dẫn
đạo làm lợi lạc. Có 4 ý :
1) Phật khéo
thuyết pháp.
2) Vua cởi hạt
châu đem bố thí.
3) Vua nghĩ tới
sắc thân Phật.
4) Phật hỏi, ký
thành.
Đây là hai ý đầu.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Diệu Trang Nghiêm” tới “công đức như vậy”.
Tán rằng : đây là
ý thứ ba : “vua nghĩ tới sắc thân Phật” và ý thứ tư “Phật hỏi, ký thành”.
Trong mục “Phật
hỏi, ký thành” thì đầu là hỏi, sau là ký. Trong ký có sáu :
1) Nhân. 4) Kiếp.
2) Thể. 5) Chúng.
3) Nước. 6) Cõi
đất.
*
-Kinh văn : “Vua
ấy lập tức” tới “Trang nghiêm tam
muội”.
Tán rằng : trong 4
phần của đoạn đầu, thì đây là phần thứ tư thuyết minh rộng về nguyên do, phần
này nói về xuất gia sẽ được lợi ích. Có 6 ý :
1) Xuất gia.
2) Tu hành đắc
định.
3) Lên trên không
bạch Phật.
4) Tán thán ấn
chứng, rồi trần thuyết rộng.
5) Từ trên không
xuống, tán thán, phát nguyện.
6) Nói rồi thì lui
ra.
Đây là hai ý đầu.
*
-Kinh văn : “Liền
lên hư không” tới “tới sinh ở nhà
ta”.
Tán rằng : đây là
ý thứ ba : lên trên không bạch Phật. Có ba mục :
1) Đầu là lên trên
không.
2) Sau đó là chính
thức tác bạch.
3) Mục cuối : kết
bằng tán thán.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật Vân Lôi Âm” tới “được gặp thiện
tri thức”.
Tán rằng : đây là
ý thứ tư : tán thán ấn chứng, trần thuyết rộng ra. Có 3 mục :
1) Mục đầu : nói
rõ nhờ nhân xưa mới gặp được thiện hữu.
2) Mục sau : giải
thích ý nghĩa của lợi ích do thiện hữu.
3) Mục cuối : nêu
bật cái nhân khiến vua phát tâm Bồ đề, đó là hai người con làm thiện hữu.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Thiện
tri thức ấy” tới “Tam bồ đề tâm”.
Tán rằng : đây là
giải thích ý nghĩa của lợi ích do thiện hữu. Có 2 phần :
1) Phần đầu nêu rõ
lợi hỷ của việc chỉ giáo khiến chứng quả đại Bồ đề.
2) Phần sau nêu rõ
cái nhân khiến được thấy Phật, phát tâm Bồ đề.
Kinh Thiện Giới và
Bồ Tát Địa luận nói : “Nếu thân cận thiện hữu thì giới không bị khuyết phá. Đa
văn, tu chứng, ai mẫn, vô úy, kham nhẫn, không mỏi, ngôn từ biện liễu, đó gọi
là tướng thiện hữu. Cầu thí lợi lạc, hiểu biết đúng đắn về điều này, có lực,
khéo quyền nghi, làm lợi ích không ngừng, đại bi không thiên lệch, đó gọi là
thiện hữu. Làm gì cũng chẳng dối, uy nghi viên mãn, ngôn hành đôn hậu nghiêm
túc không hề mỏi mệt, không hề ghen ghét, tiết kiệm xúc tích cần thì thí xả,
can gián nêu lỗi, khiến phải nhớ lại, truyền thụ, răn bảo, năng thuyết pháp
cho, đó gọi là thiện hữu.
Đáng làm chỗ tin
cậy, dù có bệnh hay không có bệnh đều kính yêu cúng dàng hầu hạ. Thăm hỏi, rước
lễ, tu nghiệp hòa kính, đồ vật bốn sự lúc cần đến đều chẳng thiếu, kính cẩn
phụng sự, hỏi nghe không động, đó gọi là thân cận”.
Kinh Niết Bàn nói
: “Thiện tri thức là người trụ ở khắp nơi trong hình tướng Phật, Bồ tát, Bích
chi Phật, Thanh văn và người phàm. Vì sao gọi là thiện tri thức ? Thiện tri thức
là người có khả năng giáo hóa chúng sinh xa lìa mười điều ác, tu hành mười điều
thiện. Vì nghĩa này mà gọi là thiện tri thức.
Thêm nữa, thiện
tri thức là người như pháp mà mà thuyết, như pháp mà hành. Thế nào gọi là như
pháp thuyết, như pháp mà hành ? Nghĩa là tự mình chẳng sát sinh, bảo ban
người khác chẳng sát sinh. Cho đến tự mình tu hành chính kiến, giáo dục người
khác tu hành chính kiến. Nếu làm được như vậy thì được gọi là bậc chân thiện
tri thức.
Này thiện nam tử !
Như vầng trăng trong hư không, từ ngày mùng một tới ngày rằm dần dần tăng
trưởng. Bậc thiện tri thức cũng giống như vậy, khiến các học nhân dần dần xa ác
pháp, tăng trưởng thiện pháp.”
Theo Kinh Hoa
Nghiêm thì Bồ tát có mười loại thiện tri thức. Những gì là mười :
1) Có thể khiến an
trụ ở tâm Bồ đề.
2) Có thể khiến tu
tập thiện căn.
3) Có thể khiến tu
hành rốt ráo các Ba la mật.
4) Có thể khiến
phân biệt giải thuyết mọi pháp.
5) Có thể khiến an
trụ thành thục.
6) Có thể khiến
đầy đủ biện tài, hỏi gì cũng giải đáp được.
7) Có thể khiến
chẳng trước mọi thứ sinh tử.
8) Có thể khiến tu
hành hạnh Bồ tát, tâm không hề mỏi mệt chán nản trong mọi kiếp.
9) Có thể khiến an
trụ ở hạnh Phổ Hiền.
10) Có thể khiến
thâm nhập hết thảy Phật trí.
Thêm nữa, thiện
tri thức là cha mẹ ta, vì sinh trưởng được hết thảy các thiện căn. Hơn nữa,
thiện tri thức còn làm thuốc tốt chữa khỏi các bệnh, còn là con mắt để dẫn dắt
tới chỗ sáng, là mặt trăng mặt trời chiếu rọi mở ra con đường chính giác để
vượt ra khỏi thế gian, cho tới nói rộng ra nữa thì đó là tất cả Phạm hạnh để
cảm hóa chúng sinh, khiến được thấy Phật, gọi là đại duyên ; khiến phát tâm Bồ
đề vô thượng, gọi là đại nhân. Do nhân duyên này mà khiến chứng Phật quả, gọi
là Phật sự.
*
-Kinh văn : “Đại
vương ngài thấy” tới “khiến trụ chính
kiến”.
Tán rằng : đây nêu
rõ cái nhân khiến vua phát tâm Bồ đề, đó làø hai người con làm thiện hữu.
*
-Kinh văn : “Diệu
Trang Nghiêm Vương” tới “như quả Tần
bà”.
Tán rằng : đây làø
từ trên hư không xuống, tán thán, phát nguyện. Có hai phần :
1) Phần đầu : tán
thán 5 đức.
2) Phần sau : phát
6 nguyện.
* Chữ [紺] có âm đọc là Cam, màu xanh ánh đỏ (tức màu cánh cam).
Mắt Phật có sắc
đẹp như màu lá của loài sen có hoa đỏ tía. Xanh có ánh hồng bao quanh nên gọi
là màu xanh đỏ.
“Quả Tần bà” màu
đỏ và bóng cho nên lấy làm ví dụ.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Diệu Trang Nghiêm Vương” tới “các tâm
ác”.
Tán rằng : dưới
làø phát 6 nguyện, trong đó phần đầu tán thán chung Phật pháp, phần sau là phát
riêng sáu nguyện.
Dù là “giáo” (dạy)
hay là “giới” (răn) nơi chốn thực hành hai loại này thảy đều yên ổn, vì chúng
sinh lìa ác mà tích thiện.
*
-Kinh văn : “Nói
lời này rồi, lễ Phật mà ra”.
Tán rằng : đây là
ý thứ sáu : nói rồi thì lui ra.
*
-Kinh văn :
“Phật bảo đại chúng” tới “Bồ tát đấy”.
Tán rằng : đây
là đoạn thứ hai : hội kim cổ.
*
-Kinh văn : “Dược
Vương, Dược Thượng này” tới “cũng nên lễ
bái”.
Tán rằng : dưới
làø đoạn thứ ba : khuyên mọi người quy lễ : đầu tiên là tán thán, sau đó là
khuyên (quy lễ).
*
-Kinh văn : “Phật
thuyết … này” tới “được pháp nhãn
tịnh”.
Tán rằng : dưới
đây là đoạn thứ tư trong phẩm : kết luận tạo thành ích lợi thù thắng.
Đối Pháp quyển 9
nói rằng : đạo vô gián có thể xa được trần, đạo giải thoát có thể lìa được cấu.
Do hai đạo này mãn cho nên “được pháp nhãn tịnh”, chứng Sơ quả.
***
PHẨM PHỔ HIỀN BỒ TÁT KHUYẾN PHÁT
Ba môn phân
biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Luận nói rằng :
lực hộ pháp thì do phẩm Phổ Hiền và phẩm cuối thị hiện. Trong phẩm Chúc Lũy,
Phật tự mình ba lần dặn dò phó thác việc hộ pháp. Còn trong phẩm này Bồ tát
khuyến phát mọi người hộ pháp. Vì thế cho nên có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
Nhân từ tuệ ngộ
thì gọi là “Hiền”. Đức lợi đầy khắp thì gọi là “Phổ”. Đó là do trong thì
chứng được nhất chân, ngoài thì thành tựu muôn đức, bởi vậy đức lợi đầy khắp,
nhân từ tuệ ngộ, cho nên gọi là “Phổ Hiền”.
Bát Nhã Lý Thú
luận nói rằng : “hết thảy hữu tình đều là Như Lai tạng, vì Phổ Hiền Bồ tát khắp
trong tự thể. Do chứng lý Phổ biến Hiền thiện và đạo năng chứng thì gọi là Phổ
Hiền”.
Kinh Hoa Nghiêm
nói rằng : “thân tướng Phổ Hiền y vào Như như, chẳng y vào nước Phật. Do trong
thì chứng được lý Phổ biến Hiền thiện này, ngoài thì thể hiện ba nghiệp không gì
không Hiền, cho nên gọi là “Phổ Hiền”. Đó chính là tên gọi của đức tự
lợi.
Dẫn dụ khích lệ
thì gọi là “Khuyến”. Dìu dắt khiến sinh thì gọi là “Phát”. Dạy dỗ, dẫn dụ khích
lệ, khiến tín đạo phát sinh thì gọi là “Khuyến Phát”. Đây chính là đức lợi
tha.
Trong phẩm này
thuyết minh việc Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát tín tâm, trì kinh nhập đạo, cho
nên gọi là phẩm Phổ Hiền Bồ tát Khuyến Phát.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
-Hỏi : vì sao Phổ
Hiền tới khuyến phát mà chẳng phải là các vị khác ?
Đáp : vì muốn
thuyết minh về tin thuận theo đạo, chứng nhất thừa, hết thảy mọi thứ trong ba
nghiệp không gì không hiền.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phổ Hiền” tới “đi vòng quanh bảy vòng
theo chiều tay phải”.
Tán rằng : toàn
phẩm văn chia làm 6 đoạn :
1) Đường đi tới
của Phổ Hiền.
2) Bẩm bạch, nghe
kinh.
3) Phật bảo cho
bốn pháp.
4) Phổ Hiền khuyến
phát.
5) Thích Ca tán
khuyến.
6) Đại chúng đương
thời được lợi ích.
Đây là đoạn đầu,
có 4 mục :
a) Từ phương đông
tới.
b) Tướng nơi trải
qua.
c) Đồ chúng đi
theo.
d) Tới rồi quy lễ
(Phật).
Kinh Hoa Nghiêm
nói rằng : “thân tướng Phổ Hiền y vào Như như, chẳng y vào nước Phật”.
Trí Độ luận nói :
“mỗi lỗ chân lông của Phổ Hiền Bồ tát đều thường xuyên xuất hiện thế giới chư
Phật và chư Bồ tát, đầy khắp mười phương để hóa độ chúng sinh, không có trụ xứ
đích xác nhất định nào. Nay nói “từ phương đông tới”, đó là căn cứ vào một hóa
thân ứng hiện nhìn thấy nghe thấy của chúng sinh mà nói.
Kinh Bảo Vân nói :
Bồ tát có mười loại pháp gọi là thiện năng tác hóa :
1) Bản thân ở một
nước Phật, chẳng hề động mà có thể thăm hỏi thuyết pháp ở khắp mọi nước Phật.
2) Bản thân ở một
nước Phật, chẳng động mà có thể nghe và tiếp thụ được lý sâu ở khắp các cõi
Phật.
3) Bản thân ở một
nước Phật, chẳng động mà có thể cúng dàng khắp cả mười phương chư Phật.
4) Bản thân ở một
nước Phật, chẳng động mà có thể trang nghiêm Bồ đề, thảy đều đầy đủ ở khắp các
nước Phật.
5) Bản thân ở một
nước Phật, chẳng động mà có thể cung kính cúng dàng tôn trọng tán thán mỗi khi
có vị Phật nào ở mọi nước Phật, mới thành đạo ngồi ở đạo tràng dưới cây Bồ đề.
6) Bản thân ở một
nước Phật, chẳng động mà tự thân có thể thị hiện ở mọi cõi Phật, ngồi ở đạo
tràng, hiện thành Phật đạo.
7) Bản thân ở một
nước Phật, chẳng động mà có thể thị hiện chuyển pháp luân ở mọi cõi Phật.
8) Bản thân ở một
nước Phật, chẳng động mà có thể thị hiện nhập Niết bàn ở mọi cõi Phật.
9) Bản thân ở một
nước Phật, chẳng động mà có thể vì những ai cần thụ hóa ở mọi cõi Phật mà đều
hiện thân.
10) Bồ tát chứng
đắc vô tác thần thông, đối với hết thảy mười phương cõi Phật, chẳng khởi ý
tưởng là phải biến hóa, chẳng khởi ý tưởng là phải dùng thần thông mà thảy đều
thị hiện tùy theo thân cần thị hiện tương ứng để độ chúng sinh cần độ.
Nghiệm theo đây
thì thấy Phổ Hiền đã thành Phật từ lâu, nhưng thị hiện làm Bồ tát để khuyến
khích việc tu diệu hạnh.
Kinh Vô Cấu Xưng
nói rằng : tuy đắc Phật đạo nhưng chẳng bỏ đạo Bồ tát, đó gọi là Bồ tát hạnh.
*
-Kinh văn : “Bạch
Phật rằng…” tới “được kinh Pháp Hoa này”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ hai : bẩm bạch, nghe kinh. Có 2 mục :
1) Mục đầu nói về
dụng ý tới đây.
2) Mục sau thỉnh
cầu giải đáp nghi hoặc.
Cho rằng ngay lúc
Phật tại thế mà pháp còn khó đạt được, thì sau khi Phật diệt độ rồi không ai
làm chủ thì làm sao mà đạt được kinh, được nghe, tư duy và tu hành (Văn Tư Tu)
để sinh tin thuận ?
Thêm nữa, khi Phật
tại thế thì chúng sinh Hoặc nhẹ nghiệp mỏng nên còn có thể đạt được kinh này,
sau khi Phật diệt độ rồi thì chúng sinh nghiệp dày Hoặc nặng, làm sao mà đạt được
kinh, vì khó tin, khó được nghe, khó tư duy, khó tu hành.
*
-Kinh văn : “Phật
bảo Phổ Hiền” tới “ắt đạt được kinh
này”.
Tán rằng : đây là
đoạn lớn thứ ba : Phật bảo cho 4 pháp. Có 3 bước :
- Bước đầu : nêu
lên.
- Bước hai : nói
rõ.
- Bước cuối : kết
luận.
Bốn pháp đó là :
1) “Được chư Phật
hộ niệm” : có nghĩa là đòi hỏi phải căn thục.
Bát Nhã luận nói
rằng : Khéo hộ niệm cho các Bồ tát là thuyết cho Bồ tát căn thục. Người mà căn chưa
thục thì chỉ nghe ngôn ngữ mà chưa đạt được lý. Căn thục thì có thể đạt
được Giáo và Lý.
2) “Vun trồng các
gốc đức” : nghĩa là đòi hỏi trước hết phải tu cả hai nhân phúc tuệ, khởi các
căn như Tín v.v… thì mới đến được cái mức nghe Giáo thì đạt được Lý..
3) “Nhập chính
định tụ” : nghĩa là chính kiến quyết định.
4) “Phát tâm đại
bi, cứu tế chúng sinh”.
Pháp đầu là Tư
lương đạo, năng văn năng tư. Pháp thứ hai là Gia hành đạo, năng tu định quán.
Pháp thứ ba là Kiến đạo, năng chứng thâm lý. Pháp cuối cùng là Tu đạo, năng tập
năng chứng.
Y vào bốn vị này,
mỗi vị đều tăng trưởng.
Thêm nữa, ngoài
gặp Phật giúp, trong tu gốc đức, quyết định chẳng hủy báng, từ bi quảng đại,
đều tại địa tiền thì mới có thể đạt được cả hai thứ Giáo và Lý của kinh.
Nhưng theo Du Già
thì “nhập chính định tụ” nghĩa là phải nhập Sơ địa. Ở đây nói rằng chẳng phải
thế.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phổ Hiền” tới “trong đời trược
ác”.
Tán rằng : đây là
đoạn lớn thứ tư : Phổ Hiền khuyến phát. Có 4 mục :
1. Thuyết minh về
việc hộ trì.
2. Lợi ích trong
kiếp này.
3. Đoạn từ “Nếu
chỉ sao chép thì người ấy sau khi mệnh chung sẽ được sinh trên cõi trời Đao
Lợi” trở xuống : lợi ích trong kiếp sau.
4. Đoạn từ “Có
những công đức lợi ích như vậy” trở xuống : kết luận khuyên hãy phát tâm.
Đây là mục
đầu.
Kinh Đại Tập, phần
Nguyệt Tạng nói : “Sau khi Phật diệt độ :
- 500 năm đầu là
Giải thoát kiên cố.
- 500 năm thứ hai
là Thiền định kiên cố.
- 500 năm thứ ba
là Đa văn kiên cố.
- 500 năm thứ tư
là Tạo dựng chùa tháp v.v… Phúc đức kiên cố.
- 500 năm
thứ năm là Đấu tranh kiên cố ”.
“500 năm sau” : có
ba cách giải thích :
a) Một là nay đang
là 500 năm thứ ba, là Đa văn kiên cố, vì y vào đại thừa chính pháp 1000 năm,
sau chính pháp cho nên nói là 500 năm sau.
b) Hai là nay đang
là 500 năm thứ năm. “500 năm sau” nói trong kinh này phải là (500 năm) cuối
cùng. Căn cứ vào hai cách giải thích trên thì trước đây sau đây nếu có ai thụ
trì kinh này tuy chẳng phải là chẳng ủng hộ, nhưng con người trong thời gian
sau đây phần nhiều tệ ác, người tin là khó, cho nên cần phải ủng hộ.
c) Ba là Thế tôn
ký biệt về thời gian, các chủng loại nhất nhất đều 500 năm, đều gọi là “500 năm
sau, sau khi Phật diệt độ”. Trong các khoảng thời gian này, Bồ tát đều ủng hộ
cả.
Do trong việc ủng
hộ, Thập Địa luận nói có ba hộ pháp :
1) Hộ giáo pháp :
đó là sao chép đọc tụng, diễn thuyết cho người khác.
2) Hộ hành pháp :
tư duy tu tập, trong lúc tu hành, nếu có gì khó khăn trở ngại thì nhiếp thụ,
cứu giúp.
3) Hộ chứng pháp :
tam Phật Bồ đề nhiếp chứng pháp này, giáo hóa truyền thụ.
Tức là thể hiện Bồ
tát trong thời chính pháp ủng hộ ba pháp này, vì vẫn còn có chứng; trong thời
tượng pháp thì Hộ giáo (pháp) và Hộ hành pháp, vì không còn có chứng nữa; sau
thời mạt pháp thì chỉ có Hộ giáo pháp, vì không còn hành nữa.
Bí yếu của thiền
pháp chẳng phải là tông chỉ của đại thừa, nên chẳng cần hòa hợp. Điều mà kinh
Bi Hoa và ngài Chân Đế nói là “năm mươi năm sau sau khi Như Lai diệt độ”, xét
về lý mà nói thì e rằng câu văn viết lầm. Có người nói rằng : (đó là nói) sau
khi Phật diệt độ tới thời kỳ con người thọ năm mươi tuổi, cho nên cũng chẳng
trái ngược nhau.
*
-Kinh văn : “Nếu
có người thụ trì” tới “đều chẳng được
tiện”.
Tán rằng : dưới
làø mục thứ hai : Lợi íchtrong kiếp này. Có 3 phần :
1. Phần đầu thuyết
minh về ba phẩm tu được lợi ích khác nhau.
2. Phần hai là
đoạn từ “Nếu kinh Pháp Hoa lưu hành ở cõi Diêm Phù Đề” trở xuống, nói rõ kinh
được lưu hành ở đời đó là nhờ lực Phổ Hiền.
3. Phần cuối là
đoạn từ “Nếu có ai thụ trì, đọc tụng v.v…” trở xuống, nói rõ người có khả năng
lưu hành kinh này thì phù hợp với hạnh Phổ Hiền.
Trong văn phần đầu
có 3 mục :
a) Mục đầu : ủng
hộ cho hạng hạ phẩm thụ trì.
b) Mục hai : ủng
hộ cho hạng trung phẩm thụ trì. Đó là đoạn từ “người đó hoặc đi hoặc đứng” trở
xuống.
c) Mục cuối : ủng
hộ cho hạng thượng phẩm thụ trì. Đó là đoạn từ “Bạch Thế tôn ! nếu đời sau” trở
xuống.
Mục đầu có 2 ý :
1) Đầu tiên nêu rõ
mọi ác pháp ác nhân đều chẳng làm gì được.
2) Sau đó nói
riêng 12 hạng phi nhân cũng chẳng làm gì được.
* Chữ [伺] đọc là Tứ. Sách Ngọc Thiên giải thích [伺] Tứ có nghĩa là rình mò, dòm dỏ.
*
-Kinh văn : “Người
đó hoặc đi hoặc đứng” tới “Đà la ni”.
Tán rằng : đây là
ủng hộ cho hạng trung phẩm thụ trì. Có 4 ý :
1) Ủng hộ khi đọc.
2) Ủng hộ cho khi
tư duy.
3) Nếu quên thì
khiến nhớ.
4) Nhìn thấy thì
thêm tinh tiến.
Thêm tinh tiến có
ba :
a) Nhìn
thấy thì vui thích, thêm tinh tiến.
b) Đạt được
định.
c) Đạt được
tổng trì.
“Pháp âm phương
tiện đà la ni” là trí định để tăng thêm lực thực hành việc thuyết pháp.
*
-Kinh văn : “Thế
tôn” tới “lực thần thông”.
Tán rằng : đây là
ủng hộ cho hạng thượng phẩm thụ trì. Có 5 ý :
1) Dạy cho biết
quỹ tắc ba lần bảy ngày tinh tiến.
2) Khiến được
thấy, được truyền đạo, được nghe pháp, đạt được tổng trì.
3) Kẻ ác chẳng làm
tổn hại được.
4) Chính thuyết
thần chú.
5) Kết luận : lực
của bản thân mình.
“Người tìm kiếm”
là người cần tu Pháp Hoa hoặc là tất cả những người mà thiện nguyện có ý mong
cầu tu tập kinh Pháp Hoa này, thì “trong thời gian ba lần bảy ngày phải nhất
tâm tinh tiến”.
Phổ Hiền Quán Kinh
thuyết minh về hành pháp có năm :
1/- Ba lần bảy
ngày thì thấy.
2/- Bảy lần bảy
ngày được thấy.
3/- Một lần sinh
được thấy.
4/- Hai lần sinh
được thấy.
5/- Ba lần sinh
được thấy.
Trong này theo
thuyết xưa : Thượng phẩm tinh tiến thì ba lần bảy ngày là thấy được. Cho đến
phẩm thứ năm phải tu trong ba lần sinh mới được thấy. Thêm nữa, điều này chẳng nhất
định. Đầu tiên thấy thân hạ liệt thì có thể chỉ một lần bảy ngày. Cho tới ba
lần sinh thì được thấy thân thù thắng. Vì sự tu hành khác nhau, cho nên phải
qua thời gian dài mới thấy được (thân) thù thắng.
Về tinh tiến thì
kinh đó (chỉ Phổ Hiền Quán Kinh) nói có 6 pháp :
1) Trang nghiêm
đạo tràng.
2) Tẩy rửa bản
thân cho sạch sẽ.
3) Sáu thời lễ
bái.
4) Khải thỉnh lục
sư.
5) Đêm ngày đọc
tụng kinh điển đại thừa.
6) Tư duy về đạo
lý Không pháp rất sâu.
Lúc làm pháp quán
này thì lập tức thấy Phổ Hiền, có thể diệt được trăm vạn ức A tăng kỳ tội
nặng sinh tử.
Chưa thấy văn nói
về Khải thỉnh lục sư, nay tạm thời giải thích như sau : Thích Ca là Hòa thượng,
Văn Thù Sư Lợi là A xà lê. Di Lặc Bồ tát là Giáo thụ sư. Mười phương Phật là
Tôn chứng sư. Mười phương Bồ tát Ma ha tát là đồng pháp lữ. Bồ tát Phổ Hiền là
Sám hối giới chủ. Đủ lục sư như thế mới có thể sám hối, thụ tam tụ giới v.v… Khải
thỉnh như vậy thì mới thấy Phổ Hiền.
*
-Kinh văn : “Nếu
kinh Pháp Hoa” tới “lực uy thần”.
Tán rằng : đây là
phần thứ 2 của mục thứ hai : kinh được lưu hành ở đời là do lực của Phổ Hiền.
*
-Kinh văn : “Nếu
có ai thụ trì” tới “tay xoa đầu người
ấy”.
Tán rằng : đây là
phần cuối của mục thứ hai : người nào có thể lưu hành được kinh này thì phù hợp
với hạnh Phổ Hiền. Cho nên được Phật xoa đầu.
*
-Kinh văn : “Nếu
chỉ sao chép” tới “vui chơi thỏa
thích”.
Tán rằng : dưới
đây là mục thứ ba của đoạn lớn thứ tư : Lợi ích trong kiếp sau. Có 3 phần :
1. Hạ phẩm tu thì
sinh ở cõi trời Đao Lợi v.v…
2. Trung phẩm tu
như thụ trì v.v… thì sinh ở cõi trời Dạ ma v.v…
3. Thượng phẩm tu
thì được ngàn Phật trao tay v.v…
Đây là phần đầu,
có 3 ý :
1) Nơi sinh của
người chỉ sao chép.
2) Tướng đón tiếp.
3) Thân trạng.
Sinh ở cõi trời Tứ
Thiên Vương cũng là hạ phẩm sinh, lược đi chẳng nêu.
*
-Kinh văn : “Huống
chi thụ trì” tới “tu hành đúng pháp”.
Tán rằng : đây là
trung phẩm tu thụ trì v.v… . Sinh ở cõi trời Dạ Ma và hai cõi trời ở trên chẳng
thấy Phật. Văn lược đi, vì không có quả.
*
-Kinh văn : “Nếu
có người” tới “mà sinh ở trong”.
Tán rằng : đây là
thượng phẩm tu, được ngàn Phật trao tay. Có 4 ý :
1) Ngàn Phật trao
tay.
2) Khiến không sợ
hãi.
3) Chốn vãng sinh.
4) Thấy Bồ tát.
Ba phẩm tu sinh đã
nói ở trên mới chỉ nêu một tướng, chẳng phải là đã nói hết lẽ thực. Nói cho hết
lẽ thực thì trong mười pháp hành mỗi pháp đều có ba phẩm, vì chỉ như trung phẩm
đã có thụ trì cho đến giải nghĩa ; thượng phẩm cũng có, tùy theo sự tự tu tập,
có thượng có hạ.
“Tu hành đúng
pháp”, đều có hạ có thượng. Nay chỉ ở trung phẩm nói là có, còn thượng phẩm thì
không. Đó là căn cứ vào một tướng mà nói.
Mười pháp hành
trên, Biện Trung Biên luận nói :
- Tám pháp hành
đầu là Văn tuệ, là hạ phẩm.
- Pháp hành thứ
chín là Tư tuệ, là trung phẩm.
- Pháp hành thứ
mười là Tu tuệ, là thượng phẩm.
Ở trong văn tuệ :
sao chép, cúng dàng, thí tha là hạ, vì là dễ ; nghe giảng, duyệt đọc, phúng
tụng là trung ; thụ trì, khai diễn là thượng, vì khó.
Thêm nữa, tu một,
hai, ba pháp hành là hạ ; bốn, năm, sáu pháp hành là trung ; bảy, tám, chín,
mười pháp hành là thượng, vì điều mong mỏi của mỗi loại thì khác nhau.
*
-Kinh văn : “Có
những công đức lợi ích như vậy” tới “khiến
chẳng đoạn tuyệt”.
Tán rằng : trong
đoạn lớn thứ tư : Phổ Hiền khuyến phát, đây là mục thứ tư : kết luận khuyên hãy
phát tâm. Có 2 ý :
1) Đầu tiên là nói
rõ thắng pháp khuyên hãy tu hành.
2) Sau đó là hộ
pháp khiến hành.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật Thích Ca” tới “danh hiệu Bồ tát
Phổ Hiền”.
Tán rằng : dưới
đây là đoạn lớn thứ năm trong phẩm : Thích Ca tán khuyến. Có 3 phần :
- Phần đầu : ca
ngợi Phổ Hiền.
- Phần hai : tán
thán người trì kinh.
- Phần ba : tướng
thuận nghịch đối với hành giả.
Đây là phần đầu,
có 3 ý :
1) Tán thán việc
hộ trợ kinh (này).
2) Tán thán hạnh
nguyện của Phổ Hiền.
3) Hộ người trì
danh hiệu Phổ Hiền.
Tán thán hạnh
nguyện có 3 nhân :
a) Tự lợi.
b) Lợi tha.
c) Khen người.
*
-Kinh văn : “Phổ
Hiền nếu có” tới “được áo che cho”.
Tán rằng : dưới
làø tán thán người trì kinh. Có 4 điều :
1. Thuận Phật
hành.
2. Lìa mọi ác.
3. Sẽ được xuất
thế.
4. Nhất định chán
sinh tử.
Điều đầu tiên này
có 6 ý :
1) Vì thấy Phật
nên biết được ba loại thân : lý, trí, hóa.
2) Như đích thân
nghe pháp từ miệng Phật nên hiểu được giáo ý.
3) Là pháp cúng
dàng để cúng dàng Phật.
4) Được Phật tán thán,
vì hợp với bản tâm của Phật thì Phật tùy hỉ.
5) Được Phật xoa
đầu, được Phật giáo hóa gia bị cho bản tâm, như thụ ký cho.
6) Được y Phật che
cho, vì có đầy đủ (các hạnh) tàm quý, nhu hòa, nhẫn nhục v.v…
*
-Kinh văn : “Người
như vậy” tới “hạnh của Phổ Hiền”.
Tán rằng : đây là
lìa các điều ác. Có 5 ý :
1) Chán sự vinh
hoa sung sướng của thế gian.
2) Chẳng thích ác
duyên.
3) Tâm khéo điều
hòa thanh tịnh.
4) Diệt trừ phiền
não.
5) Tu hành, ít
dục.
“Chẳng thích ác
duyên” có 3 thứ :
a) Tà hạnh.
b) Ác nghiệp.
c) Văn chương,
nghệ thuật v.v… của ngoại đạo.
“Tâm khéo điều hòa
thanh tịnh” có 3 thứ :
a) Chất trực.
b) Chính niệm.
c) Phúc đức.
“Diệt trừ phiền
não” có 3 thứ :
a) Trừ tam độc.
b) Diệt ghen ghét.
c) Trừ tam mạn.
“Tu hành, ít dục”
có 3 thứ :
a) Ít dục.
b) Tri túc (biết
đủ).
c) Tu hạnh Phổ
Hiền.
*
-Kinh văn : “Phổ
Hiền ! Nếu Như Lai” tới “trên pháp
tòa”.
Tán rằng : đây là
mục thứ ba : sẽ được xuất thế. Có 5 ý :
1) Hướng đạo
tràng. 4) Chuyển pháp luân.
2) Phá ma chúng.
5) Thăng pháp tòa.
3) Đăng chính
giác.
*
-Kinh văn : “Phổ
Hiền ! nếu ở…” tới “được phúc báo của
mình”.
Tán rằng : đây là
mục thứ tư : nhất định chán sinh tử. Có 2 ý :
1) Chẳng tham
của cải đồ vật.
2) Được quả
báo hiện tiền.
*
-Kinh văn : “Nếu
có người” tới “được quả báo hiện
tiền”.
Tán rằng : trong
đoạn lớn thứ năm của phẩm này : nói về Thích Ca khuyến tán. Dưới đây là phần
thứ ba nói về tướng thuận nghịch đối với hành giả.
Có 5 ý. Trong đây
có 2 ý :
1) Kẻ hủy báng (kinh
này) thì (sẽ bị quả báo) không có mắt, vì đã hủy báng pháp nhãn thanh tịnh.
2) Người tán thán
(kinh này) thì được hiện báo, vì tâm, điền đều thù thắng.
*
-Kinh văn: “Nếu
lại thấy người thụ trì” tới “phải như kính
Phật”.
Tán rằng : trong
này có 3 ý :
1) Kẻ nào bới lỗi
lầm của hành giả, thì bị bệnh hủi cùi.
2) Kẻ nào khinh rẻ
chê cười hành giả, thì đắc tội.
3) Khuyên hãy sinh
tâm cung kính.
Kẻ khinh rẻ chê
cười đắc tội sẽ bị mười thứ bệnh, như trong kinh văn đã nói, có thể biết
được.
* Chữ [繚] trong từ Liễu lệ [繚戾] : xoáy tít - chỉ nước, đọc là Liễu. Trong sách Thuyết Văn chỉ có
chữ Liễu [了] trong từ Liễu đạt [了達] (hiểu thấu). Chữ [寥] Liêu trong từ Liêu
thái [寥菜] (rau răm), chữ [暸] Liễu trong cụm từ “Mục
tinh lãng liễu” [目精朗暸] (con mắt tinh
sáng).
Ngoài ra không có
chữ nào đọc âm Liễu như chữ [了] cả. Có hai chữ [燎] Liệu trong từ Liệu trá (đốt nướng) và chữ [繚] Liêu trong từ Liêu nhiễu [繚繞] (vòng quanh, quấn
quít). Nay chữ [繚] này đọc là Liễu.
Chữ [睞] trong từ [角睞] đọc là Lai. Theo sách Ngọc Thiên thì từ
Giác lai [角睞] có nghĩa là mắt lác.
*
-Kinh văn : “Lúc
nói phẩm Phổ Hiền này” tới “làm lễ rồi
đi”.
Tán rằng : đây là
đoạn lớn thứ sáu trong phẩm nói về đại chúng đương thời được ích lợi.
Có hai phần :
1) Phần đầu nói về
ý được ích lợi.
2) Phần sau nói về
ý phụng hành.
***
LỜI CUỐI SÁCH
Cơ tôi đây trong thời gian vân du thuyết pháp trên đường dừng lại Bác Lăng, các giới Tăng tục học tập đạo Phật có bảo tôi giảng kinh này. Vì bản thân tôi chẳng thể tu học nghĩa cũ, cho nên đành phải tự mình soạn ra văn mới, tối soạn sớm giảng, khi giảng xong thì kinh sớ (tức bộ Pháp Hoa Huyền Tán này) cũng viết xong.
Than nỗi, (bản thân tôi) học ít, biết nông, cho nên nghĩa lý biên xong thì ngôn từ cũng hết. Nghĩa kinh vốn rất sâu xa súc tích, (cho nên tôi) tuy vụng về cũng cố gắng tán tụng thêm để thành sáng tỏ.
Tôi nem nép thận trọng y vào thánh giáo, xoáy vào một mực lấy ở huyền tông. Thế mà vẫn còn sợ là ngôn từ sơ suất, sai với tôn chỉ trong kinh, trái với những điều viện dẫn.
Kinh này là bộ kinh điển quan trọng nhất đối với người đang tu đạo, người ta ai chẳng tán tụng lời văn sâu xa của kinh này. Đã chẳng thể lặng im không nói, nên đành phải trình bày những suy nghĩ ngông cuồng hời hợt của mình. Những mong các bậc thức đạt quân tử phủ chính cho tôi !
Vậy tôi xin kết thúc bằng bài tụng rằng :
Hạnh, Lý tiếp thu từ các kinh.
Lược tán nhất
thừa chân pháp nghĩa.
Đôi lời chân
thực thí quần sinh.
Nguyện cùng
chóng thành Vô thượng quả.
KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN
QUYỂN THỨ
MƯỜI
(HẾT)
Đây là sách
đã viết xong tại phòng Trí luận sư Phiên kinh viện, chùa Đại Từ Ân tại
Tây kinh (tức Tràng An, Trung Quốc, đời Đường) vào năm Điều Lộ thứ hai tháng
chín.
Sách này được
biên soạn in ấn ra, đó là nhờ công tích của vị sư hoằng pháp dịch kinh, nhờ
công đức cao cả tốt đẹp của các vị đại vương, tiểu vương. Sách này phải biên soạn
nhiều lần mới xong. Nhưng (đại sư Khuy Cơ) vẫn chuyên tâm vào việc biên soạn,
chẳng để ý tới các việc khác. Chưa được bao lâu thì (ngài) đã bỗng nhiên nhập
diệt. Thần (của ngài) tuy đi rồi, nhưng phong độ (của ngài) vẫn còn mãi.
Mỗi khi giảng bộ
kinh sớ này lại hằng thương nhớ tới ngài. Những mong nhờ phúc thiện này mà được
Tam hội sơ đăng, nhờ sự huân tu này mà tới bậc thượng phẩm, vượt biển Chân như,
giỡn sóng Bát nhã, có trí tuệ từ bi xót thương chúng sinh bị đau khổ, đưa họ
tới cõi Niết bàn Cực lạc, cùng vô cùng giới, tận vô tận sinh, đều diệt khổ
nhân, cùng lên Lạc quả.
- Niên hiệu Bảo
An năm thứ ba, tức năm Nhâm Dần, tháng 7 ngày 11, tức ngày Đinh Mão, giờ Thân
sao chép xong, sư trụ trì chùa Pháp Long là Tăng Giác đem in.
Nguyện nhờ công đức chép Pháp Hoa.
Cùng ơn từ bi
giải đại thừa.
Cha mẹ bảy
đời của Đại sư.
Cùng cả pháp
giới mau thành Phật.
***
- Niên hiệu
Thiên Thừa năm đầu, tức năm Tân Hợi tháng 6, ngày 21, tức ngày Bính Tuất, sư
Nhiếp Kiến bắt đầu từ hạ tuần tháng Giêng năm ngoái đem so với bản của Thiện Minh
phòng ở chùa Dược Sư. Đắc nghiệp [xxx] xong.
“để được lợi
ích vãng sinh tới cõi Cực lạc [xxx]”.
- Niên hiệu
Bảo An năm thứ ba, tháng Chạp ngày 13, lấy bản của Viên Như phòng chùa Hưng
Phúc, di điểm xong thì đem in.
“để khiến cho
pháp được trụ lâu dài và lợi ích cho cõi người, cõi trời”.
Bản di điểm
này đều là bản của bậc cao danh. Thêm nữa, [ x ] bản đều là bản di điểm, những
điều di điểm đều viết bằng son, còn các chữ khác đều viết bằng mực thường, để
cho hạng mạt học mê muội được sáng tỏ vậy.
- Niên hiệu Đại
Chính năm thứ mười, tháng 7 ngày 20, sau khi đối chiếu bản của Sư Tăng Giác in
với điểm bản của năm sư, thêm một bản nữa đem giao xong. Ngày đó giảng phẩm Thọ
Lượng xong.
Hạ an cư,
giảng ba kinh.
Mạt học là
Định Dận, quán chủ chùa Pháp Long
kính bút.
***
HỒI HƯỚNG.
Nguyện đem
Công đức ấn tống bộ sách này, hồi hướng Tây phương, trang nghiêm Tịnh độ. Nguyện
từ đời vô thủy cho đến sau này, hết thảy kẻ oán người thân, Thất tổ Cửu huyền, Sư
Tăng Cha mẹ, đời nay và nhiều đời về trước. Rộng cùng mười phương pháp giới,
tất cả chúng sinh, thiện ác tri thức, tám nạn ba đường, cỏ cây sâu bọ, loài
sinh bằng trứng, loài sinh bằng thai, loài ẩm thấp sinh, loài biến hoá sinh,
hoặc nhầm mà giết, hoặc cố ý giết, tất cả muôn loài, nguyện cởi hết thảy các
oan khiên, tiêu tất cả các tội nghiệp, đồng chứng đại Bồ đề, đồng sinh Cực lạc quốc.
Nam mô Đại từ
Đại bi Cứu nạn Linh cảm Quán Thế Âm Bồ tát Ma Ha Tát, tác đại chứng minh.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Huyền
Tán
Tác Giả : Khuy Cơ
Dịch Giả : Thích Chân Thường
Chịu Trách Nhiệm Xuất Bản
Nguyễn Thanh
Xuân
Biên Tập: Đỗ Thị Quỳnh
Sửa Bản In: Chơn Hạnh
Trình Bày: Chúc Thanh
Bìa: Giác Hạnh
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo
Nhà Số 4 Lô 11
Trần Duy Hưng – Hà Nội
Đt: 04.5566701
Fax: 04.5566702
Số lượng in: 2.000 bản, khổ 16x24
Tại Xí Nghiệp In
Người Lao Động
Số xuất bản
96-446/XB-QLXB ngày 16.04.2004
In xong và nộp
lưu chiểu quý 1 năm 2005.