Mười hai bộ kinh

01/01/20152:55 CH(Xem: 24994)
Mười hai bộ kinh

MƯỜI HAI BỘ KINH
(THẬP NHỊ BỘ KINH)


* Nếu dựa trên phạm vi vĩ mô thì giáo lý mà Phật nói trong 49 năm được chia thành 3 tạng kinh điển là:

1) Kinh tạng
2) Luật tạng 
3) Luận tạng

* Nếu dựa theo thời gian thuyết pháp thì giáo lý Phật nói được chia thành 5 thời, gọi là "Ngũ thời giáo":

1) Thời Hoa Nghiêm
2) Thời A Hàm
3) Thời Phương Đẳng
4) Thời Bát Nhã
5) Thời Pháp Hoa, Niết Bàn

* Nếu dựa theo cấp độ cao thấp về ý nghĩa thì giáo lý Phật nói được chia thành 5 cấp độ, gọi là "Ngũ thừa". Mỗi "thừa" phù hợp với một tầng lớp căn cơ từ thấp đến cao:

1) Nhân thừa
2) Thiên thừa
3) Thanh Văn thừa
4) Duyên Giác thừa
5) Bồ tát thừa, Đại thừa hay Phật thừa

* Nếu dựa theo phạm vi ý nghĩa chi tiết của kinh điển thì giáo lý Phật giáo được chia thành 12 chủng loại, gọi là "Thập nhị bộ kinh"

1) Kinh (Khế kinh): những bài kinh chính căn bản Phật nói bằng văn xuôi, ngắn gọn, súc tích, khế cơ và khế lý tức là những lời Phật dạy khế hợp với chân lý với từng căn cơ của chúng sinh.

2) Trùng tụng (Ứng tụng): những bài kinh hoặc kệ tụng được đức Phật nhắc đi nhắc lại nhiều lần để các đệ tử ngài thuộc lòng. 


3) Thụ ký: kinh Phật thụ ký, chứng nhận quả vị cho những đệ tử và những việc xảy ra về sau.

4) Ký chú (Phúng tụng): những bài kinh thuộc thể thơ ca không diễn xuôi

5) Tự thuyết (Tán thán): bài pháp Phật thuyết không cần sự thưa thỉnh

6) Nhân duyên (Quảng thuyết): kinh nói về nhân duyên pháp hội, nhân duyên của nhân sinhvũ trụ.

7) Thí dụ (Diễn thuyết giải ngộ): kinh Phật dùng thí dụ để giảng thuyết những giáo lý cao thâm cho dễ hiểu.

8) Bản sự kinh (Như thị pháp hiện): kinh Phật nói “tu nhân, chứng quả” của hàng đệ tử trong quá khứvị lai.

9) Bản sinh kinh: kinh Phật nói về tiền thân của Phật và hàng Bồ tát dẫn đến câu chuyện của đời hiện tại, sự liên hệ giữa tiền kiếp và hậu kiếp…

10) Phương quảng (Phương đẳng): kinh điển đại thừa, nói về pháp tu rốt ráo

11) Hy pháp (Vị tằng hữu): kinh Phật nói về thần lực của Phật và hàng thánh đệ tử, nói về cảnh giới vi diệu của quả tu.

12) Nghị luận (Cận sự thỉnh vấn): kinh vấn đáp, biện luận giữa Phật và hàng đệ tử hoặc giữa các hàng đệ tử với nhau để lý giải rốt ráo chính tà…





Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
07/09/2023(Xem: 2219)
01/04/2023(Xem: 5248)
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :