Đời Sống Là Nghệ Thuật

10/01/20159:20 SA(Xem: 13845)
Đời Sống Là Nghệ Thuật
Ý NGHĨA ĐỜI SỐNG
Tuyển tập các bài viết của tác gỉa Nguyễn Thế Đăng
Nhà xuất bản: Thiện Tri Thức

ĐỜI SỐNG LÀ NGHỆ THUẬT 

 
Chúng ta sống nơi này, phút giây này nhưng vẫn ‘ly dị’ với nơi này phút giây này; tâm cứ nghĩ đến nơi khác, phút giây khác, một đời sống không thực vì đã qua hoặc chưa tới.

Chỉ nói riêng ở Nhật Bản, trà đạo hay trà thiền là do Thiền sư Vinh Tây (1141-1215) chế tác ra, sau khi “du học” ở Trung Hoa và đem hạt giống về trồng.

Biến việc uống trà thành nghệ thuật, biến khu vườn thành tác phẩm nghệ thuật, biến thi ca, hội họa, bắn cung, võ thuật, múa, cắm hoa…thành nghệ thuật đã trở thành một lối sống kể từ khi Thiền trở thành một sức sống văn hóa để kết hợp với văn hóa của từng nước vùng Đông Á. Do đó mà có trà đạo, hoa đạo, võ đạo…

Từ bước đầu của Thiền ở Trung Hoa, với câu nói “một ngày không làm thì một ngày không ăn” của Thiền sư Bá Trượng, ngay cả việc làm ruộng cũng được kết hợp với thiền định để cũng là một nghệ thuật, một công việc thiền.

Thật ra, Thiền chỉ làm cho lý tưởngsống là một nghệ thuật” được hiện thực hóa và có cơ sở lý luận để phát triển thêm sâu rộng mà thôi.

Loài người nói chung đều quan niệm và mơ ước sống là một nghệ thuật, tất cả mọi lĩnh vực của đời sống đều có thể thăng hoa để thành nghệ thuật, thành Đạo.

Vua Trần Nhân Tôn nói, “Ở đời vui đạo hãy tùy duyên”. Sống ở đời một cách nghệ thuật chính là vui Đạo. Ở đời mà vui Đạo được, đó là nghệ thuật. Nói một cách khác, Nghệ Thuật viết hoa chính là Đạo.

Trà đạo là một nghi lễ. Chúng ta thấy rằng giữa nghi lễ và nghệ thuật có mối tương quan rất khắng khít. Nghi lễ và nghệ thuật là phổ biến cho mọi nền văn hóa. Nghi lễ và nghệ thuật làm cho con người nối kết với toàn bộ đời sống, ở mặt có hình tướng lẫn mặt không có hình tướng.

Nghệ thuật và nghi lễ – chẳng hạn trong Trà đạo – nối kết con người với bề sâu của tâm thức mình. Do đó mà người Nhật đặt ra những khái niệm wabi (mộc mạc), sabi (tịch), hòa, kính, thanh, tịnh, như là nội dung của trà đạo.

Đó cũng chính là những nội dung của tâm và cảnh, hay nội dung của thực tại, khuôn mặt thật của đời sống.

Một nhận xét rất quan trọng: Ở Đông phương, nghệ thuật và nghi lễ không xa lìa đời sống. Người làm nghệ thuật (chẳng hạn người thực hiện nghi lễ uống trà) cũng chính là người thưởng thức nghệ thuật. Một nghệ thuật phổ biến, bình đẳng, dân chủ; vì đó là cuộc sống bình thường, ai cũng thưởng thức được.

Đông phương, cái gì cũng là nghệ thuật, cũng là nghi lễ, cũng là đạo. Ăn là nghệ thuật và nghi lễ. Thở là nghệ thuật, nghi lễ. Ngồi yên lặng (ngồi thiền) là một nghệ thuật, nghi lễ. Tương quan bạn bè cũng là nghệ thuật, nghi lễ: đạo bằng hữu. Tương quan giữa vợ chồng cũng là nghệ thuật nghi lễ: đạo vợ chồng. Sống làm người giữa trời đất cũng là một nghệ thuật nghi lễ: đạo con người (nhân đạo).

Ở đây chúng ta thấy có một sự tương đương rõ rệt giữa một bên là chữ Đạo của Đông Á và một bên là chữ Pháp (Dharma) của Ấn Độ. Một thí dụ nhỏ để thấy sự tương đồng này là đôi khi người ta thay chữ Đạo bằng chữ Pháp: thay vì nói ‘thư đạo’ thì người ta dùng chữ ‘thư pháp’.

Đời sống là nghệ thuật. Chính vì người bình thường chúng ta không thấy được cái Đẹp, cái nghệ thuật của đời sống, nên Thiền mới chế tác ra những nghệ thuật, những ‘pháp’, những ‘đạo’ để đưa chúng ta dần dần cảm nghiệm được, thể nghiệm được ý nghĩa đích thực của đời sống.

đời sống cũng là nghi lễ. Với người nào biết được, sống được đời sống như là nghi lễ thì đời sống sẽ trở thành lễ hội, hội hè.

Nếu đời sống đích thị là nghệ thuật, là cái đẹp thì tại sao chúng ta ít khi thấy ra, ít khi thưởng thức được?

Khổng tử nói: “Tâm chẳng tại, cho nên nhìn mà chẳng thấy, có tai mà chẳng nghe, ăn mà chẳng biết mùi vị.” (Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị – Đại Học).

Câu nói thì đơn giản, nhưng nó thách thức tất cả chúng ta. Tại sao chúng ta không thấy, không nghe, không biết mùi vị, không thưởng thức được bề rộng và bề sâu của đời sống?

Và với một tâm thức sâu sắc hơn nữa, toàn diện hơn nữa, có phải tâm sẽ thấy nghe hay biết toàn bộ đời sống, sẽ cảm thọ toàn bộ đời sống? Nói theo Phật giáo, “tất cả do tâm tạo”, lúc ấy, tâm ta chính là toàn bộ đời sống.

Đời sống hiện ra với rất nhiều người chúng ta là sự nhàm chán, khô khan, cạn cợt, lập đi lập lại, tầm thường, cũ kỹ. Đời sống thì luôn luôn mới, tỷ tỷ chiếc lá trên trái đất này không cái nào giống cái nào, tỷ tỷ hòn đá không hòn nào giống hòn nào, một đường phố không khoảnh khắc nào lập lại khoảnh khắc cũ, không như một tấm ảnh chết cứng trong một khoảnh khắc mà mọi sự, mọi người ở đâu thì nguyên đó. Thời gian thì không lặp lại, dù một khoảnh khắc, đó phải chăng là niềm vui?

Đâu là một vũ trụ sáng tạo trong từng khoảnh khắc mà hài hòa như các nhà minh triết xưa của những nền văn hóa đã nói? Vũ trụ ấy hiện diện ngay tại đây và bây giờ, nếu tâm chúng ta cũng hiện diện tại đây và bây giờ, với tất cả chiều rộng và chiều sâu của nó.

Khi không thưởng thức được, không sống được đời sống với những sự vật hiện diện tại đây và bây giờ, chúng ta luôn luôn nghĩ tới những gì đã qua không còn nữa và những gì giả định trong tương lai.

Chúng ta sống nơi này, phút giây này nhưng vẫn ‘ly dị’ với nơi này phút giây này; tâm cứ nghĩ đến nơi khác, phút giây khác, một đời sống không thực vì đã qua hoặc chưa tới.

Trong cuộc sống hiện đại, sự vật có cuộc đời quá ngắn ngủi. Phần lớn vì chúng ta mau chán. Chưa bao giờ con người có nhiều sự vật đến thế – đến độ chật cả trái đất – nhưng cũng chưa bao giờ sự không thỏa mãn lại lớn lao đến thế, sự mau chán lại nhanh chóng đến thế. Kể cả trong thế giới những tương quan giữa người với người: sự ly dị.

Bởi vì tâm cạn cợt, hạn hẹp, hỗn loạn nên chúng ta chỉ kinh nghiệm đời sống ở mức độ cạn cợt, hạn hẹp, hỗn loạn.

Thi hào Nguyễn Du đã nói, “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Tâm như thế nào, cảnh như thế đó. Cho nên để chữa lành căn bệnh của thời đại này, phải tìm thấy nguyên nhân căn bệnh nằm ở trong tâm thức của mỗi cá nhân.

Nguyên nhân của sự không hưởng thụ được đời sống là do ‘tâm bất tại’ theo Khổng tử. Tâm bất tại là một phần của thiếu tỉnh giác chính niệm, nói theo Phật giáo.

Nhưng Phật giáo đâu chỉ có một ‘chính niệm’, một ‘tâm tại’? Mà trong Tám Chính đạo ngoài chính niệm còn có chính kiến, chính tư duy…cho đến chính mạng, chính định.

Nói thế nghĩa là Tám Chính đạo là nghệ thuật bao trùm toàn bộ đời sống. Nó khiến chúng ta thấy được đời sống đích thực và sống được đời sống đích thực (chính mạng), cho đến an trụ trong đời sống đích thực (chính định).

Nghệ thuật uống trà, trà đạo, trà thiền mà chúng ta nói ở trên chỉ là sự ứng dụng của Tám Chính đạo vào việc uống trà. Qua uống trà, chúng ta thấy biết, thưởng thức toàn bộ đời sống đích thực. Sự thấy biết, kinh nghiệm toàn bộ đời sống đích thực này được Đông phương gọi là Nghệ Thuật, là Đạo.

Nếu dùng chữ Đạo để chỉ Thực Tại, hay là đời sống đích thực, thì theo cái nhìn của Đại thừa, đời sống là sự biểu lộ của Đạo. Sơ tổ Vô Ngôn Thông của dòng Thiền thứ hai ở Việt Nam khi có nhà sư hỏi thế nào là Đạo, là thực tại tối hậu, đã trả lời: “Khắp tất cả chỗ,” và “Chằng từng che dấu”.

Nghệ thuật là sự nối kết chúng ta với Đạo. Khi sự nối kết ấy trở nên hoàn toàn, chúng ta là một với Đạo, hay Thực Tại, hay Nghệ Thuật viết hoa. Mục đích của cuộc đời mỗi chúng ta là biến cuộc sống của mình thành nghệ thuật, nghĩa là biến cuộc sống thành sự trải nghiệm niềm vui, tự do, hài hòa, cái đẹp, sự thiêng liêng, cái là Một đồng thời cũng là sự phong phú của tất cả…





Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :