Chương IV: Nhìn Rõ Hiện Tượng Tâm Vật

09/02/20158:18 SA(Xem: 4198)
Chương IV: Nhìn Rõ Hiện Tượng Tâm Vật
KINH THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO
Thích Giải Hiền soạn dịch

CHƯƠNG IV: NHÌN RÕ HIỆN TƯỢNG TÂM VẬT

          [Nhi tâm vô sắc bất khả kiến thủ, đản thị hư vọng chư pháp tập khởi, tất cánh vô chủ, vô ngã ngã sở. Tuy các tùy nghiệp sở hiện bất đồng, nhi thật ư trung vô hữu tác giả. Cố nhất thiết pháp giai bất tư nghì, tự tánh như huyễn]

          Hiện tượng sai biệtthế gian bao gồm hai phương diện tinh thầnvật chất. Còn đối với hiện tượng tâm và vật, phải nhìn nhận ra sao? Nhiều nỗi thống khổ của con người đều do không thể nhận thức chính xác về thế giới, do nhận thức sai lầm mà dẫn đến hành vi sai lạc đưa đến chấp trước, phiền não. Chúng ta muốn thoát khỏi thống khổ trong đời, đầu tiên phải lấy chánh kiến của Phật Pháp để nhìn thấu thế gian xây dựng nên nhân sanh quan chính xác.

          [Nhi tâm vô sắc bất khả kiến thủ]. Như trước đã nói thế giớido nơi tâm niệm của chúng ta mà ra. Vậy tâm là gì? Trong Kinh nói “Tâm vô sắc”. Trong Phật Giáo gọi hiện tượng vật chất là sắc. Bởi vì con người nhận biết hiện tượng vật chất chủ yếu thông qua hình sắc (hình trạng) và hiển sắc (nhan sắc). Nếu không có hình trạng và nhan sắc thì không thể nhận biết được hiện tượng vật chất.

          Tâm thì vô sắc vừa không có nhan sắc, vừa không có thể tích, không có một thực tại cố thể, không có hình trạng nhìn không thấy mà sờ cũng không được nên gọi “bất khả kiến thủ”.

          [Đản thị hư vọng chư pháp tập khởi]. Đây là cách nhìn riêng biệt của Phật Pháp đối với tâm. Các tôn giáo khác và triết học khi nói đến tâm thường liên kết với linh hồn và cho đó là chủ thể của tâm gọi là “linh hồn” hay gọi là “thần ngã”, cho rằng vạn vật trong sự biến đổi vẫn có cái bất biếnlinh hồn, là thần ngã chi phối. Với quan điểm của Phật Pháp, tâm “thị hư vọng chư pháp tập khởi”, không phải là cố định bất biến, lấy cái nhìn thấu triệt của trí tuệ Phật Pháp thế giới phàm phu là do vọng tưởng cấu thành, mê hoặc hiển hiện.

          Phật Pháp nói đến vọng tưởng là những cái nghĩ cái nhìn không nhận thức được chân thật, không thông đạt với chân lý đều là vọng tưởng.

          Nếu quan niệm chính xác thì có thể “khí ác dương thiện” làm cho sanh mệnh được chuyển y, nhân cách được nâng cao. Nếu quan niệm sai lạc, có thể sẽ bỏ thiện dương ác làm cho tố chất sinh mệnh không ngừng đọa lạc. Tu học Phật Pháp có thể giúp chúng ta xây dựng quan niệm chân chính, vứt bỏ nhận thức sai lầm, nhờ đó cải tiến hành vi của tự thân, khiến đời sống được tịnh hóa, nên gọi sinh mệnh là “chư pháp tập khởi”.

          [Tất cánh vô chủ, vô ngã ngã sở]. “Ngã” là thuật ngữ mang các nội hàm: thường, nhất, bất biến, chủ thể.

          Thường là vĩnh hằng; Nhất là độc lập; Bất biến là cố định không thay đổi; Chủ thể là có thể chi phối tất cả. Tất cả ý nghĩa này nằm trong “ngã”. Thực ra không có cái gì rời khỏi điều kiệnkinh nghiệmtồn tại được. Sinh mệnh không phải là cố định bất biến và không có tự tính nên mới có thể “Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật”.

          Bởi vì tâm thái vô thường biến hóa nên thấy rõ là nó là vô chủ, vô ngã cũng vô ngã sở. Vô ngãđặc điểm khác biệt lớn của Phật giáo với các tôn giáo khác.

          Ngoại đạo nhận định về ngã gồm hai tầng thứ nội hàm chính: Một là Thượng đế, thiên thần là “đại Ngã” cũng gọi là “thần Ngã” chi phối tất cả vũ trụ. Hai là linh hồn gọi là “tiểu ngã” chi phối cuộc sống con người. Phật Pháp lấy trí tuệ duyên khởi quán sát vũ trụ thấy rằng không tồn tại vị thần linh chi phối vũ trụ, cũng không tồn tại linh hồn chi phối sinh mệnh tức “tất cánh vô chủ, vô ngã ngã sở”.

          [Tuy các tùy nghiệp sở hiện bất đồng, nhi thật ư trung vô hữu tác giả]. Nhìn đến thế giới vật chất, Đức Phật dạy, hết thảy hiện tượng vũ trụ nhân sanh tuy tùy vào cảnh giới tư tưởngnghiệp lực bất đồng của mỗi chúng sanhhiển hiện nhưng trong thực tế vạn phápthế gian không có người sáng tạo, không có một người không dựa vào điều kiệnchi phối được.

          [Cố nhất thiết pháp giai bất tư nghì, tự tánh như huyễn]. Tự tánhmột thể thực tại chân tướng thật của vạn phápthế gian, không như chúng ta nghĩ là một thực thể độc lập tồn tại bất biến. Như con người mới đầu không biết mộng cảnh là giả nên khi nằm mộng sẽ thấy kinh sợ lấy sự cầu đảo để hóa giải. Đứa trẻ không biết người trong kính là giả nên khi nhìn thấy những gì trong kính thường bắt, thường cười, cho đó là thật. Con người hiện tại biết mộng cảnh hư giả vẫn xem vạn pháp thế gian là thực hữu, xem địa vị, tài sản là thực có. Vì xem là thực có nên muốn có được, nên để tâm đến danh lợi được mất, để tâm mong sức khỏe sống lâu, hy vọng sự nghiệp vĩnh hằng, gia đình vĩnh hằng. Tam khổ trong Phật giáo có đề cập đến “hành khổ” tức là sự vô thường biến hóa đem đến điều thống khổ. Vô thường vốn là quy luật của vũ trụ, nhân sanh không phải là nhân khổ. Với các bậc thánh giải thoát hành khổ không đem đến khổ đau.       Chúng sanh vì không nhận thức chính xác thế giới nhìn vạn vật đều vĩnh hằng khi vô thường đến thống khổ như bóng với hình. Tâm kinh nói “ngũ uẩn giai không” là để bạt trừ chúng sanh chấp trước thật hữu. Là người học Phật phải nhìn thấy thiếu xót trong nhận thức hiện hữu, không lấy cảm quannhận thức thế giới, cũng không quá tin vọng tưởng của mình, nhìn ra cho được tự tánh như huyễn của các pháp.




Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
14/06/2010(Xem: 58770)
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :