I.
DẪN NHẬPĐức Phật ra đời vì một
đại sự nhân duyên, một
mục đích duy nhất là
cứu khổ ban vui cho tất cả
chúng sinh,
hay nói một cách cụ thể hơn là chỉ bày cho
nhân loại con đường thoát khổ.
Con đường thoát khổ đó
bao gồm nhiều
phương tiện khác nhau để có thể
thích hợp với mọi tầng lớp, mọi
căn cơ khác nhau. Nhờ đó mà từ những bậc
thượng căn đại trí cho đến kẻ
si mê ngu muội nhất cũng đều có thể nhận được
lợi lạc từ
Phật pháp, chỉ cần có thể
phát khởi niềm tin và
kiên trì nỗ lực tu tập theo đúng
lời Phật dạy.
Giáo pháp của
đức Phật khởi truyền từ
Ấn Độ, nhưng ánh sáng
Phật pháp qua
thời gian đã
dần dần soi chiếu khắp nơi, đến hôm nay thì
trở thành một
giáo pháp được biết đến và vận dụng trên toàn cầu. Trong
thực tế,
Đức Phật đản sinh khi
nhân loại đang chìm ngập trong khổ đau, và hơn 25 thế kỷ sau khi Phật
nhập diệt,
nhân loại vẫn ngập chìm trong
đau khổ. Thế nhưng, trong dòng khổ đau trải dài qua hơn 25 thế kỷ đó, có biết bao người đã thực sự thoát khổ được vui, có biết bao người đã có thể vượt trên số phận
bi đát muôn thuở của
kiếp người, sống một
cuộc đời an vui
tự tại trong từng giây phút. Và gần gũi nhất, mỗi người
Phật tử hôm nay khi
tĩnh tâm nhìn lại, đều có thể dễ dàng
nhận ra rằng
Phật pháp đã
mang đến cho ta biết bao niềm vui sống, đã biến
cuộc đời ta từ
vô nghĩa trở thành có nghĩa, đã
tháo gỡ cho ta biết bao
phiền não trói buộc, giảm nhẹ cho ta biết bao khổ đau trong cuộc sống...
Hạnh phúc chân thật có được từ sự
thực hành Phật pháp là một
trạng thái khác biệt
rõ ràng, không thể nhầm lẫn với những niềm vui có được khi
thỏa mãn dục lạc, bởi nó sẽ lan tỏa sang
mọi người quanh ta để ai ai cũng có thể vui theo, thay vì cướp lấy niềm vui của người khác để
biến thành “của mình”.
Nêu ra điều đó để thấy rằng,
Phật pháp là quan trọng và thiết yếu biết bao đối với
đời sống của toàn nhân loại! Hãy khoan nói đến những
cảnh giới siêu việt hay những
quán chiếu vi tế của các
hành giả thượng thừa đã
dày công tu tập, chỉ cần nhìn vào sự
thực hành Phật pháp mỗi ngày trong
gia đình, nơi
công sở hay ngoài
xã hội...
chúng ta đều có thể dễ dàng thấy được vô vàn những
lợi ích nhiệm mầu sâu sắc,
quả thật là
Phật pháp luôn có thể giúp cho mỗi người
chúng ta thoát khổ được vui trong mọi
hoàn cảnh. Và như vậy mới thấy rằng sự
lưu truyền Phật pháp là quan trọng đến mức nào!
Phật pháp không chủ trương việc đi tìm niềm vui cho riêng mình và ngoảnh mặt quay lưng với nỗi khổ của
tha nhân, bởi điều đó chỉ là
không tưởng. Vì thế, trong bao thế kỷ qua, những bậc
cao tăng đạt đạo, những hàng
thức giả uyên bác thấm nhuần Phật học, tất cả đều dấn thân khó nhọc vì
sự nghiệp hoằng dương Chánh pháp và
lưu truyền cho
hậu thế. Chính nhờ vào điều đó mà hôm nay đây, sau hơn 25 thế kỷ
trôi qua,
chúng ta vẫn còn
tiếp nhận được những lời dạy
quý báu từ
đức Phật.
Tuy nhiên,
Phật pháp truyền đi qua mỗi vùng miền đều có những đặc thù
nhất định, và để cho việc
hoằng dương Chánh pháp thực sự
hiệu quả dài lâu,
chắc chắn điều tốt nhất là người dân ở mỗi đất nước đều có thể học được
Phật pháp bằng tiếng mẹ đẻ của chính mình. Khi
Phật giáo truyền đến
Tây Tạng (khoảng năm 650), chỉ
trong vòng 2 thế kỷ đầu tiên, họ đã
thực hiện công việc
phiên dịch kinh điển một cách
hết sức tích cực và có
phương pháp khoa học. Một
Hội đồng gồm các
học giả, các nhà
Phật học Ấn Độ và
Tây Tạng đã cùng ngồi lại để
biên soạn bộ
tài liệu Mahāvyutpatti như một bản
chỉ dẫn bách khoa toàn thư cho người
phiên dịch kinh điển và phát hành vào năm 835. Ngoài các hướng dẫn và
quy ước cụ thể cho người
phiên dịch kinh điển, trong
tài liệu này chủ yếu là 9.565
thuật ngữ Phật học đối chiếu Phạn-Tạng và
ý nghĩa của chúng, được chia làm 277 chương, in thành 3 tập: một tập về
Phật giáo Đại thừa, một tập về
Phật giáo Tiểu thừa và một tập chỉ mục. Chỉ riêng những con số này cũng đã đủ để bất kỳ người
phiên dịch kinh điển nào cũng phải
cảm thấy ngưỡng mộ,
thèm muốn, bởi
sự thật là
cho đến thế kỷ 21 này, nghĩa là đi sau
Tây Tạng 12 thế kỷ,
Việt Nam vẫn chưa có được bất kỳ một
tài liệu tham khảo tương tự nào như vậy dành cho người
phiên dịch kinh điển. Đây là một trong những
yếu tố quan trọng đã góp phần tạo nên độ
chuẩn xác đáng
kinh ngạc cho
Đại tạng kinh tiếng
Tây Tạng dịch từ
Phạn ngữ.
Người Trung Hoa khởi sự
phiên dịch kinh điển từ rất sớm. Bản
Mục lục kinh điển hoàn chỉnh đầu tiên được biết đến là của ngài
Đạo An (314-385), thường được gọi là
Đạo An lục, tuy
đến nay đã thất bản, nhưng chính là khởi đầu quan trọng để các
thời đại sau
tiếp nối công việc. Khi
biên soạn mục lục này, những
kinh điển được Hán dịch từ trước đó và đương thời đều được ngài thu thập, đọc duyệt và chọn lọc trước khi đưa vào, nghĩa là có cả công việc
loại bỏ các bản dịch không
đáng tin cậy hoặc
nghi ngờ không đúng là
kinh điển.
Trong lịch sử phiên dịch kinh điển tại Trung Hoa,
chúng ta thấy
nổi bật lên nhiều
tên tuổi quan
trọng như Đàm-vô-sấm, Cưu-ma-la-thập,
Pháp Hiển, Bồ-đề-lưu-chi,
Chân Đế,
Nghĩa Tịnh,
Huyền Trang...
Công trình dịch thuật của các vị này hầu hết đều có thể xem là
công trình tập thể do họ chủ trì, vì luôn có nhiều người tài giỏi cùng đóng góp trong công việc, và các nhu cầu
vật chất thường được triều đình hoặc các quan chức
hết lòng giúp đỡ. Chẳng hạn, khi ngài
Huyền Trang phiên dịch kinh điển,
chúng ta thấy sách
Khai Nguyên Thích Giáo Lục (開元釋教錄) do
Trí Thăng biên soạn vào đời Đường, trong quyển 8 kể lại như sau:
遂召證義大德諳解大小乘經論為時輩所推者一十一人至。即京弘福寺沙門靈閏。沙門文備 。羅漢寺沙門慧貴。實際寺沙門明琰。寶昌寺沙門法祥。靜法寺沙門普賢。法海寺沙門神昉。廓州法講寺沙門道深。汴州演覺寺沙門玄忠。蒲州普救寺沙門神泰。綿州振響寺沙門敬明等。
綴文大德九人至。即京普光寺沙門拪玄。弘福寺沙門明濬。會昌寺沙門辯機。終南山豐德寺沙門道宣。簡州福聚寺沙門靖邁。蒲州普救寺沙門行友。棲巖寺沙門道卓。豳州昭仁寺沙門慧立。洛州天宮寺沙門玄則 等。
字學大德一人至。即京大總持寺沙門玄應。
證梵語梵文大德一人至。即京大興善寺沙門玄謨。
“[Vua Đường Cao Tông] lại
triệu thỉnh các vị
đại đức tinh thông am hiểu kinh luận Đại,
Tiểu thừa được [
chư tăng] suy cử đến
chứng nghĩa, gồm 11 vị. Đó là các vị Sa-môn
Linh Nhuận, Sa-môn Văn Bị ở chùa Hoằng Phúc tại kinh đô, Sa-môn Tuệ Quý ở chùa
La Hán, Sa-môn Minh Diễm ở chùa
Thật Tế, Sa-môn Pháp Tường ở chùa Bảo Xương, Sa-môn
Phổ Hiền ở chùa Tĩnh Pháp, Sa-môn
Thần Phưởng ở chùa
Pháp Hải, Sa-môn Đạo Thâm ở chùa Pháp Giảng thuộc Khuyếch Châu, Sa-môn Huyền Trung ở chùa Diễn Giác thuộc Biện Châu, Sa-môn
Thần Thái ở chùa Phổ Cứu thuộc Bồ Châu, Sa-môn Kính Minh ở chùa Chấn Hưởng thuộc Miên Châu.
“Lại có 9 vị
đại đức lo việc chỉnh lý
văn cú. Đó là các vị Sa-môn Thiên Huyền ở chùa
Phổ Quang tại kinh đô, Sa-môn Minh Tuấn ở chùa Hoằng Phúc, Sa-môn
Biện Cơ ở chùa Hội Xương, Sa-môn
Đạo Tuyên ở chùa Phong Đức núi Chung Nam, Sa-môn
Tĩnh Mại ở chùa
Phúc Tụ thuộc Giản Châu, Sa-môn
Hành Hữu ở chùa Phổ Cứu thuộc Bồ Châu, Sa-môn Đạo Trác ở chùa Thê Nham, Sa-môn Tuệ Lập ở chùa Chiêu Nhân thuộc Bân Châu, Sa-môn
Huyền Tắc ở chùa
Thiên Cung thuộc Lạc Châu.
“Lại có một vị
đại đức chuyên về
văn tự học là Sa-môn
Huyền Ứng ở chùa Đại
Tổng Trì tại kinh đô.
“Lại có một vị
đại đức kiểm chứng về Phạn văn là Sa-môn Huyền Mô ở chùa Đại Hưng Thiện tại kinh đô.”
Bản thân người chủ trì dịch trường là ngài
Huyền Trang, vốn cũng là một
cao tăng uyên bác kinh điển, từng trực tiếp học Phạn văn tại
Ấn Độ, nên nội lực của dịch trường như thế có thể nói là
vô cùng hùng hậu. Còn sự
yểm trợ từ bên ngoài thì sao? Sách Đại Đường Cố
Tam Tạng Pháp Sư Hành Trạng (大唐故三藏玄奘法師行狀) do Minh Tường
biên soạn vào đời Đường, trong quyển 1 có đoạn văn sau:
又顯慶年中恩勅 云 。大慈恩寺僧 玄奘。所翻經論既新。翻譯文義須精。宜令太子太傅尚書左僕 射燕國公 于志寧。中書令兼 撿挍吏部尚書南陽縣開國男來濟。禮部尚書高陽縣開國男許敬宗。黃門侍 郎兼 撿挍太子左庶子邠陰縣開國男薛元 超。守中書侍 郎兼 撿挍太子右庶子廣平縣開國男李義府。時為看閱。有不隱便 處。即隨事 潤色。若須學士。任量追三兩人。
“Trong khoảng niên hiệu Hiển Khánh, vua lại ban sắc chỉ rằng: Việc
phiên dịch kinh luận của
Sư Huyền Trang ở chùa
Đại Từ Ân đã có sự cách tân, bản văn dịch nghĩa phải
tinh luyện kỹ lưỡng, nay lệnh cho quan
Thái tử Thái phó Tả Bộc xạ Yên quốc công là Vu Chí Ninh, quan Trung thư lệnh kiêm Kiểm giảo
Lại bộ Thượng thư Nam Dương huyện Khai quốc nam là Lai Tế, quan Lễ bộ Thượng thư Cao Dương huyện Khai quốc nam là Hứa Kính Tông, quan
Hoàng môn Thị lang kiêm Kiểm giảo
Thái tử Tả thứ tử Bân Âm huyện Khai quốc nam là Tiết Nguyên Siêu, quan
Thủ trung thư
Thị lang kiêm Kiểm giảo
Thái tử Hữu thứ tử Quảng Bình huyện Khai quốc nam là Lý Nghĩa Phủ,
thường xuyên xem xét lại [các bản dịch], nếu có chỗ nào không
rõ ràng thông suốt thì
tùy nghi chỉnh sửa cho lưu loát hơn.
Nếu cần các bậc
học giả, trẫm
cho phép [chọn] thêm vài ba người nữa.”
Sách
Cổ kim dịch kinh đồ ký (古今譯經圖紀) của
Tĩnh Mại soạn vào đời Đường, quyển 4, cũng cho
chúng ta những thông tin
tương tự, bổ sung một vài
chi tiết:
暨顯慶元 年勅 左僕 射于志寧。侍中許敬宗。中書令來濟。李義府。杜正倫。黃門侍 郎薛元 超等潤文。國子博士范義頵。太子洗馬郭瑜。弘文舘學士高若思等助 知翻譯。
“Đến năm đầu niên hiệu Hiển Khánh, vua ban chỉ sai nhóm các ông Tả Bộc xạ Vu Chí Ninh, Thị trung Hứa Kính Tông, Trung thư lệnh Lai Tế, Lý Nghĩa Phủ, Đỗ Chính Luân,
Hoàng môn Thị lang Tiết Nguyên Siêu...
phụ trách việc chỉnh sửa
văn từ [cho các bản dịch], các ông Quốc tử
Bác sĩ Phạm Nghĩa Quần,
Thái tử Tẩy mã Quách Du, Hoằng văn quán
Học sĩ Cao Nhược Tư... lo việc trợ giúp cho người chủ trì
phiên dịch.”
Từ thế kỷ 7 mà việc
phiên dịch đã có quy mô,
phương pháp tổ chức
hết sức kỹ lưỡng như thế.
Tuy nhiên, phải đến cuối thế kỷ 10 thì Trung Hoa mới có bản in
Đại Tạng Kinh lần đầu tiên gồm 5.000 quyển, và tiến trình Hán
dịch kinh điển còn
tiếp tục trong một
thời gian kéo dài
cho đến thế kỷ 14 mới tạm xem là
hoàn tất. Như vậy, nếu tính từ khi
Phật giáo du nhập Trung Hoa đến khi có được một bộ
Đại tạng kinh hoàn chỉnh, người Trung Hoa (với sự góp sức của rất nhiều vị
cao tăng Ấn Độ) đã phải chờ đợi đến 14 thế kỷ.
Dẫn nhập dài dòng như trên để
độc giả có thể thấy rằng, việc
phiên dịch kinh điển sang tiếng mẹ đẻ của một
quốc gia là
hết sức cần thiết, nhưng
đồng thời cũng là một công việc cực kỳ khó khăn và đồ sộ, đòi hỏi phải có sự đóng góp công sức của rất nhiều người trong một
thời gian dài như thế nào.
Còn công việc
phiên dịch kinh điển từ Hán tạng sang tiếng Việt thì sao?