Vũ trụ tuần hoàn đang quay lại khoảnh khắc
thiêng liêng bất khả tư nghì, khoảnh khắc mà, gót chân
đại hùng ghi dấu ấn đầu tiên của đức
Bồ tát tối hậu thân lên mặt đất, được vun bồi bởi
thiện nghiệp của
chúng sinh, mà cũng
thường trực bị dày vò
bức bách bởi
ái dục,
tà kiến, thù hận, khoảnh khắc cả
đại thiên vũ trụ trong dòng xoáy huyễn mộng chợt biến chợt hiện, gây bởi cuồng phong
nghiệp cảm, bỗng ngưng đọng để lắng nghe nhịp đập của trái tim
đại bi, vì tiếng kêu khóc của vô vàn
chúng sinh trong ngục tối
hãi hùng. Trong khoảnh khắc
thiêng liêng đó, hết thảy
chúng ta, những người con Phật đang
hiện diện tại lễ đài
Phật đản hôm nay, bấy giờ không biết đang lang thang
vô định trong cõi u tối nào, đang lặn chìm trong khổ lụy,
bị giam hãm trong ngục tù
năm uẩn, bị trùm kín bới
vô minh, không hề hay biết một đóa
hoa vô ưu đang nở rộ.
Nay, nơi đây, trong
không gian khiêm tốn, hạn hẹp, của Tăng viện,
bốn chúng đệ tử cùng
thành kính lắng đọng tâm tư,
chiêm ngưỡng hình tượng cao vời của
đấng Chí Tôn trong
ba cõi, nghe đồng vọng trong quãng
hư không vô biên, khúc
nhạc trời hân hoan truyền tín hiệu lan khắp
mười phương thế giới:
Hạnh phúc thay, chư Phật
xuất hiện.
Hạnh phúc thay,
Chánh pháp giảng truyền.
Hạnh phúc thay,
Tăng già hòa hiệp.
Hạnh phúc thay, hòa hiệp đồng tu.
Vì sao vậy?
Hết thảy mọi loài
chúng sinh đều mong
cầu an lạc, mong tìm được nơi
an ổn chí thiện; nhưng bị
lôi cuốn bởi
cuồng vọng, tham, sân, bị khống chế bởi
quy luật cạnh tranh sinh tồn, nên sinh tâm tật đố, ganh tị, hư cuống, dẫn đến,
tranh đoạt, tương tàn.
Xã hội càng lúc càng bành trướng với nhiều hình thái dị biệt,
mâu thuẫn càng lúc càng
gay gắt;
áp bức, bất công là
hậu quả của
tiến bộ xã hội y cứ trên
tâm thức tham ái,
vị ngã. Sự
xuất hiện của chư Phật là ánh sáng
đánh thức nhân tâm, tìm nẻo
quay về y tựa trên
pháp tánh bình đẳng, nhìn thấy và biết ta là ai, đang ở đâu.
Chánh pháp giảng thuyết, phô diễn
chân lý cứu cánh của
vũ trụ nhân sinh, để
chúng sinh có thức tánh có thể thấy và biết
bản chất của
thế giới, đâu là
hư vọng, đâu là
chân thật, để biết định hướng cho
cứu cánh của mình trong dòng thác lũ
sống chết xoay vần này.
Chúng Tăng hòa hiệp,
bốn chúng đệ tử cùng hòa hiệp, cùng
giác ngộ, sách tấn lẫn nhau để cùng
tu tập, phát triển tâm tư càng lúc càng cao thượng,
sáng suốt; và đó là nguồn
an lạc chân chính cho từng
cá nhân trong toàn
xã hội.
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng
Đạo Sư, cùng
tu hành theo một
giáo pháp, cùng hòa hiệp như nước với sữa, thì ở trong
Phật pháp mới có sự
tăng ích, sống
an lạc. Vậy nên, các chúng
đệ tử xuất gia của Phật sống
y chỉ trên sáu pháp hòa kỉnh, khả hỷ khả niệm; các
chúng tại gia sống
y chỉ trên pháp bốn nhiếp sự, tương thân tương ái, và tương trợ. Sống
hành đạo, cảm nghiệm
sâu xa pháp tánh hòa hiệp ấy, để
dần dần chứng nghiệm pháp tịch tĩnh Niết-bàn.
Bánh xe vương quyền
biểu tượng uy lực thống
nhất nhân tâm và
thống trị trên cả bốn châu
thiên hạ; bánh xe
chánh pháp ghi dấu ấn
chân thực của mọi
hiện tượng,
sinh thành và hủy diệt của
thế gian, trên
tâm thức chúng sinh.
Uy lực vương quyền, và
uy lực chánh pháp,
cùng lúc hiển hiện trong
lòng bàn chân của
Bồ tát Sơ sinh. Nhưng bánh xe
chánh pháp là
uy lực tối thượng hướng dẫn
chư thiên và
nhân loại đi đến nơi
an ổn,
an lạc chân thường. Bước chân ghi dấu
biểu tượng uy lực chánh pháp vừa chạm đến mặt đất
ô trược,
thế giới ô trược liền chuyển mình,
hiển hiện thành những đóa sen thơm ngát. Khoảnh khắc ấy chỉ là một thoáng
sát na, mà
tâm thức chúng sinh bị trùm kín trong màn
vô minh tà kiến không thể nhìn thấy; nhưng khoảnh khắc ấy, trong con mắt của bậc
đại trí, ngưng đọng
thành thời gian
vĩnh cửu.
Kể từ khoảnh khắc ấy, trong một thoáng
sát na ấy,
thế giới lại chuyển mình lăn theo quy trình thành hoại,
đại thiên vũ trụ vẫn
tiếp nối hình thành và tan rã trong các chu kỳ thành, trụ, hoại, không;
xã hội loài người có khi tiến đến
thời kỳ xung đột hung tàn, vì dị biệt dân tộc, dị biệt
tín ngưỡng; cũng có khi
đạt đến một nền
văn minh dung hợp và
nhân ái, khiến cho
tâm lượng con người được
mở rộng dần.
Cho đến những năm đầu của thế kỹ 21, khúc quanh sau hai nghìn năm
văn minh y trên bạo lực hoành hành, khống chế và
áp bức trên cả bốn châu
đại lục, và khi mà
xung đột tôn giáo, dân tộc càng khốc liệt, bạo tàn; một phần
nhân loại đã
nhận ra thông điệp khoan dung,
từ ái của đức Thích Tôn, để
Liên Hiệp Quốc
quyết định ngày
Phật đản trở thành ngày lễ quốc tế, như là
biểu tượng cho
ước mơ muôn thủa
con người về
một thế giới thanh bình, không
hận thù, không
áp bức.
Trong
quá khứ, từ quê hương đản sinh của đức Thích Tôn,
cho đến tận cùng
hải đảo xa xôi về phía đông,
Phật pháp cũng
trải qua nhiều đợt
thăng trầm bởi
áp lực biến thiên của
xã hội, bởi
tham vọng, và
thù nghịch của tâm người; nhiều phương vực mà một thời
Phật pháp thịnh hành nay đã bị xóa sạch dấu vết. Thanh gươm
truyền giáo đã chém giết không tiếc thương;
kinh điển bị
thiêu hủy,
Phật tháp, tăng viện, bị
phá sập. Dù vậy, những người
tu Phật vẫn
kham nhẫn chịu đựng,
cho đến nhiều thế kỷ sau, vẫn không hề biết đến
ý tưởng hận thù, không hề
móng tâm đòi lại những gì đã bị cướp mất.
Rồi theo
trình độ phát triển của
tri thức con người, xóa dần những hình thái
mê tín dị đoan, vốn dẫn đến
cuồng tín và
biến thành thảm sát;
xây dựng những
giá trị nhân bản và phổ quát trong các
cộng đồng nhân loại; đấy là lúc
thông điệp từ bi,
bình đẳng,
giác ngộ của đức Thích Tôn được
toàn thể nhân loại lắng nghe và
chiêm nghiệm.
Đạo Phật Việt nam cũng không ngoài
quy luật phát triển đó. Ngay từ thời dựng nước,
Quốc sư Vạn Hạnh đã nói lên
tinh thần tịch tĩnh trước mọi
thế sự đảo điên, rằng “Xá chi
suy thịnh sự đời,
thịnh suy như
hạt sương rơi đầu cành.”
Đấy là lời
cảnh tỉnh chứa đựng trong thẳm sâu triết lý sống của
Phật tử Việt nam. Không vì bị
áp bức mà bành trướng thù hận để phải
quyết tâm tiêu diệt những kẻ
áp bức.
Nhẫn nhục, và từ hòa để chiến thắng chính mình và
giác ngộ những kẻ hung ác
cuồng vọng nhìn rõ
chân lý của
lẽ sống và lẽ chết, để sống cho xứng đáng với phẩm giá
con người,
thức tỉnh trách nhiệm về những
hành vi hung ác, mà ta đã
gieo rắc đau khổ cho người.
Hôm nay, trước lễ đài
Phật đản trang nghiêm, trong
tinh thần hòa hiệp,
bốn chúng đệ tử cùng
nhất tâm chí thành tưởng niệm
ân đức đại từ của
Bồ tát, vì thương tưởng
chúng sinh đắm chìm biển khổ, nên đã
trải qua vô số a-tăng-kỳ kiếp
hóa sinh trong khắp các nẻo
luân hồi,
hóa thân như cát bụi, khơi tỏ nguồn
tâm trí tuệ như
mặt trời xóa tan bóng tối
tà kiến đảo điên. Do
ân đức ấy, hàng
Phật tử hôm nay
may mắn còn chút
thiện duyên để được
thấm nhuần mưa pháp,
tăng trưởng thiện căn, nuôi lớn
hạt giống bồ đề.
Nguyện cầu
phước quả này lan đến
vô lượng chúng sinh, để trong nhiều đời nhiều kiếp cùng kết
thiện duyên, cùng làm
thiện tri thức, cùng
tu tập vô lượng ba-la-mật, để cho
thế giới Ta-bà
ô trược này chuyển thành
cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm.