Đạo Phật là một
tôn giáo tâm linh.
Đạo Phật có
vai trò gì đối với sự phát triển kinh tế?
Đa số các nhà
nghiên cứu nghi ngờ mối
liên hệ giữa
Phật giáo và kinh tế. Họ cho rằng sự phát triển kinh tế phương Đông đi đôi với những
giá trị Nho giáo hơn là
Phật giáo.
Phật giáo có
vai trò giáo dục đạo đức,
giải thoát tinh thần hơn sự phát triển kinh tế.
Thực tế, không ai phủ nhận những điều trên.
Tuy nhiên, sẽ là
sai lầm nếu
xem xét vấn đề trong những mảnh vụn của sự tách rời,
cô lập một cách siêu hình. Tách rời sự phát triển kinh tế với sự phát triển
đời sống đạo đức,
tâm linh đang là một
sai lầm của
thời đại chúng ta. Trong
thời đại ngày nay,
tăng trưởng kinh tế chỉ
đạt được khi
dục vọng của
con người được
kích thích. Đó là điều phần lớn các
tôn giáo (trong đó có Phật giáo) đều muốn đề kháng lại.
Hoạt động kinh tế
cực đoan, vô hình chung làm
tổn thương đến những
giá trị đạo đức,
văn hóa toàn
nhân loại.
Mặt trái của nền kinh tế thị trường biến mọi cái
trở thành hàng hóa,
đồng tiền thành thước đo
vạn năng cho mọi
giá trị.
Dục vọng trở thành động lực chính -
thúc đẩy kinh tế phát triển. Nhưng
dục vọng lại đi liền với
thất vọng và
bất mãn, bởi vì
con người không xác định được điểm dừng cho những nhu cầu ngày càng tăng của mình.
Nghệ thuật
quảng cáo dưới mọi
hình thức lại càng tăng tối đa những nhu cầu giả tạo của
con người. Lòng tham trở nên
vô độ.
Con người bằng mọi
phương tiện hoạt động để
đáp ứng cho lòng tham
không giới hạn ấy. Lòng tham, khiến
con người xa rời
lối sống quân bình, đối nghịch với
thiên nhiên và
đồng loại, dẫn tới hành động tàn phá môi sinh, đây là nhân tố mà chính mình
dựa vào để
sinh tồn và phát triển. Đối nghịch giữa người với người,
xuất phát từ lòng tham, mà
sâu xa là sự đối địch trong
lợi ích kinh tế. Thánh Gandhi đã nói:
“Trái đất có thể cung ứng cho nhu cầu của tất cả mọi người, nhưng không thỏa mãn đủ lòng tham của tất cả mọi người”.Về điều này,
đức Phật đã chỉ rõ: Cổ vũ cho
dục vọng là đi ngược
con đường trí tuệ, làm cho
con người ngày càng thêm
chấp thủ vào
của cải, bởi
sợ hãi kẻ khác cướp đi
tài sản của mình. Càng giầu có càng phấp phỏng
lo âu và
bất an. Vậy
giảm thiểu nhu cầu là giảm sự
căng thẳng có thể gây ra sự
xung đột giữa các
cá nhân và chiến tranh giữa các
quốc gia.
Phật giáo không xem
tư hữu là
xấu xa, vì
tư hữu không ít thì nhiều có
liên hệ tới nghiệp của mỗi
cá nhân và
miễn là các
tài sản này được tạo ra bởi những cách thức
chính đáng,
hợp pháp.
Nhưng
đức Phật cũng khuyên không nên giữ lấy
tài sản để rồi
nô lệ cho
tài sản...Thủ, tức lại rơi vào vòng
luân hồi. Xả, tức là
giải thoát. Làm giàu bằng mọi cách chỉ khiến cho
con người mãi mãi luẩn quẩn
trong vòng Tam độc: tham-sân-si.
Đức Phật đã khuyên
chúng ta đừng có
ngu ngốc bám
giữ khư khư tài sản của mình mà không vì người khác.
“Tài sản của anh sẽ ở lại khi anh chết, họ hàng và bạn bè sẽ theo anh đến tận mồ. Nhưng chỉ có những hành động tốt, xấu mà anh đã làm trong suốt cuộc đời sẽ cùng anh sang thế giới bên kia”.Chính mệnh là một trong Tám khâu mấu chốt trong
giáo lý Bát Chính Đạo của
Phật giáo đưa tới giải thoát. Trong thời của
đức Phật chúng ta thấy, nền kinh tế khá giản đơn,
tuy nhiên đức Phật đã khuyến cáo các
đệ tử không được làm một số nghề như sát vật, bán thịt, bán vũ khí, bán rượu…Trong nhiều đoạn kinh,
đức Phật còn nhắc nhở một cách
chi tiết làm thế nào để có một
cuộc đời hạnh phúc đó là: Phải
tiêu dùng của cải vật chất một cách
hợp lý, coi cuộc sống
vật chất chỉ là
phương tiện để đạt tới
đời sống tâm linh giải thoát.
Một cuộc sống an vui
giải thoát chỉ
đạt được khi
con người thực hiện được những
giá trị chân - thiện - mỹ và
hạnh phúc của người này
đạt được, không có nghĩa là giẫm đạp lên
hạnh phúc của người khác, loài khác. Và
hạnh phúc đó chỉ có nghĩa khi
“đem lại sự sống an vui đến cho muôn loài”.Có thể vận dụng được gì những
quan niệm trên vào việc
xây dựng nền kinh tế thị trường?
Mục đích của
đạo Phật là sự
bình an trong
tâm thức.
Mục đích của
xã hội nói chung, trong đó có kinh tế là
đáp ứng ngày càng
tốt hơn những nhu cầu
vật chất và
tinh thần của người lao động,
đảm bảo cho
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Bởi thế điều quan
trọng không phải là
giảm thiểu nhu cầu,
triệt tiêu dục vọng mà là xác định nhu cầu
phù hợp với
điều kiện kinh tế -
xã hội của đất nước để phát triển sản xuất.
Vì vậy, chỉ có thể xác định
giới hạn cho phép của những nhu cầu
chính đáng và đấu tranh với những nhu cầu bất chính,
vi phạm tới
lợi ích của
đa số người dân lao động. Cuộc sống và sự phát triển của mỗi người không
thể đạt được bằng nỗi
bất hạnh của người khác, loài khác. Phát triển kinh tế phải
đồng thời với
ý thức về
giá trị bình đẳng của sự sống xuyên suốt
không gian và
thời gian, bao trùm cả muôn loài. Phát triển kinh tế,
đáp ứng nhu cầu của mỗi
chúng ta hôm nay, không thể song hành cùng với việc cướp mất
điều kiện sống và cơ hội phát triển của người khác và của con cháu
chúng ta mai sau.
Quan niệm của
Phật giáo cũng giúp
chúng ta nhìn nhận lại những được mất của
con người trong nền kinh tế thị trường để
điều chỉnh nhu cầu tạo ra sự hài hòa, cân bằng
đời sống vật chất,
tinh thần. Thuyết
trung đạo -
con đường giải thoát của
Phật giáo vẫn là bài học lớn đối với
chúng ta trong
hiện tại.
Nếp sống khổ hạnh của thời bao cấp tới nay đã quá
xa lạ với cơ chế thị trường.
Đức Phật cũng đã từng
xác nhận rằng, không thể đi tìm
giải thoát tâm linh nếu
tâm linh ấy chứa đựng trong
một thể xác quá ư bạc nhược, ốm yếu về
thể chất, tức
(tu khổ hạnh).Nhưng ngược lại, nếu
con người quá mải mê
theo đuổi những nhu cầu hưởng lạc
vật chất, thì
đời sống tâm linh sẽ bị xao nhãng, chệch hướng. Đây cũng là lời
cảnh báo cho một
nghịch lý của thế kỷ hôm nay.
Thực tế chúng ta thấy, giữa một
xã hội tiêu dùng với một khối lượng
của cải đồ sộ mà
con người phương Tây vẫn phấp phỏng
lo âu,
cô đơn trong
hiện hữu. Bởi thế,
duy trì nếp sống quân bình như
lời Phật dạy là một điều
cần thiết hiện nay.
Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với
tiến bộ,
công bằng xã hội, phải
bảo vệ môi sinh và
con người, để con cháu
chúng ta còn được
“những gặt hái của mùa màng ngày mai”. Nếu ta chỉ biết khai thác nguồn tài nguyên
thiên nhiên mà không có sự tái tạo
trở lại, là
đồng nghĩa với sự hủy diệt môi sinh, phá vỡ cân bằng sinh thái, bởi sự phát triển kinh tế “nóng” như hiện nay, thì làm sao có được nền kinh tế phát triển
bền vững như mong muốn.
Như
chúng ta thấy,
thế giới hiện nay đang bất ổn,
thiên tai dồn dập, bạo lực khắp nơi. Các cường quốc luôn ỷ mạnh hiếp yếu, muốn tạo lập
trật tự thế giới theo ý riêng
bản ngã của mình.
Áp bức bất công, tham nhũng,
cưỡng bức luôn
xuất hiện, chỉ khác là nơi nhiều nơi ít mà thôi. Tại sao có
tình hình như thế?
Trước
hết nói về
thiên tai, theo các nhà khoa học cho rằng: Với khả năng có hạn của khoa học hiện nay, thì không khắc phục được thảm họa động đất, sóng thần, cuồng phong, mưa bão, núi lửa. Tất cả
thiên tai đó đều
vượt quá khả năng của khoa học.
Phật pháp nói:
“Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Liệu
con người có thể rút ra một vài
nhận thức và hành xử
tốt hơn trong cuộc sống
dựa vào Phật giáo không?...
Thế giới là do tâm tạo,
tâm thức con người với những tập quán xấu như hung bạo, hiếu chiến, giết chóc tất nhiên là
ảnh hưởng bất ổn tới
an ninh thế giới, điều này ai cũng thấy. Nhưng ít ai hiểu rằng
thiên tai cũng là do tâm tạo. Theo
giáo lý đạo Phật: Không có cái gì
tự nhiên có, bởi cái này sinh, thì cái kia sinh và ngược lại.
Thế giới vật chất,
thái dương hệ,
mặt trời, hành tinh đều là cấu trúc theo nguyên lý: thành, trụ, hoại, diệt. Khi
Phật giáo nói:
“Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”,
chúng ta phải hiểu rằng, Tâm chính là lực tổng hợp của 4 lực cơ bản của
vật chất, Tâm là nguồn
năng lượng vô hạn. Đó là các nhà khoa học
hiện đại Thế giới ngày nay qua
nghiên cứu, kiểm chứng khẳng định. Về điều này, nếu là
phật tử chúng ta đều thấy, cách đây trên 25 thế kỷ,
đức Phật đã đề cập về sự
ảnh hưởng và
vai trò tối quan trọng của
Tâm thức con người trong
Duy thức luận và các
kinh điển Phật giáo.
Chính vì Duy lý
cực đoan, không
tìm hiểu Duy thức luận Phật giáo, nên “Khoa học
hiện đại ngày nay mới lâm vào khủng hoảng
lý thuyết Vật lý, mà các nhà khoa học
nổi tiếng thế giới đã cảm nhận, khi môn cơ học lượng tử phát triển đã cho thấy rằng,
vật chất là không
thực thể. Xin dẫn một số
ý kiến của các nhà khoa học về
nhận định trên như sau: Nhà
vật lý người Đan Mạch- Nicls Bohr- giải Noben
vật lý 1922 cho rằng:
“Hạt vật chất cơ bản cô lập thì trừu tượng - tức không phải là vật thực”; Nhà toán học người Mỹ gốc Hungary – VonNeumann (1903-1957) có nhiều đóng góp cho
Vật lý lượng tử và khoa học máy tính cũng
phát biểu:
“Không có gì là thật trừ phi ý thức hiện hữu, tất cả vật thật đều cấu thành từ ý thức”; Nhà
Vật lý và Toán học người Hung, giải Nobel
vật lý năm 1963 cũng cho rằng:
“Càng nghiên cứu thế giới bên ngoài, càng dẫn tới kết luận rằng, nội dung của ý thức (tức phạm trù tinh thần) là thực tại tối hậu…”(Truyền Bình).Biết rằng,
phạm trù kinh tế có những khác biệt. Nhưng với những
nghiên cứu và
đánh giá trên của các nhà khoa học đề cập về
vấn đề ý thức con người, ta lại càng thấy bất ngờ về sự tương đồng giữa khoa học và
Phật giáo qua câu
kinh điển:
“Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” mà
đức Phật nói cách đây trên 2.500 năm.
Trở lại vấn đề phát triển kinh tế, chắc ai cũng phải
thừa nhận rằng, những thập niên
gần đây, nền kinh tế không chỉ ở châu Á
mà cả thế giới đang phát triển
ngoạn mục.
Đương nhiên, kinh tế phát triển,
đồng nghĩa với ấm no và
yên ổn. Sao
thực tế hiện nay,
tình hình an ninh xã hội lại bất
yên ổn và bệnh tật
con người ngày càng
gia tăng không chỉ xảy ra ở riêng khu vực nào? Suy ngẫm lại câu Phật dạy
“Thiểu dục tri túc”, có nghĩa là biết đủ. Biết đâu, những
nghịch lý thế kỷ sẽ được khắc phục bắt đầu từ chính trong lĩnh vực kinh tế, nếu
chúng ta biết
tham khảo những
giá trị tích cực trong
lời Phật dạy.
Theo
đạo Phật, một
cá nhân khó có thể
đủ sức làm thay đổi cộng nghiệp của cả một
cộng đồng hàng trăm triệu người, nhưng
hiểu rõ giáo lý đạo Phật về nghiệp thì không còn than trời trách đất và
than thân trách phận, mà có thể, bình tâm,
an nhiên thọ nghiệp, giúp lòng không còn
lo lắng sợ hãi, như vậy cũng đủ
bình an.
Đức Phật Thích Ca dạy rằng, Hòa bình và
Hạnh phúc là do ở mình, là tâm trạng, là tâm thái chứ không phải người khác
quyết định. Do đó
Phật giáo dạy:
kiên nhẫn,
kiên trì (nếu không muốn nói là nhẫn nhục) sẽ giúp
con người vượt thoát
sân hận, khổ đau. Chính vì điều này, mà
Phật giáo không tán thành
biện pháp phóng dật, bạo lực. Người theo
đạo Phật thì không có thù hận,
ích kỷ và trước khi hành động một điều gì đều nghĩ tới
Nhân quả. Trong đó, lĩnh vực kinh tế, cũng không nằm ngoài
phạm trù tinh thần đạo đức.
Với
quan điểm Phật giáo:
“Con người không có đạo đức mới thật sự là nghèo cùng”.
Đạo đức ở đây được hiểu là bao hàm cả việc ứng xử đối với
thiên nhiên và muôn loài, chứ không phải chỉ riêng với
con người. Một
thực tế trong lĩnh vực phát triển kinh tế ở các nước phương Tây cho thấy: vào những thập niên sáu mươi của thế kỷ trước. Các nước phương Tây đã vận dụng
thành công về công nghệ kỹ thuật.
Nhưng mọi sự lại không ổn trong những thập niên này. Đây là những câu hỏi mà nhiều người
quan tâm đến
tinh thần và
đạo đức. Câu hỏi này, khi hỏi các
chân nhân và được
trả lời:
“Hiện nay, chúng ta đang chứng kiến sự gia tăng về kiến thức và vật chất (giáo dục chỉ quan tâm đến điều này), nhưng lại không quan tâm phát triển lòng tốt thiện tâm”. Nếu phải
so sánh sẽ thấy:
“Con người không phải là sản phẩm của máy móc, nên không mong gì có được hạnh phúc thật sự, nếu chỉ tùy thuộc vào ngoại cảnh”. Thực tế để sống được, đương nhiên
con người phải có
tối thiểu tài sản và
vật chất. Nhưng
nguyên nhân thật sự mang lại sự
hài lòng và
mãn nguyện, lại tìm từ trong
nội tâm của
con người. Đó là
lòng nhân và sự thiện lương
trong sáng, chứ không phải chỉ là
vật chất hữu vi.
“Nền kinh tế phải mang gương mặt con người, xuất phát từ con người, từ mối lo cho sự tồn vong và phát triển của con người.” Đó là điểm gặp gỡ giữa
tinh thần đạo Phật và
tinh thần Phát triển kinh tế hiện nay, với sự nhìn nhận cân đối hài hòa giữa
vật chất và
tinh thần. Và chỉ có như vậy, mới có nền kinh tế phát triển
bền vững lâu dài, đem lại
lợi ích ấm no và sự
bình an thật sự cho
con người và muôn loài.
Nguyễn Đức Sinh
Tạp chí
Nghiên cứu Phật học số tháng 9/2017
(
Thư Viện Hoa Sen)