ĐỨC PHẬT LÀ AI?
Peter Kearney [A]
Vô Minh dịch
Chúng ta có thể xem xét bản chất của Đức Phật qua hai lăng kính: Đức Phật của lịch sử và Đức Phật của đức tin (saddhā). Sự khác biệt rõ ràng giữa họ là Đức Phật lịch sử đã chết, trong khi Đức Phật đức tin còn sống. Hãy bắt đầu với Đức Phật của lịch sử. Khi còn sống ông được nhìn nhận như thế nào? Và đặc biệt, liệu ngài có phải là Đức Phật của đức tin không?
Upaka và Đức Phật
Sau khi giác ngộ tại Uruvelā, vùng lân cận Gayā, Đức Phật đang trên đường giảng dạy giáo pháp cho năm người bạn đồng hành cũ của mình thì gặp một sa môn (samaṇa) lang thang, hay nhà khổ hạnh, tên là Upaka. Upaka là một Ājivaka, thành viên của một trường phái yoga thời kỳ đầu. Upaka rất ấn tượng trước vẻ ngoài rạng ngời của Đức Phật và nói: "– Các căn của Hiền giả thật sáng suốt. Da sắc của Hiền giả thật thanh tịnh, thật thanh khiết. Này Hiền giả, vì mục đích gì, Hiền giả xuất gia? Ai là bậc Đạo Sư của Hiền giả? Hiền giả hoan hỷ thọ trì pháp của ai?”
Đức Phật đáp lại bằng cách thốt lên bài kệ tự phát:
"– Ta, bậc Thắng tất cả,
Ta, bậc Nhất thiết Trí.
Hết thảy pháp, không nhiễm,
Hết thảy pháp, xả ly.
Ta sống chân giải thoát,
Đoạn tận mọi khát ái.
Như vậy Ta tự giác,
Còn phải y chỉ ai?
Ta không có Đạo Sư,
Bậc như Ta không có.
Giữa thế giới Nhơn, Thiên,
Không có ai bằng Ta.
Bậc Ứng Cúng trên đời,
Bậc Đạo Sư vô thượng.
Tự mình Chánh Đẳng Giác,
Ta an tịnh, thanh thoát.
Để chuyển bánh xe Pháp.
Ta đến thành Kàsi.
Gióng lên trống bất tử,
Trong thế giới mù lòa.”
(MN 26 Ariyapariyesanā Sutta, Kinh Thánh Cầu) [B]
Ở đây, Đức Phật tự giới thiệu mình là nguồn giáo lý duy nhất dẫn đến chấm dứt nỗi khổ của luân hồi. Lưu ý rằng trong khi Ngài tuyên bố là duy nhất, Ngài không đưa ra tuyên bố về vũ trụ học. Ngài không tự nhận mình là Chúa hay một vị thần. Ngài là con người, nhưng đã vượt qua thân phận con người và chỉ ra con đường dẫn đến sự siêu việt tương tự cho những ai sẵn sàng nhận Ngài làm thầy.
Upaka không có ấn tượng gì, thực tế là nói: "Ừ, sao cũng được," và bỏ đi. Nhiều người trong chúng ta chia sẻ câu trả lời này. Suy cho cùng, đó là một ý tưởng hay, nhưng…
MahaKaccāna (Đại Ca-chiên-diên) và Đức Phật
Nhiều năm sau, chúng ta thấy vai trò của Đức Phật là một vị thầy khi Ngài đã khẳng định chắc chắn là một vị thầy quốc tế có danh tiếng lớn. Một buổi tối, ngài giảng một bài giảng ngắn gọn nhưng sâu sắc cho chúng tỳ khưu tập hợp và sau đó lui về lều của mình. Các vị tỳ khưu đã lắng nghe một cách kính trọng nhưng bây giờ họ không hiểu ngài đang nói về điều gì, nên họ đến gặp một học trò lớn tuổi, Mahā Kaccāna (Đại Ca- chiên-diên), để được giải thích. Mahā Kaccāna bắt đầu bằng việc quở dạy các vị tỳ khưu đồng tu của mình vì đã hỏi ông về giáo lý thay vì hỏi Đức Phật khi họ có cơ hội.
“Cũng vậy là hành động của chư Tôn giả, đứng trước mặt Thế Tôn, quý vị bỏ qua Thế Tôn, nghĩ rằng phải hỏi tôi về ý nghĩa này.
Chư Hiền, Thế Tôn biết những gì cần phải biết, thấy những gì cần phải thấy, Ngài đã trở thành vị có mắt, trở thành vị có trí, trở thành Chánh pháp, trở thành Brahma, vị thuyết giả, vị diễn giả, vị đem lại mục tiêu, vị trao cho bất tử, vị Pháp Chủ, Như Lai.”
(MN 18 Madhupiṇḍika Sutta, Kinh Mật Hoàn) [B]
Ở đây chúng ta nhìn Đức Phật từ góc độ của những người đã dấn thân theo Ngài với tư cách là học trò của Ngài. Đức Phật là người có thẩm quyền tối cao đối với mọi vấn đề của Pháp. Chúng ta có một câu hỏi? Đức Phật đưa ra câu trả lời. Do đó, truyền thống Nguyên thủy coi các bài giảng là “lời dạy của Đức Phật” (Buddha-vacana), và Đức Phật là “Thầy”. Không phải là giáo viên bình thường; nhưng là một vị thầy tâm linh, vị Thầy mà cho đến ngày nay, lời nói và hành động vẫn còn tồn tại trong kinh văn ghi lại chúng. Điều đó gợi ý một mối quan hệ. Rốt cuộc, chúng ta không phát triển mối quan hệ với Thầy của mình sao? Và chẳng phải mối quan hệ của chúng ta với Thầy là quan trọng nhất hay sao?
Piṅgiya & Đức Phật
Tiếp theo, chúng ta có một ví dụ về mối quan hệ của một môn đệ với Đức Phật còn hơn cả việc tiếp thu những lời dạy từ Ngài. Bà-la-môn Piṅgiya, người đã gặp Đức Phật và quy phục lời dạy của Ngài, được hỏi tại sao ông lại luôn ghi nhớ hình ảnh của Đức Phật vì ông rất sùng mộ Ngài. Piṅgiya đã trả lời:
“Thưa vị Bà-la-môn, con không thể sống, dầu chỉ trong chốc lát, xa lìa khỏi vị Gotama có tuệ bao la, khỏi vị Gotama có sự sáng suốt bao la.
Là vị đã thuyết giảng cho con Giáo Pháp có thể thấy được bởi tự thân, không bị chi phối bởi thời gian, có sự đoạn diệt tham ái, không có rủi ro, điều tương đương với pháp (Niết Bàn) ấy là không có ở bất cứ đâu.
Thưa vị Bà-la-môn, con nhìn thấy ngài ấy bằng tâm và bằng mắt, ban đêm và ban ngày không bị xao lãng. Trong khi kính lễ (đến Ngài), con sống qua đêm; chính bằng cách ấy, con nghĩ là sống không xa lìa.
Tín, hỷ, tâm ý, và niệm của con không lìa xa lời giảng dạy của đức Gotama. Mỗi phương hướng nào bậc có tuệ bao la di chuyển đến, con đây đều kính lễ theo chính phương hướng ấy.
(Sutta Nipāta 5.19, Kinh Tập, Bài kệ Đi đến bờ bên kia) [C][D]
Ở đây mối quan hệ với Đức Phật được tiến thêm một bước nữa. Đức Phật còn sống nhưng ở xa về mặt vật lý. Tuy nhiên, Piṅgiya có mối quan hệ thân thiết với Ngài và mối quan hệ này rõ ràng là trọng tâm trong quá trình thực hành của anh ấy. Trên thực tế, Piṅgiya coi việc thực hành của mình là duy trì mối liên hệ mật thiết với Đức Phật, đến mức anh ấy có thể coi mình như đang sống với Đức Phật. Lưu ý rằng Piṅgiya không nói rằng ông sống với Đức Phật; đúng hơn, anh ta quan niệm mình đang sống với Đức Phật. Chúng ta sẽ xem xét sự khác biệt này sau.
Đức Phật của đức tin (saddhā)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các học trò của Ngài tiếp tục cùng nhau gìn giữ truyền thống. Ngài vẫn là điểm tham chiếu trung tâm của những người tự gọi mình là học trò của Ngài. Mối quan hệ của Piṅgiya với Ngài đã trở thành tiêu chuẩn.
Nhưng chúng ta ở đây, ở nước Úc thế kỷ 21, những người theo chủ nghĩa duy vật có học thức và duy lý, có niềm tin vào khoa học. Do đó, trong thời điểm khẩn cấp về sức khỏe quốc tế, chúng ta được yêu cầu đừng đặt nghi vấn về khoa học và chúng ta có xu hướng coi thường những người bác bỏ lời dạy của khoa học. Với sự cam kết của chúng ta đối với một thế giới quan khoa học, làm thế nào chúng ta có thể giải quyết được ý tưởng về một vị Phật vẫn còn sống mặc dù ngài đã chết? Chúng ta có nên thử không? Hay chúng ta nên hài lòng với việc một vị Phật đã chết đã để lại một số giáo lý rất hữu ích?
Chúng ta bắt đầu với khái niệm đức tin (saddhā), vì nếu chúng ta muốn tiếp cận Đức Phật như một sự hiện diện sống động hơn là một dự án học thuật, chúng ta phải tiếp cận Ngài, giống như Piṅgiya, thông qua đức tin.
Hãy bắt đầu bằng cách làm rõ các quy phạm của chúng ta. Saddhā là từ Pāli thường được dịch là “niềm (đức) tin” hay “sự tin tưởng” – hay thậm chí là “sự tin cậy”. Từ “saddhā” xuất phát từ gốc động từ √dha, “để hoặc đặt” và śrad, một từ Vệ Đà cổ có nghĩa là “trái tim”. Saddhā có nghĩa là “đặt trái tim vào một việc gì đó”; hoặc “đặt vào trái tim” như “ghi nhớ điều gì đó vào trái tim”. Vì vậy saddhā là sự kết nối của trái tim chúng ta với những gì chúng ta cho là có thật. Saddhā không phải là niềm tin suông mà là sự kết nối cảm nhận được với thực tế. Saddhā không phải là nhận thức mà là tình cảm.
Đây là điểm mấu chốt để hiểu saddhā. Trong thế giới hiện đại của chúng ta, chúng ta cho rằng “niềm tin” có bản chất là nhận thức. Có niềm tin có nghĩa là chúng ta chấp nhận những niềm tin không thể tin được vì ai đó bảo chúng ta làm như vậy. Nhưng đây không phải là saddhā. Nếu saddhā là “niềm tin” thì nó gần với niềm tin hơn với ý nghĩa chung thủy với ai đó. Khi chúng ta cam kết có mối quan hệ với người khác, chúng ta đồng ý, ngầm hoặc rõ ràng, sẽ “chung thủy” với người đó. Điều này không có nghĩa là chúng ta tin vào những điều không thể tin được về anh ấy hoặc cô ấy. Nó có nghĩa là chúng ta cam kết với mối quan hệ này theo cách nó định hình lối sống của chúng ta. Nó cung cấp cho chúng ta ý thức về phương hướng, về điều gì là quan trọng và điều gì không quá quan trọng trong cuộc sống của chúng ta, và do đó mang lại cơ sở vững chắc cho những quyết định mà chúng ta đưa ra.
Đức Phật ghép saddhā với paññā, thường được dịch là “trí tuệ”. “Paññā” dựa trên gốc động từ √ñā “biết” và tiền tố pa-, đóng vai trò như một từ tăng cường. Paññā có phạm vi ứng dụng rộng rãi. Nó liên quan chặt chẽ với sati, “chánh niệm”, và thường khi Đức Phật đề cập đến thực hành chánh niệm, ngài dùng từ ghép sati-sampajañña, “chánh niệm-&-tỉnh giác”, trong đó sampajañña, cũng dựa trên gốc động từ. √ñā “biết” là một loại trí tuệ ở cấp độ sơ nguyên. Ngược lại với saddhā, paññā không phải là cảm xúc mà là nhận thức.
Cùng với nhau, saddhā và paññā đại diện cho sự hợp nhất giữa cảm xúc và nhận thức bên trong con người, đến mức saddhā trưởng thành hòa nhập vào paññā. Một lần nọ, khi ngài đang sống ở Āpaṇa, Đức Phật yêu cầu Xá-lợi-phất (Sāriputta), người có trí tuệ hàng đầu trong số các học trò của Ngài, dạy về năm indriya, hay năm năng lực, gồm saddhā (đức tin), viriya (tinh tấn), sati (chánh niệm), samādhi (định) và paññā (trí tuệ) Đây là ba yếu tố quen thuộc của thiền trong bát chánh đạo (tinh tấn, chánh niệm và định) được bao bọc bởi một bên là niềm tin và một bên là trí tuệ. Những vị trí bên cạnh này rất quan trọng, vì thông thường những gì giữ một danh sách lại với nhau là thành viên đầu tiên và thành viên cuối cùng.
Niềm tin (saddhā), đối với Sāriputta, hướng tới Đức Phật và sự giác ngộ của Đức Phật. Nó liên quan đến cảm giác được cảm nhận về thực tế, và do đó, khả năng thức tỉnh thực sự đối với tôi. Hãy chú ý đến cảm giác thực tế, ít nhất là trong tiềm năng. Những gì tôi có saddhā trong đó phải đủ chân thực để tôi có thể hành động theo nó.
Trí tuệ (paññā) hướng tới sự hiểu biết về duyên khởi và chứng ngộ Nibbāna. Niềm tin và trí tuệ, gộp danh sách lại với nhau, cuối cùng hợp nhất khi tất cả các năng lực này trưởng thành:
Nỗ lực hết lần này đến lần khác, chánh niệm nhiều lần, nhất tâm nhiều lần, và hiểu đi hiểu lại, trái tim của một học sinh có học thức được đặt vững chắc (abhisaddahati) theo cách này: “Những điều mà trước đây tôi chỉ được nghe nói đến, bây giờ tôi sống chạm vào chúng bằng thân thể, nhìn thấy chúng rõ ràng”… Đây là khả năng đức tin của người ấy. (Kinh Āpaṇa Indriya Tương Ưng Căn 48.50) [E]
“Sự vật” hay “hiện tượng” (Pháp) được “tiếp xúc bằng thân” và “được nhìn thấy rõ ràng”. Có phải chúng ta đang nói về hai phương thức trải nghiệm khác nhau? “Sờ chạm” gợi cảm thọ (vedanā), phương thức cảm thọ. “Thấy” gợi ý trí tuệ hay hiểu biết (paññā), một phương thức nhận thức rõ ràng về kinh nghiệm. “Chạm vào” gợi ý sự thân mật; “nhìn thấu suốt” gợi ý sự tách rời.
Phần trình bày này gợi ý rằng saddhā trưởng thành hầu như không thể phân biệt được với paññā. Động từ ở đây là abhi-saddahati, thêm tiền tố tăng cường “abhi” vào động từ “giao phó trái tim mình” (saddahati). Ở đây không phải là trường hợp saddhā bây giờ và paññā sau; saddhā ở đây và paññā ở đó. Cả hai đều hiện diện, bình đẳng nhưng khác nhau. Saddhā mang tính thân mật và thể chất, một mối quan hệ tình cảm với thực tế; paññā nhìn thấu suốt mối quan hệ nhận thức với thực tại.
Phật ở đâu?
Sāriputta nói rằng đối tượng của đức tin (saddhā) là Đức Phật và sự giác ngộ của Ngài. Đức tin bắt đầu từ đâu? Đức tin bắt đầu như một câu hỏi gợi lên ngay một thách thức. Một câu hỏi có sức mạnh đưa chúng ta ra khỏi cảm giác thông thường về những điều có thể xảy ra, ra khỏi thế giới bình thường, được coi là hiển nhiên của chúng ta.
Đối với tôi, đức tin bắt đầu từ một bức tượng Phật ngồi, được mua trong chuyến đi đầu tiên của tôi đến Thái Lan vào năm 1971 và sau đó đặt trên tủ sách của tôi ở nhà, nơi Ngài đã ngắm nhìn tôi trong nhiều năm và âm thầm đưa ra lời thách thức.
Đức Phật ngồi trong sự an lạc hoàn toàn, trong khi cuộc đời tôi là một mớ hỗn độn đầy đau khổ. Sự thanh thản của Đức Phật thể hiện sự khẳng định rằng có thể có một lối sống khác, bởi vì những người khác dường như đã sống một cuộc sống như vậy. Hình bóng Đức Phật thu hút, Ngài đánh thức hy vọng giữa nỗi đau. Nhìn Ngài, tôi biết rằng “Tôi muốn điều đó”, tôi muốn nó một cách say mê. Nhưng tôi có muốn nó đủ không? Tôi có muốn vứt bỏ mọi thứ khác sang một bên, mọi thứ cản đường để theo đuổi con đường mà Ngài đã thành tựu không? Vì để có được điều này tôi phải vứt bỏ tất cả những gì tôi biết và hiểu cho đến nay.
Và vì thế sự thanh thản của Đức Phật đưa ra một thách thức: “Điều đó có thực sự xảy ra được không?” “Điều đó có thể trở thành hiện thực?” Tư thế của Đức Phật thể hiện một tuyên bố về sự thật, nhưng điều quan trọng là phải chỉ ra rằng tôi không tin vào tuyên bố này, vì tôi không có cơ sở cho niềm tin như vậy, nhưng nó đòi hỏi sự chú ý và hành động của tôi. Đây là điều tôi phải tìm hiểu.
Khi đọc những cuốn sách có sẵn, tôi phát hiện ra rằng “Phật” có nghĩa là “người đã thức tỉnh” và điều mà Ngài đã thức tỉnh là một trạng thái gọi là “bồ đề”, “thức tỉnh” hay giác ngộ. Tôi dần dần hình thành nội dung cho hình ảnh này, một ý tưởng về bồ đề có thể là gì và nó có thể làm giảm nỗi đau của tôi như thế nào, nhưng tôi vẫn không cách nào biết được liệu điều nào trong số này là đúng. Nhưng tôi biết rằng nếu nó là sự thật thì tôi phải có nó! Tôi phải tìm hiểu xem điều này có đúng không, và cách duy nhất tôi có thể tìm ra là bắt tay vào thực hành. Bồ đề có thể là ảo ảnh; Tôi không biết, và không có cách nào để biết. Nhưng tôi phải tìm ra liệu nó có đúng hay không, và tôi chỉ có thể làm được điều đó bằng cách dấn thân vào con đường. Và bắt tay vào thực hiện nó một cách nghiêm túc, như thể cuộc sống của tôi phụ thuộc vào nó - đúng như vậy.
Để giác ngộ (bồ đề) trở thành một khả năng thực sự có nghĩa là tôi sẵn sàng sống như thể Phật là có thật, ngay cả khi không có sự xác nhận ngay lập tức về thực tế đó. Vì vậy, sự cam kết và định hướng là có thật ở chỗ chúng thúc đẩy tôi cam kết theo một lối sống nhất định, mặc dù tôi không có cơ sở hợp lý nào để tin rằng bất kỳ điều nào trong số này là có thật. Cam kết này thể hiện sức mạnh của hình ảnh Đức Phật - không chỉ là bức tượng, mà còn là hiện thân của khái niệm “Đức Phật”.
Vì vậy, vào năm 1977, tôi ném mọi thứ sang một bên và bay đến Sri Lanka và Ấn Độ, không biết chuyện gì có thể xảy ra, kinh hoàng rằng mình có thể đang theo đuổi một ảo ảnh, nhưng biết rất rõ ràng rằng ngay cả nếu có, tôi vẫn không có lựa chọn nào khác mà phải đuổi theo nó. Tôi đang nhảy vào bóng tối và bước nhảy này là một hành động của đức tin (saddhā). Không phải vì niềm tin bình thường mà là vì đức tin.
Bằng cách này, tôi bước vào mối quan hệ với Đức Phật. Bản chất của mối quan hệ đó là gì? Điều này làm tôi bối rối trong một thời gian dài và tiếp tục gây tò mò cho tôi cho đến ngày nay. Hãy để tôi cung cấp vài dữ kiện để đáp lại hai sự kiện.
Cách đây nhiều năm, tôi đã thực tập tại Chanmyay Yeiktha, một trung tâm thiền ở vùng ngoại ô phía bắc Rangoon. Thiền đường dành cho nam bị chi phối bởi một hoạt cảnh có bức tượng khổng lồ Đức Phật đang giảng bài pháp đầu tiên cho năm đệ tử đầu tiên của ngài, mặt trời và mặt trăng trên bầu trời và những chú nai đang lắng nghe từ trong rừng. Một ông già đang tu tập tại trung tâm này thường ngồi trên sàn ngay trước tượng Phật và ngồi bất động hàng giờ liền. Tôi nhìn ông ấy với ánh mắt ghen tị, vì tôi biết rằng khi ông ấy trải qua những thời điểm khó khăn và đen tối trong quá trình tu tập, tất cả những gì ông ấy phải làm là ngước lên và ông ấy sẽ yên tâm rằng mình được chăm sóc. Tôi không có sự đảm bảo đó. Do đó tôi ghen tị.
Nhiều năm sau, tôi là thành viên trong nhóm giảng dạy tại một Pháp hội, nơi các giáo thọ được hỏi câu hỏi: “Phật giáo có phải là một tôn giáo không?” Không cần suy nghĩ, tôi nói: “Tôi không biết. Tất cả những gì tôi biết là tôi nói chuyện với Đức Phật và đôi khi Ngài trả lời.”
Nhưng điều này có thật không?
Tất cả điều này đều rất tốt, nhưng không phải nó chỉ đang theo đuổi một giấc mơ sao? Chúng ta đang sống trong một thế giới vật chất. Việc tạo ra một vị Phật trong tâm trí tôi là có thật như thế nào? Ở đây chúng ta cần xem xét cách Đức Phật quan niệm về thực tại.
Việc thực hành thiền chánh niệm (satipaṭṭhāna), tập trung vào việc đưa trọng tâm của chúng ta ra khỏi thế giới khái niệm để đến với thế giới của các giác quan mà chúng ta tiếp xúc trực tiếp. Nguyên tắc cơ bản ở đây là thế giới của những khái niệm theo thói quen của chúng ta, những gì chúng ta cho là “thực”, “bình thường”, được xây dựng từ ba gốc rễ của bất thiện (akusala), rễ tham ái (lobha), sân hận (dosa). và si mê (avijjā). Chúng ta tạo ra một thế giới khái niệm tập trung vào một cái tôi tồn tại, có thật, chỉ như một mạng lưới các khái niệm. Đây là lời dạy về vô ngã (anattā). Chúng ta không phải là người mà chúng ta nghĩ mình là. Thế giới không như chúng ta nghĩ. Khái niệm của chúng ta không phải là thực tại mà chúng hướng tới. Phải chăng điều đó có nghĩa là chúng ta bác bỏ các khái niệm?
Điều này đưa chúng ta trở lại câu hỏi “Đức Phật có thật không?” Chúng ta hãy tiếp cận câu hỏi này bằng một câu hỏi khác: “Công lý có thật không?”
Bao nhiêu người trong chúng ta sẽ vui mừng khi kết luận rằng “công lý” không có thật vì nó chỉ là một khái niệm bịa đặt? Bởi vì nếu đúng như vậy thì trong thế giới khoa học và vật chất của chúng ta, chúng ta không việc gì phải tin vào nó hay sống theo những nhu cầu của nó. Hay chúng ta có vui khi coi “công lý” là có thật để nó có thể hướng dẫn hành động của chúng ta trong thế giới vật chất theo cách cho phép chúng ta phát triển?
“Công lý” không có thật cũng như “Đức Phật” không có thật. Chúng ta không thể nhìn thấy, nghe thấy, ngửi, nếm hoặc chạm vào nó. Nhưng ý thức chung của chúng ta về “công lý” thực sự ảnh hưởng đến điều kiện vật chất mà chúng ta đang sống, bao gồm cả cách chúng ta phản ứng với những điều kiện vật chất này. Liệu chúng ta có sẵn sàng từ bỏ lý tưởng công lý của mình vì chúng không “có thật” (về mặt vật chất) không?
Đức Phật có thật theo nghĩa công lý là có thật. Nếu Phật có thật như một khái niệm; và khái niệm này có tác động tích cực đến chất lượng thực hành của chúng ta và do đó đến chất lượng cuộc sống của chúng ta; điều đó chưa đủ thực tế sao?
Đức Phật ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta như thế nào? Ngài ban cho chúng ta một thế giới trật tự và đầy ý nghĩa trong đó chúng ta sống và sống tốt. Để phát triển, chúng ta cần một thế giới được xây dựng bên trong nó có ý nghĩa. Tuy nhiên, thế giới đến với chúng ta không phải đã được đóng gói sẵn với ý nghĩa. Chúng ta phải tạo ra ý nghĩa. Thế giới này cần “Phật;” nó cần một nguyên tắc vượt ra ngoài chính nó, vượt ra ngoài những mối quan tâm và mong muốn hàng ngày của chúng ta, để mang lại cho chúng ta cảm giác về một vận mệnh cuối cùng mang lại ý nghĩa cho cuộc sống hàng ngày. Chính lời hứa hẹn về ý nghĩa được thể hiện qua hình ảnh Đức Phật ngồi trên giá sách của tôi đã thôi thúc tôi tiếp xúc với Pháp, để tìm hiểu xem, theo một nghĩa nào đó, Đức Phật có tồn tại hay không.
Làm sao tôi biết Phật có thật? Trái tim và khối óc của tôi đã được hình thành qua nhiều năm rèn luyện, học tập và sống. Tôi đã học được rằng cách tôi nhìn nhận thế giới hồi đó, khi tôi đặt hình ảnh đó lên kệ của mình, là hoàn toàn không phù hợp. Bây giờ tôi đang sống trong một thế giới nơi Đức Phật có thật và nơi Ngài và tôi có mối quan hệ. Thế giới này phong phú và bền vững hơn nhiều so với thế giới mà tôi đã sống hồi đó và tôi phát triển trong đó.
Cảm giác về Đức Phật thường nằm ngay bên dưới bề mặt trải nghiệm hàng ngày của tôi, nảy sinh trong những khoảnh khắc bất ngờ. Khi tôi thực hành chuyên sâu, tâm tôi tĩnh lặng đến mức nếu tôi lắng nghe, tôi có thể nghe được giọng nói của Ngài. Đây có phải là một ảo ảnh? Có khả năng. Tôi sẽ không tranh luận với kết luận đó. Nhưng mối quan hệ này có làm phong phú thêm cuộc sống của tôi không? Nó có mang lại cho tôi sự hỗ trợ và định hướng mà nếu không thì tôi sẽ không có được không? Chắc chắn rồi.
Tôi có thể chứng minh sự tồn tại của Đức Phật không? Không. Có ai có thể chứng minh được sự không tồn tại của Đức Phật? Không. Và tôi hài lòng khi có mối quan hệ này dựa trên saddhā, dựa trên những chuyển động của trái tim tôi, thay vì dựa trên sự hoài nghi về tính hợp lý của tôi. Bởi vì lý trí của tôi tốt nhất chỉ là một hướng dẫn mỏng manh cho cuộc đời tôi.
Và thế là tôi sống như thể Phật có thật. Điều đó tất nhiên có nghĩa là Đức Phật có thật.
Ghi chú của người dịch:
[A] Patrick Kearney là một vị giảng sư độc lập trong dòng truyền thừa của Mahāsī Sayādaw của Miến Điện, các vị thầy chính của ông là Paṇḍitarama Sayādaw và John Hale. Ông cũng đã tu tập theo dòng Tăng đoàn Kim cương của Thiền tông. Y chỉ sư của ông là Robert Aitken Roshi, và ông hiện đang học với Paul Maloney Roshi. Patrick có mối quan tâm đặc biệt đến những lời dạy của Đức Phật trong thời Phật giáo sơ kỳ. Ông nghiên cứu tiếng Pali và tìm cách áp dụng sự hiểu biết của mình về các kinh văn cổ xưa vào việc thực hành Pháp trong thế giới đương đại.
[B] Theo bàn dịch của Cố Hòa thượng Thích Minh Châu.
[C] Sutta Nipāta 5.19, Kinh Tập, Bài kệ Đi đến bờ bên kia. Theo bàn dịch của Tỳ kheo Indacanda.
[D] Sutta Nipāta 5.19, Kinh Tập, Bài kệ Đi đến bờ bên kia. Theo bàn dịch của Cố Hòa thượng Thích Minh Châu.
Hỡi này Pin-gi-ya,
Sao Ông lại không thể,
Sống xa lánh vị ấy,
Chỉ trong một chốc lát,
Bậc Cù-đàm quảng tuệ,
Bậc Cù-đàm quảng trí,
Vị thuyết pháp cho người,
Pháp thiết thực hiện tại,
Đến ngay không chờ đợi,
Ái diệt, vượt đau khổ,
Vị ấy không ai sánh.
Pingiya:
Hỡi này Bà-la-môn,
Con không có thể được,
Sống xa lánh vị ấy
Chỉ trong một chốc lát,
Gotama quảng tuệ,
Gotama quảng trí.
Vị thuyết pháp cho con,
Pháp thiết thực hiện tại,
Đến ngay không chờ đợi,
Ái diệt, vượt đau khổ,
Vị ấy không ai sánh.
Chính con thấy vị ấy,
Với ý, với con mắt,
Ngày đêm không phóng dật,
Kính thưa Bà-la-môn,
Con trải qua suốt đêm
Đảnh lễ, kính vị ấy,
Do vậy con nghĩ rằng,
Con không xa vị ấy.
Với tín và với hỷ,
Với ý luôn chánh niệm,
Không làm con xa rời,
Lời dạy Gotama!
Chính tại phương hướng nào,
Bậc quảng tuệ đi đến,
Chính ở phương hướng ấy,
Con được dắt dẫn đến.
[E] Kinh Āpaṇa Indriya Tương Ưng Căn 48.50).
Theo bàn dịch của Cố Hòa thượng Thích Minh Châu.
Sự tinh tấn của vị ấy, này Sàriputta, là tấn căn của vị ấy. Với vị Thánh đệ tử có lòng tin và tinh cần, tinh tấn, này Sàriputta... Vị Thánh đệ tử có lòng tin ấy, tinh cần, tinh tấn như vậy; rõ biết, rõ biết như vậy; lòng thâm tín như sau sanh khởi: "Những pháp này trước kia ta từng được nghe, nay ta trú, tự thân chứng đạt những pháp ấy. Nay với trí tuệ, ta thể nhập chúng, ta thấy chúng rõ ràng".
Lòng tin của vị ấy, này Sàriputta, tức là tín căn của vị ấy.
- Từ khóa :
- Đức Phật Là Ai?