Phẩm Thí Dụ Thứ Ba

24/05/201012:00 SA(Xem: 20854)
Phẩm Thí Dụ Thứ Ba
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Giảng Giải: Hoà Thượng Tuyên Hoá
Hán dịch: Ngài Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định

Phẩm thí dụ Thứ ba

Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, bèn đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng : Hôm nay nghe đức Thế Tôn nói pháp nầy, tâm con rất hớn hở được chưa từng có. Tại sao ? Vì xưa kia con theo Phật nghe pháp như vầy : Thấy các vị Bồ Tát được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con chẳng được dự vào việc đó, rất tự cảm thương, mất đi vô lượng tri kiến của Như Lai.
Đức Thế Tôn ! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi rừng núi, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, bèn nghĩ thế nầy : Chúng con đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như Lai dùng pháp tiểu thừatế độ ? Đó là lỗi của chúng con, chứ chẳng phải đức Thế Tôn vậy.

Đây là phẩm thứ ba, Phẩm Thí Dụ. Thí dụ tức trong kinh thi nói là thể so sánh. Trong kinh thi có thể phú (giải bày), thể so sánh và thể hứng (thấy cảnh nảy ra lời thơ). Thí dụ tức thể so sánh. Vì đạo lý thâm áo, người khó hiểu, cho nên đưa ra một ví dụ khiến cho người hiểu dễ dàng.

Lúc bấy giờ, tất cả đại chúng đều trông mong đức Phật thọ ký. Ngài Xá Lợi Phất thân miệng ý ba nghiệp đều thanh tịnh, sinh tâm vui mừng lớn, mới đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan của đức Phật, mà nói với Phật rằng: "Con ở trước đức Thế Tôn, thân miệng ý đều thanh tịnh. Trước kia con ở trong hội Phương Đẳng và hội Bát Nhã, cũng chưa từng nghe qua diệu pháp như vầy. Bây giờ, con nghe đức Phật nói diệu pháp nầy, thấy tất cả đại Bồ Tát được Phật thọ ký sẽ thành Phật, bèn có cảm xúc, tâm rất bi thương chưa được Như Lai thọ ký, mất đi vô lượng từ bi trí huệ tri kiến của Phật. Đức Thế Tôn ! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi núi rừng, dụng công tham thiền. Vì núi rừng vắng lặng, cho nên một lần ngồi xuống thì cả mấy ngày, ngồi đến mỏi mệt thì đứng dậy đi kinh hành. Mỗi lần tự nhủ: Chúng con Thanh Văn Bồ Tát đều được pháp tính, vì sao đức Như Lai chẳng dạy chúng con pháp đại thừa, mà dùng pháp tiểu thừa để giáo hóa ? Phải chăng đức Như Lai đối với chúng con người tiểu thừa chẳng từ bi ? Chúng con thường khởi vọng tưởng như thế. Song, hồi quang phản chiếu rồi mới biết, đây là lỗi của chúng con. Chúng con người tiểu thừa căn mỏng huệ cạn, khó phát tâm nguyện độ sinh, cho nên Phật nói pháp đại thừa mà chúng con không thể tiếp thọ. Đây là lỗi căn cơ hạn hẹp của chính chúng con."
Vì sao ? nếu chúng con chờ Phật nói nhân duyên thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác, tất dùng pháp đại thừa mà được độ thoát. Nhưng chúng con chẳng hiểu Phật dùng phương tiện tùy nghi nói pháp. Mới nghe Phật pháp, gặp được liền tin nhận, suy gẫm chứng lấy. Đức Thế Tôn ! Con từ xưa đến nay, suốt ngày trọn đêm tự khắc chế trách mình, mà nay được nghe Phật nói pháp chưa từng có, dứt các nghi hoặc, thân tâm thơ thới, rất an vui tự tại. Hôm nay mới biết thật là Phật tử, từ miệng Phật sinh ra, từ pháp hóa sinh, được pháp tính của Phật.
Sở dĩ chúng con là hàng Thanh Văn, nghe Phật nói nhân duyên thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác, tất dùng pháp đại thừa tu hành, mới được độ thoát. Vô thượng chánh đẳng chánh giác tức là Phật vị. Chánh giác, chẳng giống phàm phu, những gì phàm phu làm, đều là hồ đồ chẳng tự giác. Chánh giác chưa đến được trình độ giác tha. Giác tha khác với nhị thừa. Người nhị thừa chỉ đắc được Chánh giác mà chưa đắc được Chánh đẳng. Chánh đẳng là bậc đại Bồ Tát, bậc Đẳng giác Bồ Tát. Diệu giác là Phật. Đẳng giác Bồ Tát còn một phần sinh tướng vô minh chưa phá, cho nên chưa đắc được Diệu giác vị. Nếu phá sạch một phần sinh tướng vô minh, thì sẽ đắc được Diệu giác. Đẳng giáchữu tình Thượng sĩ, Phật là Vô Thượng Sĩ.

"Muốn chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác", quả vị Phật, phải dùng pháp Bồ Tát đại thừa mới được độ thoát. Chúng con hàng Thanh Văn, chẳng biết Phật dùng pháp phương tiện giáo hóa chúng sinh, quán căn cơ thí giáo, vì người thuyết pháp, theo bệnh cho thuốc. Chúng con vừa nghe Phật nói pháp bốn Diệu Đếmười hai Nhân Duyên bèn tin nhận, dụng công tu hành được chứng quả. Đức Thế Tôn ! Con từ khi ở trong pháp hội Phương Đẳng cho đến hiện tại, từ sáng đến tối, tự khắc chế trách mình. Ngày đêm là gì ? Đêm tức là lúc trước chưa khai ngộ, giống như ban đêm; khai ngội rồi thì như ánh sáng mặt trời chiếu ban ngày. Nếu so sánh tiểu thừa với đại thừa Bồ Tát, thì tiểu thừa như ban đêm, đại thừa Bồ Tát như ban ngày, cho nên nói "suốt ngày trọn đêm".

"Đều khắc chế trách mình" : Khắc chế là chính mình đối trị với chính mình, tức là trong Nho giáo có nói về công phu "khắc kỷ". Nhan Hồi hỏi Đức Khổng Tử làm thể nào đắc được "nhân". Khổng Tử đáp : "Khắc kỷ phục lễ là nhân". Nghĩa là khắc chế chính mình, khôi phục thiên lý là nhân. Nhan Hồi lại hỏi làm thế nào khắc kỷ phục lễ ? Khổng Tử đáp :

"Phi lễ vật thị,
Phi lễ vật thính,
Phi lễ vật ngôn,
Phi lễ vật động."

Nghĩa là : Việc gì chẳng hợp với lý đạo thì đừng xem, chẳng những không xem mà cũng đừng nghe, như có ai nói thị phi thì đừng nghe. Lời chẳng hợp với đạo lý thì đứng nói, việc chẳng hợp với đạo lý thì đừng làm. Xem, nghe, nói, làm, đều hợp lễ, thì tức là khắc kỷ phục lễ. Ngài Xá Lợi Phất thường khắc chế mình mà không phóng dật. Muốn học Phật pháp phải phát tâm dũng mãnh, không sợ gian lao khốn khổ, phàm ai thành công cũng đều có sự khắc chế công phu. Tại Hương Cảng có vị pháp sư Thọ Dã (bây giờ trụ trì chùa Quang Minh ở Nữu Ước), lúc trước ông ta bế quan trên núi Ngũ Đài, dùng máu để biên Kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm có tám mươi quyển, có hơn mấy chục vạn chữ. Thầy đó dùng máu biên bộ Kinh nầy, đủ thấy Thầy đó có công phu "khắc kỷ".
Tôn giả Xá Lợi Phất tiếp tục nói : Nay học tập Phật pháp, nghe diệu pháp của Kinh Pháp Hoa, dứt tất cả nghi hoặc, thân tâm đều thơ thới rất an vui tự tại. Hôm nay mới biết con thật là Phật tử (con của Phật), từ miệng Phật sinh ra, từ Phật pháp hóa sinh, đắc được Phật pháp tính.

Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng:

Con nghe tiếng pháp nầy
Đắc được chưa từng có
Tâm sinh vui mừng lớn
Lưới nghi đều đã trừ.
Xưa nay nhờ Phật dạy
Chẳng mất nơi đại thừa
Tiếng Phật rất ít có
Hay trừ khổ chúng sinh.
Con đã được sạch lậu
Nghe cũng trừ khổ não.

Lúc đó, tôn giả Xá Lợi Phất muốn tường thuật lại ý nghĩa Kinh văn vừa nói ở trên, bèn dùng kệ để nói: Con nay nghe được tiếng diệu pháp nầy, đắc được diệu pháp chưa từng có, tâm sinh vui mừng lớn, lưới hoài nghi đã trừ sạch. Thuở xưa, đời đời kiếp kiếp nhờ Phật giáo hóa, tài bồi hạt giống đại thừa, đời nầy đã chín mùi. Tiếng của Phật vi diệu thanh tịnh sâu xa, rất ít có trong đời, hay dứt trừ phiền não của chúng sinh. Con đã chứng tứ quả A La Hán, đắc được lậu tận thông. Con vốn căn tính tiểu thừa, chưa thật sự minh bạch đạo lý Bồ Tát. Hiện tại con nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, khiến cho khổ não của con đều trừ sạch.

Con ở nơi hang núi
Hoặc dưới cây trong rừng.
Hoặc ngồi hoặc kinh hành
Thường suy gẫm như vầy:
Than ôi ! Tự trách mình
Sao lại khi dối mình.
Chúng ta cũng Phật tử
Đồng vào pháp vô lậu
Đời vị lai chẳng được
Diễn nói đạo vô thượng.

Con ở nơi hang núi, hoặc trong rừng cây, hoặc ngồi hoặc đi, thường nghĩ việc nầy, mà than thở sao lại tự trách mình ? Chúng con đều là Phật tử, đồng vào pháp vô lậu, nhưng ở đời vị lai chẳng được diễn nói diệu pháp vô lậu.

Sắc vàng ba mươi hai
Mười lực các giải thoát
Đồng trong một pháp tánh
Mà chẳng được việc nầy.
Tám mươi tướng tốt đẹp
Mười tám pháp bất cộng
Những công đức như thế
Mà con đều đã mất.
Lúc con kinh hành riêng
Thấy Phật trong đại chúng
Danh đồn khắp mười phương
Rộng lớn ích chúng sinh.
Nghĩ mình mất lợi nầy
Vì con tự khi dối
Con thường nơi ngày đêm
Đều suy nghĩ việc nầy.
Muốn hỏi đức Thế Tôn
mất hay chẳng mất ?
Con thường thấy Thế Tôn
Khen
ngợi các Bồ Tát.
Vì thế nên ngày đêm
Con nghĩ về việc nầy
Nay nghe tiếng Phật nói
Tùy nghi mà nói pháp.
Vô lậu khó nghĩ bàn
Khiến chúng đến đạo tràng
Con vốn chấp tà kiến
Làm thầy các Phạm chí.
Thế Tôn biết tâm con
Trừ tà nói Niết Bàn
Khiến con dứt tà kiến
Chứng đắc được pháp không.
Bấy giờ tâm tự bảo :
Đến được nơi diệt độ.

Thân Phật là thân sắc vàng, có ba mươi hai tướng. Mười lực tức là mười thứ trí huệ lực của Phật. Ba mươi hai tướng là :


1. Dưới chân bằng như đáy hộp.
2. Dưới chân có tướng bánh xe ngàn căm.
3. Gót chân như đảnh Phạm vương.
4. Ngón tay nhỏ dài.
5. Thân vuông thẳng.
6. Tay chân có màng lưới.
7. Tay chân mềm mại.
8. Mắt cá mập đầy.
9. Lông mình mượt.
10. Cánh tay như nai chúa.
11. Thân tròn đầy.
12. Tay thòng quá gối.
13. Đảnh có nhục kế.
14. Vô kiến đảnh.
15. Mã âm tàng.
16. Da mịn trơn.
17. Lông mình vòng bên phải.
18. Thân tía màu hoàng kim.
19. Bảy chỗ bằng đầy.
20. Tiếng Phạm âm.
21. Xương vai sung mãn.
22. Thân trên như sư tử.
23. Khuỷu tay mập nhỏ.
24. Răng trắng đều nhau.
25. Bốn mươi cái răng.
26. Răng trắng như ngà.
27. Má như sư tử.
28. Trong miệng có thượng vị.
29. Lưỡi rộng dài.
30. Tướng bậc trượng phu.
31. Lông mi xanh biếc.
32. Tướng hào quang trắng giữa mày.

Mười lực :


1. Trí lực biết xứ phi xứ.
2. Trí lực biết nghiệp báo ba đời.
3. Trí lực biết các thiền giải thoát tam muội.
4. Trí lực biết các căn thắng liệt.
5. Trí lực biết chủng chủng giải.
6. Trí lực biết chủng chủng giới.
7. Trí lực biết nhất thiết chí xứ đạo.
8. Trí lực biết thiên nhãn vô ngại.
9. Trí lực biết túc mạng vô lậu.
10. Trí lực biết vĩnh đoạn tập khí.

Các giải thoát bao quát tám giải thoát :


1. Nội hữu sắc tướng quán ngoại sắc giải thoát.
2. Nội vô sắc tướng quán ngoại sắc giải thoát.
3. Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ.
4. Không vô biên xứ giải thoát.
5. Thức vô biên xứ giải thoát.
6. Vô sở hữu xứ giải thoát.
7. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.
8. Diệt thọ tưởng định thân tác chứng cụ túc trụ.
Đó là tám giải thoát, người tu thiền tông phải biết.

Đồng trong một pháp tính, mà hàng tiểu thừa chưa được thọ ký thành Phật. Thân của Phật có tám mươi vẻ đẹp, mười tám pháp bất cộng. Pháp bất cộng là chẳng chung với ba thừa Thanh Văn, Duyên GiácBồ Tát, chỉ có Phật mới đầy đủ pháp nầy.

Mười tám pháp bất cộng :
1. Thân vô thất.
2. Khẩu vô thất.
3. Niệm vô thất.
4. Vô dị tưởng.
5. Vô bất định tâm.
6. Vô bất tri kỷ xả.
7. Dục vô diệt.
8. Tinh tấn vô diệt.
9. Niệm vô diệt.
10. Huệ vô diệt.
11. Giải thoát vô diệt.
12. Giải thoát tri kiến vô diệt.
13. Nhất thiết thân nghiệp tùy trí huệ hành.
14. Nhất thiết khẩu nghiệp tùy trí huệ hành.
15. Nhất thiết ý nghiệp tùy trí huệ hành.
16. Trí huệ tri quá khứ thế vô ngại.
17. Trí huệ tri vị lai thế vô ngại.
18. Trí huệ tri hiện tại thế vô ngại.

"Những công đức như thế" : Như vừa nói ở trên ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, mười lực, các giải thoát, mười tám pháp bất cộng, đủ thứ công đức, mà con Xá Lợi Phất hành tiểu thừa đã mất các công đức. Xá Lợi Phất khi một mình tham thiền hoặc đi kinh hành, thì thấy Đức Phật ở trong đại chúng, danh đồn khắp mười phương. Phật vì lợi ích tất cả chúng sinh mà chẳng xa lìa. Xá Lợi Phất nói : Con cảm thấy mình đã mất đi tất cả những lợi ích mà mình tự khi dối mình, cho rằng mình đã mất đi lợi ích nầy. Con thường ngày đêm sáu thời, suy gẫm về việc nầy của con cứu kính mất đi hay chẳng mất ? Con thường thấy đức Thế Tôn tán thán ngợi khen các đại Bồ Tát. Do đó, nên ngày đêm con đều nghĩ về việc nầy. Bây giờ, con nghe tiếng của Phật nói, tùy cơ nghi của chúng sinh mà nói diệu pháp. Pháp nầy là vô lậu, không thể nghĩ bàn, khiến cho chúng sinh đắc đạo bồ đề.

Tôn giả Xá Lợi Phất, trước kia từng có sự chấp trước, có tà tri tà kiến, muốn làm thầy của tất cả Bà La Môn (Phạm chí) ngoại đạo. Đức Thế Tôn hiểu rõ căn cơ của con, mới trừ dứt tà kiến của con, còn vì con nói pháp Niết Bàn quả Thánh. Cho nên, tất cả tà tri tà kiến của con đều đã dứt sạch, chứng được pháp chân không. Lúc đó, tâm con cho rằng, chứng quá A La Hán, tức là đã đạt được cứu kính tịch diệt.

Nay mới thật biết rõ
Chẳng phải thật diệt độ.
Nếu sẽ được thành Phật
Đủ ba mươi hai tướng
Chúng trời người Dạ Xoa
Rồng Thần đều cung kính.
Lúc đó mới bảo rằng :
Vĩnh viễn vào Vô
Ph
ật ở trong đại chúng
Nói con sẽ thành Phật.
Nghe tiếng pháp như thế
Nghi hoặc đều đã trừ
Vừa nghe Phật nói ra
Trong tâm rất sợ nghi.
Phải chăng ma giả Phật
Nhiễu loạn tâm con chăng !

Tôn giả Xá Lợi Phất lại nói : Con lúc trước cho rằng mình đã được diệt độ, té ra chưa đến được chốn Bảo sở, nay đã giác ngộ, trước kia con chỉ chứng được lý không, chứ chẳng phải Niết Bàn chân chánh. Nếu như tương lai được thành Phật, đủ ba mươi hai tướng, được chư Thiên, nhân loại, Dạ xoa, Thiên long bát bộ, rồng và thần .v.v., đều đến cung kính, lúc đó mới có thể cho rằng: Chân chánh diệt độ, được Vô Dư Niết Bàn. Phật ở trước đại chúng nói, con tương lai sẽ thành Phật, con nghe được pháp âm như thế, thì tất cả tâm nghi hoặc đều dứt sạch. Nhưng ban đầu vừa nghe Phật nói pháp, thì trong tâm con sinh tâm rất sợ nghi, hoài nghi đây có phải là ma biến làm Phật chăng ? Sao lại nói được diệu pháp nầy ? Có phải nó đến để nhiễu loạn tâm tu định của con ?

Phật dùng đủ thứ duyên
Thí dụ khéo nói pháp.
Tâm Phật an như biển
Con nghe lưới nghi dứt
Phật nói đời quá khứ
Vô lượng Phật diệt độ.
An trụ trong phương tiện
Cũng đều nói pháp nầy
Phật hiện tại vị lai
Số đông không thể lường.
Cũng dùng các phương tiện
Diễn nói pháp như thế
Như Thế Tôn hôm nay
Từ sinh đến xuất gia.
Đắc đạo chuyển pháp luân
Cũng dùng phương tiện nói
Thế Tôn nói thật đạo
Ba Tuần làm chẳng được.
Thế nên con biết chắc
Chẳng phải ma giả Phật
Vì con sa lưới nghi
Bảo là ma vương nói.
Nghe tiếng Phật êm diệu
Xâu xa rất vi diệu
Diễn xướng pháp thanh tịnh
Tâm con rất vui mừng.
Nghi hoặc đã dứt hẳn
An trụ trong thật trí
Con chắc sẽ thành Phật
Được trời người cung kính.
Chuyển pháp luân vô thượng
Giáo hóa các Bồ Tát.

Phật lại dùng đủ thứ phương tiện nhân duyên, thí dụ, dùng biện tài khéo léo, vì con nói pháp nầy, tâm của Phật an định như biển cả, khiến cho tâm của con cũng an định như biển. Phật nói đủ thứ pháp môn thiện xảo phương tiện, cho nên đoạn trừ được tất cả nghi hoặc của con. Phật nói tất cả vô lượng chư Phật diệt độ đời quá khứ, đều chiếu theo pháp môn phương tiện nầy, vì tất cả Chúng sinh nói, tức là diệu pháp Kinh Pháp Hoa. Tất cả chư Phật hiện tại và vị lai nhiều vô cùng vô tận, cũng dùng đủ thứ phương tiện nói diệu pháp nầy. Hiện tại, Thích Ca Mâu Ni Phật Thế Tôn, từ cung trời Đâu Suất hạ sinh nhân gian, hiện tám tướng thành đạo.

Tám tướng :

1. Từ nội viện cung trời Đâu Suất hạ sinh vào vương cung Vua Tịnh Phạn, tại nước Ca Tì La Vệ xứ Ấn Độ.
2. Nhập thai : Phật ở trong thai mẹ ngày đêm đều vì trời người quỷ thần thuyết pháp.
3. Trụ thai mười tháng.
4. Ra khỏi thai thì Phật dùng một tay chỉ trời một tay chỉ đất nói : "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn."
5. Xuất gia tu khổ hạnh sáu năm.
6. Dưới cội Bồ Đề thấy sao mai mọc mà ngộ đạo.
7. Thành đạo rồi chuyển bánh xe pháp, vì tất cả chúng sinh thuyết pháp.
8. Cuối cùng vào Niết Bàn.

Đó là tám tướng thành đạo, nhưng Tông Thiên Thai sửa tướng thứ ba trụ thai làm tướng thứ năm là hàng ma tức là :

1. Đâu Suất hạ sinh.
2. Nhập thai.
3. Xuất thai.
4. Xuất gia.
5. Hàng ma.
6. Thành đạo.
7. Chuyển pháp luân.
8. Vào Niết Bàn.
Tám tướng nầy Tông Thiên Thai nói.

Trong đại thừa, tướng hàng ma bao quát ở trong tướng thành đạo. Mà nay đức Phật, từ lúc hàng sinh nhân gian đến xuất gia, thành đạo rồi chuyển pháp luân, tức cũng là dùng phương tiện pháp môn thuyết pháp. Hiện tại đức Thế Tôn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, là trí huệ chân thật, cũng là đạo lý thật tướng. "Ba Tuần" tức là ma vương, y không thể nào nói được chân lý nầy. Do đó, con biết chắc chắn chẳng phải ma giả Phật. Vì con sa vào lưới nghi, cho rằng Phật nói pháp là ma vương nói. Bây giờ, nghe được tiếng êm diệu từ bi hỷ xả của Phật. Tiếng của Phật sâu xa vi diệu (một trong tám mươi vẻ đẹp), diễn xướng diệu pháp thanh tịnh. Tâm con rất vui mừng nghi hoặc vĩnh viễn đoạn tuyệt, an trụ vào trong thật trí huệ. Trong tương lai con nhất định sẽ thành Phật, được trời người rồng thần tôn kính, chuyển đại pháp luân vô thượng, giáo hóa tất cả đại Bồ Tát.

Bấy giờ, đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất : Nay ta ở trong đại chúng trời người Sa môn, Bà la môn mà nói, xưa kia ta đã từng ở chỗ hai vạn ức vị Phật, vì đạo vô thượng, nên thường giáo hóa ông. Ông cũng theo ta tu học lâu dài, ta dùng phương tiện dẫn dắt ông, khiến cho sinh vào trong pháp của ta.

Lúc đó, Phật nói với Ngài Xá Lợi Phất: Nay ta vì trời, người, Sa môn, Bà La Môn, đại chúng mà nói, ta đã từng ở chỗ hai vạn ức vị Phật, ta vì cầu đạo vô thượng (có bảy vô thượng đạo : Thân vô thượng, thọ trì vô thượng, cụ túc vô thượng, trí huệ vô thượng, bố thí vô thượng, giải thoát vô thượng, hành vô thượng). Ta thường giáo hóa ông. Ông trước kia chưa khai ngộ, luôn luôn theo ta tu học Phật pháp. Ta dùng đủ thứ phương tiện pháp môn dẫn dắt ông, mới khiến cho sinh vào trong Phật pháp của ta Phật Thích Ca Mâu Ni.

Xá Lợi Phất ! Xưa ta dạy ông chí nguyện Phật đạo, nay ông đã quên, mà bèn tự bảo đã được diệt độ. Nay ta muốn khiến cho ông nhớ lại nguyện xưa đã hành đạo, vì các Thanh Văn nói Kinh đại thừa nầy, tên là Diệu Pháp Liên Hoa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm.

Xá Lợi Phất ! Ông ở đời vị lai, trải qua vô lượng vô biên số kiếp không thể nghĩ bàn, cúng dường hàng ngàn vạn ức vị Phật, phụng trì chánh pháp, đầy đủ đạo tu hành của Bồ Tát, sẽ được thành Phật, hiệu là Hoa Quang Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Nước đó tên là Ly Cấu, cõi đó bằng phẳng thanh tịnh trang nghiêm, an ổn, giàu có, sung sướng, trời người đông đảo. Dùng lưu ly làm đất, có tám đường giao thông, dây bằng vàng dùng giăng bên đường, cạnh lề đường đều có hàng cây bằng bảy báu, thường có hoa quả. Đức Hoa Quang Như Lai cũng dùng ba thừa giáo hóa chúng sinh.

Xá Lợi Phất ! Đức Phật đó ra đời, tuy chẳng phải đời ác, nhưng vì nguyện xưa cho nên nói pháp ba thừa.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Thuở xưa, ta giáo hóa ông chí nguyện thành Phật đạo, mà nay ông đã quên mất, tự nói đã được diệt độ. Ta muốn ông nhớ lại nguyện lực đã phát ra xưa kia, nay vì hàng Thanh Văn nói Kinh điển đại thừa tên là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dạy ông pháp Bồ Tát. Học pháp nầy, thì được mười phương chư Phật hộ niệm. Xá Lợi Phất, ta vì ông thọ ký, ông ở trong vô lượng kiếp vị lai cúng dường vô số chư Phật, phụng trì chánh pháp, đầy đủ lục độ vạn hạnh, sẽ được thành Phật, hiệu là Hoa Quang Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Nước của ông tên là Ly Cấu. Ở trên là mười danh hiệu chung của mỗi vị Phật. Cõi nước của ông thanh tịnh bằng phẳng, an ổn giàu có sung sướng, trời người đông đảo. Dùng lưu ly làm đất, có tám đường giao thông, dùng vàng làm dây giăng bên đường, lề đường có những hàng cây bằng bảy báu, luôn luôn có hoa quả. Đức Hoa Quang Như Lai dùng Thanh Văn, Duyên GiácBồ Tát ba thừa giáo hoá chúng sinh. Khi Xá Lợi Phất thành Phật, tuy chẳng phải đời ác, nhưng bởi vì nguyện lực xưa cho nên nói pháp ba thừa.

Kiếp đó tên là Đại Bảo Trang Nghiêm. Vì sao tên là Đại Bảo Trang Nghiêm ? Vì trong nước đó dùng Bồ Tát làm đại bảo. Các Bồ Tát nhiều vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Toán số ví dụ cũng không thể tính được, ngoài trí lực của Phật ra, không ai biết được. Nếu muốn đi thì có hoa báu đỡ chân. Các vị Bồ Tát đó, chẳng phải mới phát tâm, các Ngài đều đã trồng gốc công đức lâu xa, tu phạm hạnh thanh tịnh, nơi vô lượng trăm ngàn vạn ức chỗ các đức Phật. Thường được chư Phật khen ngợi, thường tu trí huệ của Phật, đủ đại thần thông, khéo biết tất cả các pháp môn, chân thật không hư dối, chí niệm kiên cố, các Bồ Tát như thế đầy khắp nước đó.

Đức Hoa Quang Như Lai thành đạo, vào kiếp đó tên là Đại Bảo Trang Nghiêm. Vì sao gọi là Đại Bảo Trang Nghiêm ? Vì trong cõi nước đó, dùng Bồ Tát làm đại bảo. Có nhiều Bồ Tát số đông không thể nghĩ bàn, đếm chẳng hết được. Chỉ có Phật đầy đủ mười trí lực mới biết được số lượng. Phật đi thì có hoa sen báu đỡ dưới chân. Các Bồ Tát cõi đó, chẳng phải mới phát tâm tu hành, đều đã trồng căn lành lâu xa, nơi chỗ của vô lượng các đức Phật, từng tu phạm hạnh thanh tịnh, thường được chư Phật tán thán. Các Ngài thường tu trí huệ chân thật của Phật, đầy đủ đại thần thồng, thông đạt các pháp thật tướng, tất cả hành vi đều chân thật chẳng hư dối, chí niệm kiên cố chẳng thối lui, các đại Bồ Tát như thế đầy khắp nước đó.

Xá Lợi Phất ! Đức Phật Hoa Quang thọ mười hai tiểu kiếp, trừ làm vương tử chưa thành Phật, thì nhân dân nước đó thọ tám tiểu kiếp. Đức Hoa Quang Như Lai, trải qua mười hai tiểu kiếp, thì thọ ký cho Bồ Tát Kiên Mãn, sẽ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác, bảo các Tỳ Kheo rằng : Bồ Tát Kiên Mãn kế đây sẽ thành Phật, hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai, ứng cúng, Chánh biến tri. Cõi nước của Đức Phật đó cũng lại như thế.

Xá Lợi Phất ! Phật Hoa Quang đó diệt độ rồi, chánh pháp trụ thế ba mươi hai tiểu kiếp, tượng pháp trụ thế cũng ba mươi hai tiểu kiếp.

Phật bảo Xá Lợi Phất ! Đức Hoa Quang Như Lai thọ mạng mười hai tiểu kiếp. Thọ mạng của con người bắt đầu từ tám vạn bốn ngàn tuổi, mỗi một trăm năm thì giảm xuống một tuổi, thân cao mỗi một trăm năm cũng giảm xuống một tất, giảm đến thọ mạng của con người chỉ còn mười tuổi, đây gọi là kiếp giảm. Tuổi thọ của con người lại từ từ tăng lên, đến tám vạn bốn ngàn tuổi, mỗi một trăm năm cũng tăng một tuổi, thân cao tăng thêm một tất, một tăng một giảm như thế gọi là một kiếp. Một ngàn kiếp làm một tiểu kiếp, hai mươi tiểu kiếp làm một trung kiếp, bốn trung kiếp làm một đại kiếp. Trừ lúc Ngài làm vương tử chưa thành Phật, thì nhân dân nước đó thọ tám tiểu kiếp. Đức Hoa Quang Như Lai trải qua mười hai tiểu kiếp, thì sẽ thọ ký cho Bồ Tát Kiên Mãn, sẽ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác, hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, cõi nước đó cũng lại như thế. Phật Hoa Quang diệt độ rồi, chánh pháp trụ ở đời trải qua ba mươi hai tiểu kiếp (thời đại chánh pháp thì thiền định kiên cố), tượng pháp cũng trải qua ba mươi hai tiểu kiếp (thời đại tượng pháp thì chùa chiền kiên cố).

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng :

Xá Lợi Phất tương lai
Thành Phật đấng đại trí
Hiệu là Phật Hoa Quang
S
ẽ độ vô lượng chúng.
Cúng dường vô số Phật
Đầy đủ hạnh Bồ Tát
Mười lực các công đức
Chứng được vô thượng đạo.
Qua vô lượng kiếp sau
Kiếp tên Đại Bảo Nghiêm
Th
ế giới tên Ly Cấu
Thanh tịnh chẳng dơ bẩn.
Dùng lưu ly làm đất
Dây vàng giăng bên đường
Hàng cây xen bảy báu
Thường có hoa quả thật.

Lúc đó, Phật dùng kệ để tường thuật lại ý nghĩa trường hàng vừa nói ở trên.
Xá Lợi Phất ! Trong tương lai ông sẽ thành Phật đấng đại trí, phổ độ chúng sinh, hiệu là Hoa Quang Như Lai, độ vô lượng chúng sinh. Bởi ông từng cúng dường vô số chư Phật, đầy đủ lục độ vạn hạnh Bồ Tát đạo, có mười lực của Như Lai, tám giải thoát, thiền định công đức .v.v...

Đức Phật đó chứng được quả vị đạo vô thượng, trải qua vô lượng kiếp sau, kiếp tên Đại Bảo Trang Nghiêm, thế giới tên Ly Cấu, thanh tịnh chẳng dơ bẩn, dùng lưu ly làm đất, dây vàng giăng bên đường, hàng cây xen tạp bảy báu, thường có hoa quả thật đầy khắp, khiến cho ngưới thấy mà phát bồ đề tâm.

Các Bồ Tát nước đó
Chí niệm thường kiên cố
Thần thông Ba la mật
Thảy đều đã đầy đủ.
Nơi vô số chư Phật
Khéo học Bồ Tát đạo
Các Đại Sĩ như thế
Do Phật Hoa Quang độ.
Khi Phật làm vương tử
Bỏ nước xả vinh hoa
Ở nơi thân cuối cùng
Xuất gia thành Phật đạo.
Phật Hoa Quang trụ thế
Thọ mười hai tiểu kiếp
Chúng nhân dân nước đó
Thọ mạng tám tiểu kiếp.
Sau khi Phật diệt độ
Chánh pháp trụ ở đời
Ba mươi hai tiểu kiếp
Rộng độ các chúng sinh.
Chánh pháp diệt hết rồi
Tượng pháp ba mươi hai
Xá lợi rộng truyền khắp
Trời người đều cúng dường.
Sự việc Phật Hoa Quang
Đại khái là như thế
Đấng Lưỡng Túc Tôn kia
Tối thắng chẳng ai bằng.
Phật đó tức thân ông
Nên phải tự vui mừng.

Các đại Bồ Tát trong nước Đại Bảo Trang Nghiêm nầy, chí niệm đã được ba bất thối (vị bất thối, niệm bất thối, hạnh bất thối) và được đại thần thông, sáu Ba la mật, thảy đều đầy đủ. Ở chỗ vô số chư Phật thường hành Bồ Tát đạo, lục độ vạn hạnh. Tất cả các đại Bồ Tát đều do Phật Hoa Quang giáo hóa. Đức Hoa Quang Như Lai làm vương tử, thì xả bỏ tất cả vinh hoa phú quý, một đời cuối cùng xuất gia làm Tỳ Kheo, tu hànhthành Phật đạo. Đức Hoa Quang Như Lai trụ thế sống lâu đến mười hai tiểu kiếp, nhân dân nước đó sống lâu đến tám tiểu kiếp. Sau khi Phật diệt độ, chánh pháp trụ ở đời đến ba mươi hai tiểu kiếp, rộng độ vô lượng chúng sinh. Sau khi thời đại chánh pháp diệt, thì đến thời đại tượng pháp cũng ba mươi hai tiểu kiếp. Xá lợi rộng truyền cho đời, trời người đều cúng dường bảo tháp xá lợi. Sự việc của Phật Hoa Quang đại khái là như thế. Đức Phật đầy đủ phước huệ chẳng ai sánh bằng, là Đức Hoa Quang Như Lai thân ông trong tương lai, nên mừng được thành Phật rộng độ chúng sinh.

Bấy giờ, bốn chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, đại chúng, thấy Đức Phật thọ ký cho Ngài Xá Lợi Phất, sẽ thành Phật Vô thượng chánh đẳng chánh giác, tâm rất vui mừng hớn hở vô cùng, ai nấy đều cởi y trên thân, để cúng dường Đức Phật. Thích Đề Hoàn Nhân, Phạm Thiên Vương, và vô số Thiên tử cũng đem y trời đẹp, hoa trời mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, cúng dường đức Phật, y trời tung lên bèn trụ ở trong hư không mà tự xoay vòng. Âm nhạc của chư thiên trăm ngàn vạn thứ, cùng một lúc đều tấu lên ở trong hư không, mưa xuống các hoa trời mà nói như vầy : Xưa kia đức Phật ban đầu chuyển pháp luân ở thành Ba La Nại, cho đến hôm nay mới chuyển pháp luân lớn nhất vô thượng.

Khi Đức Phật thọ ký cho tôn giả Xá Lợi Phất rồi, thì bốn chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, A Tu La (vô đoan chánh), Ca Lâu La (đại bành kim sí điểu), Khẩn Na La (thần nhạc), Ma Hầu La Gìa (đại mãng xà), tám bộ quỷ thần đều tụ tập nghe Phật thuyết pháp. Thấy Xá Lợi Phất ở trước Phật, được thọ ký vô thượng chánh đẳng chánh giác, tương lai sẽ thành Phật Hoa Quang, mọi người đều sinh tâm vui mừng. Ai nấy đều cởi y trên thân của mình đem cúng dường cho Đức Phật. Người xuất gia thì đem tổ y cúng dường (người xuất gia có ba y : Đại y còn gọi là tổ y, là y hai mươi lăm điều có 108 ô; thất y là y bảy điều; ngũ y là y năm điều; người xuất gia phải có ba vật thường bên mình tức là y, bình bát, tọa cụ).

Người tại gia cư sĩ thì cởi y phục tốt đẹp nhất trên thân đem cúng dường. Thích Đề Hoàn Nhân, Phạm Thiên Vươngvô số Thiên tử cũng đem y phục trời tốt đẹp, hoa trời mạn đà la (hoa nhỏ màu trắng), hoa ma ha mạn đà la (hoa lớn màu trắng) để cúng dường. Y của chư thiên cúng dường cho đức Phật, lơ lửng xoay vòng ở trong hư không, và có trăm ngàn vạn thứ nhạc trời đồng tấu lên ở trong hư không, đều cùng nhau nói: Xưa kia đức Phật ở thành Ba La Nại, ban đầu chuyển bánh xe pháp, cho đến hôm nay, mới diễn nói diệu pháp lớn nhất vô thượng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, khai quyền hiển thật.

Lúc đó, các Thiên tử muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng :

Xưa tại Ba La Nại
Chuyển pháp luân bốn đế
Phân biệt nói các pháp
Sinh diệt của năm uẩn.
Nay lại chuyển pháp luân
Vô thượng diệu bậc nhất
Pháp đó rất thâm áo
Ít có người tin được.
Chúng con từ xưa nay
Thường nghe Thế Tôn nói
Chưa từng nghe diệu pháp
Thâm diệu như thế nầy.
Thế Tôn nói pháp nầy
Chúng con đều tùy hỉ
Đại trí Xá Lợi Phất
Nay được Phật thọ ký.
Chúng con cũng như thế
Tất sẽ được thành Phật
Trong tất cả thế gian
Tôn quý vô thượng nhất.
Phật đạo không nghĩ bàn
Phương tiện tùy nghi nói
Những phước đức con có
Đời nầy hoặc quá khứ.
công đức gặp Phật
Hồi hướng đến Phật đạo.

Các vị thiên tử vì muốn làm rõ nghĩa ở trên, nên dùng kệ để tường thuật lại.
Lúc trước, đức Phật ở tại vườn Lộc Uyển ba lần chuyển bánh xe pháp bốn Diệu Đế, độ năm vị Tỳ Kheophân biệt nói pháp: Khổ, tập, diệt, đạo, mười hai Nhân Duyênsinh diệt của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Năm uẩn là: Khổ đế, khổ đế thì có sinh, có sinh thì có diệt, diệt được khổ đế, tập đế, thì đến đạo đế. Cho nên, pháp bốn Diệu Đế khổ tập diệt đạo, và năm uẩn có quan hệ mật thiết. Nay lại nói diệu pháp tối thượng Kinh Pháp Hoa, là vua của tất cả các pháp, Phật nói Kinh nầy, là bỏ quyền trínói thật trí. Pháp thâm áo nầy, nếu căn tính của một số người có hạn, thì chẳng đạt được cảnh giới của nó, cho nên chẳng tin. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói, ai ai cũng đều có thể thành Phật, nhưng vẫn có người chẳng tin đạo lý nầy ! Đức Phậtchúng ta đều là người. Ngài khuyên tu thiện đạo thì thành Phật, song, một số người chấp trước tướng ta, đầy dẫy tham sân si, chẳng tu hành, cho nên chưa thành Phật.

Chúng con các vị Thiên tử, từ vô lượng kiếp đến nay, tuy nhiều lần nghe Đức Phật thuyết pháp, nhưng chưa từng nghe qua diệu pháp chí cao vô thượng nầy. Bây giờ Phật nói diệu pháp nầy, các chư Thiên nghe nói đều vui mừng. Nhất là Ngài Xá Lợi Phất là người có trí huệ bậc nhất trong hàng Thanh Văn. Tôn giả được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con các Thiên tử, cũng có hy vọng tương lai sẽ thành Phật. Trong tất cả thế gian, Phật là tôn quý bậc nhất. Phật đạo thật là không thể nghĩ bàn. Phật vì phương tiệnquán cơ thí giáo, theo căn cơ của chúng sinh mà nói pháp. Chư Thiên chúng con, có những phước đức nghiệp lành gì, trong đời hiện tại hoặc đời vị lai, công đức gặp được Phật nầy, thảy đều hồi hướng hết Phật đạo trong tương lai của chúng con.

Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật rằng : Đức Thế Tôn ! Nay con chẳng còn nghi hoặc, ở trước Đức Phật được thọ ký Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Một ngàn hai trăm vị tâm được tự tại nầy, lúc xưa ở bậc hữu học, Phật thường giáo hóa rằng : Pháp của ta hay khỏi sinh già bệnh chết, được cứu kính Niết Bàn. Các vị hữu học vô học nầy, ai nấy cũng đã lìa ngã kiến, thường kiếnđoạn kiến, cho rằng được Niết Bàn, mà nay ở trước Đức Thế Tôn, nghe những điều chưa nghe, đều sa vào nghi hoặc. Lành thay Đức Thế Tôn ! Xin vì bốn chúng mà nói nhân duyên đó, khiến cho họ lìa nghi hoặc.

Lúc đó, tôn giả Xá Lợi Phất nói với Đức Phật : Con nghe Phật nói diệu pháp, chẳng còn sinh nghi hoặc nữa, con ở trước Đức Phật được thọ ký Vô thượng chánh đẳng chánh giác, hiệu Phật của con là Hoa Quang Như Lai. Nhưng một ngàn hai trăm vị đệ tử tâm được tự tại nầy, lúc trước đầy đủ hữu học vị (trước chưa chứng được tứ quả A La Hán gọi là hữu học vị). Phật thường giáo hoá họ, ở trong Phật pháp hay thoát khỏi khổ sinh gìa bệnh chết, được cứu kính Niết Bàn khoái lạc. Những vị hữu học vô học nầy, tự cho rằng đã lìa ngã kiến, thường kiến (hữu kiến) và đoạn kiến (vô kiến), tự nói rằng đã được Niết Bàn. Mà nay ở trước Phật nghe diệu pháp chưa từng nghe, tức là họ nghi hoặc chẳng hiểu, mong cầu Phật từ biTỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, bốn chúng nói tất cả nhân duyên, khiến cho họ được lìa nghi hoặc.

Bấy giờ, Phật bảo Xá Lợi Phất, trước kia ta đâu chẳng nói, chư Phật Thế Tôn dùng đủ thứ nhân duyên, lời lẽ ví dụ, phương tiện nói pháp, đều vì Vô thượng chánh đẳng chánh giác ư ? Nói những điều đó, đều vì giáo hóa các Bồ Tát. Nhưng Xá Lợi Phất, nay ta sẽ dùng thí dụ để làm rõ nghĩa nầy, những người có trí do thí dụ mà được hiểu.

Phật nghe Ngài Xá Lợi Phất, vì bốn chúng mà thỉnh pháp, khiến cho họ lìa tất cả nghi hoặc, mới vì Xá Lợi Phất nói : Trước kia, chẳng phải ta đã nói rõ, mười phương chư Phật dùng đủ thứ nhân duyên, lời lẽ thí dụ phương tiện pháp môn, đâu chẳng vì Vô thượng chánh đẳng chánh giác mà nói pháp chăng ? Chỉ vì giáo hoá chúng Bồ Tát, mà nói nhân duyên của các pháp. Bây giờ ta dùng ví dụ để giải thích đạo lý nầy, người có trí huệ thì nhờ ví dụ mà lãnh hội được.

Xá Lợi Phất ! Như quốc ấp tụ lạc, có vị đại trưởng giả tuổi đã già nua, của cải giàu có vô lượng, có nhiều ruộng vườn nhà cửa và các tôi tớ.

Phật bảo Xá Lợi Phất, bây giờ ta đưa ra một ví dụ. "Quốc gia" dụ cho cõi Thật báo trang nghiêm. "Ấp" dụ cho cõi Phương tiện hữu dư, là nơi ở của hàng nhị thừa. "Tụ lạc" dụ cho cõi phàm Thánh đồng ở. Cõi Thường Tịch Quang tịnh độ là gốc, còn ba cõi kia là tích, cuối cùng đều quy về gốc, cõi Thường Tịch Quang tịnh độ.

"Có vị đại trưởng giả" là dụ cho đức Phật, dùng pháp thế gian mà nói vị đại trưởng giả. Trưởng giả đầy đủ có mười đức hạnh:
1. Dòng dõi tôn quý.
2. Địa vị cao.
3. Giàu có.
4. Uy đức.
5. Trí sâu rộng.
6. Tuổi cao.
7. Hạnh thanh tịnh.
8. Đầy đủ oai nghi.
9. Được khen ngợi.
10. Tất cả đều nương tựa.

Nay ví dụ Phật là vị trưởng giả xuất thế, cũng đầy đủ mười đức.

1. Phật ba đời đều sinh vào trong chân như thật tế, cho nên gọi là dòng dõi tôn quý.
2. Phật chứng được mười danh hiệu, đây mới là địa vị cao.
3. Phật pháp tài vạn đức viên dung, có thể nói rằng là giàu có.
4. Phật đủ mười trí lực, hàng phục được thiên ma ngoại đạo, cho nên gọi là uy đức.
5. Phật có một tâm ba trí (tu quán không đắc Nhất thiết trí, tu quán giả đắc Đạo chủng trí, tu quán trung đạo đắc Nhất thiết chủng trí) hổ tương thông đạt, đây gọi là trí sâu rộng.
6. Phật trong vô lượng kiếp về trước, sớm đã thành chánh giác, đây là lớn tuổi.
7. Phật ba nghiệp (thân, khẩu, ý) tùy trí huệ hành, đây là hạnh thanh tịnh.
8. Phật đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, tức là đầy đủ oai nghi.
9. Mười phương chư Phật đều khen ngợi Phật.
10. Bảy phương tiện (chiếu theo Tông Thiên Thai):
a. Nhân thừa.
b. Thiên thừa.
c. Thanh Văn thừa.
d. Duyên Giác thừa.
e. Tạng giáo Bồ Tát thừa.
f. Thông giáo Bồ Tát thừa.
g. Biệt giáo Bồ Tát thừa.

Chúng sinh đều đến quy y với Phật, đó là tất cả đều nương tựa.

Mười đức của Phật chẳng ra ngoài một niệm tâm, trí nương quán tâm từ thật tướng mà ra:
1. Sinh vào chủng tính chân chánh nhà Phật, tức là dòng dõi tôn quý.
2. Phật chẳng khởi hoặc (kiến tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc), đã mặc y Như Lai, xưng tịch diệt nhẫn, tức địa vị cao.
3. Ba đế (không đế, giả đế, trung đế) đầy đủ pháp tài, tức là giàu có.
4. Dùng trí huệ hàng phục ái kiến, tức uy đức.
5. Hợp với trung đạo, thấy suốt hai pháp quyền và thật, tức là trí huệ sâu rộng.
6. Hay tu quán nầy thì vượt lên trên bảy phương tiện, tức là lớn tuổi.
7. Quán tâm tính gọi là thượng định, hay khiến thân khẩu ý ba nghiệp đều thanh tịnh, tức là hạnh tịnh.
8. Gặp duyên đối cảnh, hợp với pháp chẳng mất oai nghi, tức là đầy đủ oai nghi.
9. Tu quán nầy hay tin hiểu sâu các pháp thật tướng, được mười phương chư Phật khen ngợi.
10. Tuy có trời rồng tám bộ chúng và bốn chúng, đều đến cúng dường cũng chẳng lay động, tức là tất cả nương tựa.

Lại dùng "vị trưởng giả" lớn tuổi, tức là bác đạt cổ kim, ví dụ trí huệ của Phật.
1. Phật có trí đức mà hay đương cơ lập đoạn.
2. "Già nua" tức là căn chí thuần thục, dụ cho đoạn đức của Phật, lại dùng "của cải giàu có" dụ cho Phật vạn đức trang nghiêm. "Có nhiều ruộng vườn nhà cửa": Ruộng tốt nuôi dưỡng pháp thân huệ mạng, người tu hành tham thiền, phải nhờ sức trí huệ làm tăng trưởng pháp thân huệ mạng. Nhà cửa dụ cho cảnh thật trí chân. Nếu luận về phước đức, thì Phật rộng tu sáu độ vạn hạnh, nếu luận về trí huệ, thì Phật chẳng có cảnh nào mà không chiếu đến. Cho nên nói rằng Phật "có nhiều ruộng vườn nhà cửa". "Tôi tớ" là ví dụ nhiều môn phương tiện tri kiến viên mãn, chúng sinh trong sáu nẻo hòa quang đồng trần, là tứ thuận quần cơ mà thật trí như tôi tớ vậy.

Nhà đó rộng lớn, chỉ có một cửa, có rất nhiều người, một trăm, hai trăm, cho đến năm trăm người, đều ở trong đó.

Nhà mà trưởng giả dùng nầy, là dụ cho tam giới (dục giới, sắc giớivô sắc giới) luân hồi rộng lớn. "Một cửa" là dụ cho một thừa Phật đạo, chỉ một thừa Phật đạo lìa khỏi tam giới.
Bao quát năm nẻo chúng sinh đều ở trong đó, dùng "một trăm" là dụ cho nẻo cõi trời, dùng "hai trăm" là dụ cho nẻo nhân loại, dùng "ba trăm" là dụ cho đường súc sinh, dùng "bốn trăm" là dụ cho đường ngạ quỷ, dùng "năm trăm" là dụ cho đường địa ngục. Trong đường cõi trời đều có A Tu La, có phước trời mà chẳng có đức trời, rất thích đấu tranh.
Đoạn Kinh văn nầy nói, tam giới năm đường chúng sinh, cùng ở trong một nhà.
Vì sao trên thế gian có người thông minh, có người ngu si ? Những người thông minhtrí huệ vì thích tụng Kinh, học Phật và ấn tống Kinh điển, còn những người ngu siganh ghét tài giỏi của người.

Lầu gác hư mục, tường vách sụp đổ, cột kèo xiêu vẹo, nóc mái nghiêng ngã.

"Lầu" dụ cho dục giới, "gác" dụ cho sắc giới, vô sắc giới, "hư mục" dụ cho tam giới vô thường, chúng sinh luân hồi ở trong tam giới không ngừng. "Tường vách" dụ cho bốn đại (đất, nước, gió, lửa), tửu, sắc, tài, khí, như gông cùm con người, do đó có bài kệ :

"Tửu sắc tài khí bốn vách tường,
Rất nhiều chúng sinh ẩn trong đó,
Có người vượt ra khỏi ngoài tường,
Tức là trường sinh bất lão ông."

Tường dụ cho thân thể của con người, tam giới dễ hư mục. "Cột kèo xiêu vẹo" dụ cho mạng người chẳng lâu dài. "Nóc mái" dụ cho ý thức. "Nóc mái nghiêng ngã", dụ cho ý thức thay đổi không ngừng, con người sắp mạng chung.
Nên biết mạng người vô thường, người trên thế gian chuyên tranh danh đoạt lợi, tất cả tướng hữu vi đều có sinh diệt, Chúng ta hãy trở về nguồn cội, minh tâm kiến tánh. Tính của con người vốn không dơ không sạch, không sinh không diệt, không tăng không giảm. Kinh Lăng Nghiêm nói rằng :

"Thường trụ chân tâm,
Tính tịnh minh thể."

Nếu nhận thức được bổn lai diện mục (bộ mặt thật), thì phiền não sẽ biến thành bồ đề, nếu không thì bồ đề cũng biến thành phiền não, do đó :

"Thiên hạ vốn vô sự,
Kẻ ngu tự quấy nhiễu."

Người thế tục phần nhiều làm việc hồ đồ, nhưng lại chấp trướcchánh đạo, họ cho trái là phải. Người tu đạo nên :

"Mắt thấy hình sắc chẳng dính mắc,
Tai nghe âm thanh tâm chẳng hay".

Thông thường người thấy sắc là sắc, thấy hình là hình; nhưng nếu ngộ triệt bổn thể, thì thấy sắc vô sắc, thấy hình vô hình, liền trở về bổn lai Phật tánh. Đạo lý ở trên, có thể bạn đã từng nghe nhiều lần, nhưng biết mà chẳng thực hành cũng như không. Các bạn nên áp dụng thực hành, cung hành thực tiễn, hành Bồ Tát đạo, lợi mình lợi người, tự giác giác tha, tự độ độ tha, làm trách nhiệm của mình, lấy Bồ Tát Địa Tạng làm mô phạm, nguyện độ tất cả chúng sinh tội khổ, do đó :

"Địa ngục chưa trống,
Thề không thành Phật".

Chúng sinh có: Tửu, sắc, tài, khí. Bồ Tát cũng có. Bồ Tát lấy sự độ sinh làm tửu, lấy Tam Tạng mười hai bộ Kinh điển làm sắc, lấy diệu pháp làm tài, lấy sáu độ vạn hạnh làm khí. Tuy sở hữu của Bồ Tátchúng sinh giống nhau, song nghĩa thì khác biệt một trời một vực.

Chung quanh cùng một lúc, lửa bỗng nổi lên thiêu đốt nhà cửa.

"Chung quanh cùng một lúc lửa bỗng nổi lên" : Tám khổ (sinh, già, bệnh, chết, cầu chẳng được, thương mà xa lìa, ghét mà gặp nhau, năm uẩn thiêu đốt) khắp cùng nơi bốn đại (đất, nước, gió, lửa), bốn sự sinh (sinh bằng thai, bằng trứng, ẩm thấpbiến hóa), cho nên nói "chunh quanh". Bốn sự sinh, bốn đại, tám khổ, đều vô thường, cho nên nói "cùng một lúc". Dùng "thiêu đốt nhà cửa", dụ cho bốn đại của thân con người, bị đủ thứ sự khổ ràng buộc vây hãm khắp chung quanh, vì có lửa phiền não, tùy thời tùy lúc sẽ nổi lên thiêu đốt, mà sinh ra vô tận thống khổ, vì do năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) sinh ra lửa thiêu đốt rừng công đức trong tâm con người.

Các người con của ông trưởng giả, hoặc mười, hai mươi, cho đến ba mươi người, đều ở trong nhà đó.

"Các người con của ông trưởng giả" dụ cho Bồ Tát thừa, Duyên Giác thừa, Thanh Văn thừa, ba thừa đệ tử ở trong tam giới. Nếu chẳng có người ba thừa nầy, tức là "năm trăm người". Người ba thừa nầy xưa kia đã nghe Phật pháp, có mật cảm thân thiết với Phật, cho nên làm bậc pháp vương tử (con của đấng Pháp Vương). Pháp vương tử gồm có đại, trung và tiểu thừa. Đại thừaBồ Tát, trung thừaDuyên Giác, Bích Chi Phật, tiểu thừaThanh Văn. Con của ba thừa nầy là quyến thuộc của Phật, đều cùng ở trong nhà lửa.

Ông trưởng giả thấy lửa lớn từ bốn phía nổi lên, bèn rất sợ hãi, mà nghĩ như vầy : Tuy ta ở nơi cửa nhà cháy ra ngoài được an ổn, mà các người con của ta đang ở trong nhà lửa, đùa giỡn chẳng hay biết gì, chẳng kinh sợ lửa sẽ đốt thân, rất đau khổ lắm, mà chúng chẳng lo lắng, chẳng có ý cầu ra ngoài.

Dùng Phật nhãn xem, thì thấy sáu nẻo chúng sinh, bị lửa năm uẩn vây hãm, từ bốn phía nổi lên (tức bốn sự thấy điên đảo : Chẳng phải thường cho là thường, chẳng vui cho là vui, chẳng phải ngã cho là ngã, chẳng phải tịnh cho là tịnh).
Trong bài Quy Khứ Lai của người xưa có nói rằng :

"Quy khứ lai hề !
Điền viên tương vu, hồ tất quy ?
Tức tự dĩ tâm vi hình dịch,
Hền chù trướng nhi độc bi.
Ngộ dĩ vãng chi bất luyện,
Tri lai giả chi khả truy,
Thật mê đồ kỳ vị viễn,
Giác kim thị nhi tạc phi."

Nghĩa là : Con người thường vì thân giả chẳng sạch sẽ nầy, mà làm tôi tớ cho nó, tức biết ruộng vườn tự tánh của chúng ta bỏ hoang vu, mà nay bừng dậy tỉnh ngộ, trở về nẻo chánh Phật đạo, mới biết hôm nay đúng mà hôm qua sai lầm vậy !
Trong Kinh dùng "mười, hai mươi, hoặc ba mươi người" dụ cho ba thừa, mười, hai mươi và ba mươi, cộng thành sáu mươi, sáu mươi dụ cho sáu đường. Từ bậc Bồ Tát, Duyên GiácThanh Văn thừa đều có mười trí :

1. Trí thế gian (cũng bao quát trí xuất thế gian, giác ngộ tất cả pháp thế gian, sau cầu pháp xuất thế gian).
2. Tha tâm trí (từ trong định sinh, trong định của Thanh Văn thừatha tâm trí, Duyên Giác thừa chỉ cần nghĩ đến thì có tha tâm trí, còn Bồ Tát thì lúc nào cũng có tha tâm trí).
3. Khổ trí (biết khổ dứt khổ).
4. Tập trí.
5. Diệt trí (diệt phiền não được bồ đề, chứng được thường lạc ngã tịnh).
6. Đạo trí.
7. Pháp trí (có mắt chọn pháp, trừ khử mười điều ác).
8. Tỉ trí (lựa thiện mà theo).
9. Tận trí.
10. Vô sinh trí (đắc vô sinh pháp nhẫn).

Bốn niệm xứ :

1. Quán thân bất tịnh : Thân thể của chúng tachín lỗ thường chảy ra vật bất tịnh, hai con mắt chảy ra nước mắt, hai lỗ tai có cức ráy, hai lỗ mũi chảy mũi, miệng chảy nước dãi, đàm, nơi đại tiểu tiện bài tiết nước tiểu và phân, máu thịt cũng bất tịnh.
2. Quán thọ là khổ : Tất cả mọi sự hưởng thọ đều vô nghĩa, cho nên không nên chấp trước.
3. Quán tâm vô thường : Ý niệm của con người thay đổi luôn luôn. Trong Kinh Kim Cang có nói:

"Tâm quá khứ không thể được,
Tâm hiện tại không thể được,
Tâm vị lai không thể được."

4. Quán pháp vô ngã : Cho đến người và pháp đều không. Phật có tâm đại từ bi, sợ chúng sinh thối thất bồ đề tâm mà nghĩ như vầy : Ta ở trong nhà lửa, tu trung đạo được thành Phật, được lìa khỏi nhà lửa nầy. "An" dụ cho Phật chẳng bị năm uẩn, tám sự khổ bức bách. "Ổn" dụ cho Phật chẳng bị bốn điên đảo (chẳng thường cho là thường, chẳng vui cho là vui, chẳng phải ngã cho là ngã, chẳng tịnh cho là tịnh) làm điên đảo, ra khỏi tam giới. Các người con của ta (ba thừa và năm trăm chúng sinh) đang ở trong nhà lửa, bị ái kiến vây khốn, trong đại bi sám nói rằng : "Ái kiến là gốc, thân miệng là duyên." Do có bốn điên đảo, tham trước năm trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc) hoặc năm độc (tài, sắc, danh, ăn, ngủ), kiến (thấy) làm vui chơi, chấp trước ái làm đùa giỡn. Bị kiến ái chuyển, phải lìa khỏi sinh tử mà "chẳng hay biết gì". Tuy lửa sẽ hại thân mà chẳng biết "sợ hãi". Người chẳng biết tập, chẳng sợ hãi đạo, chẳng sợ mất diệt. Dùng không nghe pháp bốn đế, tức chẳng nghe (văn), suy nghĩ (tư) hai huệ làm chẳng hay. Chẳng tu huệ là chẳng biết. Không kiến giải là chẳng sợ, không tư duy giải là chẳng hãi. Nhưng chúng sinh chẳng biết khổ hiện tại, cũng chẳng biết khổ trong tương lai. Các người con bị lửa thiêu đốt thân, thì đức Phật cảm thấy như chính mình chịu đựng rất là thống khổ. Chúng sinh thì mê chẳng giác, mê nơi tham sân si chẳng biết lìa khỏi.
"Vui chơi đùa giỡn" dụ cho kiến trượcphiền não trược. "Chẳng hay biết, chẳng sợ hãi" dụ cho chúng sinh trược. "Lửa đến thiêu đốt thân, rất là thống khổ" dụ cho mạng trược.
"Chúng chẳng lo lắng, chẳng có ý cầu ra ngoài" dụ cho kiếp trược. Chúng sinh trôi nổi ở trong năm trược quên về, suốt ngày bồi hồi mà chẳng tỉnh giác, mới lầm nhận thế giới nầy là cõi an vui. Con người thường tạo nghiệp mà đọa địa ngục, nếu tỉnh giác thì sẽ dứt sinh tử.

Gần đây ở San Francisco chẳng phát sinh động đất, đó là do tâm lành của chúng ta tụng Chú Lăng Nghiêm, chế phục được thiên ma, cho nên San Francisco mới được bình an vô sự, khỏi tai ương động đất.

Xá Lợi Phất ! Ông trưởng giả đó, bèn nghĩ như vầy : Thân và tay của ta, có sức sẽ dùng vạt áo, hoặc bàn ghế từ trong nhà mà ra ngoài. Ông lại nghĩ : Nhà đó chỉ có một cửa mà lại hẹp nhỏ, các người con còn thơ ấu, chưa có hiểu biết, ham mê chơi đùa, sẽ bị đọa lạc, hoặc bị lửa thiêu đốt.

Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất ! Ông trưởng giả đó, tức Đức Phật ở trong hai mươi mốt ngày, suy gẫm như vầy: Ban đầu ta dùng pháp gì để hợp cơ với chúng sinh, để khiến cho chúng sinh giác ngộ ? "Thân" dụ cho thần thông, "tay" dụ cho trí huệ cất nhắc. Phật y vào tam muội đoạn đức, phân biệt thật tướng của tất cả các pháp, có trí đức thì hay thuyết pháp. Có đoạn, trí hai đức mà thành pháp thân, do khuyên, dạy bảo hai cửa mà vào. Khuyên tức là vị nhân tất đàn, là cửa từ bi, dạy bảo tức là đối trị tất đàn, là cửa chế phục.

Tất đàn có bốn :
1. Vị nhân tất đàn.
2. Đối trị tất đàn.
3. Thế gian tất đàn.
4. Đệ nhất nghĩa tất đàn.

Cho nên nói rằng :

"Bất nhị pháp môn hưu khai khẩu,
Đệ nhất nghĩa đế bổn vô ngôn."

Nghĩa là:

Pháp môn không hai chẳng mở miệng,
Pháp đệ nhất nghĩa vốn không lời.

Phật cứ vào bốn tất đàn để thuyết pháp, bố thí khắp hết thảy. Vị nhân tất đànđối trị tất đàn, cùng thế gian tất đàn, đều vì đệ nhất nghĩa tất đàn mà nói. Phật dùng pháp phương tiện, trước nói cửa khuyên (khuyên môn), khiến cho tất cả chúng sinh, làm các việc thiện, sẽ thành tựu mười lực của Như Lai.

Phật có bốn vô sở úy :

1. Nhất thiết trí vô sở úy.
2. Thuyết pháp vô sở úy.
3. Thuyết chướng đạo vô sở úy.
4. Thuyết tận khổ đạo pháp vô sở úy.

Vì khai mở nhất thiết chủng trí, mà nói cửa khuyên, tiếp đó dùng cửa dạy bảo (giới môn), khiến cho chúng sinh đừng làm các điều ác, có thể chứng đại Niết Bàn, được thường lạc ngã tịnh bốn đức. Chúng sinh chẳng giác ngộ sự giáo hoá, Phật biết không nên dùng pháp đại thừa, bèn dùng thần thông trí huệ, sức định huệ trang nghiêm để độ chúng sinh.

"Thân và tay của ta có sức" dụ cho trí, đoạn hai đức tác dụng. "Vạt áo" dụ cho tri kiến của Phật, bao hàm hết tất cả tri kiến của chúng sinh. Phật chẳng có gì mà không biết, chẳng có gì mà không thấy. Dùng "bàn" dụ cho mười trí của Phật, giáo hóa sáu nẻo chúng sinh, lìa khổ được vui. Dùng "ghế" dụ cho bốn vô sở úy. Phật dùng bốn vô sở úy giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ thoát khỏi khổ trong tam giới, chấm dứt luân hồi trong sáu đường.

Chúng ta học Phật pháp, không nên có tâm phân biệt, bất cứ thầy nào nói pháp đều nên lắng nghe. Phật pháp, nên nghe rồi, lại nghe nữa, thì tự nhiên sẽ có sự bổ ích. Nghe pháp là gieo xuống hạt giống kim cang, ở trong thức thứ tám của chúng ta. Các bạn nên rộng trồng hạt giống nầy, khiến cho tăng trưởng, lấy việc ủng hộ đạo tràng làm trách nhiệm của mình.
Phật trong hai mươi mốt ngày suy nghĩ, nên dùng pháp gì để giáo hóa chúng sinh. Cửa "khuyên" thuộc về nhiếp thọ, vị nhân tất đàn là cửa từ bi. "Dạy bảo" là cửa triết phục, dùng phương thứ rất nghiêm để khiến cho họ triết phục, là cửa oai phục. Phật dùng khuyên dạy hai cửa, bốn vô sở úy, mười lựcNhư Lai trí, khiến cho chúng sinh lìa khỏi nhà lửa nầy. Sau đó, Phật lại nghĩ, nhà nầy chỉ có một cửa, là xe trâu trắng lớn, pháp đại thừa mà lại hẹp nhỏ. Pháp đại thừaviên dung vô ngại, nghĩa tuy rộng lớn, mà chỉ có đại thừa viên giác Bồ Tát mới có thể vào, ngoài ra ngoại đạo và người bảy phương tiện thừa kia chẳng thể vào được. Người tu Bồ Tát đạo, cửa cõi Phật, diệu hạnh nầy, pháp đại thừa khó hành, song mới bỏ tất cả pháp phương tiện, do đó gọi là hẹp nhỏ. Diệu lý của một Phật thừathuần nhất không tạp. Đạo lý nầy thật là vi diệu không thể nghĩ bàn, chẳng dễ gì minh bạch, do đó gọi là "hẹp nhỏ". Giáo nầy thuộc về viên giáo, giáo lý quyền thật không hai, phàm phu chẳng biết cửa ra, là vì chẳng biết quyền, lại chẳng biết vào cửa nầy, là vì chẳng biết thật. Hàng nhị thừa tuy biết ra, nhưng chẳng biết vào, cũng chẳng rõ giáo lý nầy. Hàng Bồ Tát tuy tự biết ra, cũng chẳng biết vào, Bồ Tát nầy tức là biệt giáo Bồ Tát, tức cũng là bảy phương tiện Bồ Tát. Bảy phương tiện người chẳng rõ giáo lý nầy, do nơi người tiểu thừa không thể vào đại thừa, cho nên giáo nghĩa tuy rộng mà nói là "hẹp nhỏ". Người tu hành lấy viên giáo tu hành, tu Bồ Tát đạo, đi thẳng đến quả vị Phật, thông suốt vô ngại, cho nên gọi là "một cửa". Diệu hạnh khó hành, bỏ pháp phương tiện, cho nên gọi là "nhỏ hẹp".

"Các người con thơ ấu, chưa có hiểu biết": Nói hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, người ba thừa chẳng hiểu, chẳng biết, chẳng sợ, chẳng hãi, tuy ở nơi hai vạn vị Phật, được giáo hoá tu vô thượng đạo, nhưng căn lành của họ mỏng manh, nghe pháp đại thừa thì tâm chẳng tin nhận, càng sinh tâm thối lùi. "Ham mê chơi đùa": Người tiểu thừa chấp trước nơi kiến ái, thối thất bồ đề, chịu tám thứ khổ hoành hành. Chấp trước nơi y, chánh hai báo : Y báo tức là báo thân của chúng ta, đây là hữu tình thế giới. Trong tam giới, chúng sinh dục giới chấp trước nơi năm dục (tài, sắc, danh, ăn, ngủ), hoặc chấp trước vào năm trần (sắc, thanh, hương, vị, súc). Chúng sinh sắc giới thì chấp trước vào vị thiền. Chúng sinh trời Tứ Thiền thì chấp trước vào thiền duyệt vi thực, pháp hỉ sung mãn, cho nên trời Sơ Thiền gọi là ly sinh hỷ lạc địa, trời Nhị Thiền gọi là định sinh hỷ lạc địa, trời Tam Thiền gọi là ly hỷ diệu lạc địa, trời Tứ Thiền gọi là xả niệm thanh tịnh địa. Hỉ lạc, diệu lạc, thanh tịnh, đều là một thứ từ vị trong sự ngồi thiền, họ tham luyến thứ từ vị nầy. Cõi vô sắc thì chấp trước nơi định, tuy rằng nói : "Siêng tu giới định huệ", cũng đừng chấp trước nơi định. Con người do có các thứ chấp trước, có sự tham luyến, cho nên không thể thoát khỏi tam giới, buông chẳng đặng, bỏ chẳng được tri kiến ngu si, cho nên ở trong nhà nầy, mà quên mất đường về.

"Hoặc sẽ bị đọa lạc": Nói chúng sinh hoặc sẽ bị đọa lạc, nghĩa là có thể cải lỗi làm mới, biết được giác ngộ, thì sẽ chấm dứt luân hồi. Nhưng vì ngu si, chấp trước nơi năm dục, mà bị đọa lạc trong ba đường ác. Hơn nữa, vì chúng sinh chẳng biết, nhiễm khổ cho là vui, bỏ giác hợp trần, cho nên đọa lạc vào ba đường ác. Đọa lạc thì bị tám khổ, năm uẩn thiêu đốt, vì chẳng giác ngộ, chẳng biết lửa dữ sẽ thiêu hủy pháp thân, căn lành.

Ta sẽ vì chúng nói việc đáng sợ. Nhà nầy đã cháy, phải đi ra mau, đừng để bị lửa thiêu hại. Nghĩ như thế rồi, bèn y theo sự suy nghĩ đó, mà bảo các con : Các con hãy mau ra ! Người cha tuy thương xót, khéo nói lời dẫn dụ, mà các người con ham vui chơi đùa chẳng chịu tin nhận, chẳng sợ hãi, chẳng có tâm muốn ra, cũng chẳng biết gì là lửa, gì là nhà, thế nào là mất, cứ chạy đông chạy tây, đùa giỡn nhìn cha mà thôi.

Chúng sinh chẳng biết bị tám khổ, năm uẩn thiêu đốt, mười tám giới là khí huyết mang đầy dẫy các sự khổ, chẳng biết tìm đường thoát ly, chẳng biết đây là nguyên nhân tán mất pháp thân. "Cứ chạy đông chạy tây đùa giỡn" : Chạy khắp bốn phương chẳng có mục đích, bỏ sáng về tối, trôi nổi trong sinh tử, lúc lên trời, lúc ở dưới đất, đều thoát chẳng khỏi ba cõi. "Nhìn cha mà thôi" là dụ cho chẳng tôn theo Phật pháp đại thừa, như trẻ con chẳng biết trời cao đất rộng, chẳng cứ tới lời của người cha dạy bảo. Tuy nhiên chúng sinh chẳng nghe lời dạy bảo, chẳng thọ sự giáo hóa, vì Phật vốn có tâm đại từ bi, cho nên không nỡ bỏ chúng sinh, xem chúng sinh như chính con của mình, tâm rất thương xót vô cùng.

Bấy giờ, ông trưởng giả bèn nghĩ : Nhà nầy lửa đã cháy lớn, nếu ta và các con không ra, thì sẽ bị lửa thiêu. Nay ta phải bày phương tiện, khiến cho các con khỏi bị lửa hại.

Lúc đó, ông trưởng giả tức là Phật, nghĩ như vầy: Nhà lớn nầy đã bị lửa tám khổ, năm uẩn thiêu đốt, nếu ta với người ba thừa (Thanh Văn, Duyên GiácBồ Tát) và năm trăm người (năm đường chúng sinh) không ra khỏi nhà lửa nầy, thì sẽ bị lửa lớn thiêu đốt. Ở trước từng nói, Phật đã ra khỏi nhà lửa, sao bây giờ lại nói ở nhà lửa bị lửa thiêu ? Kì thật, pháp thân của Phật đã được an ổn lìa khỏi ba cõi, bây giờ bị lửa thiêu, là ứng thân của Phật. Nay ta phải bày pháp quyền xảo phương tiện, khiến cho tất cả chúng sinh không bị lửa nghiệp tám khổ, năm uẩn thiêu hại.

Cha biết các con, trước kia tâm đều thích đủ thứ đồ chơi quý giá kỳ lạ, ai nấy đều ưa thích, mà bảo rằng : Ở đây có những đồ chơi, ít có khó được, nếu các con không mau ra lấy, chắc sau nầy sẽ buồn ăn năn. Nào là xe dê, xe hươu, xe trâu, đủ thứ, nay đều ở ngoài cửa, có thể dùng đi dạo chơi. Các con đang ở trong nhà lửa, hãy mau ra đây, tùy ý muốn của các con, cha đều cho các con.

"Cha" tức là Phật, tức cũng là ông trưởng giả, do đó "biết con chẳng ai bằng cha", bậc làm cha biết ý của con cái nhất. Biết chúng sinh chẳng ai bằng Phật, Phật thấy suốt căn tính của tất cả chúng sinh. "Trước kia tâm đều thích": Trước kia chúng sinh thích tu học pháp tiểu thừa. "Đủ thứ đồ chơi quý giá kì lạ, ai nấy đều ưa thích." Pháp tu của mỗi người chẳng giống nhau, có người tu bố thí, pháp bốn đế, pháp mười hai nhân duyên, đều là sở thích của mỗi người.

Phật lại bảo chúng rằng: Đồ mà các con thích chơi chẳng đặc biệt quý giá, mà hiện nay ta có đồ chơi quý giá mới lạ ít có, nều các con không mau ra lấy, thì sau nầy chắt sẽ buồn ăn năn. Có đủ thứ nào là: "Xe dê, xe hươu, xe trâu". Xe dê dụ cho Thanh Văn, là vì tiểu thừa. Xe hươu dụ cho Duyên Giác, sức hươu lớn hơn sức dê, là trung thừa. Xe trâu dụ cho Bồ Tát, sức trâu càng mạnh hơn, có thể chuyên chở nhiều đồ, cho nên dụ cho đại thừa. Những thứ xe nầy, đều để ở ngoài cửa, các con hãy mau ra đây lấy ! Các con thích gì, thì cha đều thưởng cho các con.

Khi đó, các người con nghe cha nói đồ chơi quý giá, vừa hợp ý mình, nên tâm ai nấy đều dũng mãnh, xô đẩy lẫn nhau, cùng đua đuổi chạy tranh nhau ra khỏi nhà lửa.

Lúc đó, người ba thừa (Thanh Văn, Duyên GiácBồ Tát thừa) và năm đường chúng sinh, nghe Phật nói pháp ba thừa vi diệu như thế, thì khiến cho họ khởi dậy tâm háo kì, vừa hợp ý của họ. Phật nói pháp ba thừa quyền xảo phương tiện nầy, dùng để độ năm đường chúng sinh. Cuối cùng Phật mới nói một Phật thừa nầy. Cho nên những gì nói ở trong Kinh Pháp Hoa, là thật trí diệu pháp, chẳng phải pháp quyền xảo, do đó đại sư Trí Giả nói Kinh Pháp Hoa là ‘’Thuần viên độc diệu‘’ (chỉ có Kinh Pháp Hoaviên mãn diệu nhất).

‘’Nên tâm ai nấy đều dũng mãnh‘’. Trong tâm của mỗi người đều có sở thích đồ chơi của họ. Tâm của chúng sinh dũng mãnhbiểu thị tư huệ. Tư huệ nầy dùng Bát Nhã để quán chiếu, cũng là tĩnh lự tư huệ tham thiền, tức phải dùng trí huệ lanh lợitu hành, thì sẽ thấy rõ thị phi, chẳng rơi vào đường tà, không thể biết rõ mà cố phạm. Những người chưa vào cửa Phật pháp, thì chẳng hiểu chân lý, do đó mà lầm vào đường tà. Quy y Tam Bảo rồi, thì phải y theo giáo pháptu hành, bằng không, biết rõ mà cố phạm thì sẽ đọa địa ngục.

‘’Xô đẩy lẫn nhau‘’: Truy cầu khổ, tập, diệt, đạo bốn chân lý, chế phục kiến hoặctư hoặc, nên gọi là xô đẩy lẫn nhau. Ở trong pháp khổ, tu khổ pháp trí, khổ pháp nhẫn; ở trong pháp tập, tu tập pháp trí, tập pháp nhẫn; ở trong pháp diệt, tu diệt pháp trí, diệt pháp nhẫn; ở trong pháp đạo, tu đạo pháp trí, đạo pháp nhẫn. Dùng bốn đế quán sát lẫn nhau, xô đẩy lẫn nhau, tức là hàng phục được kiến hoặc. Đoạn Kinh văn nầy, cũng dụ cho bốn gia hạnh (Noãn, đỉnh, nhẫn, thế đệ nhất), là noãn và đỉnh vị. ‘’Ruổi chạy‘’ là nhẫn vị, chữ ‘’cùng‘’ là dụ cho thế đệ nhất. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói về bốn gia hạnh.
‘’Cùng đua ruổi chạy‘’: ‘’Cùng đua‘’ là tranh thủ vô sinh pháp nhẫn, diệu lý thù thắng, thuộc về nhẫn huệ. ‘’Cùng‘’, tức thế đệ nhất, ‘’ruổi chạy‘’ thuộc kiến đạo vị, chứng sơ quả A La Hán. Kiến hoặc là đối cảnh khởi tham ái, hiện tại đoạn tuyệt niệm nầy, thì chẳng mê hoặc kiến ái, mà chứng sơ quả A La Hán, nhưng chưa dứt được phân đoạn sinh tử. Phân đoạn sinh tử là, từ khi sinh ra cho đến chết, gọi là một đoạn. Chúng sinh từ khi sinh ra đến chết, tạo ra tất cả những gì, đều do nghiệp lực chiêu cảm.

‘’Tranh nhau ra khỏi nhà lửa‘’: Là thuộc về tư hoặc. Đoạn được tư hoặc, thì chứng bậc vô học, tức chứng tứ quả A La Hán, dứt hẳn kiến hoặc, tư hoặc mà ra khỏi được tam giới. Lúc nầy ‘’Vượt ra ngoài ba cõi, chẳng còn trong ngũ hành.’’ Chẳng bị tập khí che đậy, chẳng vì vật dục che lấp. Con người bị tập khí trói buộc, tùy ý phóng dật, tham cầu vật dục, khiến cho che lấp trí huệ vốn có, do đó không thể vượt ra khỏi ba cõi, hãy mau ra khỏi nhà lửa nầy; dụ cho người học Phật pháp, phải có chánh tri chánh kiến, cầu mong ra khỏi ba cõi.

Mấy ngày trước, có người nói với tôi, y tỉnh ngộ trước kia y dùng tâm phan duyên là không dúng, y biết được sai lầm, thì có thể thấy y dụng công đã có tiến bộ, nên tiếp tục nỗ lực đừng giải đãi.
Người tây phương tu đạo thì ít, người hỗn đạo thì nhiều, bây giờ hằng ngày biết ngồi thiền dụng công tu hành, tức có sự tiến triển. Người đồng môn tu hành, nên cố gắng khuyên bảo với nhau, chẳng những người xuất gia phải dụng công, mà đệ tử tại gia cũng phải dụng công, thường tùy hỉ nghe Kinh niệm Phật.

Khi đó, ông trưởng giả thấy các con ra ngoài được an ổn, đều ở nơi ngã tư đường, ngồi ở nơi đất trống, chẳng còn gì chướng ngại, tâm ông rất thơ thới vui mừng hớn hở.

Lúc đó, đức Phật thấy chúng sinh ra khỏi nhà lửa, ngồi ở nơi đất trống. ‘’Ngả tư đường‘’ dụ cho quán pháp bốn đế (khổ, tập, diệt, đạo), đắc được trí huệ khổ, tập, diệt, đạo, vượt ra khỏi năm đường luân hồi, ở trong ngã tư đường tu hành, tức tu quán pháp bốn đế, mà được chứng quả, dứt sạch tư kiến hoặc ba cõi. ‘’Ngồi ở nơi đất trống‘’, ‘’ngồi‘’ là dụ cho chứng được quả vị, thì chẳng cầu tiến bộ, ngừng lại ở hóa thành.
Người ở trong ba cõi, nếu bị vây hãm ở trong sáu nẻo luân hồi, thì chẳng được giải thoát. Vượt ra khỏi sáu nẻo luân hồi, thì chẳng còn gì chướng ngại, thân được yên ổn, mà tâm cũng an lạc, chẳng còn gì lo lắng. Chúng sinh đều ‘’vui mừng hớn hở‘’, vì đều ra khỏi được nhà lửa.

Bấy giờ, các người con đều thưa với cha rằng : Lúc nãy, cha có hứa cho chúng con các đồ chơi quý giá, nào là xe dê, xe hươu, xe trâu, xin cha hãy ban cho.

‘’Xe dê, xe hươu, xe trâu‘’, dụ cho quả vị ba thừa. Muốn được quả vị ba thừa, thì trước hết phải vượt ra ba cõi. Quả vị ba thừa thuộc về pháp quyền xảo, do đó, vượt ra ba cõi rồi, thì quả vị ba thừa nầy bất khả đắc. Tại thời Phương Đẳng, có đàm luận về ba thừa, bốn giáo (Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo, Viên giáo); Phật trách người Tạng giáo độc thiện kỳ thân, người Thông giáo thì chưa nghe sự dạy bảo của Phật; đồng thời khen ngợi người Biệt giáo, người Viên giáo, hành đúng ý chỉ của Phật, hồi tiểu hướng đại. Tại thời Bát Nhã, thì lại chỉnh đốn đãi gạn (đãi bỏ cặn bã). Trong Kinh Pháp Hoa ở trước đã nói rõ, bởi vì căn cơ khác nhau, cho nên nói pháp quyền xảo, pháp nói ở trong hội Pháp Hoa, mới là thật pháp đại thừa. Các người con ba thừa nầy, bạch Phật xin đòi, xe dê, xe hươu, xe trâu, bây giờ hãy cho chúng con.

Xá Lợi Phất ! Lúc đó, ông trưởng giả đều cho các con đồng một thứ xe lớn.

‘’Các con‘’ dụ cho tất cả chúng sinh, Phật xem tất cả chúng sinh đều bình đẳng như một, chẳng khác biệt. Pháp ba thừa tuy là quyền pháp, nhưng tính của nó đồng nhau, chẳng mất đi pháp vi diệu. Xưa kia tập khí của chúng sinh khác nhau, như tu pháp bốn đế, pháp mười hai nhân duyên, đều là pháp tu tập trước kia. Và còn tu sáu độ Ba la mật. Ngoài ra còn tu từ bi hỉ xả, sắc pháp, tâm pháp, nghịch pháp, thuận pháp, y báo pháp, chánh báo pháp, thật pháp, lý pháp, nhân quả pháp, tự pháp, tha pháp, minh bạch pháp, và bồ đề pháp. Minh tức là giác, bất minh tức là mê. Và cón tu phước huệ pháp, thường lấy lợi người làm gốc, chẳng những trợ giúp người, mà còn không làm hại, chướng ngại người khác làm nguyên tắc.

Phận làm đệ tử, thì phải hộ trì pháp của thầy nói, ủng hộ đạo tràng tức là tu phước lập đức. Thâm nhập Kinh điển, cung kính lễ bái Kinh điển, y theo trong Kinh mà thiết thật tu hành. Nếu chỉ biết mà không thực hành, biết rõ mà cố phạm, thì chưa đi sâu vào Kinh điển. Ngài đại sư Trí Giả tông Thiên Thai, do đọc tụng Kinh Pháp Hoakhai ngộ, Ngài nghe Kinh Lăng Nghiêmkhởi tâm cung kính, hướng về phương tây lễ lạy mười tám năm, vẫn chưa được đọc qua Kinh nầy. Tại Trung Quốc có rất nhiều vị xuất gia lạy từng chữ trong Kinh điển, như lạy Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Hoa Nghiêm .v.v. Cho nên nói :

‘’Thâm nhập kinh tạng,
Trí huệ như hải‘’.

Người tu đạo, phải thường tự mình hạn chế, trừ khử tất cả tập khí mao bệnh, do đó :

‘’Có lỗi chớ nãn sửa đổi‘’.

Ta đối đãi với mỗi đệ tử đều bình đẳng như nhau, hy vọng các vị mỗi người đều sẽ giỏi hơn thầy. Tất cả các pháp đều là Phật pháp, các vị minh bạch Phật pháp chân nghĩa, thì phải thiết thật tu hành. Những vị Thanh Văn nầy, ai nấy đều có pháp môn tu hành của mình, nhưng tất cả đều là quyền giáo, mà chẳng phải thật giáo.

Như những gì nay khai thị đều là pháp chân thật. Vì xưa kia tu tập pháp chẳng giống nhau, nên trong Kinh nói ‘’mỗi người‘’. Tuy mỗi người tu tập pháp khác nhau, nhưng bây giờ Phật đều ban cho pháp đại thừa, nhiếp thọ tất cả các pháp, tất cả chúng sinh đều vào được, nên gọi là ‘’xe lớn‘’.

Xe đó cao rộng, trang trí các thứ báu đẹp, lan can bao quanh, bốn phía treo linh, lại dùng màn lọng giăng che phía trên, cũng dùng các trân báu tốt đẹp để nghiêm sức. Dây báu kết thắt các dải hoa rũ xuống. Nệm chiếu mềm mại trải chồng chất, gối đỏ để trên, dùng trâu trắng kéo, màu da rất sạch, thân hình rất đẹp, có sức lực rất mạnh, bước đi ngay thẳng, mau lẹ như gió, lại có nhiều tôi tớ để hầu hạ.

‘’Xe đó cao rộng‘’: Dụ cho Phật chẳng có gì mà không biết, chẳng có gì mà không thấy, thấy biết xâu xa chẳng có bờ bến, chẳng cách chi lường được. Pháp giới tam đế (không đế, giả đế, trung đế) bao quát tất cả các pháp. Cho nên nói tri kiến của Như Lai đầy đủ tất cả Phật pháp.
‘’Trang trí các thứ báu đẹp‘’: Dụ cho dùng lục độ vạn hạnh để trang nghiêm pháp thân, chúng ta phải cung hành thực tiễn lục độ vạn hạnh, mới có thể trang nghiêm pháp thân.

Phẩm Ví Dụ nầy, là phẩm tinh yếu nhất trong Kinh Pháp Hoa, thật khó mà minh bạch. Nhưng nếu muốn vào sâu nghĩa lý của Kinh Pháp Hoa, thì trước hết phải nghiên cứu tường tận phẩm nầy. Liễu giải được diệu lý của nó, thì sẽ khế hợp với Kinh nầy, còn các phẩm kia cũng chẳng có gì khó minh bạch.
‘’Lan can bao quanh‘’: Dụ cho Đà La Ni,dịch là "tổng trì". Tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa. Tổng thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh, trì giới định huệ ba học viên minh. Đà La Ni hay trì vạn điều thiện, che đậy các điều ác, khiến cho tiêu diệt ở trong vô hình, tức là :

‘’Không làm các điều ác,
Siêng làm các điều lành ‘’.

‘’Bốn bên treo linh‘’: Dụ cho bốn biện vô ngại tức là : Từ vô ngại biện, pháp vô ngại biện, nghĩa vô ngại biện và lạc thuyết vô ngại biện.
1. Từ vô ngại biện : Lời lẽ sinh động, khiến cho chúng sinh do lời lẽ mà sinh tín tâm.
2. Pháp vô ngại biện : Dùng một pháp, mà phát huy thành vạn pháp, dùng vạn pháp mà quy về một pháp. Do đó :

‘’Một gốc tán làm vạn thù,
Vạn thù quy về một gốc‘’.

Cho nên nói : Một tức tất cả, tất cả tức một, pháp chẳng có cố định.
3. Nghĩa vô ngại biện: Tuyên dương nghĩa lý pháp thế gian, viên dung vô ngại, sự lý chẳng trở ngại.
4. Lạc thuyết vô ngại biện: Người thuyết pháp, thì vui về thuyết pháp, khi thuyết pháp thì thao thao bất tuyệt, diễn xướng đạovô cùng vô tận.

‘’Lại dùng màn lọng che giăng phía trên‘’: Tức dùng màn lọng dệt bằng tơ lụa, che ở trên mui xe. Dụ cho Phật có từ, bi, hỉ, xả, bốn tâm vô lượng. Từ là ban vui cho chúng sinh, bi là cứu khổ chúng sinh, xả là xả bỏ tất cả cho chúng sinh, hỷ là hoan hỉ giáo hóa tất cả chúng sinh. Đức hạnh lớn nhất của Phật, là từ bi vô lượng, hỉ xả vô lượng, trong tất cả các đức hạnh, từ bi cao nhất, do đó hay che khắp hết tất cả chúng sinh. Cho nên kinh có nói : ‘’Nếu từ bi đầy đủ bốn vô sở úy, gọi là Như Lai từ‘’. Phật tu bốn tâm vô lượng, thành tựu phạm hạnh tanh tịnh, cho nên nói là ‘’màn lọng giăng che‘’.
‘’Cũng dùng các trân báu tốt đẹp để nghiêm sức‘’: Dụ cho bốn tâm vô lượng, phải dùng vạn hạnh trang nghiêm, tức là pháp đại thừa đầy đủ lục độ vạn hạnh. Tất cả các môn trang nghiêm pháp đại thừa.
‘’Dây báu kết thắt‘’: Dụ cho bốn hoằng thệ nguyện. Bốn hoằng thệ nguyện này, phải thân thể lực hành, hồi quang phản chiếu, phản cùng tự tỉnh.

- Nguyện thứ nhất: Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ : Ta có độ chúng sinh chăng ? Độ chúng sinh tức hành Bồ Tát đạo, nhưng độ chúng sinh cũng đừng chấp tướng chúng sinh, do đó :

‘’Lìa tất cả tướng, quét tất cả pháp‘’.

- Nguyện thứ hai: Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn: Đã đoạn phiền não chưa ? Phiền não tức bồ đề, băng tức nước, nước tức băng, biến phiền não thành nước trí huệ, tức là bồ đề. Vì sao nói chúng sinh tức là Phật; Phật tức chúng sinh ? Bạn độ tận chúng sinh tức thành Phật, nếu chưa độ chúng sinh thì bạn vẫn là chúng sinh. Giác ngộ tức Phật, mê muộichúng sinh. Do đó, đừng truy cầu bên ngoài.
Trong Kinh Bảo Đàn nói rằng: ‘’Tự tính chúng sinh thệ nguyện độ‘’. Tất cả chúng sinh như một, chẳng phân biệt ta người, trước phải độ tự tính chúng sinh. Giác là Phật vậy, mê là chúng sinh vậy. Giác và mê không khác, không mê tức là giác, không giác tức là mê, như băng và nước chẳng khác biệt. Cho nên nói phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.

- Nguyện thứ ba: Pháp môn vô lượng thệ nguyện¡ học: Pháp môn vô lượng vô biên, ta đã học chưa ?

- Nguyện thứ tư: Phật đạo¡ vô thượng thệ nguyện thành : Đừng do dự không quyết định, nên thệ nguyện tu hành cho đến khi thành Phật, nếu không thì chẳng đạt được quả vị Phật.
‘’Dải hoa rũ xuống‘’: Trên xe có hoa thòng rũ xuống, dụ cho bốn pháp nhiếp thọ chúng sinh, tức là bốn pháp nhiếp: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự.

1. Bố thí: ‘’Trước dùng câu dục móc, sau khiến vào Phật đạo.’’ Nếu muốn chúng sinh vào trí huệ của Phật, thì trước hết dùng pháp phương tiện dẫn dắt. Chúng sinh thích tiền tài, thì bố thí tiền tài, khiến cho họ vui mừng, sau đó dạy Phật pháp cho họ, thì họ vui vẻ tiếp thọ. Bố thí thì đầu tiên nên bố thí pháp, tiếp đó bố thí tiền tài. Nhưng dùng pháp phương tiện, khiến cho họ tiếp thọ, cho nên trước phải bố thí tiền tài, sau đó bố thí pháp, và bố thí vô úy, khiến cho chúng sinh nghe Phật pháp, thì lìa tất cả sợ hãi.

2. Ái ngữ : Dùng lời lẽ ôn hòa khéo léo để hóa đạo, như lòng cha mẹ thương con cái, thì chẳng gì mà không thành, dùng từ ái đối đãi với chúng sinh.

3. Lợi hành : Chuyên làm việc thiện để lợi ích chúng sinh.

4. Đồng sự : Làm cùng việc cùng nghề với chúng sinh, thì có thể giáo hóa họ tin Phật, khiến cho họ bỏ mê về giác. Cho nên, Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, dùng bốn pháp nhiếp nầy để độ chúng sinh, từ chúng sinhtội lỗi cũng sẽ từ từ cải ác hướng thiện. Bồ Tát đối với những chúng sinh cang cường không biết hối cải, vẫn luôn luôn hy vọng, có ngày họ sẽ cải ác hướng thiện. Cho nên bốn pháp nhiếp nầy diệu không thể tả.

‘’Nệm chiếu mềm mại trải chồng chất‘’: Dụ cho tu tất cả thiền định, y quán chiếu Bát Nhã để huân tu, lâu ngày sẽ thành tựu. ‘’Chồng chất‘’ dụ cho khi ngồi thiền thì được cảm giác khinh an, cảm giác nầy liên tục không ngừng, cho đến đi chẳng biết đi, đứng chẳng biết đứng, ngồi chẳng biết ngồi, nằm chẳng biết nằm, đạt đến cảnh giới không có tướng ta, tướng người. Cảnh giới nầy, phải dụng công tu hành, thì mới có thể đạt được, từ vị của nó cũng phải chính quý vị thể hội thì mới biết được, do đó :

‘’Như người uống nước, nóng lạnh tự biết.’’

‘’Gối đỏ để trên‘’: Cái gối màu đỏ để ở trong xe, dùng quang màu đỏ, dụ cho vô phân biệt pháp. Gối gồm có gối ở trong và ở ngoài, gối ở ngoài dùng để dựa khi xe chạy, dụ cho dụng công tu đạo, động chẳng ngại tĩnh, tĩnh chẳng ngại động, động tức tĩnh, tĩnh tức động, động tĩnh nhất như. Xe chạy tức động, xe ngừng tức tĩnh, động tĩnh đều là xe nầy. Chúng ta tu đạo cũng như thế, động tĩnh đều ở tại thân của chúng ta. Trong xe cũng có gối, dùng để gối đầu nghỉ ngơi, dụ cho nhất hạnh tam muội, hay sinh Bát Nhã trí huệ chân chánh.

‘’Dùng trâu trắng kéo‘’: Dụ cho Bát Nhã vô lậu. Tất cả tập khí mao bệnh của chúng ta đều là lậu, tất cả dục niệm đều là lậu. Tại sao chúng ta không thành Phật, không khai ngộ ? Là vì có lậu, nếu chẳng có lậu thì được giải thoát. Muốn được trí huệ vô lậu, thì tu bốn đế sẽ thành tựu. Bảo trì trí huệ vô lậu, thì tu mười hai nhân duyên, sẽ thành tựu mà được khai ngộ. Tu sáu độ cũng được đến bờ kia. Tục ngữ có câu :

‘’Ban ngày ngừa lửa,
Ban đêm ngừa trộm‘’.

Hằng ngày, chúng ta phải phòng ngừa lửa vô minh nổi dậy, tháng nầy tháng khác phải phòng ngừa sáu tên tặc (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) phá rối. Sáu tên tặc nầy thường chi phối bạn, khiến cho bạn điên đảo sẽ trộm đi pháp bảo tự tính của bạn. Nếu ai bảo trì được vô lậu, thì chắc chắn sẽ thành Phật. Vô lậu tức là trâu trắng kéo xe.
‘’Dùng trâu trắng kéo‘’: Trắng là màu bổn thể thanh tịnh không nhiễm. Nghĩa là bổn thể của pháp thanh tịnh không nhiễm, tương ứng với trí vô lậu. Xe trâu trắng lớn, biểu thị bốn Niệm Xứ viên mãn thành tựu, sẽ được khai ngộ. Lại biểu thị cho bốn Chánh Cần.

‘’Màu da rất sạch‘’: Dụ cho nhị thế thiện viên mãn, nhị thế ác tiêu diệt. Bốn Như Ý Túc (dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, niệm như ý túc, tư duy như ý túc). Nếu các bạn chẳng có tâm dâm dục, thì đó là gốc trí huệ vô lậu, bạn muốn tu đạo thì sẽ đầy thiện dục tu đạo, bạn muốn tinh tấn, thì có thể phát đạt khai quật Phật giáo ở phương tây. Niệm như ý túc tức là toại tâm viên mãn nguyện. Tư duy như ý túc là những gì suy nghĩ sẽ đạt được lý tưởng. Cho nên muốn được trí huệ vô lậu, thì trước hết trừ khử đi tất cả nhiễm ô, lấy sự trong sạch làm gốc.
‘’Thân hình rất đẹp‘’: Tức là xe trâu trắng lớn thân hình rất đẹp, dụ cho phát tâm đại thừa, như thân hình tốt đẹp, chỉ một tâm nầy mà bao quát tất cả các pháp.
‘’Có sức lực rất mạnh‘’: Tức là trâu trắng lớn có sức lực khỏe mạnh, ‘’sức‘’ dụ cho năm căn (tín, tấn, niệm, định, huệ). Năm căn lành nầy sao gọi là ‘’căn‘’ ?
Bởi do rễ (căn) mà sinh trưởng, do đó có câu :

‘’Rễ sâu thì gốc vững,
Gốc vững thì cành lá xum xê‘’.

Tôi từng nói, Phật pháp như biển cả, chỉ có niềm tin thì mới vào được, do đó học Phật pháp, trước hết phải có tín tâm, sau đó tiếp tục tinh tấn tiến về trước, dần dần sẽ không bao giờ mất đi. Có niệm căn rồi, thì không bị người làm giao động, còn phải có định căn, để giữ vững lập trường, mới đủ để độ người, mà không bị người làm lay chuyển. Có định căn thì sẽ sinh huệ căn. ‘’Lực‘’ dụ cho năm lực (tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, huệ lực). Do năm căn mà sinh ra năm lực, có năm lực thì có thể chứng trí huệ vô lậu, thành tựu tất cả hạt giống bồ đề.
‘’Bước đi ngay thẳng‘’: Tức là con trâu nầy, có sức lực rất mạnh, cho nên đi rất mau. Dụ cho định huệ quân bình, phải định huệ đều tiến. Nếu chỉ có định, mà thiếu huệ, thì thành người tu hành ngu si, còn nếu chỉ có huệ mà chẳng có định, thì thành người tu hành chạy nhảy lăn xăn. Cho nên, phải đầy đủ định huệ để trợ giúp lẫn nhau. Lại dụ cho bảy Giác Chi, còn gọi là bảy Giác Phần, tức cũng là bảy Bồ Đề Phần, là bảy pháp môn giác đạo. Phật vì người nhị thừa nói ba mươi bảy Đạo Phẩm (năm căn, năm lực, bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, bảy bồ đề phần, tám thánh đạo phần). Trong Phật pháp đại thừa, cũng bao quát ba mươi bảy Đạo Phẩm nầy.

Bảy bồ đề phần :

1. Trạch pháp giác phần : Còn gọi là trạch pháp giác tri, dùng mắt chọn pháp trí huệ vô lậu, để lựa chọn pháp đúng pháp sai, pháp chánh pháp tà, pháp thật pháp giả, pháp chân pháp hư, để theo chánh bỏ tà.
2. Tinh tấn giác phần : Y theo pháp môn chân chánh, tu hành tiến về trước.
3. Hỉ giác phần : Có chánh và tà, có người y theo chánh đạo tu hànhhoan hỉ, cũng có người y theo tà đạo tu hành, rơi vào cuồn hỉ điên đảo. Phàm là y theo dục niệm mà hành là điên đảo, nên dùng thiền định Phật pháp làm hỉ, do đó có câu :

‘’Thiền duyệt vi thực,
Pháp hỉ sung mãn’’.

Nghe được Phật pháp, biết ý nghĩa cao sâu áo diệu, nên sinh tâm hoan hỉ.
4. Trừ giác phần : Biện rõ phải trái, lấy chánh trừ tà.
5. Xả giác phần : Xả bỏ tất cả những gì không đáng, như ngồi thiền không nên chấp vào chỗ tốt, không nên tham luyến cảnh giới, hãy xả bỏ.
6. Định giác phần : Đừng chấp trước bất cứ những gì, có trí huệ thì sinh định. Nếu bạn hôn trầm, thì hãy dùng trạch pháp giác phần, tinh tấn giác phần, hỷ giác phần để đối trị. Nếu có tâm nóng nảy, thì dùng trừ giác phần, xả giác phần, định giác phần để đối trị.
7. Niệm giác phần : Tâm có hôn trầm hoặc nóng nảy đều là niệm. Người phát bồ đề tâm, thì phải y chiếu bảy bồ đề phầntu hành. Nếu y theo bảy bồ đề phần mà hành, thì thân tâm an ổn, do đó gọi là ‘’Bước đi ngay thẳng‘’, là biểu hiện dụng công đắc lực.

‘’Mau lẹ như gió‘’, xe nầy được con trâu trắng lớn kéo, nghĩa là biểu thị tiến về trước không lùi. ‘’Gió‘’ có gió mát và gió bão, gió nầy có thể là gió mát, cũng có thể là gió bão. Tại sao ? Bạn được gió nầy thổi, cảm thấy mát mẻ dễ chịu, thì gọi là gió mát. Song, cũng có thể gọi là gió bão, vì gió nầy hay thổi tan tất cả thiên ma ngoại đạo, trừ tất cả tà kiến. ‘’Mau lẹ như gió‘’ dụ cho tám Chánh Đạo, người tu đạo nên y theo tám Chánh Đạotu hành.
1. Chánh kiến : Phải đầy đủ chánh tri chánh kiến, dùng trí huệ vô lậu, phá trừ tất cả tà tri tà kiến. Phi lễ vật thị (không hợp lễ giáo thì đừng xem) là chánh kiến.
2. Chánh tư duy : Phi lễ vật thính (không hợp lễ giáo thì đừng nghe), do sự nghe mà khởi suy nghĩ.
3. Chánh ngữ : Phi lễ vật ngôn (không hợp lễ giáo thì đừng nói) tức chánh ngữ. Người chưa phải là bậc Thánh hiền, tránh sao khỏi có lỗi của người, nên rộng lượng bao dung. Mọi người có duyên nên mới tụ lại một chỗ tu đạo, cho nên hãy giấu kín việc ác, biểu dương việc thiện, đừng bươi móc lỗi lầm, khiến cho người sinh thối tâm.
4. Chánh nghiệp : Phi lễ vật động (không hợp lễ giáo thì đừng làm) tức là chánh nghiệp. Đừng kinh doanh tà nghiệp, như mở sòng bạc, mua bán á phiện, mua bán súc sinh, gái mãi dâm .v.v., chánh nghiệp tức là tham thiền, tu học Phật pháp.
5. Chánh mạng : Làm tất cả những gì, đều phải quang minh lỗi lạc, gọi là chánh mạng. Có năm tà mạng:
a. Phô trương lạ lùng.
b. Nói đức của mình.
c. Bói tướng tốt xấu.
d. Lớn tiếng hiện oai.
e. Kêu người cúng dường.

6. Chánh tinh tấn : Có kẻ tu tà tinh tấn, ngày đêm sáu thời tu tập bàng môn tả đạo, cũng có kẻ hành khổ hạnh vô ích, đều là tà tinh tấn. Chánh tinh tấny theo pháp môn bốn Niệm Xứ, bốn Chánh Cần, bốn Như Ý Túc, năm Căn, năm Lực, bảy Bồ Đề Phần, tám Đường Chân Chánh, bốn Đế, mười hai Nhân Duyên, sáu Độ Ba la mật .v.v., đều là chánh tinh tấn, y theo sự chỉ bảo của Phật mà tu hành, y giáo phụng hành, tức là chánh tinh tấn. Chánh tinh tấn gồm thân tinh tấn, và tâm tinh tấn; tâm tinh tấn là siêng niệm Tam Bảo, niệm niệm không quên, suy gẫm chánh pháp; thân tinh tấnthân thể lực hành như lạy Kinh, niệm Phật, lễ sám, niệm danh hiệu Phật .v.v., đều thuộc về thân tinh tấn.
7. Chánh niệm : Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, tức là chánh niệm. Tà niệm tức là niệm kiến, niệm ái, niệm tư, niệm biên kiến, niệm niệm không ngừng đối với ái tình, mỗi ý niệm đều ích kỷ lợi mình, tức là tà tâm. Niệm Phật : Niệm ‘’Nam mô A Di Đà Phật‘’, ‘’Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật‘’, đều là niệm Phật. Niệm Chú Đại Bi, Chú Lăng Nghiêm đều là niệm pháp; đọc Kinh Kim Cang, Kinh Pháp Hoa .v.v., đều là niệm Pháp. Niệm Tăng : Niệm mười phương hiền Thánh Tăng. Bạn muốn niệm Tăng thì cúng dường Tăng, niệm Pháp thì cúng dường Pháp, niệm Phật thì cúng dường Phật. Nếu bạn muốn tu phước báu thì phải cúng dường Tam Bảo, do đó có câu :

"Phàm Tăng tuy bất năng chủng phước,
Kì phước tất giả phàm Tăng.
Ni long tuy bất năng hàng vũ,
Kì vũ tất giả ni long".

Nghĩa là : Phàm Tăng là Tăng chưa chứng quả, tuy không thể trồng phước cho bạn, nhưng nếu bạn thành tâm cầu phước nơi vị phàm Tăng, thì mười phương hiền Thánh Tăng sẽ ban phước cho bạn.
Trung Quốc, mỗi khi trời hạn hán thì một số người đến miếu Long Vương để cầu mưa, trong miếu có tạo tượng rồng bằng bùn, cho nên nói muốn cầu mưa thì phải cầu trước tượng rồng bằng bùn. Long thần trên trời trông coi việc mưa, chẳng phải nhục nhãn của phàm phu mà thấy được.

Trước kia, khi tôi còn ở Đông Bắc bên Trung Quốc, có vị đệ tử pháp danh Quả Thuấn, có làm một cái lều tranh, mời tôi đến làm lễ khai quang. Vào ngày lễ khai quang, thì có mười con rồng đến xin quy y Tam Bảo. Lúc đó, có bốn vị đệ tử ở đó, trong số đó có hai vị có thiên nhãn thông, ngồi thiền thì có thể quán sát được mọi việc. Tôi bảo mười con rồng đó, tâu với Ngọc Hoàng, ngày mai vì tôi mà mưa xuống, thì ngày mốt tôi sẽ làm lễ quy y cho các vị. Quả nhiên, ngày mai trời mưa xuống chung quanh chỗ tôi khoảng bốn mươi dặm, tôi bèn làm lễ quy y cho họ. Chuyện này tuy là khó tin nhưng là sự thật.

Lại nữa, lúc tôi ở Hương Cảng, một năm nọ trời hạn hán, Đạo Tràng Phật giáo các nơi đều cầu mưa, nhưng chẳng có hiệu quả gì. Sau đó, tôi kêu một vị đệ tử niệm ‘’Nam Mô A Di Đà Phật‘’ trong ba ngày, phải cầu cho được mưa xuống. Y chí thành niệm Phật, quả nhiên hai ngày sau trời mưa xuống. Mười con rồng đã quy y biết tâm của tôi, tất tôn kính thầy mà ra lệnh mưa xuống, những việc nầy thường ứng nghiệm chẳng sai trật, thật là diệu không thể tả, người đã trải qua những cảnh giới nầy, thì tin sâu chẳng nghi ngờ.

8. Chánh Định : Tà định thì chấp trước cảnh giới, còn chánh định thì tu Tứ Thiền (trời sơ thiền, trời nhị thiền, trời tam thiền, trời tứ thiền), bát định (trời Tứ Thiền thêm vào Trời Không Vô Biên Xứ, Trời Thức Vô Biên Xứ, Trời Vô Sở Hữu Xứ, Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ). Tu pháp nầy, trước hết phải trừ khử ngã tướng, chẳng chấp trước bất cứ những gì tức là chánh định.
‘’Lại có nhiều tôi tớ để hầu hạ‘’: Tức là có nhiều tùy tùng đi theo để hộ vệ. ‘’Tôi tớ‘’ dụ cho pháp môn phương tiện. Người tu hành dùng pháp phương tiện để đạt đến bờ kia. Thiên ma ngoại đạo và hàng nhị thừa đều tùy trí tu đạo.
Trong kinh Duy Ma Cật có nói :

‘’Giai ngã thị giả‘’.

Nghĩa là :

Những gì có ngã đều là giả.

Quả địa Bồ Tát đều có thần thông, đều toại tâm như ý, như có rất nhiều tùy tùng để bảo vệ họ. Cho nên nói : ‘’Lại có nhiều tôi tớ để hầu hạ bảo vệ‘’, pháp đại thừa phải cần nhiều pháp phương tiện, để trợ giúp cho thành tựu.
Niệm niệm quán tâm, một niệm tâm hiện tiền, chẳng trước chẳng sau, chẳng đầu chẳng cúi, chẳng bờ chẳng bến, tâm nầy đầy đủ không, giả, trung, ba đế, cho nên dùng ‘’cao‘’ dụ cho ‘’xe đó cao lớn‘’. Một niệm tâm hiện tiền đầy đủ mười pháp giới. Cho nên nói là ‘’rộng‘’. Dùng ‘’các thứ báu đẹp trang trí‘’, dụ cho tính đức của tất cả chúng sinh vượt qua Hằng hà sa số.

‘’Phật nói tất cả các pháp,
Vì độ tất cả tâm,
Nếu chẳng có tất cả tâm,
Đâu có dùng tất cả các pháp ‘’.

Cho nên ngoài tâm chẳng có pháp, pháp tức là tâm. Tâm bao quát pháp thế gian và pháp xuất thế gian, tức là ‘’lan can bao quanh‘’. ‘’Bốn phía treo linh’’: Vì tâm hay thọ ứng khắp hết thảy, diễn các âm thanh giáo lý, đều không ngoài một tâm niệm, cho nên nói ‘’bốn phía treo linh‘’.

‘’Lại dùng màn lọng che giăng phía trên‘’ : Dụ cho tâm thượng diệu ở trong tất cả các pháp, chẳng có pháp nào mà chẳng bao dung. ‘’Cũng dùng các trân báu tốt đẹp để nghiên sức‘’: Dụ cho tâm có tâm vương, tức là tám thức tâm vương, còn lại là tâm sở. Tâm vương thường hay quán tưởng, quán tưởng này khởi nơi tất cả tâm sở, hổ tương chiếu ứng. Tâm sở với tâm thiện tâm sở, hổ tương trói buộc với nhau, tức tức tương quan, cho nên nói : ‘’Dây báu kết thắt‘’. Tâm sở của tâm thiện hay sinh vô lượng trí huệ, cũng hay thành tựu vô lượng phước đức, cho nên nói ‘’các dãi hoa rũ xuống’’. Một tâm niệm đầy đủ pháp mềm diệu khinh an, càng đầy đủ tất cả các pháp, trùng trùng vô tận, cho nên gọi là ‘’Nệm chiếu mềm mại trải chồng chất‘’.

Tâm tính hay động cũng hay tĩnh, động chẳng ngại tĩnh, tĩnh chẳng ngại động, động tĩnh nhất như, đó là ‘’gối đỏ để ở trên’’.
‘’Dùng trâu trắng kéo‘’: Lý của tâm tính là do Diệu quán sát trí hiển hiện ra. ‘’Màu da rất sạch‘’: Tức là công đức của sự thành tâm vi diệu không thể nghĩ bàn, nếu không xen tạp vô minh phiền não tức là ‘’rất sạch‘’. Tâm viên dung vô ngại, cho nên nói ‘’Thân hình rất đẹp‘’. Trí huệ quán sát viên dung vô ngại, hay sinh trưởng tất cả căn lành, viên quán lại hay phá tan được kiến ái trong ba cõi, lại hay phá tan điên đảo tưởng ở ngoài ba cõi, do đó nói: ‘’Có sức lực rất mạnh‘’. Viên quánđịnh huệ không hai, tức định tức huệ, định huệ viên dung, cho nên nói: ‘’Bước đi ngay thẳng‘’. Viên quán hay khiến cho hành giả đạt đến bờ kia, cho nên nói ‘’mau lẹ như gió‘’. Viên quán hay chi phối tất cả tâm sở, cho nên nói ‘’lại có nhiều tôi tớ để hầu hạ bảo vệ‘’.

Tại sao ? Vì ông trưởng giả đó, của cải giàu có vô lượng, đủ thứ kho tàng thảy đều tràn đầy.

‘’Tại sao‘’? ‘’Đây là nguyên nhân gì‘’? Ông trưởng giả đó của cải giàu có vô lượng‘’: Tức là Phật nói đủ thứ các tạng pháp, bao quát tất cả các pháp. Tóm lại, tức lục độ vạn hạnh. Lục độ tức:

1. Bố thí
2. Trì giới
3. Tinh tấn
4. Nhẫn nhục
5. Thiền định
6. Trí huệ.

Nếu biết lục độ mà không hành, thì không thể đến được bờ kia. Phải thiết thật tu hành, mới có thể đến được Niết Bàn bờ bên kia. Bố thí gồm :

a. Tài thí
b. Pháp thí
c. Vô úy thí.

Trì giới tức là:

"Đừng làm các điều ác,
Hãy làm các điều lành".

Nhẫn nhục thì nghịch cảnh đến đều thọ nhận, chẳng có tướng ta, chấp ta, thấy ta, thường quán tưởng: ‘’Khi chưa sinh ra ai là ta ? Khi sinh rồi ta là ai ? Lớn lên thành người giả danh là ta, chuyển nháy mắt ta lại là ai‘’? Trừ được ‘’tướng ta‘’ thì nghịch cảnh đến đều tiếp nhận. Học Phật pháp, thì phải cung hành thật tiễn, nếu gặp nghịch cảnhnhư như chẳng động, thì mới thật sự lãnh ngộ được chỗ diệu của Kinh Pháp Hoa. Không nên chấp vào ‘’tướng ta‘’, ‘’cái ta‘’ nầy, cuối cùng cũng sẽ chết đi, hà tất vì ‘’cái ta‘’ nầy mà tranh đua danh lợi ? Nếu có người đánh bạn, đó là quả báo bạn đã tạo ở kiếp trước. Đời này bạn mắng chưởi người, thì kiếp sau sẽ bị người mắng chưởi lại; đời này bạn cho họ phiền não, thì kiếp sau người cũng sẽ cho bạn phiền não, cho nên nhân quả tơ hào không sai. Nếu có người đánh bạn thì hãy quán tưởng ‘’chẳng có cái ta‘’, nếu bạn khó lòng buông xả được ‘’tướng ta‘’, thì có một diệu pháp có thể giúp bạn buông xả được ‘’tướng ta‘’. Có người đánh bạn thì bạn hãy bỏ chạy đừng để ý tới; nếu có người mắng bạn, thì bạn hãy xem như họ đang ca hát, hoặc họ nói tiếng ngoại quốc mà bạn chẳng hiểu.

Nếu bạn áp dụng những phương pháp nầy để đối trị, thì phiền não sẽ tự tiêu trừ. Người có nghiệp chướng, mới có phiền não, tức có nghiệp chướng thì hãy tiêu trừ nghiệp chướng bằng cách tu hạnh nhẫn nhục. Như bài kệ của Bồ Tát Di Lạc:

‘’Lão quê mặc áo vá
Cơm hẩm no đầy bụng
Áo vá che rét lạnh
Vạn sự hãy tùy duyên.
Có người mắng lão quê
Lão quê chỉ nói tốt
Có người đánh lão quê
Lão quê nằm lăn ra.
Khạc nhổ vào mặt lão
Để nó tự nhiên khô
Ta cũng chẳng nhọc sức
Họ cũng không phiền não.
Đó là Ba La Mật,
Cũng là báu vô giá,
Nếu hành được như thế,
Lo gì đạo chẳng thành.’’

Cho nên trừ khử đi ‘’tướng ta‘’ tu nhẫn nhục Ba La Mật, mới thật sự minh bạch Phật pháp. Do đó có câu:

‘’ Ngàn ngày nhặc củi,
Chỉ một đốm lửa thì cháy sạch‘’.

Một khi lửa vô minh nổi dậy, thì thiêu sạch công đức đã dày công tích lũy. Do đó, người học tập Phật pháp, thì phải tu nhẫn nhục Ba La Mật, đừng vì ngoại cảnh mà sinh phiền não.
Tinh tấn thì ngày đêm sáu thời đều tinh tấn. Thiền địnhtĩnh lự. Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, năm độ nầy là phước đức tạng, độ thứ sáu là Bát Nhã (trí huệ) Ba La Mật, là Bát Nhã tạng, cũng gọi là trí huệ tạng, cho nên nói là ‘’Đủ thứ kho tàng‘’. ‘’Thảy đều tràn đầy‘’: Dụ cho quyền, thật hai trí. Quyền trí sung mãn là ‘’tràn‘’, thật trí hoàn mãn là ‘’đầy‘’. Quyền, thật hai trí đều viên mãn, cho nên nói ‘’thảy đều tràn đầy‘’.

Mà nghĩ rằng : Của cải của ta nhiều vô số, không nên dùng xe nhỏ xấu xí, mà cho các con. Nay những đứa trẻ nầy, đều là con của ta, ta thương chúng nó chẳng có thiên lệch. Ta có xe lớn bằng bảy báu như thế, số nhiều vô lượng, nên dùng tâm bình đẳng mà cho chúng nó, không nên có sự phân biệt. Tại sao ? Vì ta dùng của cải nầy, cho khắp tất cả mọi người trong nước, hãy còn không hết, huống gì các người con.

‘’Mà nghĩ rằng: Của cải của ta vô số, không nên dùng xe nhỏ xấu xí mà cho các con‘’: Ông trưởng giả nghĩ như vầy : Pháp tài của ta chí cao vô thượng, không nên dùng pháp tiểu thừa giáo hóa tất cả chúng sinh. ‘’Các con‘’: Tức là hàng Thanh Văn, Duyên GiácBồ Tát.
‘’Nay những đứa trẻ nầy‘’: Dụ cho các con ba thừa ở trên mới phát tâm, đều không hay biết gì như trẻ con. ‘’Đều là con của ta, ta thương chúng chẳng có thiên lệch‘’: Chúng nó đều là con của ta, ta đối với chúng đều bình đẳng, chẳng khinh người nầy, trọng người kia. ‘’Ta có xe lớn bằng bảy báu như thế, số nhiều vô lượng‘’: Dụ cho bảy Bồ đề phần, bát Chánh đạo, năm Căn, năm Lực, bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, tổng cộng là ba mươi bảy Đạo phẩm, dùng để trang nghiêm chiếc xe lớn nầy, số nhiều vô lượng. ‘’Nên dùng tâm bình đẳng mà cho chúng nó, không nên có sự khác biệt‘’. Ta nên đối đãi bình đẳng, đều cho xe lớn, không nên có tâm thiên lệch sai khác. ‘’Vì sao? : Bởi nguyên nhân gì ? ‘’Ta dùng của cải nầy, cho khắp tất cả mọi người trong nước, hãy còn không hết‘’: ‘’Trong nước‘’: Dụ cho cõi Thường Tịch Quang Tịnh Độ, ‘’không hết‘’ : Dụ cho Phật pháp vĩnh viễn không thiếu. ‘’Huống gì các con‘’, Pháp bảo của ta bố thí cho tất cả nhân dân trong nước còn không thiếu, huống gì các con của ta ?
Chúng ta phải nhận chân hồi quang phản chiếu, phản tỉnh chính mình có phiền não chăng ? Nếu khôngphiền não, tức đã được chỗ tốt của Phật pháp, nếu không thì thiết thực tu hành, đến được cảnh giới tám gió thổi không lay, thì mới thật sự được chỗ diệu của Phật pháp.

Lúc đó, các người con ai nấy đều ngồi xe lớn, được chưa từng có, chẳng phải chỗ trước kia mong đợi.
Xá Lợi Phất ! Ý của ông thế nào ? Ông trưởng giả đó, đồng cho các người con xe trâu báu lớn, có hư vọng chăng ?

‘’Lúc đó, các người con ai nấy đều ngồi xe lớn‘’: Lúc đó, ông trưởng giả ban tặng cho các người con xe lớn, trưởng giả tức là người có của cải giàu vô lượng. Nếu các người con chẳng phải con của ông trưởng giả, thì không thể cho xe lớn. Nếu là con của trưởng giả, mà trưởng giả chẳng có của cải, thì cũng chẳng có gì để cho. Ông trưởng giả đó, có đủ thứ kho tàng, các người con cũng thật là Phật tử, cho nên Phật đồng cho xe lớn. Các người con vốn chỉ cầu được xe dê, hoặc xe hươu, thì tâm đã mãn nguyện, vì ông trưởng giả của cải giàu vô lượng, mới ban tặng xe lớn cho các con, tức là Phật dùng pháp đại thừa cứu độ chúng sinh. ‘’Được chưa từng có, chẳng phải chỗ trước kia mong đợi‘’: Các người con đó, chưa từng thấy qua pháp thượng thừa như thế, chẳng phải ý của họ nghĩ dến. Ví như người tiểu thừa, vốn tu pháp tiểu thừa, đã dứt phần đoạn sinh tử, nay họ mượn nhờ pháp môn tiểu thừa, mà họ vốn tu tập, để hồi tiểu hướng đại, thành tựu pháp đại thừa, dứt biến dịch sinh tử, đó mới là vượt ngoài hy vọng của họ vốn có.’’ Xá Lợi Phất ! Ý của ông như thế nào ? Ông trưởng giả đó, đồng cho các con xe trâu báu lớn, có hư vọng chăng ?’’ Xá Lợi Phất ! Ý ông thế nào ? Ông trưởng giả đó, bình đẳng ban tặng cho các người con, xe trâu báu lớn có thích đáng chăng ?

Xá Lợi Phất nói : Không vậy ! Đức Thế Tôn ! Ông trưởng giả đó, chỉ khiến cho các con khỏi nạn lửa, an toàn tính mạng, chẳng phải là hư vọng. Tại sao ? Vì nếu được an toàn tính mạng, thì đã được đồ chơi tốt đẹp, huống chi dùng phương tiện cứu vớt ra khỏi nhà lửa.

Đức Thế Tôn ! Cho dù ông trưởng giả đó, không cho một thứ xe nhỏ nhất nào, cũng chẳng hư vọng. Tại sao ? Vì ông trưởng giả đó, trước hết nghĩ rằng : Ta dùng phương tiện, khiến cho các con được ra khỏi, vì nhân duyên đó, mà chẳng hư vọng vậy. Hà huống ông trưởng giả biết mình của giàu vô lượng, muốn lợi ích cho các con, mà đồng cho xe lớn.

Tôn giả Xá Lợi Phật trả lời Đức Phật: ‘’Không vậy, Đức Thế Tôn ! Ông trưởng giả đó chẳng nói dối, Ngài muốn khiến cho các con khỏi bị nạn lửa thiêu đốt, được an toàn tánh mạng, cho nên chẳng nói dối vậy. Vì sao ? Mạng người quý giá, nếu đã giữ được tính mạng, thì đã coi như được đồ chơi tốt đẹp, hà huống ông trưởng giả rộng bày phương tiện, cứu vớt tất cả chúng sinh ra khỏi nhà lửa tam giới.

Đức Thế Tôn ! Cho dù ông trưởng giả chẳng cho các con một thứ xe nhỏ nào, cũng chẳng hư vọng. Vì sao ? Vì ông trưởng giả đó, trước khi cứu vớt các người con ra, đã nghĩ như vầy : Ta phải dùng pháp phương tiện khéo léo, khiến cho các con chạy ra khỏi nhà lửa. Vì nhân duyên đó, nên chẳng có lỗi nói dối. Huống gì ông trưởng giả đó, biết mìnhcủa cải giàu vô lượng, khiến cho các người con được lợi ích, đều được xe lớn.’’ Kinh văn ở trên, là đức Phật dùng pháp đại thừa, cứu độ tất cả chúng sinh, cho nên chẳng vọng ngữ.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất ! Lành thay, lành thay ! Như lời ông nói, Xá Lợi Phất ! Như Lai cũng lại như thế, là cha lành của tất cả thế gian, ở nơi sợ hãi suy não lo buồn, vô minh đen tối che đậy, vĩnh viễn hết sạch chẳng còn sót, thảy đều thành tựu vô lượng tri kiến, lực vô sở úy, có sức đại thần thông, và sức trí huệ, đầy đủ phương tiện trí huệ Ba la mật, đại từ bi, thường chẳng lười mỏi, luôn luôn cầu việc thiện, lợi ích tất cả chúng sinh, mà sinh vào nhà lửa tam giới hư mục nầy.

Phật bảo Xá Lợi Phất: Lành thay, lành thay, như lời ông nói, Phật cứu chúng sinh như ông trưởng giả cứu các con. Như Lai là cha lành của tất cả chúng sinh thế gian. Chúng sinh bị tất cả sự sợ hãi, suy não, lo buồn, vô minh che đậy, như nay quét một cái, thì sạch tất cả phiền não, thành tựu tất cả tri kiến của Phật. Như tôn giả Xá Lợi Phất, từ cửa trí huệ của Phật, mà khai mở tri kiến của Phật, đắc được trí huệ bậc nhất. Tôn giả Mục Kiền Liên, từ cửa thần thông mà khai mở tri kiến của Phật, đắc được thần thông đệ nhất, thành tựu mười lực, bốn vô sở úy. Phật có sức đại thần thông, cứu vớt tất cả chúng sinh lìa khổ được vui. Phật có bốn trí: Thành sở tác trí, Diệu quán sát trí, Bình đẳng tánh trí, Đại viên cảnh trí, đầy đủ pháp môn phương tiện khéo léo, trí huệ Ba La Mật, ngồi thuyền Bát Nhã đến bờ kia. Đại từ là ban vui cho chúng sinh, đại bicứu khổ chúng sinh, vĩnh viễn chẳng lười mỏi. Phật lấy sự giáo hóa chúng sinh làm bổn hoài, cũng như tôn giả A Nan phát nguyện: ‘’Nếu còn một chúng sinh chưa thành Phật, thì quyết không thủ ngôi Chánh giác.’’ Phật thương xót chúng sinh ở trong sự điên đảo, suốt ngày chạy đông chạy tây, nhận giả làm thật, chẳng biết ra khỏi nhà lửa tam giới, cho nên Phật dùng sức đại thần thông, sức đại trí huệ, để lợi ích tất cả chúng sinh, mà sinh vào nhà lửa tam giới, vì cứu vớt chúng sinh khiến cho họ tỉnh ngộ, để họ sớm ra khỏi nhà lửa.

Vì độ chúng sinh ra khỏi nạn lửa sinh già bệnh chết, lo buồn khổ não, ngu si tối tăm ba độc, mà giáo hóa, khiến cho chúng sinh được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Phật sinh vào nhà lửa vì cứu độ chúng sinh, chúng sinh chẳng sợ hãi, chịu đủ thứ khổ hành hạ mà chẳng biết. Sinh thì như rùa lột mai, già thì các căn suy yếu, bịnh hoạn nằm trên giường, khổ không thể tả, muốn chết cũng chẳng được, đi cũng chẳng được, chết thì như bò sống lột da. Đầy dẫy lo buồn khổ não, ngu si, tối tăm, và lửa tham sân si ba độc. Phật giáo hóa chúng sinh, khiến cho được vô thượng chánh đẳng chánh giác, được quả vị Phật. Phật luôn luôn đều đợi chúng sinh thành Phật, chúng ta nên sớm lìa khỏi tam giới nầy, đừng để Phật đợi lâu.

Thấy các chúng sinh vì sinh già bệnh chết, lo buồn khổ não thiêu đốt, cũng vì năm dục tài lợi, mà chịu đủ thứ khổ, lại vì tham trước truy cầu, hiện phải chịu đựng các sự khổ, sau đó thì chịu khổ ở trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh về cõi trời, hoặc ở nhân gian, thì bần cùng khốn khổ, khổ về thương yêu phải xa lìa, khổ về oán ghét mà gặp nhau, đủ thứ các sự khổ như thế. Chúng sinh đắm chìm ở trong đó, vui mừng dạo chơi chẳng hay chẳng biết, chẳng sợ hãi, cũng chẳng nhàm chán, chẳng cầu giải thoát. Ở trong nhà lửa tam giới nầy, chạy đông chạy tây, dầu gặp khổ lớn mà chẳng lo lắng.
Xá Lợi Phất ! Đức Phật thấy vậy rồi, bèn nghĩ rằng : Ta là cha lành của chúng sinh, nên cứu họ khỏi khổ nạn, ban cho họ vô lượng vô biên trí huệ an vui của Phật, để họ dạo chơi.

Đức Phật thấy các chúng sinh, vì sinh già bệnh chết, lo buồn khổ não, các thứ khổ hành hạ, đều vì tham cầu năm dục. Năm dục là: Tài, sắc, danh, ăn và ngủ, hoặc là: Sắc, thanh, hương, vị, xúc. Con người thường bị năm dục lay chuyển, mà điên đảo thị phi, nhưng nếu nhìn thấu năm dục, thì sẽ buông bỏ tham trước, làm các thứ công đức. Nếu con người minh bạch: Tài, sắc, danh, ăn và ngủ, đều là vật ngoài thân, đại hạn lai thời thì sẽ buông bỏ tất cả, chẳng còn tham trước năm dục.

Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói: Sáu căn khiến cho con người tạo tội, cũng khiến cho con người thành Phật. Năm dục cũng như thế, mê luyến thì tham trước, nhìn thấu thì buông bỏ. Con người vì do tham cầu, cầu chẳng được thì sinh ra đủ thứ khổ nảo, trên thế gian do tham cầu mà tạo nghiệp, sau khi chết rồi thì đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ để chịu khổ. Nếu sinh về cõi trời, hoặc sinh vào nhân gian, thì sẽ chịu khốn khổ bần cùng. Hoàn toàn bần cùng khốn khổ, dù muốn làm công đức, cũng chẳng cách chi bố thí, còn có khổ về thương yêu mà phải xa lìa, với sự thương yêu người mà phải chia ly, khó bỏ khó lìa, và khổ về oán ghét mà gặp nhau, đủ thứ các sự khổ như thế.
Đắm chìm ở trong tam giớivui mừng dạo chơi, chẳng biết phiền não tập, cho nên chẳng sợ chẳng hãi, chẳng sinh nhàm chán, chẳng cầu giải thoát, chạy đông chạy tây ở trong tam giới, gặp đủ thứ việc khổ não mà chẳng lấy làm lo lắng. Phật bảo Xá Lợi Phất ! Phật thấy tình hình như vậy bèn bảo rằng: Tức cũng như ông trưởng giả ở trong thí dụ, nghĩ rằng: Ta là cha của chúng sinh, nên cứu vớt họ khỏi khổ nạnban cho họ vô lượng vô biên trí huệ vui của Phật, khiến cho họ vui vẻ dạo chơi ở trong Phật pháp đại thừa.
Người bần cùng đương nhiên là khốn khổ, nhưng giàu có cũng có vui có khổ, vui đến cực điểm thì sinh buồn, cho nên nói:

‘’Bần cùng bố thí là khó,
Giàu sang học đạo là khó.’’

Đức Phậtthái tử cũng học đạo được.

Xá Lợi Phất ! Như Lai lại nghĩ rằng : Nếu ta chỉ dùng sức thần thông, và sức trí huệ, bỏ đi phương tiện, vì chúng sinh khen ngợi tri kiến, lực, vô sở úy của Như Lai, thì chúng sinh không thể do đó mà được độ. Tại sao ? Vì các chúng sinh đó, chưa khỏi sinh già bệnh chết lo buồn khổ não, mà bị thiêu đốt ở trong nhà lửa tam giới, làm sao hiểu được trí huệ của Phật.

Xá Lợi Phất ! Đức Phật lại nghĩ : Nếu ta chỉ dùng sức thần thông và hết thảy Nhất thiết trí, Đạo chủng trí, Nhất thiết chủng trí, mà bỏ đi pháp môn phương tiện, vì chúng sinh khen ngợi tất cả tri kiến, mười lực và bốn vô sở úy của Phật, thì chúng sinh không thể nhờ nhân duyên nầy, mà được giải thoát. Vì sao ? Vì tất cả chúng sinh chưa khỏi khổ sinh già bệnh chết và ưu sầu khổ não, giống như trẻ con vô tri, bị thiêu đốt ở trong nhà lửa tam giới, làm sao biết được trí huệ của Như Lai.

Nếu người chưa gặp được Phật pháp, thì làm sao hiểu được Phật pháp ? Như người Tây phương chưa nghe qua Phật pháp, một khi nghe được Phật pháp, thì sinh tâm sợ hãi, ai cũng đều có tâm lý bịt tai ăn cắp chuông, biết rõ mình phạm lỗi, mà chẳng muốn đối diện với hiện thật, cải lỗi hướng thiện. Chưa gặp Phật pháp mà phạm lỗi, còn có thể tha thứ, chứ gặp Phật pháp rồi, biết rõ mà cố phạm thì tội tăng gấp ba. Người có lỗi hãy nên sửa đổi, người không lỗi thì nên tránh. Người có tội mà phạm nhiều lần không thay đổi, thì sẽ đọa lạc. Biển khổ mênh mông quay đầu là bờ, nên biết sửa đổi lỗi lầm trước kia. Khổng Tử có nói : ‘’Có lỗi thì chớ nãn sửa đổi.’’ Biết lỗi mà sửa đổi, thật là việc lành rất lớn vậy !

Xá Lợi Phất ! Như ông trưởng giả kia, tuy thân và tay có sức mạnh, mà chẳng dùng đến, chỉ ân cần dùng phương tiện, cố gắng cứu các con ra khỏi nhà lửa, sau đó đều cho xe trân báu lớn. Như Lai cũng lại như thế, tuy có trí lực vô sở úy, mà chẳng dùng đến.

Tôn giả Xá Lợi Phất trí huệ cao siêu, làm thượng thủ hàng Thanh Văn, còn Bồ Tát Văn Thù làm thượng thủ hàng Bồ Tát. Phật bảo Xá Lợi Phất ! Như ở trước có đề cập đến ông trưởng giả, tuy thân và tay có sức, dụ cho Phật có đại thần thôngchân thật trí, mà chẳng dùng đến, chỉ dùng pháp phương tiện khéo léo, nói pháp ba thừa để cứu độ các con, tức ba mươi đứa con (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, người ba thừachân tử của Phật) và năm trăm người (năm đường chúng sinh), khỏi bị ba độc (tham sân si) thiêu đốt ở trong nhà lửa. Ông trưởng giả dùng xe dê, xe hươu, xe trâu, để ở ngoài cửa, dụ con trẻ ra ngoài cửa, cuối cùng đều tặng cho xe trâu trắng lớn. Xe lớn có lục độ vạn hạnh nghiêm sức, tức chỉ có một Phật thừa. Phật quán căn cơ mà thí giáo, thấy con trẻ căn cơ có hạn, cho nên trước hết cho xe dê, xe hươu, xe trâu, tức pháp tiểu thừa. Phật trước hết nói pháp tiểu thừa, cho đến hội Pháp Hoa mới khai quyền hiển thuật, mở bày cho chúng sinh pháp đại thừa, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật. Như Lai cũng như thế, tuy có mười trí lực và bốn vô sở úy mà chẳng dùng đến.

Chỉ dùng trí huệ phương tiện, nơi nhà lửa tam giới cứu vớt chúng sinh, vì chúng sinh mà nói ba thừa : Thanh Văn, Bích Chi Phật, Phật thừa.

Sở dĩ Đức Phật dùng trí huệ chi phối pháp phương tiện, quán căn cơ thí giáo, vì người nói pháp, theo bệnh cho thuốc. Chúng sinh bị: Tham, sân, si, che đậy, pháp thân huệ mạng đều bị che lấp. Kẻ tham thì tham chẳng biết chán, chẳng biết đủ. Kẻ sân gặp nghịch cảnh, thì nổi trận lôi định, lửa vô minh nổi dậy, hiện tướng A Tu La. Tâm si che lấp lương tri lương năng của chúng sinh, khiến cho họ mê muội nhân quả, làm việc điên đảo. Con người thường bị lửa tham sân si thiêu đốt. Phật dùng một âm thanh diễn nói pháp, chúng sinh theo loại đều hiểu được, khiến cho Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, cho đến chín pháp giới chúng sinh, nghe pháp của Phật nói, đều phát bồ đề tâm. Phật ở trong tam giới cứu vớt tất cả chúng sinh.

Phật chẳng sợ bị lửa thiêu đốt, mà phát tâm đại bi vào nhà lửa, cứu vớt tất cả chúng sinh. Từ hay ban vui, bi hay cứu khổ, Phật cứu chúng sinh từ trong nhà lửa ra ngoài, chúng ta nên phát tâm bồ đề, sinh tâm sám hối đừng nóng giận nữa, phải biết Phật đang đợi chúng ta ! Tuy nhiên Phật đã dứt sinh tử, sao lại nói: ‘’Chẳng sợ chết‘’? Phật thật sự đã dứt sinh tử, Phật cảm thấy đau đớn như chính mình chịu. Chúng ta phải mau tỉnh giác, sửa đổi lỗi lầm quá khứ, tinh tấn tu hành, đừng để Phật phải đợi lâu ! Phật vì cứu vớt chúng sinhphân biệt nói ba thừa : Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Phật thừa. Phật ban cho xe hươu, xe dê, xe trâu trắng lớn, để chúng ta tùy ý lựa chọn.

Mà nói rằng : Các ông không nên ưa thích ở trong nhà lửa tam giới, chớ tham sắc thanh hương vị xúc thô hèn. Nếu tham trước, thì sinh luyến ái sẽ bị thiêu đốt, các ông hãy mau ra khỏi tam giới, sẽ chứng được ba thừa: Thanh Văn, Bích Chi PhậtPhật thừa.

Phật bảo rằng: ‘’Các ông‘’, tức ba mươi người con và năm trăm người, cũng bao quát bạn, tôi và tất cả chúng sinh. Phật bảo tất cả chúng sinh, chớ nhận lầm ở trong tam giới nầy là vui sướng. Tam giới nầy là khổ. Chúng sinh điên đảo thị phi, lấy khổ làm vui, mê chẳng biết về. ‘’Chớ tham sắc thinh hương vị xúc thô hèn‘’: Phật bảo chớ tham năm trần, cũng gọi là năm dục. Mọi vậthình tướng đều là sắc trần, sắc thanh hương vị xúc trần. Chúng sinh bị năm trần thô hèn mê hoặc che đậy nhiễu loạn tâm tính. Nhưng người tu hành phải đối cảnh vô tâm. Do đó, có câu :

‘’Thấy việc tỉnh việc lìa thế gian,
Thấy việc mê việc đọa trầm luân‘’.

Thấy cảnh giớigiác ngộ được, thì vượt ra được tam giới, nếu bị cảnh giới mê hoặc, thì sẽ đọa lạc. Do đó, có câu :

‘’ Mắt thấy hình sắc chẳng dính mắc,
Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay ‘’.

Mắt đối với cảnh mà chẳng bị cảnh chuyển, phải tự mình giữ vững tông chỉ, đừng để bị: Sắc thinh hương vị xúc năm trần, làm giao động tâm chí. ‘’Nếu tham trước thì sinh ái‘’: Đa số mọi người không dứt được sinh tử, nguyên nhân chính là có ‘’ái‘’, do ái mà sinh dục, ái dục là gốc rễ của sinh tử. ‘’Sẽ bị thiêu đốt‘’: Tức là bị lửa ái thiêu đốt, đây là ‘’tập‘’ đế, có tình ái thì sinh phiền não. Vì sao có tình ái ? Vì quá coi trọng thân thể nầy, muốn khiến cho thân thể được hưởng thụ. Hãy nghĩ xem tại sao Đức Phật vào núi Tuyết tu hành ? Tại sao thành đạo dưới cội bồ đề ? Tức là Ngài trừ khử tình ái, đoạn phiền nãochứng quả thành Phật. Ban đầu chuyển bánh xe pháp bốn Diệu Đế nói :

‘’Đây là khổ, tính bức bách
Đây là tập, tính chiêu cảm
Đây là diệt, tính có thể chứng
Đây là đạo, tính có thể tu‘’.

Phiền não là do bên trong có phiền não, mới chiêu đến phiền não bên ngoài.
‘’Các ông hãy mau ra khỏi tam giới, sẽ chứng được ba thừa Thanh Văn, Bích Chi Phật và Phật Thừa‘’: Phật bảo các ông hãy mau mau ra khỏi nhà lửa tam giới, không nên trôi nổi ở trong đó mà quên về. Thanh Văn thừa do nghe âm thanhngộ đạo, Bích Chi Phật tức là Duyên Giác :

‘’Mùa xuân quán trăm hoa nở,
Mùa thu ngắm lá vàng rơi‘’.

Quán vạn vật trời đất thịnh suy, tu pháp mười hai Nhân Duyên, mà chứng quả Bích Chi Phật. Sinh vào thời có Phật tại thế, thì gọi là Duyên Giác, sinh vào thời chẳng có Phật, thì gọi là Độc Giác. Phần nhiều Bích Chi Phật ở trong thâm sơn cùng cốc, chẳng tiếp xúc với bên ngoài, tu hành chứng quả thành Bích Chi Phật. Phật thừa, Phật là tiếng Phạn, dịch là "giác". Giác gồm có:
- Tự giác,
- Giác tha,
- Giác hạnh viên mãn.

Phật khác với phàm phu, phàm phu thì chẳng giác, còn Phật thì tự giác và còn giác tha tức là vừa lợi mình lợi người. Hạnh tự giác giác tha đều viên mãn, do đó gọi là: ‘’Ba giác tròn vạn đức đầy‘’, gọi là Phật. Phật thừa khác với Bồ Tát thừa, Duyên Giác ThừaThanh Văn thừa. Kinh Pháp Hoa nói: ‘’Chỉ một Phật thừa, chẳng có thừa nào khác‘’. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, đều là pháp phương tiện khéo léo, khai quyền hiển thật.
Lần thứ hai chuyển bánh xe pháp bốn Diệu Đế, Phật nói :

‘’Đây là khổ, ông nên biết
Đây là tập, ông nên đoạn
Đây là diệt, ông nên chứng
Đây là đạo, ông nên tu‘’.

Lần thứ ba chuyển bánh xe pháp bốn Diệu Đế, Phật lại nói :

‘’Đây là khổ, ta đã biết
Đây là tập, ta đã đoạn
Đây là diệt, ta đã chứng
Đây là đạo, ta đã tu‘’.

Ban đầu Phật chuyển bánh xe pháp bốn Diệu Đế với năm vị Tỳ kheo Kiều Trần Như, Kinh văn Pháp Hoa nầy cũng mở bày đạo lý: Khổ tập diệt đạo.

Nay ta bảo nhiệm việc nầy, tuyệt đối chẳng hư vọng. Các ông hãy siêng tu tinh tấn, Như Lai dùng phương tiện đó, để dẫn dụ chúng sinh ra khỏi nhà lửa.

Phật bảo chứng: Nếu các ông y theo pháp đại thừatu hành, thì chắc chắn sẽ thành Phật, tuyệt đối chẳng hư vọng, các ông tất cả chúng sinh hãy siêng tu tinh tấn, nếu không siêng tu tinh tấn, thì cũng như nói ăn, đếm tiền, do đó có câu :

‘’ Suốt ngày đếm tiền mướn,
Mình chẳng có xu nào,
Nơi pháp chẳng tu hành,
Tội lỗi cũng như thế. ‘’

Trong Kinh Lăng Nghiêm cũng nói : Ví như nói ăn, tuyệt đối không thể no. Phải siêng tu tinh tấn, tinh tấn gồm có: Thân tinh tấn và tâm tinh tấn. Lạy Kinh, niệm Phật, tham thiền, trì Chú, đều là thân tinh tấn, nếu không thì tâm như con ngựa con khỉ, vọng tưởng lung tung, cho nên phải tinh tấn. Phật pháp thì phải thân thể lực hành, ‘’Nói hay, nói giỏi, mà chẳng thực hành, thì chẳng phải đạo‘’. Chỉ biết mà không hành, thì chẳng đắc được chỗ diệu, phải tinh tấn tu hành mới có lợi ích.
‘’Như Lai dùng phương tiện đó, để dẫn dụ chúng sinh ra khỏi nhà lửa‘’: Phật nói pháp phương tiện, để dẫn dụ chúng sinh ra khỏi nhà lửa, bảo rằng có xe hươu, xe dê, xe trâu, ở ngoài cửa, đợi họ ra khỏi nhà lửa rồi thì cho xe lớn.
‘’Dẫn dụ‘’ chúng sinh, như Phật tay không dụ em bé. Phật thấy em bé bò gần đến miệng giếng, tình thế cấp bách, mới bảo với em bé trong tay của Ngài có kẹo, em bé nghe nói đến kẹo thì quay đầu lại, bò qua chỗ Đức Phật. Em bé khỏi bị rớt xuống giếng, mà trong tay của Phật thật chẳng có kẹo. Chúng sinh muốn ra khỏi tam giới, thì nhờ Phật dụ mà ra khỏi nhà lửa vậy !

Lại bảo : Các ông nên biết ! Pháp ba thừa nầy, đều được các bậc Thánh khen ngợi, tự tại chẳng ràng buộc, chẳng còn nương tựa tìm cầu, ngồi ba thừa đó, dùng vô lậu căn lực giác đạo, thiền định giải thoát tam muội .v.v... mà tự vui sướng, bèn được vô lượng an ổn khoái lạc.

Phật lại bảo, các ông chúng sinh nên biết pháp ba thừa: Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừaPhật thừa, ba thừa pháp nầy đều được chư Phật quá khứ, hiện tạivị lai khen ngợi. Pháp ba thừa nầy, là pháp môn tiếp dẫn chúng sinh, của tất cả chư Phật ba đời trong mười phương. ‘’Tự tại chẳng ràng buộc, chẳng nương tựa tìm cầu‘’: Đắc được tự nhiên trí tức tự tại, tức được tha tâm trí, minh bạch tất cả tâm ý của chúng sinh. ‘’Chẳng ràng buộc‘’, tức được giải thoát, chẳng quái ngại, xa lìa điên đảo mộng tưởng, được trí huệ tối cao, buông bỏ hết tất cả. ‘’Chẳng còn nương tựa tìm cầu‘’: Những gì cần làm đã làm xong, chẳng còn thọ thân sau nữa, tức đã dứt sinh tử. Tự tánh của chúng ta là ‘’năng y‘’, sinh tử là ‘’sở y‘’, đã dứt sinh tử tức vô sở y (chẳng còn nương tựa). Sao gọi là vô sở cầu ? Các lậu đã sạch, phạm hạnh đã vững, tức vô sở cầu (chẳng còn gì mong cầu). Nếu được vô sở y, vô sở cầu, thì chứng quả liễu sinh thoát tử.
‘’Ngồi ba thừa đó‘’: Ngồi ở trong xe ba thừa, dùng năm căn vô lậu: Tín, tấn, niệm, định, huệ, siêng năng tinh tấn, thì năm căn sẽ tăng thêm căn lành, mà sinh ra năm lực (Tín, tấn, niệm, định, huệ lực). ‘’Giác‘’ là bảy giác chi :

1. Trạch pháp giác chi, chọn thiện mà theo.
2. Tinh tấn giác chi.
3. Hỉ giác chi.
4. Khinh an giác chi.
5. Xả giác chi.
6. Định giác chi.
7. Niệm giác chi, lại gọi là bảy bồ đề phần.

‘’ Đạo‘’ là bát Chánh đạo :

1. Chánh kiến.
2. Chánh ngữ.
3. Chánh tư duy.
4. Cháng nghiệp.
5. Chánh mạng.
6. Chánh niệm.
7. Chánh tinh tấn.
8. Chánh định.

‘’Thiền‘’ là sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Sơ thiềnba cõi trời, nhị thiềnba cõi trời, tam thiềnba cõi trời, tứ thiềnba cõi trời. Đó là cảnh giới thiền định của phàm phu. Trời Vô Tưởngcảnh giới thiền định của ngoại đạo, Trời Ngũ Bất Hoàncảnh giới thiền định của bậc Thánh nhân. Người nhân gian tham thiền đả tọa, cũng có thể đạt đến cảnh giới của chư Thiên cõi Tứ Thiền tu thiền định. Người tu thiền định, nhập định được cảnh giới sơ thiền, gọi là Ly Sinh Hỷ Lạc Địa, được sự khoái lạc thiền duyệt vi thực, chỉ cảm thấy thân tâm thơ thới khoái lạc, mà chẳng biết ngày giờ đã qua, giống như hòa thượng Hư Vân tại núi Chung Nam, nhập định mười tám ngày, cũng là đắc được cảnh giới nầy. Thành tâm dụng công tu hành, tham thiền đả tọa, thì sẽ được cảnh giới nầy. Cảnh giới sơ thiền nầy, chẳng phải chỉ riêng cảnh giới của chư Thiên, mà là người tu đạo dùng thân phàm phu tu hành, thì có thể chứng nhập, đây chỉ là giai đoạn ban đầu nhập môn của sự tu hành. Mấy ngày trước có người chứng được cảnh nầy, chứng được bậc nầy, bất quá chỉ là bước thứ nhất của sự tu hành mà thôi ! Muốn chứng Thánh quả, cần phải tiếp tục nỗ lực không ngừng tinh tấn tiến về trước.

Nhị Thiền là Định sinh hỷ lạc địa, đừng tham trước khoái lạc, phải tu định, do đó có câu : ‘’Na già thường tại định, vô hữu bất định thời.’’ Đi đứng nằm ngồi đều như nhập định, chẳng vướng duyên bên ngoài, tâm như nước chảy, trong suốt thấu triệt, ngồi thiền thì chẳng những mạch máu ngừng lại, mà hô hấp hơi thở cũng ngừng lại, chỉ có niệm chưa ngừng lại, còn khởi vọng tưởng, một niệm sinh ra thì sẽ xuất định.

Tam Thiền là Ly hỷ diệu lạc địa, lìa tất cả sự vui sướng, chẳng còn tham trước ‘’thiền duyệt vi thực, pháp hỉ sung mãn‘’, được sự khoái lạc ở cõi trời. Nếu các bạn muốn thưởng thức từ vị đó, thì phải dụng công tham thiền đả tọa.
Tứ ThiềnXả niệm thanh tịnh địa, cho dù một niệm cũng xả bỏ, vô sinh vô niệm, lúc nầy đã trừ tất cả khách trần phiền não, chỉ chưa chứng quả. Ở trên là cảnh giới khinh an đắc được cửa sự tu đạo.

‘’Định‘’ là bốn vô sắc định :
1. Không vô biên xứ định,
2. Thức vô biên xứ định.
3. Vô sở hữu xứ định.
4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ định.

Bốn trời định gọi là Trời Vô Sắc Giới, ‘’định‘’ tức gọi là vô sắc định. Chư Thiên bốn cõi trời nầy, chỉ có thức mà chẳng có hình sắc, cho nên gọi là Vô sắc định, còn Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, cũng gọi là bốn Không Xứ.
‘’Thiền định‘’ là bốn thiền tám định, bốn thiền thêm bốn vô sắc định, hợp lại thành tám định.

‘’Giải thoát‘’: Có tám thứ giải thoát :
1. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát.
2. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát.
3. Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ.
4. Không vô biên xứ giải thoát.
5. Thức vô biên xứ giải thoát.
6. Vô sở hữu xứ giải thoát.
7. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.
8. Diệt thọ tưởng thân tác chứng cụ túc trụ.

Đó là tám giải thoát. Người mới tu đạo, thì trong tâm vẫn tồn tại dục niệm, nên dùng chín pháp quán tưởng (quán bất tịnh) để đối trị sắc bên ngoài, biết được nó bất tịnh thì sẽ không chấp trước vào ‘’sắc‘’, tức được giải thoát, buông xả đặng thì tự tại, nhìn thấu thì buông đặng. Cho nên trước hết phải tu được quán nầy.
Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát, tu hành dụng công thì lâu dần trong sự bất tri bất giác, lìa được niệm sắc dục, bên trong chẳng có niệm sắc dục, vẫn phải quán sắc bên ngoài, quán tưởng gái đẹp tương lai cũng khó tránh cái chết, già chết thì thân của họ cũng biến hoại, quán thây sình thối có ấu trùng rúc rỉa, còn lại xương trắng, xương biến thành đất, bốn đại trả về cho bốn đại, gió trả về cho gió, đất trả về cho đất, nước trả về cho nước, lửa trả về cho lửa, cứu kính chẳng còn gì hết. Thường hay quán tưởng như thế, thì chẳng sinh tâm tham ái, trừ khử được tâm ái dục thì được giải thoát.

Được tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ, cụ túc trụ, tức là trụ ở trong bổn thể thanh tịnh, không, thức, hữu, tưởng, đều giải thoát, được diệt, thọ, tưởng, thân tu diệt, thọ, tưởng định, thức cũng sẽ diệt. Nhưng thức vẫn chưa diệt, thì tám vạn bốn ngàn kiếp sau cũng sẽ tái sinh, cho nên tuy nhiêncảnh giới bốn Không Xứsinh tử vẫn chưa dứt. Tứ thiền thêm bốn Không Xứ và thêm thọ diệt tưởng định, gọi là chín thứ đệ định. ‘’Tam muội‘’ là không tam muội, vô tướng tam muội, vô nguyện tam muội. Thành tựu ba thứ tam muội nầy, thì thành không vô tướng nguyện.
‘’Mà tự vui sướng‘’: Tu hành được thiền duyệt vi thực, pháp hỉ sung mãn. ‘’Bèn được vô lượng an ổn khoái lạc‘’: Nhất là trong thiền định được vô lượng an ổn khoái lạc, được chân không Niết Bàn, vĩnh viễn lìa tất cả tai nạn lo âu.

Xá Lợi Phất ! Nếu có chúng sinh bên trong có trí tánh, theo Phật Thế Tôn nghe pháp, tin nhận thọ trì, ân cần tinh tấn, muốn mau ra khỏi tam giới, tự cầu chứng Niết Bàn, đó gọi là Thanh Văn thừa. Như các người con đó, vì cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa.

Phật bảo Xá Lợi Phất: ‘’Nếu có chúng sinh, bên trong có trí tánh, theo Phật Thế Tôn nghe pháp tin nhận‘’: Chúng sinh kiếp trước từng theo Phật nghe pháphay tin nhận, chẳng sinh nghi hoặc; tin nhận là văn huệ. ‘’Ân cần‘’ là tư huệ, thường suy gẫm. ‘’Tinh tấn‘’ là tu huệ. ‘’Muốn mau ra khỏi tam giới, tự cầu chứng Niết Bàn, đó gọi là Thanh Văn thừa, như các người con đó, vì cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa.’’

Nếu có chúng sinh theo Phật Thế Tôn, nghe pháp tin nhận thọ trì, ân cần tinh tấn, cầu tự nhiên huệ, thích sống một mình ở chỗ vắng vẻ, biết rõ nhân duyên của các pháp, đó gọi là Bích Chi Phật thừa, như các người con kia, vì cầu xe hươu mà ra khỏi nhà lửa.

Nếu có chúng sinh nghe pháp tin nhận thọ trì chẳng nghi, tín tâm phát xuất từ nội tâm, do đó:

‘’Mình ăn thì mình no,
Sinh tử của mình tự mình dứt‘’.

Người khác không thể thay thế bạn sinh tín tâm, phải tự mình sinh tín tâm. ‘’Ân cần tinh tấn, cầu tự nhiên huệ, thích sống một mình chỗ vắng vẻ‘’: Thích tu hành một mình. ‘’Biết rõ nhân duyên của pháp‘’: Biết rõ mười hai nhân duyên thành Bích Chi Phật thừa. ‘’Như các người con kia, vì cầu xe hươu mà ra khỏi nhà lửa‘’: Dùng xe hươu dụ cho Bích Chi Phật thừa, có Phật ra đời thì gọi là Duyên Giác, chẳng có Phật ra đời thì gọi là Độc Giác. Bích Chi Phậttự chứng tự liễu.

Nếu có chúng sinh, theo Phật Thế Tôn nghe pháp, tin nhận thọ trì, ân cần tinh tấn, cầu Nhất thiết trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí, tri kiến lực, vô sở úy của Như Lai, thương xót vì sự an vui của vô lượng chúng sinh, làm lợi ích cho trời người, độ thoát tất cả chúng sinh, đó gọi là đại thừa. Bồ Tát cầu thừa nầy, nên gọi là Ma ha tát, như các người con kia, vì cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa.

Nếu có chúng sinh theo Phật nghe pháp, tâm sinh niềm tin thọ trì, ân cần tinh tấn, cầu ‘’nhất thiết trí‘’: Cầu trí biết tất cả pháp thế gianxuất thế gian, ‘’Phật trí‘’ là trí huệ mà một số chúng sinh không thể có, ‘’tự nhiên trí‘’, ‘’vô sư trí‘’ đều là trí huệ đại viên mãn giác của Phật, ‘’tri kiến lực, vô vô sở úy của Như Lai‘’: Sự biết của Như LaiNhất thiết chủng trí, sự thấy của Như Lai là mắt Phật, ‘’lực‘’ là mười lực, ‘’vô sở úy‘’ là bốn vô sở úy, Phật phát tâm đại từ bi, thương sót sự an vui của chúng sinh, lợi ích trời người, độ thoát tất cả chúng sinh, đó gọi là Bồ Tát đại thừa, nên gọi là Ma Ha Tát (đại). Như các người con kia vì cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa.

Xá Lợi Phất ! Như ông trưởng giả kia, thấy các người con ra khỏi nhà lửa được an ổn, đến nơi chẳng sợ hãi, tự nghĩ của cải giàu vô lượng, đều đem xe lớn mà cho các con. Như Lai cũng như thế, là cha của tất cả chúng sinh. Nếu thấy vô lượng ức ngàn chúng sinh, do cửa Phật giáo mà ra khỏi đường hiểm khổ sợ hãi của tam giới, thì Phật khiến cho họ được sự an vui của Niết Bàn.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất, đức Như Lai như ông trưởng giả giàu có, thấy các người con ra khỏi nhà lửa được yên ổn, ông trưởng giả tức nhiên có của cải vô lượng, bèn bình đẳng ban tặng cho các con xe trâu trắng lớn. Giống như Phật thấy vô lượng chúng sinh, vì nghe Phật pháp mà tin nhận hộ trì, được lìa khỏi khổ, đường hiểm trong tam giới, thì Phật khiến cho chúng sinh đắc được sự vui của thường lạc ngã tịnh.

Bấy giờ, đức Như Lai bèn nghĩ : Ta có vô lượng vô biên trí huệ lực vô sở úy .v.v... các kho tàng Phật pháp. Các chúng sinh đó đều là con của ta, đều bình đẳng ban cho đại thừa, chẳng khiến có người được diệt độ riêng, mà đều dùng sự diệt độ của Như Lai để diệt độ. Những chúng sinh đó thoát khỏi tam giới, Phật đều ban cho sự vui sướng thiền định giải thoát của chư Phật.

Đức Thích Ca Như Lai lúc đó nghĩ như vầy : Ta có vô lượng vô biên trí huệ, mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng. ‘’Các kho tàng Phật pháp‘’: Như bốn đế, sáu độ, mười hai nhân duyên, ba mươi bảy đạo phẩm. .v.v. Các chúng sinh đó đều là con của ta, đều bình đẳng ban cho xe lớn. ‘’Dùng sự diệt độ của Như Lai, mà diệt độ‘’: Chẳng thiên lệch về lý không, khiến cho các chúng sinh thoát khỏi tam giới, Phật đều ban cho thiền định giải thoát tam muội Phật thừa, dùng giải thoát thiền định khoái lạc làm vui sướng, ở trong đó có thể được lạc thú vô cùng.

Đều là một tướng một thứ mà các bậc Thánh khen ngợi, hay sinh vui tịnh diệu bậc nhất.

‘’Một tướng‘’ là thật tướng. Thật tướng đại biểu pháp thân đức, một trong ba đức. Ở trên đã nói rõ ba mươi bảy đạo phẩm, sáu độ, bốn đế, mười hai nhân duyên, bây giờ dùng ba đức để kết thúc phẩm ví dụ, cho nên nói đều là một tướng, tức cũng là thật tướng. Thật tướngvô tướng, vô sở bất tướng, tất cả vạn vậthình tướng, đều từ thật tướng mà ra, chân không tức diệu hữu, diệu hữu tức chân không, thật tướngpháp thân đức của Phật. ‘’Một thứ‘’ (nhất chủng) tức là Nhất thiết chủng trí, là Bát Nhã đức. ‘’Mà các bậc Thánh khen ngợi, hay sinh vui tịnh diệu bậc nhất‘’: Là giải thoát đức, pháp nầy mới được chư Phật khen ngợi, hay sinh vui thanh tịnh vi diệu, lìa cả khổ tức được giải thoát.

Xá Lợi Phất ! Như ông trưởng giả kia, ban đầu dùng ba xe, để dẫn dụ các người con, sau đó chỉ cho một thứ xe lớn, có các báu vật trang nghiêm, an ổn bật nhất, nhưng ông trưởng giả đó chẳng có lỗi hư dối.

Phật bảo Tôn GiXá Lợi Phất ! Phật giống như ông trưởng giả kia, ban đầu dùng pháp môn phương tiện, nói ngoài cửa có xe dê, xe hươu, xe trâu, để ở ngoài cửa, gạt dụ các con ra khỏi nhà lửa, đến được nơi yên ổn, thì ông trưởng giả giàu có của cải vô lượng, mới ban cho các con mỗi người một chiếc xe trâu trắng lớn, xe có báu vật trang trí nghiêm sức, an ổn bậc nhất, ai nấy đều được xe lớn, do đó ông trưởng giả chẳng có lỗi nói dối.

Như Lai cũng như thế, chẳng có nói dối, ban đầu nói ba thừa dẫn dắt chúng sinh, sau đó chỉ dùng đại thừađộ thoát. Tại sao ? Vì Như Laivô lượng trí huệ lực vô sở úy, các kho tàng Phật pháp, hay ban cho tất cả chúng sinh pháp đại thừa, nhưng thọ dụng chẳng hết được.
Xá Lợi Phất ! Do nhân duyên đó, nên biết chư Phật vì sức phương tiện, nơi một Phật thừa, mà phân biệt nói ba thừa.


Như Lai Thế Tôn cũng như ông trưởng giả kia, dùng pháp quyền xảo phương tiện dẫn dắt chúng sinh, ban đầu nói Thanh Văn thừa, kế nói Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa, ba thừa, để dẫn dắt chúng sinh. Ba tạng giáo thuộc Thanh Văn thừa, biệt giáo thuộc Duyên Giác thừa, Viên Giáo thuộc Bồ Tát thừa. Cuối cùng mới nói thật tướng diệu lý Kinh Pháp Hoa, pháp môn viên đốndiệu pháp đại thừa, độ thoát chúng sinh. Vì sao ? Đức Phật vốn có vô lượng vô biên trí huệ, có Nhất thiết trí, Đạo chủng trí, Nhất thiết chủng trí, lại có mười lực, bốn vô sở úy, tất cả pháp môn, ban đầu đã có thể ban cho chúng sinh pháp môn đại thừa, song chẳng phải tất cả chúng sinh đều tiếp thọ được. Như ban đầu nói Kinh Hoa Nghiêm, mà người nhị thừa có mắt chẳng thấy Lô Xá Na, có tai chẳng nghe giáo lý viên đốn, thấy mà chẳng thấy, nghe mà chẳng nghe, như điết như mù, chẳng những không tiếp thọ được, mà đối với đạo lý bên trong họ cũng chẳng thông đạt được.

Có một số người nghĩ, người nhị thừa còn chẳng hiểu Kinh Hoa Nghiêm, huống gì chúng ta căn tánh đâu có bằng người nhị thừa, làm sao mà lãnh hội được Kinh Hoa Nghiêm ? Ban đầu đức Phật thành Phật, thì trên thế gian vốn chẳng có Phật, cho nên con người không thể tiếp thọ đạo lý quá thâm áo. Bây giờ ai cũng biết có Phật pháp, biết rõ có đại thừa tiểu thừa, tự tính của chúng ta vốn đã trồng xuống hạt giống đại thừa, cho nên bây giờ nghe được Phật pháp đại thừa.
Phật lại bảo Xá Lợi Phất, vì chúng sinh không thể hoàn toàn tiếp thọ diệu lý đại thừa, ông nên biết, mười phương chư Phật và Phật Thích Ca đều dùng pháp môn quyền xảo phương tiện nầy, chỉ một Phật thừa nầy mà nói thành ba thừa. Kỳ thật, chẳng có ba thừa, vì căn tánh chúng sinh mà nói ba thừa, mục đích cuối cùng là : Hy vọng chúng sinh sớm thành Phật đạo.

Đức Phật muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng :

Ví như ông trưởng giả
Có một ngôi nhà lớn
Nhà đó đã lâu đời
Mà lại cũ hư nát.
Phòng nhà cao nguy hiểm
Trụ cột lại gãy mục
Nóc nhà đều nghiêng ngã
Nền móng đã hư nát.
Tường vách đều sụp đổ
Bùn đất rơi rớt xuống
Tranh lợp rơi tả tơi
Kèo đòn tay trật khớp.
Bốn phía đều cong vạy
Đầy dẫy những dơ uế
Có đến năm trăm người
Thảy đều ở trong đó.
Chim si, hưu, điêu, thứu
Quạ, chim thước, cưu, cáp
Ngô công và du diên
Loài thủ cung, bá túc.
Dứu ly cùng hề thử
Các loài độc trùng dữ
Đuổi nhau chạy ngang dọc
Đại tiểu tiện hôi thối.
Chảy đầy đồ bất tịnh
Các độc trùng bọ hung
Bu đậu ở trên đó
Cáo sói và dã can.
Liếm nhai dày đạp lên
Cắn xé những thây chết
Xương thịt bừa bãi ra
Do đó các bầy chó.
Tranh nhau đến giành ăn
Ốm đói rất sợ sệt
Khắp nơi tìm món ăn
Giành giựt cấu xé nhau.
Gầm gừ gào sủa rên
Nhà đó rất đáng sợ
Những cảnh trạng như thế
Khắp nơi thảy đều có.
Quỷ lị mị, vọng lượng
Dạ Xoa các ác quỷ
Ăn nuốt cả thịt người
Các loài trùng dữ độc.
Những cầm thú hung ác
Ấp cho bú sản sinh
Đều tự giấu gìn giữ.

Phật từ bi thương xót, sợ chúng sinh chẳng minh bạch đạo lý bên trong, cho nên dùng kệ để thuật lại nghĩa trường hàng ở trên.
Kệ có bốn chữ, sáu chữ, hoặc bảy chữ, đủ loại. Dùng kệ để thuật lại đạo lý ở trên, hoặc chưa nói rõ, lại phải dùng kệ để nói: ‘’Ví như ông trưởng giả, có một ngôi nhà lớn‘’: Bao quát dục giới, sắc giới, và vô sắc giới ba cõi, là một ngôi nhà lớn. Ba cõi không yên, giống như nhà lửa. Như thân thể của chúng tabài kệ rằng :

‘’Thân người như một căn nhà,
Miệng làm cửa lớn mắt làm cửa sổ,
Tứ chi như bốn cột trụ,
Đầu tóc ví như tranh lợp nhà,
Tùy thời siêng tu bổ,
Đừng để ngã sập nguy nan.’’

Thân con người như một căn nhà, phải thừa lúc thân thể còn khoẻ mạnh, thì nên siêng năng tham thiền đả tọa, lạy Phật, tụng Kinh, trì Chú. Một đời chỉ được lúc siêng năng, một năm chỉ được vào mùa xuân, một ngày chỉ được vào lúc sáng sớm. Sáng sớm nên thức dậy vào khoảng bốn giờ, rửa mặt rồi thì nên ngồi thiền, vì sáng sớm trời đất vạn vật đều yên tĩnh, lúc nầy ngồi thiền rất dễ tương ưng với đạo.

Ngồi thiền xong rồi, lễ Phậtvận động tốt nhất, khiến cho máu huyết lưu thông, lạy Phật rồi thì tụng Kinh, khiến cho hô hấp hơi thở điều hòa, sau đó thì trì Chú, trong tâm tĩnh lặng là kim cang trì Chú, làm hết tất cả rồi, thì bắt đầu làm việc.
‘’Nhà đó đã lâu đời‘’: Tam giới từ vô thủy đến nay, vẫn tồn tại nên gọi là lâu đời. ‘’Mà lại cũ hư nát‘’: Dụ cho thân người sẽ suy già, các bộ phận làm việc cũng suy yếu.
‘’Phòng nhà cao nguy hiểm‘’: ‘’Phòng‘’ dụ cho sắc giới, ‘’nhà‘’ dụ cho dục giới, ở trong tam giới dễ mất đi thân người. Trong tam giới sẽ đọa lạc vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, bất cứ lúc nào nên gọi là ‘’nguy hiểm‘’. ‘’Trụ cột lại gãy mục‘’: ‘’Trụ cột‘’ dụ cho hai chân người, như trụ cột chống đỡ thân thể. ‘’Gãy mục‘’ tức sinh già bệnh chết bốn tướng biến đổi, từ nhỏ đến lớn, lớn rồi thành già, già rồi chết. ‘’Nóc nhà đều nghiêng ngã‘’: Dụ cho lưng của chúng ta đã cong. ‘’Nền móng đã hư nát‘’ ý nói thân thể này tạo nghiệp cuối cùng sẽ tan rã. ‘’Tường vách đều sụp đổ, bùn đất rơi rớt xuống‘’: Dụ cho da của con người đã nhăn nheo, da như bùn đất biến hoại. ‘’Tranh lợp rơi tả tơi‘’: ‘’Tranh lợp‘’ là cỏ tranh dùng để lợp mái nhà, dụ cho tóc, tóc đều đã rụng tả tơi. ‘’Kèo đòn tay trật khớp‘’: ‘’Kèo đòn tay‘’ dụ cho gân cốt, gân cốt đã trật khớp. ‘’Bốn phía đều cong vạy, đầy dẫy những nhơ uế‘’: Tức ruột non ruột già trong thân thể cong vạy, đầy dẫy phân đồ vật phế thải nhơ uế.
Thân thể con người do bốn đại hòa hợp mà thành, thân thể tan rã thì bốn đại phân tán, đất, nước, gió, lửa đều trả về. Mỗi người nên nhận rõ đời người, đừng vì thân nầy mà làm nô lệ, chẳng biết giác ngộ. Tôi từng nói:

‘’Người thọ bảy mươi xưa nay hiếm,
Trước trừ thiếu niên sau trừ già,
Thời gian khoảng giữa chẳng là bao,
Lại có một nửa thời gian ngủ‘’.

Con người mới sinh ra, đến mười tuổi thì quá nhỏ, chẳng làm được gì, quá sáu mươi tuổi thì đã già, cũng chẳng còn hữu dụng, thời gian khoảng giữa còn có một nửa ngủ nghỉ, thật tế đời người thời gian làm chẳng bao nhiêu, ở trên là chân lý đời người, thấy được chân lý đời người, thì thân tâm có chỗ ký thác.
‘’Có đến năm trăm người, thảy đều trong đó‘’: Tức là năm đường chúng sinh (cõi trời, cõi người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh), ở trong nhà lửa tam giới nầy.
‘’Chim si hưu, điêu, thứu‘’: Chim si hưu là chim bất hiếu, mới sinh ra thì ăn thịt mẹ của chúng. Chim mẹ bị con ăn, đó là vì quả báo, vì nó đời trước bất hiếu với cha mẹ, cho nên đời nầy bị con ăn thịt. ‘’Chim si‘’ dùng chuộc làm thức ăn. Người Tàu cho rằng thấy được loài chim nầy, là điềm chẳng cát tường, chim nầy cũng gọi là mèo đầu ưng, do đó có câu: ‘’Mèo hoang vào nhà, thì chẳng việc gì mà không xảy đến‘’. Cho nên ai ai cũng đều ghét loài chim nầy. Con người nếu tự tôn tự đại, ở nhà bất hiếu với cha mẹ, thì quả báu sẽ đầu thai làm chim si hưu. ‘’Điêu thứu‘’ : Đều dùng động vật chết làm thức ăn, những loài chim nầy lúc sinh tiền làm người, thì háo cao vụ viễn, chẳng có việc gì thành tựu, chẳng cống hiến gì cho đời, vì họ háo cao vụ viễn nên đầu thai làm phi cầm.
‘’Chim si, hưu, điêu, thứu, quạ, thước, cưu, cáp’’: Hết thảy tám loài chim nầy, dụ cho mạn trong năm độn sử : Tham, sân, si, mạn, nghi, những loài chim nầy, kiếp trước làm người thì cậy thế hiếp người, hoặc cậy tiền của, hoặc cậy tài cán, hoặc cậy trí huệ, coi mình cao siêu mà khinh khi người khác. ‘’Điêu‘’ là một thứ chim thân hình to, hay bay rất cao, mỏ màu đỏ, dùng động vật nhỏ như thỏ, gà, làm thức ăn. ‘’Thứu‘’ thân màu vàng, thường ăn vật hũ nát như động vật đã chết sình. ‘’Quạ‘’ là quạ đen là chim hiếu nhưng tính kiêu ngạo. ‘’Thước‘’ là chim khách, thân nửa trắng nửa đen. Người Tàu cho rằng chim khách là chim cát tường, gặp chim khách bay đến, tức là có điềm cát tường, có tin vui, cho nên ai ai cũng đều thích chim nầy. ‘’Cưu‘’ loài chim nầy chẳng ăn trùng mà ăn lương thực. ‘’Cáp‘’ tự cho mình là đẹp nhất, tính đa tình. Tám loài chim ở trên là dụ cho cống cao ngã mạn. Có tám thứ kiêu ngạo :

1. ‘’Si‘’ dụ cho ỷ mạnh kiêu ngạo.
2. ‘’Hưu‘’ dụ cho tính kiêu ngạo, lúc làm người thì cậy mình sinh vào gia đình sang trọng.
3. ‘’Điêu‘’ dụ cho giàu kiêu ngạo, tự cho rằng mình giàu hơn người khác.
4. ‘’Thướu’’ dụ cho tự tại kiêu ngạo, cảm thấy mình vô câu vô thúc, vô quái vô ngại, cứ ăn vật hư hoại, mà tự cho rằng đó là tu khổ hạnh, cảm thấy rất tự tại, kì thật chỉ là khổ hạnh vô ích mà thôi.
5. ‘’Quạ‘’ dụ cho thọ mạng kiêu ngạo, tuy thọ mạng chẳng dài lắm, song tự cảm thấy thọ lâu dài, cho nên có thọ mạng kiêu ngạo.
6. ‘’Thước‘’ dụ cho thông minh kiêu ngạo.
7. ‘’Cưu‘’ dụ cho làm thiện kiêu ngạo, lấy sự ăn chay mà tự kiêu ngạo.
8. ‘’Cáp‘’ dụ cho sắc đẹp kiêu ngạo.

Tám thứ kiêu ngạo ở trên, dụ cho mạn sử trong năm độn sử, tức là thường có tâm ngã mạn, tự cho mình hơn bất cứ ai.
‘’Ngoan, xà, phúc, hiết, ngô công, du diên‘’: ‘’Ngoan’’ là rắn đen rất độc. ‘’Xà‘’ độc khí rất lợi hại. ‘’Phúc‘’ thân rộng ba tấc, dài từ ba đến bốn tất, hình như con nhện, đầu như ngón tay cái của người, cũng là một thứ rắn độc. ‘’Hiết‘’ cũng là một loài trùng có nọc độc. ‘’Ngô công‘’ đầu màu đỏ, đầu chẳng phải màu đỏ tức là ‘’du diên ‘’ là loài trùng rất độc. ‘’Ngoan, xà, phúc, hiết, ngô công, du diên‘’ đều dụ cho ‘’sân‘’ ở trong năm độn sử, sân rất độc, cho nên không nên có tâm sân hận.
‘’Thủ cung, bá túc‘’: ‘’Thủ cung’’ tức là ‘’hà diên’’, ở trong tường vách gọi là ‘’thủ cung’’, ở dưới biển gọi là ‘’hà diên’’. Truyền thuyết thời xưa của Tàu, hoàng đế nhốt phi tần vì bất trung với vua, có hành vi chẳng tốt, thì dùng máu của loài ‘’thủ cung’’ bôi lên cánh tay của phi tần, nếu phi tần hạnh trong sạch, thì máu chẳng mất đi, cho nên thứ trùng nầy gọi là ‘’thủ cung’’. ‘’Bá túc’’ là loài rếp, có rất nhiều chân dài đến ba bốn tất, màu đen rất độc.
‘’Dứu, ly, hề thử‘’: ‘’Dứu’’ là một thứ động vật thân dài ba thước, nếu gặp chó hoang tập kích, thì thân phóng ra mùi thối để thoát thân, khỏi bị chó cắn. Thứ động vật nầy có cái đuôi lớn, người thường dùng lông đuôi của nó để làm bút lông. Trung Quốc có hồ tiên và huỳnh tiên, ‘’dứu’’ là huỳnh tiên, thân màu vàng, sống lâu khoảng một ngàn năm, thân biến thành màu đen là đã sống đến một vạn năm, thân mà biến thành màu trắng thì thành tiên. Sống khoảng một trăm năm thì sẽ có thần thông. ‘’Ly’’ là một thứ mèo hoang, chuyên bắt gà vịt để ăn. ‘’Hề thử’’ còn gọi là cam khẩu hề, là một loài chuột. Mấy loài động vật ở trên là dụ cho ‘’si‘’ ở trong năm độn sử. ‘’Thủ cung, bá túc’’ là loài chẳng có trí tuệ, dụ cho độc đầu vô minh. ‘’Dứu, ly, hề thử‘’ dụ cho tương ưng vô minh.
‘’Các loài độc trùng dữ, đuổi nhau chạy ngang dọc‘’: Mấy loài độc trùng vừa nói ở trên, là dụ cho độc đầu vô minhtương ưng vô minh, là ác tướng ở trong tam giới, đó đây đuổi nhau chạy ngang chạy dọc.
‘’Đại tiểu tiện hôi thối, chảy đầy đồ bất tịnh‘’: Dụ cho con người bề ngoài trang điểm đẹp đẽ, nhưng thân thể bên trong rất bẩn thỉu hôi thối, nhưng con người vẫn ngu si chấp trước túi da hôi thối nầy, xem là của báu. Độc trùng ở trên là dụ cho sự ngu si của con người. Con người ở chỗ bất tịnh, tham trước đồ bất tịnh mà chẳng biết, mà những vật bất tịnh nầy chảy đầy dẫy khắp nơi.
‘’Các độc trùng khương lương, bu đậu ở trên đó‘’: ‘’Khương lương’’ là loại bọ hung sống ở trong phân bò, nó vẫn vui vẻ tự đắc, thậm chí dùng phân để cúng Phật, nhưng vì thành tâm, nên Phật cũng từ bi nạp thọ. Vì nó hay cúng Phật, nên đời sau được chuyển làm thân người, nhưng đời trước nghiệp chướng quá nặng, dù được sinh làm người, nhưng bị điết, câm, ngu si, hạ liệt. Loài bọ hung sống ở trong đống phân, nếu bạn muốn nó di chuyển đến hũ dầu thơm, thì nó chẳng thể thích ứng mà chết. Chúng ta là người học Phật pháp, phải học đạo lý chân chánh, đừng giống như loài bọ hung, sống ở trong đống phân, vẫn chẳng biết tỉnh giác.
‘’Cáo sói và dã can‘’: ‘’Cáo’’ tức là hồ ly, hồ ly tinh khiến cho con người ý loạn tình mê. Người Tàu thường dùng hồ ly tinh, dụ cho phụ nữ bại hoại, thường dụ hoặc đàn ông. Thiên tính của hồ ly đa nghi. Trời mùa đông nước đóng thành băng, hồ ly đi trên băng, mỗi bước đều lóng nghe, nếu chẳng có tiếng động gì, thì băng đóng dày chắt, có thể đi được, cho nên nói hồ ly đa nghi. ‘’Sói’’ tính hung ác, tướng mạo như chó. Khi tôi ở núi Không Thanh tại Nam Kinh, thì một đêm nọ, từ Long đầm trên đường về gặp một bầy sói, chúng đi cạnh bên tôi, nhưng chẳng tập kích tôi, tôi bèn vì chúng mà thọ quy y, cho nên trong số đệ tử của tôi, cũng có hơn hai mươi con sói làm đệ tử. ‘’Dã can’’ là tạp giống của hồ ly, hồ ly đã thông minh, mà dã can còn thông minh hơn hồ ly, chúng ở vùng ven núi, hoặc khu rừng cây cao, chúng thường phát ra tiếng rất đặc biệt quái lạ, khiến cho người nghe phải khiếp vía, và những thú khác chẳng dám đến gần.
‘’Liếm nhai dày đạp lên‘’: Có thức ăn ít, thì từ từ liếm nhai, còn nếu có thức ăn nhiều, thì chẳng biết tiếc mà dày đạp lên.
‘’Cắn xé những thây chết, xương thịt bừa bãi ra‘’: Dùng tay xé xác chết ra ăn, vứt bỏ bừa bãi. ‘’Do đó các bầy chó, tranh nhau đến giành ăn‘’: Bầy chó cũng đến tranh ăn xương thịt, chẳng nhường nhịn nhau.
‘’Ốm đói rất sợ sệt‘’: Chẳng hiểu Phật pháp là đói, pháp thân chẳng viên mãn là ốm, một số người chưa nghe Phật pháp, đều có thể gọi là ốm đói.
‘’Khắp nơi tìm thức ăn‘’: Bầy chó cùng nhau tranh giành xương thịt, dụ cho tham trong năm độn sử.
‘’Giành giựt cấu sé nhau’’: Phát ra lời lẽ tranh cãi thị phi.
‘’Gầm gừ gào sủa rên‘’: Trợn mắt mà nhìn là gừ, há mồm nhe răng ra để thị uy là gầm, kêu lớn tiếng là gào sủa, những thứ nầy dụ cho nghi trong năm độn sử .
‘’Nhà đó rất đáng sợ, những cảnh trạng như thế‘’: Trong nhà năm uẩn cảnh trạng rất đáng sợ.
Từ khi bắt đầu bài kệ đến đây, là nói về năm độn sử : Tham, sân, si, mạn, nghi, những thứ nầy chi phối, khiến cho con người điên đảo thị phi, khó mà tự cứu. Cho nên tu đạo phải trừ khử năm độn sử nầy.
‘’Khắp nơi thảy đều có, quỷ lị mị vọng lượng, Dạ xoa các ác quỷ, ăn nuốt cả thịt người‘’: ‘’Khắp nơi’’ là nói tam giới : Dục giới, sắc giớivô sắc giới, cũng có thể nói là thân của con người. Ba cõi đều đầy dẫy Dạ xoa, ác quỷ, lị, mị, vọng lượng, hoặc trong năm dục đầy dẫy sắc thọ tưởng hành thức, hoặc bốn đế đều đầy dẫy lị mị vọng lượng. ‘’Lị’’ là sơn tinh, là quỷ quái ở trong núi. ‘’Mị’’ là yêu quái cứ làm việc quái đảng ở trong nhà, tức quỷ mị. ‘’Vọng lượng’’ là tinh quái do cây, hoặc đá hóa thành, ngón tay của con người chảy máu nhỏ lên đá, thì đá mượn tinh khí của con ngườibiến thành tinh quái. ‘’Vọng lượng’’ là to lớn như núi cao, ban đêm mới xuất hiện, đến khi gà gáy quấy nhiễu mới ẩn mất. Lị mị là quỷ nhỏ bé cao khoảng ba thước, rất nhỏ so với vọng lượng, quỷ Vọng lượng cao ba bốn trượng cho đến ba bốn mươi trượng. ‘’Lị, Mị, Vọng lượng, Dạ xoa, ác quỷ‘’ đều dụ cho năm lợi sử, năm lợi sử khiến cho con người điên đảo, chấp trước làm việc hồ đồ :

1. Thân kiến: Chấp trước thân thể của mình, chú trọng trang điểm túi da hôi thúi nầy, nhận lầm thân giả nầy làm ‘’chân ngã’’. Kì thật, thường trụ chân tâm, tính tịnh minh thể mới là ‘’chân ngã‘’, tức tánh Như Lai tạng, cũng đều là chân ngã. Chân ngã thì chẳng sinh chẳng diệt, chẳng sạch chẳng dơ, chẳng tăng chẳng giảm. Người tu hành nên nhớ đừng nhận giả làm chân, phải trừ khử ‘’thân kiến’’, nhìn thấu buông xả.

2. Biên kiến : Chấp đoạn, chấp thường, đây là tri kiến của ngoại đạo, hoặc cho rằng người chết như đèn tắt, bác vô nhân quả, hoặc cho rằng người như cây cỏ, sinh thì tự sinh, chết thì tự chết, tức là đoạn kiến. Thường kiến là sinh thì làm người, đời đời kiếp kiếp đều làm người, sinh rồi chết, chết rồi lại sinh làm người. ‘’Biên’’ tức chẳng hợp với trung đạo, cường từ đoạt lý.

3. Giới cấm thủ kiến : Là một thứ giới luật của ngoại đạo tu, chẳng phải nhân cho là nhân, chẳng phải quả cho là quả, họ dối gạt tu khổ hạnh vô ích, thì có thể được Niết Bàn. Kì thật, là có những bàng môn tả đạo, vì khổ hạnh mà được thiên nhãn thông, thấy súc sinh được sinh về cõi trời, bèn học theo sinh sống tập quán của loài súc sinh, tu hành những pháp môn, ví như : Giới bò, họ cho rằng : Sở dĩ bò được sinh về cõi trời, đều vì dùng cỏ làm thức ăn, cho rằng ăn cỏ là trai giới trong sạch nhất, cho nên giữ giới bò, cũng dùng cỏ làm thức ăn. Kẻ giữ giới chó, thì cho rằng chó vì người trông giữ cửa, thì có công lao, cho nên hành động và làm theo như chó. Đó là những giới bò, giới chó, của ngoại đạo. Vì tu những khổ hạnh vô ích như vậy, cũng có thể sinh về cõi trời, tức trong Kinh Pháp Hoa có nói : ‘’Ly địa nhất xích nhị xích’’. Ly địa nhất xích, tức sinh về cõi dục giới, ly địa nhị xích, thì sinh về cõi sắc giới. Đó là giới tu của ngoại đạo, song có sự chấp trước, chẳng phải tịnh giới vô lậu của nhà Phật. Còn có một thứ ngoại đạo, lấy heo làm mô phạm, nằm trên đất, dùng tro bôi khắp thân thể, dạy người chẳng nhận ra mặt mũi của họ. Còn có một thứ ngoại đạo, ngủ ở trên giường đinh, cho rằng bị đinh đâm lủng da cũng chẳng sợ, là sự khổ hành khó hành. Còn có một thứ khổ hạnh, dùng dây thừng treo ngược thân thể mà ngủ. Còn có một thứ khổ hạnh, dùng bùn đất làm thức ăn, cho rằng đó mới là sinh sống thiên nhiên. Đó đều là giới cấm thủ, thực hành những khổ hạnh vô ích.

4. Tà kiến : Là tri kiến ngược lại với chánh đạo. Ví như người tu đạo, nên hiếu thuận với cha mẹ, nhưng người tà kiến cho rằng : Sinh dưỡng con cái là bổn phận của cha mẹ, cho nên chẳng hiếu thuận với cha mẹ. Chánh đạo chủ trương chẳng sát sinh, còn họ thì cổ lệ sát sinh. Trộm cắp thì chẳng hợp pháp, nhưng họ dạy người đi trộm cắp. Tà dâmhành vi bất chánh, nhưng họ dạy người tà dâm. Người không nên nói láo, nhưng họ dạy người nói dối. Người tà kiến thì phản đối việc ăn chay, cho rằng ngựa, bò, dê, các loài súc sinh là trời sinh ra cho con người ăn thịt, hà tất làm hại vật của trời ! Nói tóm lại, kẻ tà kiến thì tất cả tri kiến đều ngược lại với chánh đạo.

5. Kiến thủ kiến : Thấy vật bên ngoài thì sinh tâm ích kỉ, muốn chiếm làm của riêng mình. Năm lợi sử ở trên che lấp trí huệ chân chánh của con người.
Cho nên người học Phật, phải dùng kiếm trí huệ chặt đứt năm lợi sử, mới có thể vượt ra ba cõi. Đó là nói sơ lược về năm lợi sử, nếu nói tỉ mỉ thì nói chẳng hết được.
Vì sao bò, chó, heo, gà, các loài súc sinh có thể sinh về cõi trời ? Vì bò cày ruộng, làm việc cho chủ, nên có công, cho nên có thể sinh về cõi trời. Chó trung thành với chủ, cứu chủ lập công, cho nên có thể sinh về cõi trời, mà chẳng biết rõ nhân duyên chúng được sinh về trời, hiểu lầm sự sinh về trời, nên học hành vi tập quán hằng ngày của chúng. Người tu đạo phải có mắt chọn pháp, biết rõ thị phi, lựa thiện mà theo.
‘’Dạ xoa các ác quỷ’’: Dụ cho tà kiến của năm lợi sử, như Dạ xoa ác quỷ hành sự ở trong bóng tối. ‘’Thịt người’’ dụ cho thiện báo, người làm lành thì được thiện báo.
‘’Nuốt cả thịt người’’ dụ cho kẻ tà kiến bác nhân quả, dẫn dắt kẻ khác làm những việc bại hoại.
‘’Các loài trùng dữ độc, các cầm thú hung ác’’. Tức ở trên đã nói những loài trùng độc và cầm thú.
‘’Ấp cho bú sản sinh’’: ‘’Ấp’’ trứng do ấp mà sinh, ‘’bú’’ là thai sinh, ‘’đều tự giấu gìn giữ‘’: Dụ cho nhân quả thế gian chẳng mất đi.

Quỷ Dạ xoa đua đến
Tranh giành lấy món ăn
Ăn xong no nê rồi
Tâm ác nổi hăng lên.
Tiếng chúng đánh cãi nhau
Thật rất là hãi hùng
Loài quỷ Cưu bàn trà
Ngồi xổm trên đống đất.
Hoặc có lúc hỏng đất
Một thước hoặc hai thước
Dạo đi qua đi lại
Buông lung chơi đùa giỡn.
Cầm nắm hai chân chó
Đánh cho la thất thanh
Lấy chân đạp trên cổ
Khủng bố chó để vui.

‘’Quỷ Dạ xoa đua đến, tranh giành lấy món ăn‘’: Dạ xoa là một loài quỷ hành động rất nhanh nhẹn, cùng nhau tranh giành lấy thức ăn, vì thức ăn thì ít, mà quỷ Dạ xoa thì nhiều, chẳng đủ phân chia, cho nên chúng tranh giành lấy thức ăn. Dụ cho bác vô nhân quả.
‘’Ăn xong no nê rồi‘’: Dụ cho tà kiến thành tựu.
‘’Tâm ác nổi hăng lên‘’: Dụ cho tà kiến tăng trưởng.
‘’Tiếng chúng đánh cãi nhau, thật rất là hãi hùng‘’: Do đó có câu :

‘’Tranh là tâm hơn thua,
Trái ngược lại với đạo,
Tâm sinh ra bốn tướng,
Sao đắc được tam muội‘’.

Tranh là tâm hơn thua, trái ngược với đạo, khởi tâm tranh thì sinh ra : Tướng người, tướng ta, tướng chúng sinh và tướng thọ mạng. Sinh ra bốn tướng nầy, làm sao được tam muội ? Dụ cho tà luận bác vô nhân quả, thật là đáng sợ. Lại dụ cho một số người nghe tà luận, bị mê hoặc mà tạo nghiệp, đọa vào ba đường ác, rất khó ra được.
‘’Loài quỷ Cưu bàn trà‘’: Hình như quả dưa, chẳng có tay, chẳng có chân, gọi là quỷ yểm mị, thường đè trên người khi họ ngủ, khiến cho họ nghẹt thở, thậm chí có thể làm cho người chết. Dụ cho giới cấm thủ kiến trong năm lợi sử.
‘’Ngồi xổm trên đống đất‘’: Dụ cho sáu cõi trời dục giới. Ngoại đạo giữ giới bò, chó, gà, heo, y theo giới tu mười điều thiện, thì được sinh về sáu cõi trời dục giới (Tứ Thiên Vương, Trời Đao Lợi, Trời Dạ Ma, Trời Đâu Xuất, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại).
‘’Hoặc có lúc hỏng đất, một thước hoặc hai thước‘’: ‘’Hoặc’’ nghĩa là chẳng quyết định. Ngoại đạo y theo giới tu hành đắc được tứ thiền, sinh về cõi trời sắc giới tức ‘’hỏng đất một thước’’, y theo giới tu tứ không định, được sinh về cõi trời vô sắc giới, tức ‘’hỏng đất hai thước’’.
‘’Dạo đi qua đi lại‘’: ‘’Đi’’ dụ cho sinh về cõi sắc giới, vô sắc giới. ‘’Qua lại’’ dụ cho sinh về cõi dục giới. Dụ cho con người như hạt bụi, lúc cao lúc thấp, lúc lên lúc xuống, ở trong nhà lửa tam giới, tạo nghiệp thiện thì được sinh về cõi trời; tạo nghiệp ác thì đọa địa ngục, làm ngạ quỷ, hoặc súc sinh. Con người do nghiệp dẫn dắt.
‘’Buông lung chơi đùa giỡn‘’: Dụ cho người chẳng minh bạch chân lý, thì chẳng đắc được sự vui cứu kính, những gì có được, đều là khoái lạc giả, chẳng thật.
‘’Cầm nắm hai chân chó, đánh cho la thất thanh‘’: Quỷ Dạ xoa cầm hai chân chó, đánh và ném đi nơi xa. Dụ cho ngoại đạo vọng tưởng, tu khổ hạnh để mong thành tựu đạo nghiệp. Thật ra, giữ giới bò, giới chó, giới heo, đều là khổ hạnh vô ích, khổ hạnh ngoại đạo chẳng phải nhân cho là nhân.
‘’Lấy chân đạp trên cổ‘’: Dụ cho ngoại đạo chẳng phải quả cho là quả. Cho rằng hành khổ hạnh, thì có thể được khoái lạc Niết Bàn.
‘’Khủng bố chó để vui‘’: Quỷ Dạ xoa làm cho chó kinh hãi sủa bậy để làm vui thích. Dụ cho được vị thiền, chứng đắc Ly hỉ diệu lạc địa (sơ thiền).

Lại có các loài quỷ
Thân chúng dài to lớn
Trần truồng rất xấu đen
Thường ở luôn trong đó.
Phát ra tiếng hung ác
Kêu la tìm thức ăn
Lại có các loài quỷ
Cổ chúng nhỏ như kim.
Lại có các loài quỷ
Đầu chúng như đầu trâu
Hoặc là ăn thịt người
Hoặc lại ăn thịt chó.
Đầu tóc rối tung lên
Tàn ác rất hung hiểm
Bị đói khát bức bách
Kêu la chạy đuổi theo.

‘’Lại có các loài quỷ‘’: Ngoại trừ quỷ Dạ xoa ra, còn có các loài quỷ khác. ‘’Thân chúng dài to lớn, trần truồng rất đen xấu, thường ở luôn trong đó’’: Dụ cho thân kiến trong năm lợi sử. Thân của chúng đầy dẫy trong tam giới, cho nên nói là ‘’dài’’, khắp đầy năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) cho nên nói là ‘’to lớn’’.
Tự giác mãn túc, chẳng hổ thẹn, chẳng tu pháp lành, cho nên gọi là ‘’trần truồng’’. Vì tội ác khắp mình, cho nên gọi là ‘’đen’’. Chẳng có đức hạnh nên gọi là ‘’xấu’’. ‘’Thường ở luôn trong đó’’: Thường ở trong ba cõi chẳng cầu thoát ra. ‘’Phát ra tiếng hung ác’’: Dụ cho kẻ ngoại đạo tu chấp nặng tướng ta, tu đủ thứ khổ hạnh. ‘’Kêu la tìm thức ăn’’: Dụ cho ngoại đạo vọng tưởng chấp trước cái ta mà được Niết Bàn.
‘’Lại có các loài quỷ, cổ chúng nhỏ như kim’’: Có loài quỷ bụng to như trống, cổ nhỏ như kim, dụ cho ‘’kiến thủ ’’ trong năm lợi sử, nhận lầm rằng cảnh giới Trời Phi Phi Tưởng Xứ là Niết Bàn. Trời Phi Phi Tưởng Xứ sống lâu đến tám vạn đại kiếp, hết tuổi thọ thì sẽ đọa lạc.
‘’Lại có các loài quỷ, đầu chúng như đầu trâu’’: Dụ cho biên kiến.
‘’Hoặc là ăn thịt người’’: ‘’Thịt người’’ dụ cho căn lành, dụ cho đoạn kiến, thường kiến, dứt căn lành xuất thế.
‘’Hoặc lại ăn thịt chó’’: Dụ cho dứt căn lành thế gian.

Căn lành xuất thế là gì ? Là siêng tu giới định huệ, tức diệt tham sân si, đầy đủ bốn đế, mười hai nhân duyên, lục độ vạn hạnh, hết thảy các công đức, đó là căn lành xuất thế. Căn lành thế gian là giữ năm giới. Thực hành mười điều lành : Không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, đó là năm giới; chẳng sát sinh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm, không tham, không sân, không si, không nói lời thêu dệt, không nói dối, không chưởi mắng, không nói hai chiều, đó là mười điều lành. Người có đoạn kiến, thường kiến, thì sẽ dứt mất căn lành thế gianxuất thế gian.
‘’Đầu tóc rối tung lên’’: Dụ cho ngoại đạo. ‘’Chẳng thường mà nói thường’’ : Cho rằng sinh làm thần thì vĩnh viễn là thần; sinh làm người thì vĩnh viễn là người; sinh làm súc sinh thì vĩnh viễn chẳng thay đổi. Ngoại đạo cũng có lý luận sai lầm, một khi chết thì vĩnh viễn diệt hẳn. Những lý luận nầy hoàn toàn sai lầm, chẳng hợp với trung đạo, mâu thuẫn lẫn nhau cho nên nói ‘’đầu tóc rối tung lên’’.
‘’Tàn ác rất hung hiểm‘’: Dụ cho thường kiến, phá chân lý vô thường, còn đoạn kiến thì phá chân lý nhân duyên.
‘’Bị đói khác bức bách, kêu la chạy đuổi theo‘’: ‘’Đói khác’’ là đói khác trí huệ, người tu đạo phải có thức ăn trí huệ và uống thiền định; chẳng nghe Kinh thì chẳng có thức ăn trí huệ; chẳng ngồi thiền thì chẳng uống thiền định, cho nên nói ‘’bị đói khác bức bách’’. ‘’Kêu la’’ dụ cho diễn xướng tà luận đoạn kiến, ‘’chạy đuổi theo’’ dụ cho sinh tử không ngừng, ở trong sáu nẻo luân hồi.

Dạ xoa cùng quỷ đói
Các chim muôn ác độc
Đói quá chạy bốn bề
Rình xem các cửa sổ.
Các nạn như vậy đó !
Vô lượng việc ghê sợ
Vì nhà hư mục đó
Thuộc về nơi một người.
Người đó vừa ra khỏi
Thời gian chưa bao lâu
Về sau ngôi nhà đó
Lửa bổng nhiên nổi lên.

‘’Dạ xoa cùng quỷ đói, các chim muôn ác độc‘’: Dụ cho phiền não năm lợi sử và năm độc sử trong dục giới. Chúng sanh dục giới đều là hữu lậu, nên chẳng biết tu đạo, càng không thể được từ vị thiền duyệt.
‘’Đói quá chạy bốn bề‘’: Dụ cho ngoại đạo tu tà quán, chẳng biết lĩnh ngộ được chân lý, mà họ ngưỡng mộ đạo quả và thiền vị.
‘’Rình xem các cửa sổ, các nạn như vậy đó, vô lượng việc ghê sợ’’: Các nạn như thế, thật là đáng hãi hùng.
‘’Vì nhà hư mục đó‘’: Dụ cho ba cõi vô thủy cố hữu chẳng an ổn.
‘’Thuộc về nơi một người’’: Phật dùng ứng thân vào ba cõi giáo hóa chúng sinh. Từ khi Phật phát tâm cho đến khi thành Phật, trải qua ba đại A Tăng kỳ kiếp, Ngài phát vô lượng vô biên thệ nguyện: Nguyện độ tất cả chúng sinh liễu sinh thoát tử. Cho nên, chúng taPhật giáo đồ, nên phát vô lượng vô biên đại thệ nguyện, độ tất cả chúng sinh. Phật giáo đồ nên độ cha mẹ tin Phật, nếu độ được cha mẹ tin chân lý, thì mới là hiếu thuận chân chánh, sau đó độ anh chị em hiểu rõ chân lý, xa lìatri kiến. Đức Phật thành Phật rồi, còn phải đến cung trời Đao Lợi vì mẹ mà nói Kinh Địa Tạng, đủ thấy đức Phật thành Phật rồi, vẫn không quên độ mẹ của Ngài.
‘’Người đó vừa ra khỏi, thời gian chưa bao lâu, sau đó ngôi nhà đó, lửa bỗng nhiên nổi lên’’: Đức Phật giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh hàng phục được năm trược, hoàn thành tất cả nghiệp hoặc, Phật mới vào Niết Bàn. Phật vào Niết Bàn rồi, thì tất cả chúng sinh năm trược lại hiện. Cũng có thể dụ cho chúng sinh được Phật giáo hóa, đã được vô minh pháp nhẫn, do đó có câu:

‘’Các lậu đã sạch,
Phạm hạnh đã vững,
Việc làm đã xong,
Chẳng còn sinh tử ‘’.

Chẳng còn sinh vào ba cõi nữa, nên nói là ‘’ra khỏi’’. Tuy Phật đã thành Phật, ra khỏi ba cõi nhưng Phật vẫn nương thuyền từ bi trở lại thế giới nầy, để giáo hóa chúng sinh. ‘’Về sau ngôi nhà đó, lửa bỗng nhiên nổi lên‘’: ‘’Nhà’’ dụ cho năm uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, lửa năm uẩn thiêu hủy ba cõi.

Bốn phía cùng một lúc
Lửa ngọn cháy hừng hực
Mái nóc và cột kèo
Tiếng nổ vang lách tách.
Đổ gãy rơi rớt xuống
Tường vách đều sụp đổ.

‘’Bốn phía’’ dụ cho bốn niệm xứ. Sau khi Phật vào Niết Bàn, thì tất cả người tu đạo, Tỳ Kheo Tỳ Kheo Ni, đều y theo bốn niệm xứ mà trụ. Bốn niệm xứ: Thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ, và pháp niệm xứ.

1. Quán thân bất tịnh : Quán thân, thọ, tâm, pháp, đều bất tịnh.
2. Quán thọ là khổ : Quán thân, thọ, tâm, pháp, đều khổ.
3. Quán tâm vô thường : Tâm niệm luôn thay đổi, nên gọi là vô thường, quán thân, thọ, tâm, pháp, đều vô thường.
4. Quán pháp vô ngã : Quán thân, thọ, tâm, pháp, đều chẳng có cái ta. Tu bốn niệm xứ trước hết tu :

1. Quán bất tịnh, để phá trừ chấp cái ta, mượn cái giả tu cái thật.
2. Quán thọ là khổ, có ba sự khổ, tám sự khổ và vô lượng sự khổ.
3. Quán tâm vô thường.
4. Quán pháp chẳng có ngã. ‘’Cùng một lúc’’ dụ cho năm trược, tám sự khổ, bốn điên đảo, cùng một lúc sinh ra. Bốn điên đảo là bốn sự thấy điên đảo của ngoại đạo : Chẳng thường nói là thường, chẳng vui nói là vui, chẳng phải ngã nói là ngã (cái ta), chẳng tịnh nói là tịnh (thường, lạc, ngã, tịnh bốn đức Niết Bàn).
‘’Lửa ngọn cháy hừng hực‘’: Bốn điên đảo, năm trược, tám khổ cùng nhau tương trợ, cho nên nói là lửa ngọn cháy hừng hực.
‘’Nóc mài và cột kèo‘’: Dụ cho xương cốt chi trì thân thể.
‘’Tiếng nổ vang lách tách‘’: Mạng sống mà hết là ‘’nổ’’, dụ cho mạng sống chấm dứt.
‘’Đổ gãy rơi rớt xuống, tường vách đều sụp đổ‘’: Hơi thở chấm dứt là ‘’đổ gãy’’, dụ cho lúc lâm chung thì bốn đại giải tán, đất, nước, gió, lửa đều trở về bổn thể của nó.

Các loài quỷ thần thảy
Đều lớn tiếng kêu to.
Các loài chim điêu thứu
Cùng quỷ Cưu bàn trà
Hoảng sợ chạy tán loạn
Vẫn chẳng chạy ra được.
Thú dữ và trùng độc
Ẩn núp trong hang lỗ
Loài quỷ Tỳ xá xà
Cũng đều ở trong đó.
Vì phước mỏng đức ít
Nên bị lửa bức bách
Lại tàn hại lẫn nhau
Uống máu và ăn thịt.

‘’Các loài quỷ thần thảy‘’: Dụ cho năm độn sử và năm lợi sử.
‘’Đều lớn tiếng kêu to‘’: Các loài quỷ thần thấy căn nhà bỗng nhiên nổi lửa, tường ngã nhà sập, nên hoảng hốt kêu to.
‘’Các loài chim điêu, thứu, cùng quỷ Cưu bàn trà, hoảng sợ chạy tán loạn, vẫn chẳng tự ra được‘’: Dụ cho ba cõi chẳng dễ gì thoát ra, phải nhờ sự giúp đỡ của Phật Pháp Tăng mới ra được.
‘’Thú dữ và trùng độc, ẩn núp trong hang lỗ‘’: ‘’Hang lỗ’’ dụ cho sắc giới.
‘’Loài quỷ Tỳ Xá Xà, cũng đều ở trong đó‘’: Quỷ ăn tinh khí cũng ở trong cõi sắc giới.
‘’Vì phước mỏng đức ít, nên bị lửa bức bách‘’: Vì phước đức mỏng cạn, cho nên thường nóng giận. Người thường nóng giận là do đức hạnh chẳng đủ, nóng giận như bị lửa thiêu. Dụ cho ba cõi chẳng yên, bị bốn điên đảo, tám sự khổ bức bách.
‘’Lại tàn hại lẫn nhau‘’: Trong cõi sắc giới nhàm chán cõi thấp, thích cõi cao hơn, ví như ở cõi sắc giới thì nhàm chán cõi dục giới, thích sinh về cõi vô sắc; người ở cõi trên thì chẳng thích cõi dưới, cho nên ‘’Lại tàn hại lẫn nhau’’.
‘’Uống máu và ăn thịt‘’: ‘’Uống máu’’ dụ cho chúng sinh cõi sắc, và cõi vô sắc mặc nhiên chấp trước, chẳng nói năng với nhau. ‘’Ăn thịt’’ dụ cho chúng sinh cõi sắc, và cõi vô sắc chấp trước công đức.

Những loài thú dã can
Thảy đều đã chết trước
Các loài thú dữ lớn
Giành nhau đến ăn nuốt.
Mùi tanh loan khắp nơi
Đầy dẫy cả bốn bề
Loài ngô công do diên
Cùng với loài rắn độc.
Đều bị lửa thiêu đốt
Tranh nhau ra khỏi hang
Loài quỷ Cưu bàn trà
Bèn bắt lấy mà ăn.

‘’Những loài thú dã can, thảy đều đã chết trước‘’: ‘’Dã can’’ dụ cho lòng tham của dục giới. Đã sinh về cõi sắc giới, nên đã lìa khỏi lòng tham của dục giới.
‘’Các loài thú dữ lớn, tranh nhau đến ăn nuốt, mùi tanh loan khắp nơi, đầy dẫy cả bốn bề’’: Các loài thú dữ lớn’’ dụ cho lòng tham ở cõi sắc giới, có thể nuốt trựng sự tham ở cõi dục giới, có cảnh giới thiền vị, nên dụ cho mùi tanh. Cũng cùng chung: Thân, thọ, tâm, pháp, và bốn đại, nên nói ‘’đầy cả bốn bề’’.
‘’Loài ngô công, do diên, cùng với loài rắn độc, đều bị lửa thiêu đốt, tranh nhau ra khỏi hang‘’: Dụ cho cõi vô sác. Cõi vô sắc cao hơn cõi sắc một tầng, người tu đạo sinh về cõi vô sắc, thì nhàm chán cõi sắc, vì cõi sắc còn có hình tướng có thể thấy, chúng sinh cõi sắc bị hình tướng giới hạn, vẫn còn tướng thô về sự khổ, ở cõi sắc bị tám sự khổ, năm uẩn thiêu đốt, cho nên muốn thoát khỏi cõi sắc, để sinh về cõi vô sắc.
‘’Đều bị lửa thiêu đốt, tranh nhau ra khỏi hang‘’: ‘’Hang’’ dụ cho trời sắc giới, ‘’ra khỏi hang’’ dụ cho trời cõi vô sắc, đến cõi vô sắc, thì định lực càng tiến thêm một bước. Đến cõi trời vô sắc, thì trời cõi sắc diệt, cho nên dùng ‘’loài quỷ Cưu Bàn Trà, bèn bắt lấy mà ăn’’ làm dụ.
‘’Loài quỷ Cưu bàn trà‘’ dụ cho gốc năm độn sử, và năm lợi sử, đều có thể được vô sắc định, nhưng trong văn nói chấp trước năm độn sử, nhàm chán trời cõi sắc, mà muốn lên cõi vô sắc, năm lợi sử đã chứng được vô sắc giới, cho nên nhàm chán trời cõi sắc, cho nên nói rằng : ‘’Loài quỷ Cưu Bàn Trà, bèn bắt lấy mà ăn’’.

Lại có các ngạ quỷ
Trên đầu bị lửa thiêu
Đói khát nhiệt não hành
Hoảng hốt chạy tán loạn.

Ngạ quỷ bụng to như trống, cổ nhỏ như kim, cho nên khó mà no nê được. Trên đầu bị lửa thiêu đốt, đói khát nóng bức hành hạ, nên chạy tán loạn khắp nơi chẳng có mục đích. ‘’Ngạ quỷ’’ dụ cho Trời Tứ Không Xứ (Trời Không Vô Biên Xứ, trời Thức Vô Biên Xứ, trời Vô Sở Hữu Xứ, trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ ).

Trời Tứ Không tuy đã không, nhưng vẫn có thức, chưa dứt sinh tử, chưa được vô lậu ẩm thực, như là loại ngạ quỷ chưa được vô lậu ẩm thực, tuy ở trên đỉnh ba cõi (cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc), nhưng vẫn chưa dứt sinh tử, bị vô thường thiêu đốt, cho nên nói ‘’trên đầu bị lửa thiêu’’. Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng sống lâu đến tám vạn đại kiếp, hưởng hết phước trời thì vẫn phải đọa lạc, bị lửa vô thường thiêu đốt, chẳng ăn được thức ăn chánh đạo, nên nói là ‘’đói’’, chẳng uống được nước từ nhuận trợ đạo, nên nói là ‘’khát’’. Chúng sinhcõi trời Tứ Không Xứ, tuy là cao nhất trong ba cõi, vẫn có tám sự khổ vi tế bức bách, tám sự khổ vẫn tồn tại ở trong ruộng bát thức, cho nên nói là ‘’nhiệt’’, vẫn có các hoặc vi tế : Kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc. Kiến hoặc là thấy cảnh sinh tham ái. Tư hoặcmê lý khởi phân biệt. Trần sa hoặcBồ Tát giáo hóa chúng sinh, phải thông đạt các pháp môn nhiều như hạt cát, hạt bụi, bằng không tự tại giáo hóa tức là trần sa hoặc. Vô minh hoặc là chẳng rõ thị phi, nhận giả làm thật, vì có các hoặc nên nói là ‘’não’’. Chúng sinh ở cõi Tứ Không Xứ vẫn còn sinh tử, chẳng muốn thoát ra, nên nói là ‘’Hoảng hốt chạy tán loạn’’.

Nhà đó là như thế
Thật là rất hãi hùng
Độc hại và nạn lửa
Nhiều nạn chẳng phải một.
Lúc đó ông chủ nhà
Đang đứng ở ngoài cửa
Nghe có người nói rằng :
Các người con của ông.
Trước kia vì dạo chơi
Đến vào trong nhà nầy
Thơ bé chẳng biết gì
Ham chơi vui đùa giỡn.
Ông trưởng giả nghe rồi
Hoảng sợ vào nhà lửa.

‘’Chủ nhà’’ tức là đức Phật, Phật đang đứng ở ngoài cửa, nghe có người nói, các người con của ông, trước kia vì dạo chơi, đến vào trong nhà đó, thơ bé chẳng biết gì, ham vui chơi đùa giỡn. Ông trưởng giả nghe rồi, hoảng sợ vào nhà lửa. Phật đã chứng được pháp thân, cho nên nói ‘’đang ở ngoài cửa’’. ‘’Đứng’’ tức là Phật thường tồn tâm đại bi, muốn cứu chúng sinh, cho nên chẳng trụ tòa đệ nhất nghĩa không.
‘’Nghe có người nói rằng‘’: Dụ cho tam muội, Phật được pháp tam muội, quán căn cơbố thí pháp.
‘’Các người con của ông‘’: Tất cả chúng sinh trong năm đường. ‘’Trước kia vì dạo chơi, đến vào trong nhà đó‘’: Tất cả những chúng sinh nầy, mới phát tâm thì cầu ra khỏi nhà lửa, nhưng chưa được ba bất thối chuyển (vị, niệm và hạnh bất thối), vẫn còn kiến hoặctư hoặc. Tất cả chúng sinh tánh vốn thanh tịnh, vì vô minh vọng tưởng chấp trướctiếp nối sinh tử, cho nên dụ cho ‘’trước kia vì dạo chơi’’.
‘’Thơ bé chẳng biết gì‘’: Tức tu hành chưa viên mãn, bị kiến hoặc, tư hoặc, vô minh hoặc ràng buộc.
‘’Ham vui chơi đùa giỡn‘’: Sinh vào trong ba cõi chẳng biết ra khỏi, lầm cho rằng thế giới nầy vui vẻ khoái lạc.
‘’Ông trưởng giả nghe rồi, hoảng sợ vào nhà lửa‘’: Dụ cho Phật thương xót chúng sinh, phải vào trong nhà lửa để độ, giáo hoá chúng sinh.

Dùng phương tiện cứu tế
Khiến con khỏi thiêu hại.
Mà dụ bảo các con
Nói các thứ hoạn nạn
Các quỷ và độc trùng
Nạn lửa cháy lan tràn.
Các sự khổ thứ lớp
Liên tục mãi không dứt
Loài rắn độc ngoan phúc
Và các quỷ Dạ xoa.
Cùng quỷ Cưu bàn trà
Loài dã can, chồn chó
Chim điêu, thứu, xi, hưu
Và loài bá túc thảy.
Đều đói khát khổ sở
Thật rất là đáng sợ
Đây là chỗ khổ nạn
Lại còn có lửa lớn
Các người con chẳng biết
Tuy nghe cha dạy bảo.
Vì còn ham vui chơi
Đùa giỡn mãi không thôi.

‘’Dùng phương tiện cứu tế’’: Lúc bấy giờ, đức Phật muốn dùng pháp đại thừa cứu độ hết thảy chúng sinh.
‘’Khiến con khỏi thiêu hại‘’: Muốn cho chúng sinh khỏi bị lửa năm uẩn thiêu đốt.
‘’Mà dụ bảo các con, nói các thứ hoạn nạn‘’: Trong nhà lửa đầy dẫy hoạn nạn, cho nên trong Kinh có nói: ‘’Ba cõi không an, giống như nhà lửa‘’. ‘’Ác quỷ, độc trùng’’ dụ cho năm độn sử.
‘’Nạn lửa cháy lan tràn‘’: Lửa năm uẩn cháy lan tràn khắp nơi, thiêu hủy ba cõi.
‘’Các sự khổ thứ lớp‘’: Các sự khổ liên tục không dứt.
‘’Loài rắn độc ngoan phúc, và các quỷ dạ xoa, cùng quỷ cưu bàn trà, loài dã can chồn chó, chim điêu, si, hưu, và loài bá túc thảy‘’: Dụ cho năm độn sử và năm lợi sử.
‘’Đều đói khát khổ sở, thật rất là đáng sợ, đây là chỗ khổ nạn, lại còn có lửa lớn‘’: Vì chẳng ăn được thức ăn chánh đạo, chẳng uống được nước trợ đạo, cho nên bị đói khát, hoành hành khổ sở, thật rất là đáng sợ. Ba cõi có đủ thứ quái vật, và còn có lửa lớn thiêu đốt.
‘’Các người con chẳng biết‘’: Tất cả chúng sinh chẳng có căn tính đại thừa.
‘’Tuy nghe cha dạy bảo‘’: Tuy thường nghe lời ông trưởng giả dạy bảo.
‘’Vì còn ham vui chơi, đùa giỡn mãi không thôi‘’: Vẫn lưu lại ở trong đó đùa giỡn vui chơi.

Khi đó ông trưởng giả
Bèn nghĩ như thế nầy:
Các con ta như thế
Làm ta thêm sầu não
Nay trong nhà lửa nầy
Chẳng có điều gì vui.
Mà tất cả các con
Vẫn đam mê chơi đùa
Chẳng nghe lời ta dạy
Sắp bị lửa thiêu hại.
Ông trưởng giả lại nghĩ
Bày ra các phương tiện.

Lúc đó, Phật lại nghĩ thế nầy, các con ta như thế, càng làm cho ta thêm phiền não. Nguyện lực của Phật là độ chúng sinh, mà chúng sinh chẳng biết tỉnh ngộ, nên làm cho Phật thêm sầu não. Trong ba cõi, Phật chẳng có gì đáng lưu luyến, mà tất cả các người con say đắm lưu luyến ba cõi nầy.
Người đó ở trong ba cõi bị vô minh trói buộc, chẳng phát bồ đề tâm, chẳng tu bồ đề đạo, thậm chí cũng chẳng tin Phật. Tôi có một đệ tử, cha mẹ của y gần đây đến San Francisco, thấy con của họ từng đốt hương trên cánh tay, thì bất mãn. Hiện nay nhiều người điên đảo thị phi, vốn đốt hương cúng Phật, là một sự cúng dường đối với Phật, mà họ thấy con của họ đốt hương cúng Phậtbất mãn. Người làm việc điên đảo, thì một số người hoan nghênh, song người muốn tu đạo học cho tốt thì thân thuộc phản đối, đó chẳng phải là điên đảo chăng. Gần đây có một đệ tử, y thấy tất cả sự vật đều đang di động. Khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống, thì có thể thấy hạt bụi chuyển động, y khai mở ngũ nhãn trước cảnh giới hiện tượng nầy, có lúc lại như mù, thậm chí cũng nhìn chẳng thấy, đó là hiện tượng ngũ nhãn muốn khai mở mà chưa khai mở. Nếu ai chấp trước về cảnh giới nầy, hoặc muốn được ngũ nhãn, hoặc chẳng muốn có cảnh giới nầy, nếu có phạm lỗi sai lầm, hoặc lo về việc vô ích, thì ngũ nhãn sẽ khép kín. Cho nên khai mỡ ngũ nhãn rồi, phải đầy đủ định lực, có định lực thì mới sinh trí huệ chân chánh.
‘’Chẳng nghe lời ta dạy, sắp bị lửa thiêu hại, ông trưởng giả lại nghĩ, bày ra các phương tiện‘’: Chúng sinh chẳng nghe lời Phật dạy bảo, e rằng sắp bị lửa thiêu đốt, thì Phật bèn suy nghĩ, tức chúng sinh chẳng thọ pháp đại thừa giáo hóa, thì cũng dùng pháp phương tiện quyền xảo để giáo hóa chúng sinh.

Mà bảo các con thảy
Ta có đủ các thứ.
Đồ chơi rất quý giá
Xe báu rất tốt đẹp
Nào xe dê xe hươu
xe trâu to lớn.
Nay để ở ngoài cửa
Các con mau ra đây
Ta chính vì các con
Tạo ra những xe nầy.
Tùy ý các con thích
Có thể đi dạo chơi
Các người con nghe nói
Các loại xe như thế.
Bèn lập tức dành nhau
Đua chạy ra khỏi nhà
Đến nơi chỗ đất không
Lìa khỏi các khổ nạn.

‘’Mà bảo các con thảy, ta có đủ các thứ, đồ chơi rất quý giá, xe báu rất tốt đẹp‘’: Bốn câu ở trên là khuyến chuyển.
‘’Nào xe dê xe hươu, và xe trâu to lớn, nay để ở ngoài cửa‘’: Là thị chuyển.
‘’Các con mau ra đây‘’: Là thị chuyển.
‘’Ta chính vì các con, tạo ra những xe nầy‘’: Tức là Phật đã chứng được Phật quả.
‘’Tùy ý các con thích, có thể đi dạo chơi‘’: Là chứng chuyển. Khuyến chuyển, thị chuyển và chứng chuyển, là ba lần chuyển bánh xe pháp bốn Diệu đế. Phật bảo các người con rằng : Ta có những đồ chơi thú vị, hơn những đồ các con đang chơi, nào là xe thượng thừa, xe dê, xe hươu, xe trâu trắng lớn, đang để ở ngoài cửa, các con hãy mau ra ngoài cửa, ta vì các con mà dự bị những xe nầy, các con có thể tùy ý ngồi để đi dạo chơi khắp nơi.
‘’Các người con nghe nói‘’: Dụ cho văn huệ (huệ do nghe).
‘’Các loại xe như thế‘’: Dụ cho diệu pháp thượng thừa.
‘’Bèn lập tức giành nhau‘’: Dụ cho tư huệtu huệ (huệ do suy gẫm và huệ do sự tu hành).
‘’Đua chạy ra khỏi nhà‘’: Dụ cho kiến địa (đã chứng quả).
‘’Đến nơi chỗ đất trống‘’: Dụ cho đã chứng được tứ quả A La Hán, tức bậc vô học.
‘’Lìa khỏi các khổ nạn‘’: Đến bậc vô học thì đã dứt được phần đoạn sinh tử, nhưng biến dịch sinh tử chưa dứt được.

Ông trưởng giả thấy con
Được ra khỏi nhà lửa
Ở nơi ngã tư đường
Ngồi trên tòa sư tử.
Mà tự mừng nói rằng :
Nay ta rất vui mừng
Những người con nầy đây
Đẻ nuôi dưỡng rất khó.
Chúng nhỏ dại chẳng biết
đi vào nhà hiểm
Nhiều các thứ độc trùng
Quỷ lị mị đáng sợ.
Lửa lớn cháy mãnh liệt
Bốn phía đều nổi dậy
Mà các người con nầy
Tham trước chơi đùa giỡn.
Ta đã cứu chúng nó
Khiến cho được thoát khỏi
Vì thế các người ơi !
Ta nay rất vui mừng.

‘’Ông trưởng giả thấy con, được thoát khỏi nhà lửa’’: Dụ cho Phật thấy các con được ra khỏi nhà lửa tam giới.
‘’Ở nơi ngã tư đường‘’: Dụ cho bốn Diệu đế.
‘’Ngồi trên tòa sư tử‘’ Lúc đức Phật ngồi trên tòa sư tử.
‘’Mà tự mừng nói rằng, ta nay rất vui mừng‘’: Phật thấy các con thoát nạn nên rất vui mừng.
‘’Những người con nầy đây, đẻ nuôi dưỡng rất khó‘’: Dưỡng nuôi những đứa con nầy chẳng phải dễ.
‘’Chúng nhỏ dại chẳng biết, mà đi vào nhà hiểm‘’: Chúng nhỏ bé vô tri, nên đi vào nhà lửa.
‘’Nhiều các thứ độc trùng, quỷ lị mị đáng sợ, lửa lớn cháy mãnh liệt, bốn phía đều nổi lên‘’. Trong nhà lửa có trùng độc, quỷ lị mị, và bốn phía đều nổi lửa lên.
‘’Mà các người con nầy, tham trước chơi đùa giỡn, ta đã cứu chúng nó, khiến cho được thoát khỏi‘’: Các con tham luyến chơi đùa, mà ta đã cứu vớt chúng ra khỏi nhà lửa.
‘’Vì thế các người ơi, nay ta rất vui mừng‘’: Cho nên ta ở trong tất cả mọi người, ta là người khoái lạc nhất.

Nói tỉ mỉ về đoạn kinh văn ở trên: Ông trưởng giả tức là Đức Phật, trưởng giả có mười đức. ‘’Ngã tư’’ dụ cho bốn Diệu đế. Ba mươi người con, và năm trăm người, tức đã ra khỏi nhà lửa, đạt được bậc vô học, đã thấy rõ pháp bốn đế : Khổ, tập, diệt, đạo. Chúng sinh chưa được độ, thì Phật đứng ở ngoài cửa mà lo lắng cho chúng sinh đang ở trong nhà lửa. Vì Phật đủ tâm đại bi, nên chẳng nỡ bỏ chúng sinh, chỉ sợ chúng sinh đọa lạc ở trong tam giới. Nay chúng sinh đã thoát khỏi tai nạn, nên Phật chẳng còn gì lo lắng, mà yên tâm ngồi trên tòa sư tử. Lúc đó, đức Phật rất đỗi vui mừng. Trước kia Phật chưa gặp chúng sinh có đủ căn tính đại thừa, bây giờ giáo hóa chúng sinh tiểu thừa đã viên mãn, sẽ phải độ chúng sinh đại thừa, cho nên ngồi trên tòa sư tử. Chúng sinh đáng được độ, hết thảy chúng sinh nầy đều đã được độ, chúng sinh đại thừa đã thành Phật, cho nên :‘’Mà tự mừng nói rằng, ta nay rất vui mừng‘’.
‘’Những đứa con nầy đây, đẻ nuôi dưỡng rất khó’’ : Dụ cho Phật giáo hóa chúng sinh chẳng dễ dàng. Chúng ta hằng ngày giảng Kinh thuyết pháp, hoằng dương Phật pháp, cũng chẳng dễ dàng. Các bạn ban đầu gặp Phật pháp, thì chẳng biết gì về Phật, bây giờ đã học Phật pháp được một năm, thì nửa tin nửa ngờ đối với Phật pháp, có thể thấy giáo hóa chúng sinh thật chẳng dễ dàng. Đức Phật ở chỗ ba vạn ức vị Phật, dùng pháp đại thừa giáo hóa chúng sinh, cho nên gọi là ‘’đẻ’’, căn bồ đề của những chúng sinh nầy, ở nơi hai vạn ức vị Phật đã sinh trưởng lớn lên.

Giảng Kinh thuyết pháptrách nhiệm trọng đại, chẳng thể khinh xuất giảng bậy, nếu nói sai nghĩa Kinh, thì khiến cho người nghe lạc vào đường tà, quả báo của bạn sẽ đọa vào địa ngục. Thuở xưa, Đức Phật ở nơi ba vạn ức vị Phật, đã dùng pháp đại thừa giáo hóa chúng sinh, trong đó có số ít chúng sinh thành thục, cho nên nói là ‘’nuôi dưỡng’’. Đức Phật trải qua hết mọi sự gian khổ, trải qua kiếp số lâu xa, mới được tài bồi hạt giống đại thừa, căn cơ đại thừa, cho nên nói là ‘’rất khó’’. ‘’Chúng nhỏ dại vô tri’’ : Dụ cho căn lành của chúng sinh cạn mỏng, thường bị vọng tưởng che đậy.
Người thiếu trí huệ, mới sinh vào đời năm trược thọ quả báo, nên nói ‘’mà đi vào nhà hiểm’’.
‘’Nhiều các thứ độc trùng, quỷ lị mị đáng sợ’’: Dụ cho lợi sửđộn sử ở trong ba cõi.
‘’Lửa lớn cháy mãnh liệt, bốn phía đều nổi lên’’: Dụ cho trong nhà lửa tam giới có tám sự khổ, bốn điên đảo (chẳng thường cho là thường, chẳng vui cho là vui, chẳng phải ngã cho là ngã, chẳng tịnh cho là tịnh.)
‘’Mà các người con nầy, tham trước chơi đùa giỡn’’: Chúng sinh khởi kiến ái hoặc, chấp trước kiến ái, chẳng thể buông xả.
‘’Ta đã cứu chúng nó, khiến cho được thoát khỏi’’: Phật đã cứu vớt chúng sinh lìa khỏi các khổ nạn.
‘’Vì thế các người ơi, nay ta rất vui mừng’’: Cho nên ở trong tất cả mọi người, ta là người vui mừng nhất.

Khi đó các người con
Biết cha đã an tòa
Đều đến bên chỗ cha
Mà thưa với cha nói :
Xin ban cho chúng con
Ba thứ xe báu tốt
Như trước cha đã hứa
Các con mau ra đây.
Sẽ cho ba xe báu
Tùy ý muốn các con
Nay chính là phải thời
Xin cha hãy ba cho.

‘’Khi đó các người con, biết cha đã an tòa’’: Lúc đó, các người con đã ra khỏi nhà lửa, thấy người cha đoan nhiên an tọa trên tòa sư tử, thừa lúc đó, đòi cha ban cho ba thứ xe báu, dụ cho Phật đang diễn nói đại thừa diệu pháp Kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì:
‘’Đều đến bên chỗ cha, mà thưa với cha nói’’: Các người con cung kính, đến trước chỗ người cha mà thưa rằng: ‘’Xin cha cho chúng con, ba thứ xe báu tốt, như trước cha đã hứa’’: Dụ cho các người con còn chấp trước nơi pháp tiểu thừa, pháp trung thừa, là tâm còn hoài nghi đối với pháp đại thừa.
Với oai đức của Phật trụ thế thuyết pháp lâu như vậy, mà một số chúng sinh vẫn còn nghi hoặc, e rằng người thời nay, đối với đạo lý Kinh Pháp Hoa nửa tin nửa ngờ, chẳng đắc được tương ưng với lý của Phật, đều vì chẳng thâm nhập thấu hiểu chân chính, chẳng sinh niềm tin chân chính.
Hãy trừ khử tất cả tà tri tà kiến xưa kia, thì sẽ sinh niềm tin chân chánh.
‘’Các con mau ra đây, sẽ cho ba xe báu’’: Các người con từ nhà lửa đi ra, sẽ dùng pháp ba thừa độ chúng sinh.
‘’Tùy ý các con muốn’’: Phật từng nói pháp ba thừa, tùy sở thích của mỗi người mà được chứng quả.
Trong Kinh Pháp Hoa nói pháp ba thừa, là phương tiện pháp môn, tất định có pháp đại thừa để giáo hóa chúng sinh, cho nên nói: ‘’Nay chính là phải thời, xin cha hãy ban cho‘’.

Ông trưởng giả giàu có
Có rất nhiều kho tàng
Nào vàng bạc lưu ly
Xa cừmã não.
Dùng các thứ báu vật
Tạo các cỗ xe lớn
Tu sửa nghiêm sức đẹp
Chung quanh có lan can.
Bốn phía đều treo linh
Dây vàng thắt với nhau.

‘’Ông trưởng giả giàu có’’: Dụ cho Phật là ông trưởng giả giàu có, chí tôn chí quý trong ba cõi, Phật là vị thái tử tại xứ Ấn Độ, có đức làm Chuyển Luân Thánh Vươngxuất gia tu hành, đã tự giác, giác thagiác hạnh viên mãn, do đó có câu :‘’Tam giác viên, vạn đức bị‘’.
‘’Có rất nhiều kho tàng’’: ‘’Kho’’ là nơi dùng để chứa lương thực. ‘’Tàng’’ là bảo tàng, ẩn tàng ở dưới đất. Dùng ‘’kho’’ dụ cho sáu căn của con người, bên trong chứa tánh Như Lai tạng, cửa sáu căn hiển hiện tánh giác quý báu. ‘’Tàng’’ dụ cho tất cả vạn hạnh.
Dùng pháp lục độ trang nghiêm vạn hạnh, trong mỗi độ đều đầy đủ vạn hạnh, trong một hạnh cũng đầy đủ lục độ, cho nên lục độ vạn hạnh tức tương quan. Tất cả pháp đầy đủ tất cả hạnh, trong tất cả hạnh cũng đầy đủ tất cả pháp. Dùng vô lượng hạnh tu vô lượng pháp, dùng vô lượng pháp thành tựu vô lượng hạnh, cho nên nói: ‘’Có rất nhiều kho tàng‘’.
‘’Nào vàng, bạc, lưu ly, xa cừ và mã não’’: Dụ cho bốn trí của Phật, như trân bảo vô giá. Bốn trí tức là:
- Đại viên cảnh trí
- Bình đẳng tánh trí
- Diệu quán sát trí
- Thành sở tác trí.

‘’Dùng các thứ báu vật, tạo các cỗ xe lớn’’: Trên thế gian có các báu vật màu sắc khác nhau, pháp của Phật cũng chẳng giới bạn nơi bốn trí, cũng có các thứ pháp khác nhau, như bảy Bồ đề phần, tám Chánh đạo, bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc .v.v. Dùng đủ loại pháp môn thành đại thừa Phật pháp; pháp đại thừa là do tất cả các pháp thành tựu.
‘’Tu sửa nghiêm sức đẹp, chung quanh có lan can’’: Dụ cho Đà La Ni. Đà la ni là tiếng Phạn, nghĩa là "tổng trì", tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa. Tổng quát pháp đại thừa tiểu thừa, vô lượng nghĩa trong tất cả các pháp đều ở hết trong đó. Đà la ni hay trừ khử tất cả các việc ác, làm tất cả việc lành.
‘’Bốn phía đều treo linh’’: Dụ cho bốn vô ngại biện.
‘’Dây vàng thắt với nhau’’: Dụ cho bốn hoằng thệ nguyện. Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Bốn hoằng thệ nguyện đều bao quát tất cả chư Phật, Bồ tát, Thanh Văn, Duyên Giác ở trong đó.

Hoằng thệ nguyện thứ nhất là: ‘’Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ’’: Phải thường suy nghĩ đã độ tất cả chúng sinh chưa ? Còn phải đạt tới cảnh giới độ như không độ. Đức Như Lai độ tất cả chúng sinh, mà chẳng có một chúng sinh diệt độ, nghĩa là đã độ chúng sinh như chưa độ, tức là độ chúng sinh mà chẳng chấp trước tướng độ chúng sinh; nhưng nếu chưa độ chúng sinh thì không thể tự nói đã độ.

Chúng sinh nhờ chúng duyên hòa hợp mà sinh, từ mười hai nhân duyên diễn biến mà thành người, con kiến cho đến vi khuẩn đều là chúng sinh. Chúng ta không nên tìm chúng sinh bên ngoài, trong tự tánh của con người đã có vô lượng chúng sinh. Hiện nay khoa học đã tiến bộ, có thể chứng minh trong thân thể con người có rất nhiều vi khuẩn và vi sinh vật, trong ngũ tạng lục phủvô lượng chúng sinh. Người ăn động vật cũng là chúng sinh, như : Thịt heo, thịt bò, thịt dê, thịt cá .v.v., trong những loại thịt đó, có rất nhiều vi khuẩn. Con người ăn những thứ thịt đó vào trong bụng, thì sẽ có những chủng tử vi khuẩn đó. Ăn loại chúng sinh nào nhiều, thì thành quyến thuộc của loài đó, nhân duyên càng sâu dày, trói buộc chẳng thể phân ly. Người ăn thịt heo nhiều, thì có cơ hội sinh làm heo, người ăn thịt bò nhiều, thì có cơ hội sinh làm bò. Vậy ăn nhiều gạo có phải cũng biến thành gạo ? Gạo là vô tình, mà chúng sinhhữu tình. Nếu ăn nuốt hữu tình chúng sinh, thì sẽ sinh làm hữu tình chúng sinh. Ăn vô tình chúng sinh, thì sẽ trợ giúp tăng trưởng pháp thân huệ mạng. Nếu ai chẳng ăn loài chúng sinh nào, tức là độ loài chúng sinh đó. ‘’Độ’’ tức là độ qua biển khổ, lên bờ Niết Bàn bên kia. Nếu chúng ta minh bạch đạo lý bên trong của nó, thì không nên ăn thịt chúng sinh.

Trước kia có người ăn thịt, sau khi chết đến chỗ vua Diêm Vương, tất cả loại thịt chúng sinh mà anh ta đã ăn qua trước kia, đều đến đòi nợ với anh ta, Song, anh ta còn tự biện hộ cho mình nói: ‘’Tuy nhiên tôi ăn thịt, nhưng tội chẳng riêng mình tôi, tội do người bán thịt’’. Do đó, vua Diêm Vương truyền kêu người bán thịt đến, thì người bán thịt cũng tự biện hộ: ‘’Sở dĩ tôi bán thịt là có người mua, nếu chẳng có người mua, thì tôi đâu có bán thịt ?’’ Người bán thịt với người ăn thịt tranh luận với nhau, sau đó hai người đổ hết trách nhiệm lên ông đồ tể. Vua Diêm Vương lại kêu ông đồ tể đến, thì ông đồ tể cũng biện hộ nói: ‘’Tôi là đồ tể nhưng có người mua thịt, có người ăn thịt, nên tôi mới sát sinh. Nếu chẳng có ai mua, chẳng có người ăn, thì tôi đâu có sát sinh’’. Do đó, ai cũng nói lý của mình. Kết quả vua Diêm Vương mới phán quyết, người ăn thịt phải trả nợ máu. Có thể thấy ăn loài chúng sinh nào, thì kết duyên với loài chúng sinh đó, do đó có câu :

‘’Trong chữ thịt có hai người,
Người ở trong che đậy người ở ngoài,
Chúng sinh vẫn ăn thịt chúng sinh,
Suy gẫm kỹ thì người ăn người.’’

Trong Kinh Lăng Nghiêm nói: Dê chết làm người, dê có thể làm người, thì heo bò cũng có thể làm người. Nếu chưa khai mở thiên nhãn thông, thì không thể quán sát được nhân duyên của nó, tức cho rằng heo là heo, dê là dê. Con ngườiăn thịt chúng sinh nhiều rồi, thì tánh giác vốn có sẽ mai một đi, biến thành ngu si.

Cho nên chúng ta muốn độ chúng sinh, trước hết phải giữ giới sát sinh, không ăn thịt chúng sinh. Nếu muốn độ chúng sinh, thì trước hết độ tự tánh chúng sinh. Độ sinh còn phải lìa tướng, chẳng chấp trước những gì có hình tướng.

Hoằng nguyện thứ hai là: ‘’Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn’’: Phiền não của con người trong sự bất tri bất giác, sinh ra thì vô minh hiện tiền. Sinh phiền não thì sẽ thiêu sạch công đức pháp tài.

Hoằng nguyện thứ ba là: ‘’Pháp môn vô lượng thệ nguyện học’’. Kinh Phật nhiều vô lượng, năm qua bạn học Kinh Lăng Nghiêm, năm nay học Kinh Pháp Hoa, Tâm Kinh, Kinh Kim Cang, Kinh Điạ Tạng, mỗi bộ Kinh đều có đạo lý khác nhau, nhiều như số cát sông Hằng, vô cùng vô tận. Trong Phật giáo có pháp đại thừa, pháp tiểu thừa, pháp bốn Diệu đế, mười hai nhân duyên, ba mươi bảy đạo phẩm, có tám vạn bốn ngàn pháp môn, học một pháp môn, thì cần đến tám vạn bốn ngàn kiếp, hà huống tuổi thọ của một số người chỉ có ba vạn sáu ngàn ngày. Pháp môn chưa học hết thì đã chết mất. Song, tuy là học không hết cũng phải học. Trên thế gian có nhiều ngôn ngữ khác nhau, chẳng có ai biết hết các ngôn ngữ. Ngôn ngữ còn phức tạp nhiều như thế, huống chi là văn tự ? Văn tự thiên biến vạn hóa, thật chẳng dễ gì học. Trang tử có nói :

‘’Đời tôi thì có hạn, mà sự biết thì vô hạn’’.

Dùng năm tuổi có hạn, học sự hiểu biết vô cùng tận, học chẳng hết được.
Học Phật pháp sao lại phải ngồi thiền ? Tức là học vô lượng Kinh điển trong tự tánh của chúng ta. Trong tự tánh của con người vốn có vô lượng pháp môn, mà con người bỏ gốc tìm ngọn, truy cầu bên ngoài, chẳng biết hồi quang phản chiếu. Trong Tâm Kinh có nói rằng : Hồi quang phản chiếu quán tự tại, tự tại tức sinh Bát Nhã, chiếu thấy năm uẩn đều không. Năm uẩn đều không, thì các pháp khác cũng không. Hằng ngày tĩnh tọa tức là hồi quang phản chiếu, phải siêng tu các pháp môn, không thể một ngày nóng mười ngày lạnh.

Hoằng thệ nguyện thứ tư là : ‘’Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành’’: Phật đạo cao quý nhất trên thế gian. Thế Tôn là bậc chí tôn của thế gianxuất thế gian. Thành Phật mới là chỗ về cứu kính của hết thảy chúng sinh, cho nên phải phát thệ nguyện thành Phật, cũng phải độ chúng sinh cùng thành Phật đạo. Tự tính chúng sinh thệ nguyện độ, tự tính phiền não thệ nguyện đoạn, tự tính pháp môn thệ nguyện học, tự tính Phật đạo thệ nguyện thành. Đừng cứ lo chuyện của thiên hạ, nào là: ‘’Họ không tốt, họ chẳng đúng’’, đừng xem lỗi lầm của người khác, nên trừ khử sạch vọng tưởng ở trong tâm của chính mình, nên nhìn thấu buông xả đặng, chứng được trung đạo liễu nghĩa. Mỗi ngày đều bình thường yên ổn giữ trung đạo, thì sẽ có ngày khai ngộ, khai ngộ tức thành Phật. Bốn hoàng thệ nguyện rất quan trọng, cho nên trong kinh văn nói: ‘’Dây vàng kết thắt nhau’’.

Mành lưới bằng chân châu
Giăng bày ở phía trên
Hoa vàng các chuỗi ngọc
Khắp nơi thòng rũ xuống.
Xen tạp lụa nhiều màu
Giăng khắp chung quanh xe
Dùng bông tơ mềm mại
Để làm nệm nằm ngồi.
Vải mịn tốt thượng hạng
Giá trị đến nghìn muôn
Tốt đẹp trắng sạch sẽ
Dùng trải ở trên nệm.
Có trâu trắng to lớn
Mập khỏe nhiều sức mạnh
Thân hình rất đẹp đẽ
Dùng để kéo xe báu.
Rất nhiều kẻ tôi tớ
Đi theo hầu bảo vệ
Đem xe báu đẹp đó
Đồng ban cho các con.

‘’Mành lưới bằng chân châu’’: Dụ cho từ bi của Phật.
‘’Giăng bày ở phía trên’’: Dụ cho Phật có đại từ bi, phổ độ tất cả chúng sinh.
‘’Hoa vàng các anh lạc’’: Dụ cho bốn pháp nhiếp:
1. Bố thí, nên thành tâm bố thí, chẳng phải bố thí một cách miễn cưỡng. Vì tất cả chúng sinh đều có tham cầu, do đó:

‘’Muốn khiến vào Phật trí,
Trước dùng câu dục móc’’.

Hành Bồ Tát đạo phải bố thí.

2. Ái ngữ, bất cứ nói lời gì, cũng đều khiến cho người vui vẻ, khiến cho ai ai cũng đều thích nghe.
3. Lợi hành, làm tất cả những gì, cũng đều có lợi cho người khác.
4. Đồng sự, muốn độ người nào đó, thì trước hết phải kết giao với họ.

‘’Khắp nơi thòng rũ xuống’’: Biểu thị chẳng có nơi nào mà chẳng độ, khắp nơi đều hành bốn pháp nhiếp.
‘’Xen tạp lụa nhiều màu’’: Lụa nhiều màu dùng để trang sức xe báu nầy.
‘’Giăng khắp chung quanh xe’’: Trên xe trang nghiêm rất tốt đẹp.
‘’Dùng bông tơ mềm mại, để làm nệm nằm ngồi. Vải mịn tốt thượng hạng, giá trị đến ngàn muôn’’: Dụ cho quán chiếu trí huệ.
‘’Tốt đẹp trắng sạch sẽ, dùng trải ở trên nệm’’: Chẳng làm tất cả điều ác tức là ‘’tốt đẹp trắng’’, nghĩa là tu thân thì trước hết phải giữ gìn giới luật.
‘’Có trâu trắng to lớn’’: Dụ cho trí huệ vô lậu.
‘’Mập khỏe nhiều sức lực, thân hình rất tốt đẹp’’: Dụ cho đầy đủ tất cả vạn pháp.
‘’Dùng để kéo xe báu’’: Tức là dùng trí huệ vô lậu tu Phật pháp đại thừa.
‘’Rất nhiều kẻ tôi tớ, theo đi hầu bảo vệ’’: Dụ cho phương tiện Ba la mật. Pháp phương tiện chính là trợ giúp pháp đại thừa; tu hành trí huệ vô lậu phải cần có các pháp môn khác trợ giúp. Tu trí huệ vô lậu, mà có tâm niệm tham, tức là hữu lậu, có tâm sân tức hữu lậu, có tâm si tức hữu lậu, có tâm kiêu mạn, tâm nghi ngờ, tà kiến cũng đều là hữu lậu. Trước hết phải trừ khử tham, sân, si, mạn nghi, lìa tất cả tập khí mao bệnh, mới có thể được trí huệ vô lậu. Ngoại đạo và hàng nhị thừa, đều dùng pháp phương tiện nầy. ‘’Tôi tớ’’ cũng có thể dụ cho thần thông, có thể tùy ý mà dùng.
‘’Đem xe báu đẹp đó’’: Y theo pháp đại thừa tu hành, thì tương lai sẽ chứng quả vị Phật.

Các người con lúc đó
Rất vui mừng hớn hở
Ngồi lên xe báu đó
Vui chơi rất khoái lạc
Rất tự tại vô ngại.

Chúng sinh nghe pháp đại thừa, đắc được cảnh giới đại thừa, diệu pháp không thể nghĩ bàn, diệu không thể tả, mà vui mừng hớn hở. Y chiếu theo pháp đại thừa tu hành, thì sẽ thông đạt tất cả Phật pháp, như pháp: Bốn Diệu đế, pháp Lục độ, mười hai Nhân duyên, bốn Vô lượng tâm, bốn Vô ngại biện, bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, đầy đủ các pháp, lấy pháp làm món ăn tinh thần, rất tự tại vô ngại.

Phật bảo Xá Lợi Phất !
Ta cũng lại như thế
Chí tôn trong bậc Thánh
Là cha của thế gian.
Tất cả các chúng sinh
Đều là con của ta
Say đắm vui thế gian
Chẳng có tâm trí huệ.
Ba cõi chẳng yên ổn
Giống như là nhà lửa
Đầy dẫy sự thống khổ
Thật là đáng sợ hãi.
Thường có khổ sinh già
Bệnh chết và sầu lo
Các thứ lửa như thế
Cháy hừng hực chẳng tắt.

Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất ! Ta cũng giống như ông trưởng giả, là bậc chí tôn trong hàng Thánh, là cha của tất cả chúng sinh thế gian. Tất cả chúng sinh đều là con của ta. Song, chúng sinh đều chấp trước vào sự vui của thế gian, lấy khổ làm vui, mất đi trí huệ. Thật ra, ba cõi không an như nhà lửa cháy, ba sự khổ, tám sự khổ, các thứ khổ đầy dẫy, rất dễ đọa lạc vào ba đường ác, cho nên rất là đáng sợ.

Trẻ con mới sinh ra thì khóc oa oa, trẻ con vừa chào đời như rùa sống lột mai, khi chết đi thì như bò sống lột da, về già thì tất cả cơ năng trong thân thể đều suy yếu, đến khi chết thì bác sĩ cũng bó tay. Khổ sinh, già, bệnh, chết, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh, các thứ khổ thiêu đốt. Nghiệp lực của chúng sinh ngày càng sâu nặng, cho nên lửa càng cháy mạnh, chẳng ngừng nghỉ.

Như Lai đã lìa khỏi
Ngôi nhà lửa ba cõi
Ở chỗ yên vắng vẻ
Nơi núi rừng hoang dã.
Hiện nay ba cõi nầy
Đều là của ta cả
Chúng sinh ở trong đó
Thảy đều là con ta.
Mà nay chơi chỗ nầy
Rất nhiều các hoạn nạn
Chỉ có một mình ta
Có thể cứu hộ được.

Phật đã lìa khỏi nhà lửa ba cõi, tiêu dao tự tại, ở nơi chỗ vắng vẻ yên ổn, nơi rừng núi hoang dã. Song, ba cõi nầy đều là sở hữu của Phật, tất cả chúng sinh đều là con của Phật, mà trong ba cõi nầy, rất nhiều các thứ hoạn nạn, đầy dẫy độc trùng mãnh thú, chỉ có mình đức Phật mới cứu hộ được. Cha của người thế gian là do tạo nghiệp mà sinh, còn Phật là cha xuất thế gian, là cha pháp thân huệ mạng của chúng ta, là cha thanh tịnh chẳng nhiễm. Nếu nhận Phật làm cha, thì tương lai có thể được thanh tịnh chẳng nhiễm.

Tuy Phật đã dạy bảo
Mà cũng chẳng tin nhận
Vì nơi các dục nhiễm
Tâm tham trước sâu dày.
Do đó dùng phương tiện
Vì chúng nói ba thừa
Khiến cho các chúng sinh
Biết ba cõi là khổ.
Bèn khai thị diễn nói
Đạo ra khỏi thế gian
Các người con đó thảy
Nếu tâm mà quyết định.
Thì đầy đủ ba minh
Và sáu thứ thần thông
Hoặc chứng được Duyên Giác
Bồ Tát bất thối.


Tuy Phật dùng đủ thứ phương pháp giáo hóa tất cả chúng sinh, song, chúng sinh chẳng sinh tín tâm. Vì tất cả chúng sinh do dục niệm làm ô nhiễm, tham trước tài, sắc, danh, ăn và ngủ, nên che lấp trí huệ.
chúng sinh chấp trước dục nhiễm quá sâu, cho nên Phật chỉ tạm thời dùng pháp phương tiện khéo léo để giáo hóa. Dùng Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừaBồ Tát thừa, để giáo hóa chúng sinh, đó là xả thật dụng quyền.
Thời nay, có những thanh niên tự cho rằng uống thuốc mê huyễn, thì có thể đi ở trong hư không, mà còn có thầy làm chứng, thật là bậy truyền bậy, do đó có câu:

‘’U mê truyền cho kẻ u mê,
Một truyền hai chẳng hiểu,
Ông thầy đọa địa ngục,
Đồ đệ cũng theo vào’’.

Đi ở trong hư không, vốn chẳng cần dùng thuốc mê huyễn, đó là tự dối gạt người, mất đi chân chánh trí huệ, Phật chỉ dùng quyền xảo để độ. Phật biết ba cõi đầy dẫy thống khổ, cho nên khai thị chúng sinh, vì họ nói pháp xuất thế gian.
Thế gian gồm có xuất thế gian, hữu tình thế gian, và chánh giác thế gian. Khí thế gian còn gọi là y báo thế gian; hữu tình thế gianthế giới của tất cả chúng sinh, tức là chánh báo thế gian. Chánh giác thế gianthế giới của Phật. ‘’Ba minh’’ tức là quá khứ minh, hiện tại minh và vị lai minh.
Quá khứ minh tức túc thế minh, biết nhân duyên đời quá khứ. Hiện tại minh tức lậu tận minh, bỏ mê về giác đã được vô lậu. Nếu bỏ đặng tất cả lòng tham lam chấp trước, tu hành thì sẽ chứng được vô lậu. Vị lai minh tứ thiên nhãn minh, bất cứ là chướng ngại vật bên trong, hoặc chướng ngại vật bên ngoài, nhìn xem đều thấu suốt.
‘’Và sáu thứ thần thông’’: Tức là:
1. Thiên nhãn thông,
2. Thiên nhĩ thông,
3. Tha tâm thông,
4. Túc mạng thông,
5. Thần túc thông
6. Lậu tận thông.

- Thiên nhãn thông, nhìn xuyên qua trong thân thể của mình, nhìn thấu được trong thân thể của chúng sinh.
- Thiên nhĩ thông, chẳng những nghe được âm thanh trên trời, mà còn nghe được tiếng côn trùng trong thân thể của mình kêu, thậm chí còn nghe được tiếng của hoa cỏ cây cối.
- Tha tâm thông, biết được tất cả tư tưởng ở trong tâm của người khác, niệm niệm khởi lên cũng có thể biết rõ. Trước kia có vị A La Hánlục thông, Ngài mang theo vị đệ tử đi du hành. Vị đệ tử đi sau quảy hành lý, giữa đường bèn khởi lên một tâm niệm: "Tương lai mình phải hành pháp đại thừa, phổ độ tất cả chúng sinh". Vị La Hántha tâm thông, nên biết được vị đệ tửnguyện lực đại thừa, còn mình bất quá là A La Hán, nguyện lực của đồ đệ cao siêu hơn. Ngài bèn quảy hành lý thế cho đệ tử. Đi được một đoạn đường khá dài, thì vị đệ tử sinh tâm thối lùi, nghĩ: "Bồ Tát đạo chẳng dễ gì thực hành", vị thầy biết đệ tử sinh tâm thối chuyển, bèn đưa hành lý lại cho đệ tử quảy, cứ như thế xảy ra mấy lần, vị đệ tử chẳng rõ nguyên nhân, bèn hỏi vị thầy. Vị thầy đáp: ‘’Vì con phát tâm hành Bồ Tát đạo, tu lục độ vạn hạnh, ta chỉ là bậc tiểu thừa, còn nguyện lực của con cao hơn ta, cho nên ta thế con quảy hành lý. Song, con lại nghĩ Ngài Xá Lợi Phất còn không thể hành Bồ Tát đạo, hà huống mình : Bèn sinh tâm thối chuyển. Lúc đó, con lại trở về địa vị đệ tử, cho nên con phải mang hành lý‘’.

Xá Lợi Phất cũng là hàng Thanh Văn, phát tâm muốn hành Bồ Tát đạo. Nếu ai chân chánh phát bồ đề tâm, thì Thiên Long bát bộ sẽ đến khảo nghiệm họ. Phát bồ đề tâm muốn hành Bồ Tát đạo, phải ưa thích bố thí. Người khác mong cầu gì, thì Bồ Tát sẵn sàng bố thí chẳng có tơ hào bỏn xẻn. Ngài Xá Lợi Phất tức đã phát tâm hành Bồ Tát đạo, một ngày nọ, trên đường đi, Ngài thấy một người khác khóc lóc rơi lệ, Ngài Xá Lợi Phất thấy vậy, bèn phát bồ đề tâm muốn giúp họ, mới hỏi người đó vì sao mà khóc. Người đó nói: ‘’Mẹ của tôi bị bệnh, chỉ có con mắt của người sống mới có thể trị được, nhưng đi khắp nơi mua mà chẳng có, cho nên tôi buồn quá mà khóc‘’. Ngài Xá Lợi Phất nghe rồi, rất cảm động người con có hiếu, bèn suy nghĩ: ‘’Mình có một cặp mắt, thôi thì bố thí một con cho anh ta, mình chừa lại một con‘’. Do đó, chịu đau đớn, móc ra một con mắt để bố thí, người đó cầm lấy rồi bỏ xuống đất ! Ngài Xá Lợi Phất chẳng hiểu vì sao ? Người đó nói: ‘’Chẳng phải con mắt nầy, tôi muốn con mắt trái mà ông chưa nghe rõ, thì đã móc con mắt phải ra. Nếu ông thật muốn bố thí, thì xin ông cho tôi con mắt trái kia đi vậy‘’. Ngài Xá Lợi Phất đã móc con mắt phải ra, đau đớn vô cùng, nếu mà móc mắt trái nữa, thì chẳng phải trở thành mù chăng ? Lúc đó, Ngài Xá Lợi Phất thối lùi tâm bố thí. Người đó nghe rồi đằng vân mà đi, nguyên lai đó là người trời đến thử thách Ngài Xá Lợi Phất.

- Túc mạng thông, biết được nhân duyên quá khứ, biết rõ kiếp trước của mình là người thiện hoặc người ác ? Người Tàu hoặc người ngoại quốc ? Hoặc kiếp trước là người Tàu, kiếp nầy sinh ra tại nước Mỹ, phát nguyện đến nước Mỹ hoằng dương Phật pháp. Có những người học Phật pháp tiến bộ rất mau, có những người tiến bộ rất chậm. Có những người học Phật pháp, biết mà chẳng hành, chưa cung hành thực tiễn, chưa hợp với Phật pháp làm một thể. Có những người học Phật pháp thân thể lực hành, có tinh thần bất khuất, đều do nhân duyên kiếp trước đã tích lũy. Hoặc có những người trước kia là người Ấn Độ, nguyện đến tây phương hoằng dương Phật pháp, do đó đời nầy đầu thai vào nước Mỹ. Nếu có túc mạng thông thì sẽ biết được việc quá khứ.

- Thần túc thông, còn gọi là thần cảnh thông, hoặc là như ý thông, được toại ý tự tại. Thần túc thông diệu không thể tả, chẳng thể nào dùng lời nói để hình dung được, có thể biến hóa trên thân ra lửa, dưới thân ra nước; hoặc trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, lại có thể đằng vân ở trong hư không hiện mười tám biến.

- Lậu tận thông, là chẳng rơi rớt vào ba cõi. Quỷ thần đều có ngũ thông, chỉ thiếu lậu tận thông. Chứng quả A La Hán mới có lậu tận thông. Nếu người có ngũ nhãn lục thong, cũng không thể tùy ý loạn dụng. Ví như, dùng thần thông để quán sát thế giớitai nạn gì, hoặc dùng thần thông cứu người mới có ý nghĩa, nếu giúp đỡ người khác cũng không thể để cho người biết.

‘’Thiện dục nhân tri,
Bất thị chân thiện,
Ác khủng nhân tri,
Tiện thị đại ác‘’.


Nghĩa là:


‘’Làm thiện muốn người biết,
Chẳng phải là thật thiện,
Làm ác sợ người biết,
Đó mới là đại ác.’’

Đắc được ngũ nhãn lục thông phải trân tiết, không nên lo việc vô ích, đừng tùy ý loạn dụng, bằng không tiết lậu thiên cơ, cũng sẽ mất đi thần thông.
‘’Duyên Giác’’: Là bậc tu mười hai Nhân duyênngộ đạo; do : Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, cho đến lão tử. Chúng sinh do vô minh mà phát sinh hành vi, từ hành vi sinh ra ý thức, từ ý thức sinh ra danh sắc, từ danh sắc mà sinh ra lục nhập (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), có lục nhập tức có sự tiếp xúc, có xúc thì có thọ, có thọ thì sinh ái, có ái thì sinh tâm ích kỷ muốn chiếm hữu, tức có đời sau, có đời sau thì có lão tử. Đó là mười hai Nhân duyên của bậc Duyên Giác tu.
Vô minh thường chi phối con người, khiến cho điên đảo, cho nên phá được vô minh thì sẽ hiển hiện pháp tính, sẽ được khai ngộ.
‘’Bồ Tát bất thối‘’: ‘’Bất thối’’có ba:


- Hạnh bất thối,
- Vị bất thối,
- Niệm bất thối.

- Hạnh bất thối, là tu Phật pháp phải có tâm nhẫn nhục, tâm kiên cố, tâm thường hằng, tâm thành, để tiến bước về trước mà chẳng thối chuyển.
- Vị bất thối, là Bồ Tát phát tâm nguyện lớn, muốn bố thí đầu mắt tủy não cho chúng sinh, mà chẳng sinh tâm thối lùi về hàng nhị thừa.
- Niệm bất thối, là Bồ Tát lợi ích tất cả chúng sinh, hay xả mình vì người, trợ giúp người khác mà chẳng chấp trước tướng bố thí. Hành Bồ Tát đạo đừng làm cho chúng sinh sinh phiền não, luôn luôn hồi quang phản chiếu, trở về cầu nơi chính mình.

Này ông Xá Lợi Phất !
Ta vì các chúng sinh
Mà dùng ví dụ nầy
Nói một thừa Phật đạo.
Nếu các ông có thể
Tin nhận lời nói đây
Thì tất cả đều sẽ
Được thành tựu Phật đạo.
Thừa nầy tối vi diệu
Rất thanh tịnh bậc nhất
Ở trong các thế gian
Chẳng có pháp nào hơn.
Chỗ chư Phật hoan hỉ
Tất cả các chúng sinh
Nên tán thán khen ngợi
Cúng dườnglễ bái.
Vô lượng trăm ngàn muôn
Các lực và giải thoát
Thiền định cùng trí huệ
Các pháp khác của Phật.
Chứng được thừa như thế.

Đức Phật nói với tôn giả Xá Lợi Phất: Trước kia, ta vì chúng sinh nói đủ thứ ví dụ, để xiển minh sở tu trước kia là quyền pháp, nay khiến cho họ biết đại thừa Phật pháp, nên tin rằng tất cả mọi người đều có thể sẽ thành Phật. Đây là sự vi diệu của Phật pháp, phải có tín tâm thì mới có thể thành tựu, chỉ có một Phật thừapháp môn vô lượng trong thế gian, đây là pháp môn Phật hoan hỉ nhất, nên tán thán pháp môn nầy, cúng dường Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, lễ lạy đại thừa Phật pháp. Có lượng công đức, mười trí lực của Phật, tám giải thoát, các thiền định và trí huệ và các pháp môn khác của Phật, quá khứ chắc chắn đã tu vô lượng công đức, mới đắc được nhân duyên thù thắng nầy, gặp được đại thừa Phật pháp.

Khiến cho các người con
Ngày đêm cùng số kiếp
Thường được đi dạo chơi.
Với các vị Bồ Tát
Cùng với chúng Thanh Văn
Ngồi nơi thừa báu nầy
Mà thẳng đến đạo tràng.
Nhân duyên như vậy đó.
Tìm cầu khắp mười phương
Chẳng có thừa nào khác
Trừ Phật dùng phương tiện.

Dùng ‘’ngày’’ ví dụ khiến cho tất cả chúng sinh đắc được trí huệ chân thật của Phật, ‘’đêm’’ dụ cho chúng sinh vẫn còn phiền não chưa trừ vô minh. Tất cả chúng sinh tại chỗ Phật Đại Thông Trí Thắng, đã được Đức Phật giáo hóa, thường tu tập pháp đại thừa.

Với tất cả Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, đều y chiếu Phật pháp đại thừa tu hành. Thừa nầy là thừa báu, đạt đến bồ đề giác đạothành Phật. Nhân duyên như vậy đó, tìm cầu khắp mười phương chẳng có một pháp nào cao hơn so với pháp nầy, ngoại trừ Phật dùng pháp phương tiện.

Phật bảo Xá Lợi Phất !
Hết thảy lũ các ông
Đều là con của ta
Còn ta tức là cha.
Các ông trong nhiều kiếp
Bị các khổ thiêu đốt
Ta đều đã cứu vớt
Khiến ra khỏi ba cõi.
Tuy trước kia ta nói
Các ông được diệt độ
Chỉ dứt hết sinh tử
Mà thật chẳng diệt độ.
Nay việc cần phải làm
Chỉ có trí huệ Phật
Nếu có Bồ Tát nào
Ở trong chúng hội nầy.
Mà một lòng lắng nghe
Thật pháp của chư Phật
Các đức Phật Thế Tôn
Tuy
dùng các phương tiện.
Giáo hóa các chúng sinh
Đó đều là Bồ Tát.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất : Các ông tất cả chúng sinh, tất cả Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, phát tâm bồ đề, đều là con của ta, ta là cha của các ông. Các ông đã đời đời kiếp kiếp, vô lượng vô biên đại kiếp vì ba thứ khổ, tám thứ khổ, vô lượng thứ khổ thiêu đốt. Ta đều luôn luôn cứu vớt, khiến cho chúng sinh vượt ra khỏi cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc.

Tuy ta trước kia, dùng quyền xảo phương tiện, nói các ông đều đã được diệt độ, song chỉ dứt được phần đoạn sinh tử, chưa dứt được biến dịch sinh tử. Theo thật pháp mà nói, các ông vẫn chưa chân chánh đắc được diệt độ. Như nay các ông nên học trí huệ của Phật, tu pháp chân thật. Nếu có Bồ Tát nào ở trong đại chúng chuyên tâm nhất chí, nghe pháp môn chân thật của ta nói, đó mới là pháp do thật trí của chư Phật nói. Kì thật, pháp môn phương tiệnpháp môn chân thật mà nói, cho nên các ông nên hồi tiểu hướng đại, tu hành hạnh Bồ Tát.

Nếu có người trí nhỏ
Chấp sâu nơi ái dục
Thì vì những người đó
Nói đạo lý khổ đế.
Chúng sinh tâm vui mừng
Đắc được chưa từng có
Chân thật chẳng sai khác
Nếu có chúng sinh nào.
Chẳng biết gốc các khổ
Chấp sâu vào nhân khổ
Chẳng tạm rời bỏ được
Bèn vì chúng sinh đó.
Dùng phương tiện dạy bảo
Nguyên nhân mọi sự khổ
Tham dục là gốc rễ
Nếu diệt được tham dục.
Chẳng còn chỗ nương tựa
Dứt sạch hết các khổ
Gọi là đế thứ ba
Vì chứng được diệt đế.
tu hành đạo đế
Lìa các khổ ràng buộc
Gọi là được giải thoát
Người đó nơi pháp gì.
Mà đắc được giải thoát
Chỉ xa lìa hư vọng
Gọi đó là giải thoát
Kỳ thật chưa đắc được.
Tất cả các giải thoát
Phật nói rằng người đó
Chưa thật được diệt độ
Vì người đó chưa được.
Đạo quả vô thượng vậy
Ý của ta không muốn
Khiến cho được diệt độ
Ta là đấng Pháp vương.
Tự tại nơi các pháp
An ổn các chúng sinh
Cho nên hiện ra đời.

Nếu người thiếu trí huệ, chấp sâu nơi ái dục. Có kiến hoặctư hoặc, thấy cảnh bèn chấp trước mê hoặc tức là kiến hoặc. Tâm chẳng biện rõ thị phi, còn phản phú tư lường tức là tư hoặc.
Phật vì những chúng sinh nầy, nói pháp sinh diệt bốn Diệu đế.

1. Khổ đế : Chúng sinh lấy khổ làm vui, nghe được Phật nói khổ đế, thì tâm sinh vui mừng, cảm thấy diệu pháp nầy chưa từng có, là diệu pháp ngàn chân vạn thật.

2. Tập đế : Nếu có chúng sinh chẳng biết gốc khổ, tức tập đế. Tập là nhân của khổ, khổ là quả của tập. Tập tức là hai mươi sáu thứ phiền não. Gốc rễ phiền não có sáu thứ, tùy phiền não có mười thứ, trung phiền não có hai thứ, đại phiền não có tám thứ, cộng thành hai mươi sáu thứ phiền não. Hai mươi sáu thứ phiền não nầy là nhân của khổ, vì chúng sinh không thể tạm xả bỏ những phiền não nầy, cho nên Phật vì họ trước hết nói pháp môn phương tiện. Chủ nhân của tập là tham dục, chẳng biết đủ, luôn luôn tham mà chẳng biết chán. Ví như người chẳng có đồng xu nào, thì mong có được một trăm đồng, được một trăm đồng rồi, lại mong có một ngàn đồng, một vạn đồng, cho rằng được một vạn đồng thì có thể ngừng lại. Song, đến lúc ấy cảm thấy một vạn đồng vẫn còn ít, lại muốn mười vạn đồng. Song, chưa được một vạn đồng thì than ôi mạng sống chẳng còn bao lâu ! Đến chết thì vẫn chưa đạt được lý tưởng. Cho nên, con ngườitham dục thì sinh phiền não.

3. Diệt đế : Muốn diệt khổ, thì trước hết phải trừ tham dục. Chẳng còn tham dục, thì trừ khử được gốc của khổ, khổ cũng chẳng còn chỗ nương tựa, các khổ diệt sạch thì gọi là đế thứ ba.

4. Đạo đế : Muốn được diệt đế, thì trước phải tu đạo, tức là đế thứ tư. Giải trừ tất cả sự trói buộc của khổ, tức được thế gian giải thoát. Ai nhìn thấu buông xả đặng, thì mới được giải thoát. Tuy nhiên vẫn còn sống, nếu thấy được tất cả đều đã chết, chẳng vì túi da hôi thúi nầy mà làm nô lệ, thấy tất cả đều hư vọng, chẳng chấp trước bất cứ những gì, thì đắc được sự giải thoát.

Tôi thường nói "Everything’s OK" ! Tức tất cả đều được, tức nhiên tất cả chẳng có vấn đề gì, vậy phải chăng đã được giải thoát ? Chẳng còn chấp trước, giống như hư không, chẳng bị gì ràng buộc, chẳng tham danh, tức là giải thoát danh, chẳng cầu lợi tức là giải thoát lợi. Danh lợi đều giải thoát, còn có gì ràng buộc nữa ?

Tuy nói pháp: Khổ, tập, diệt, đạo, có thể được giải thoát, kì thật, giống như chưa được chân chánh giải thoát, vì mới được phần đoạn sinh tử, chứ chưa được biến dịch sinh tử. Còn biến dịch sinh tử vẫn chưa được giải thoát. Cho nên, Phật nói những hạng người nầy, chưa thật sự diệt độ. Phật nói rõ, vì chẳng muốn họ chưa được thọ dụng chân thật mới khiến cho họ được diệt độ.
Phật lại nói: Ta là vua của các pháp, toại ý tự tại ở trong các pháp, muốn khiến cho chúng sinh được an ổn, được giải thoát cứu kính, cho nên mới xuất hiện ra đời.

Này ông Xá Lợi Phất !
Pháp ấn của ta đây
Vì muốn làm lợi ích
Cho thế gian nên nói.
Nơi chỗ ông đi qua
Chớ có vọng tuyên truyền.

Đức Phật nói với tôn giả Xá Lợi Phất, đồng thời nói với tất cả chúng sinh đương thời, cũng bao quát chúng ta tất cả chúng sinh hiện tại, và tất cả pháp sư hoằng dương Phật pháp : Ta dùng pháp ấn thật tướng tôn quý nầy, chứng minh tất cả chúng sinh đều có thể thành Phật đạo, vì lợi ích tất cả chúng sinh, lợi ích thế gian, cho nên nói Kinh Pháp Hoa. Kinh Pháp Hoa là pháp chí tôn chí quý, cho nên không thể tùy tiện nói, phải đối cơ mới nói pháp nầy. Một số người căn tánh thiển cạn, không thể tiếp thọ diệu pháp thượng thừa.

Nếu đối với họ nói Kinh Pháp Hoa, chẳng những không thể tiếp thọ, mà còn sinh hủy báng. Để tránh khỏi sự hủy báng diệu pháp thượng thừa mà đọa địa ngục, cho nên chỉ đối với người có căn tánh đại thừa, mới có thể nói diệu pháp thượng thừa Kinh Pháp Hoa.

Nếu có ai nghe được
Tùy hỷ kính thọ trì
Nên biết rằng người đó.
Là bậc bất thối chuyển
Nếu có người tin nhận
Kinh pháp vô thượng nầy
Thì người đó đã từng.
Gặp chư Phật quá khứ
Cung kínhcúng dường
Cũng nghe được pháp nầy
Nếu người nào có thể.
Tin nhận lời ông nói
T
ức như là thấy ta
Và cũng như thấy ông
Cùng các Tỳ Kheo Tăng.
Và các bậc Bồ Tát
Phật vì người trí sâu
Nói Kinh Pháp Hoa nầy
Người thức cạn nghe được.
Mê hoặc chẳng hiểu đặng
Tất cả hàng Thanh Văn
Cùng với Bích Chi Phật
Ở trong Kinh pháp nầy.
Sức họ chẳng hiểu đặng
Như ông Xá Lợi Phất
Còn ở nơi Kinh nầy
Dùng lòng tin vào được.
Huống là Thanh Văn khác
Bao nhiêu Thanh Văn khác
Vì tin lời Phật nói
tùy thuận Kinh nầy.
Chẳng phải trí của mình.

Đức Phật nói: ‘’Nếu có người nghe được Kinh Pháp Hoa, mà tùy hỉ cung kính thọ trì, nên biết người đó là bậc bất thối chuyển, phải biết người đó đã phát tâm Bồ Tát, đã được ba bất thối chuyển. Nếu có ai tin nhận thọ trì Kinh Pháp Hoa đại thừa nầy, thì người đó trong quá khứ đã từng thấy vô lượng chư Phật, và hay cung kính cúng dường, trồng xuống hạt giống căn lành. Nếu có người tin đạo lý Kinh Pháp Hoa, thì giống như thấy Phật.’’ Vào đời Đường, đại sư Trí Giả tông Thiên Thai đọc tụng Kinh Pháp Hoa ‘’Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự‘’ đến chỗ Bồ Tát Dược Vương đốt thân cúng Phật, ‘’Là chân tinh tấn, gọi là chân pháp cúng dường Như Lai.’’ Lúc đó, đại sư Trí Giả bèn nhập định, nhìn thấy hội Pháp Hoa ở núi Linh Thứu vẫn chưa tan, từ đó đắc được Đà La Ni Pháp Hoa tam muội, khai mở vô lượng vô biên trí huệ, cho nên Phật nói tin nhận thọ trì được Kinh Pháp Hoa, tức là thấy được Phật, cũng thấy được tôn giả Xá Lợi Phất, và tất cả Tỳ Kheo Tăng, và còn thấy tất cả các đại Bồ Tát trong hội Pháp Hoa.

Do đó, Kinh nầy chỉ có thể nói với những người có trí huệ Bát Nhã. Nếu những người kiến thức nông cạn, người ngu si, người tánh tình nóng nảy, mà nghe được Kinh Pháp Hoa, thì sẽ nổi trận lôi đình, mê hoặc chẳng hiểu. Tất cả hàng Thanh Văn nghe bốn Diệu đếkhai ngộ, và Bích Chi Phật, tu mười hai nhân duyênkhai ngộ, chẳng đủ sức hoằng dương Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Ông là đại trí Xá Lợi Phất, mà đối với Kinh Pháp Hoa còn phải suy gẫm mới tin nhận, huống gì những vị Thanh Văn khác ? Bao nhiêu vị Thanh Văn khác, do nghe Phật nói Kinh Pháp Hoa, chẳng minh bạch đạo lý bên trong, cũng tin nhận. Tuy họ tin nhận, nhưng chẳng phải trí huệ vốn có của họ sinh ra, mà vì tùy thuận Phật nói, cho nên tin nhận diệu lý Kinh nầy, từ từ trí huệ tự nhiên cũng sẽ sinh ra.

Lại nữa Xá Lợi Phất !
Kẻ kiêu mạn giải đãi
Chấp trước vào bản ngã
Chớ nên nói Kinh nầy.
Kẻ phàm phu thức cạn
Chấp sâu nơi năm dục
Nghe chẳng thể hiểu đặng
Cũng chớ vì họ nói.
Nếu người chẳng tin nhận
Mà hủy báng Kinh nầy
Tức là dứt tất cả
Hạt giống Phật thế gian.

Phật lại bảo Ngài Xá Lợi Phất ! "Kiêu" là kiêu ngạo, "mạn" là khinh mạn, tự cho mình cao hơn, giỏi hơn bất cứ ai. "Giải đãi" là lười biếng, chẳng có tâm dũng mãnh tinh tấn. Nếu ai chấp trứơc vào tướng "ta" thì mới "kiêu mạn giãi đãi", đối với những người nầy, chớ nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Vì những người nầy, nghe được đạo lý Kinh Pháp Hoa, cũng chẳng cung hành thực tiễn, cho nên đừng giảng nói Kinh nầy cho họ nghe. Kẻ phàm phu kiến thức nông cạn, thiếu trí huệ, tham trước: Tài, sắc, danh, ăn, và ngủ, năm dục, năm dục nầy thông đạt đường vào địa ngục năm căn. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, cũng là năm dục, cũng không thể tham trước năm dục nầy, vì tham trước vào năm dục, cho nên nghe Kinh Pháp Hoa cũng chẳng minh bạch.

Người thế gian đều thích nghe âm thanh hay, ăn đồ ngon, ngủ nhiều. Trong Kinh Pháp Hoa nói: "Chớ tham năm dục nầy", chắc chắn họ sẽ không tin. Nếu người không tin thì sẽ hủy báng Kinh nầy, dứt mất tất cả hạt giống Phật thế gian. Dứt hạt giống Phật tức là sinh hạt giống địa ngục, tương lai sẽ đọa vào địa ngục. Cho nên chúng ta trước hết giảng Kinh Lăng Nghiêm, sau giảng Kinh Pháp Hoa. Vì người chẳng có căn tánh đại thừa, thì chẳng tin diệu lý thượng thừa trong Kinh Pháp Hoa.

Hoặc có người nhăn nhó
Mà ôm lòng nghi hoặc
Ông nên lóng nghe nói
Tội báo của người nầy.
Nếu Phật còn tại thế
Hoặc sau khi diệt độ
Nếu có người phỉ báng
Kinh điển như thế nầy.
Thấy có người đọc tụng
Biên chép và thọ trì
Bèn khinh khi ghét ghen
Mà ôm lòng kết hận.
Tội báo của người nầy
Nay ông nên lóng nghe
Khi người đó mạng chung
Đọa vào ngục A-tỳ.
Đầy đủ chẵn một kiếp
Hết kiếp rồi lại sinh
Cứ chuyển sinh như thế
Cho đến vô số kiếp.

"Hoặc có người nhăn nhó, mà ôm lòng nghi hoặc": Người tham trước năm dục, mà Kinh Pháp Hoa khuyên phải lìa năm dục, cho nên họ nghe pháp nầy mà chẳng vui, càng sinh nghi hoặc. Phật nói họ tương lai phải đọa vào địa ngục, thọ khổ vô lượng vô biên. Bất cứ Phật tại thế, hoặc sau khi diệt độ, nếu có kẻ phỉ báng Kinh Pháp Hoa, thấy người đọc tụng hoặc biên chép Kinh Pháp Hoa, bèn sinh tâm khinh khi ghen ghét đố kị, ôm ấp oán hận trong tâm. Tội báo của người nầy, nay ông hãy lóng nghe: Sau khi người đó mạng chung, phải đọa vào điạ ngục vô gián một đại kiếp, trải qua vô số kiếp mới ra khỏi địa ngục.

Từ trong địa ngục ra
Sẽ đọa làm súc sinh
Hoặc làm chó, dã can
Thân hình chúng gầy ốm.
Đen thui lại ghẻ lát
Bị người thường chọc ghẹo
Lại còn phải bị người
Nhờm gớm và khinh khi.
Thường bị khổ đói khát
Xương thịt đều khô héo
Lúc sống chịu khốn khổ
Chết bị ném ngói đá.
Vì dứt mất giống Phật
Nên chịu tội báo đó
Hoặc sinh làm lạc đà
Hoặc sinh vào loài lừa.
Thân thường mang chở nặng
Còn thêm bị đánh đập
Chỉ nhớ nước và cỏ
Ngoài ra chẳng biết gì.
phỉ báng Kinh điển
Mà mắc tội như thế.

Từ địa ngục ra, lại chuyển làm súc sinh, làm thân chó hoặc dã can. Dã can thuộc về loài chồn, ở nơi ven núi hoặc ở trên cây cao, ban ngày thì ẩn núp, ban đêm thì đi, đi thì kết thành bầy mà đi, dã can chỉ có một con mắt để nhìn, còn con mắt kia thì chẳng thấy, vì khinh miệt người khác đọc tụng hoặc biên chép Kinh Pháp Hoa, cho nên chỉ có một con mắt để nhìn. Thân hình ốm gầy như cây củi, thân lại mang bệnh ghẻ lát, phát ra mùi hôi thối, người mà thấy thì phải lánh xa. Dã canphỉ báng Phật, Pháp, Tăng, Kinh Pháp Hoa, cho nên trên thân có mùi thôi thối, trải qua nhiều đời mới sinh làm người, làm người cũng bị người chán nghét, thường bị đói khác, xương thịt khô héo, lúc sống thì chịu khổ như thế, khi chết đi thì bị người ném gạch ngói đá, vì họ phỉ báng Kinh Pháp Hoa, dứt mất hạt giống Phật mà sinh hạt giống địa ngục, cho nên chịu quả báo nầy. Hoặc sinh làm lạc đà hoặc lừa, thân thường mang chở nặng, bị người đánh đập, suốt ngày chỉ nhớ tưởng uống nước hoặc ăn cỏ, ngoài ra chẳng biết gì nữa, đều do phỉ báng Kinh, cho nên mắc tội như thế.

Có khi làm dã can
Đi vào trong xóm làng.
Thân thể bị ghẻ lát
Lại thiếu mất một mắt
Bị những đứa trẻ con
Đánh đập và liệng ném.
Chịu các sự thống khổ
Hoặc có khi phải chết
Sau khi bỏ thân nầy
Bèn thọ làm thân rắn.
Thân hình dài to lớn
Đến năm trăm do tuần
Ngây điếc chẳng có chân
Lăn lóc đi bằng bụng.
Bị các loài trùng nhỏ
Rúc rỉa ăn máu thịt
Ngày đêm chịu khổ sở
Chẳng có khi nào ngừng.
Bởi phỉ báng Kinh nầy
Mắc tội như vậy đó.

Dã can thuôc loài chồn, nhưng đa nghi hơn chồn, vì kiếp trước miệt thị người tụng đọc, lễ lạygiảng giải Kinh Pháp Hoa, cho nên sinh làm dã can. Dã can bị nghiệp chướng che đậy, nên thân thể nhiều bệnh tật và ghẻ lát, vào trong xóm làng tìm vật ăn, vì thiếu một mắt, nên bị trẻ con trong xóm liệng, ném đá. Hơn nữa, vì thân thể có ghẻ lát bị đánh thì càng đau đớn, thậm chí bị ném đá đến chết. Chết rồi lại đầu thai làm mãng xà, thân dài năm trăm do tuần. Mãng xà tuy có tai nhưng chẳng nghe được, lại còn ngu si, chẳng có chân, lăn lóc đi bằng bụng, có côn trùng nhỏ rúc rỉa bên trong, ăn uống máu thịt, ngày đêm chịu khổ, bởi vì phỉ báng Kinh nầy, nên mắc tội báo đó.

Nếu được sinh làm người
Các căn đều ám độn.
Lùn xấu lại lệch què
Đui điết thêm lưng gù
Có nói ra lời gì
Chẳng có ai tin nhận.
Hơi miệng thường hôi thối
Bị quỷ mị dựa nhập
Bần cùng rất hạ tiện
Thường bị người sai khiến.
Nhiều bệnh thân ốm gầy
Chẳng có chỗ nương nhờ.

Nếu thoát khỏi thân mãng xà, sinh làm thân người thì: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sáu căn của họ đều ám độn. Khả năng nhìn chẳng tốt, thính giác chẳng linh mẫn, lỗ mũi chẳng biết thơm thối, vị giác chẳng linh, thân thể xúc giác chẳng rõ ràng, ý niệm thì ngu si, thiếu trí huệ, hoặc tay chân thiếu khuyết, đó gọi là các căn ám độn. "Lùn" là thân thể thấp nhỏ, như quỷ Cưu bàn trà, bề dọc cũng bằng bề ngang, thân thể tướng mạo xấu xí, chân bị lệch què, chẳng duỗi ra đặng, hoặc là lưng khòm, hoặc mắt mù, tai điết, lưng cong. Loại người nầy, nếu nói ra điều gì đều chẳng ai tin, hơi miệng hôi thối, vì quá khứ phỉ báng Kinh Pháp Hoa, hoặc dạ dày có bệnh, nên miệng hôi thối. Có những người có luồng cương khí, hàng phục được thiên ma ngoại đạo, cũng có mùi vị nầy. Nếu thường tụng Kinh Pháp Hoa, thì trong miệng thường toả ra mùi thơm của hoa sen. Ai phỉ báng Kinh Pháp Hoa, thì bị quỷ mị dựa nhập, bần cùng hạ tiện, bị người sai khiến, nhiều bệnh tật gầy ốm, chẳng có chỗ để nương tựa.

Dù nương tựa gần người
Mà người chẳng để ý
Nếu học được điều gì
Thì bèn quên mất hết.
Nếu học làm nghề thuốc
Theo đúng pháp trị bệnh
Mà bệnh người nặng thêm
Hoặc có khi mất mạng.
Nếu mình có bệnh gì
Chẳng ai cứu chữa khỏi
Dù có uống thuốc hay
Mà bệnh lại thêm nặng.
Hoặc có người phản nghịch
Cướp giật trộm lấy của
Các tội lỗi như thế
Hoặc tự mang vạ lây.
Những người tội như thế
Vĩnh viễn chẳng thấy Phật
Là vua trong hàng Thánh
Thường nói pháp giáo hoá.
Những người tội như vậy
Thường sinh chỗ hoạn nạn
Tâm cuồng loạn tai điết
Vĩnh viễn chẳng nghe pháp.

Mặc dù xiểm nịnh đối với người, người cũng chẳng để ý đến. Nếu học Phật pháp, hoặc học thuộc lòng Kinh, thì hay quên mất. Nếu học về nghề thuốc, ngành y Trung Quốc có phân ra : Hàn, nhiệt, ôn, bình, và dùng : Vọng, văn, vấn, thiết, bốn thứ phương pháp để đoạn chứng. Vọng nhìn mà biết gọi là "thần", văn (nghe) mà biết gọi là "thánh", vấn (hỏi) mà biết gọi là "công", thiết (bắt) mạch mà biết gọi là "khéo". Mạch phân ra gồm có : Phù, trầm, thỉ, tốc, hoạt, tức, hư.

Có một câu chuyện, một ngày nọ, vua Diêm Vương bị bệnh, mới sai quỷ đi mời thầy thuốc đến để chữa bệnh. Quỷ hỏi : Mời thầy thuốc nào ? Vua Diêm Vương nói : Mời thầy thuốc mà ở trước cửa bệnh viện ít quỷ nhất. Quỷ đi tìm, thấy rất nhiều oan hồn quỷ ở trước cửa bệnh viện, nhưng có một bệnh viện trước cửa chỉ có hai con quỷ, bèn mời thầy thuốc ở trong bệnh viện đó, đến để trị bệnh cho vua Diêm Vương. Vua Diêm Vương hỏi ông ta làm thầy thuốc đã được bao lâu ? Ông ta đáp: Vừa mới bắt đầu làm nghề thầy thuốc. Bệnh viện nầy vừa bắt đầu chữa bệnh, thì đã chết hai người ! Vua Diêm Vương bèn từ chối, chẳng cho ông thầy thuốc nầy chữa bệnh, không cần ông ta khám bệnh, có thể thấy, nếu thầy thuốc dùng lầm thuốc, thì người sẽ mất mạng.
"Theo đúng pháp trị bệnh, mà bệnh càng thêm nặng, hoặc có khi mất mạng, nếu mình có bệnh gì, chẳng có ai chữa khỏi, dù có uống thuốc hay, mà bệnh lại càng thêm nặng". Hoặc gặp thời buổi nhiễu loạn. "Cướp giật trộm lấy của". Hoặc bị chính phủ tịch thu cướp giật hoặc bị trộm cướp, những tội lỗi như thế, hoặc bị mang vạ lây. Những người tội như thế, vĩnh viễn chẳng thấy được Phật. Phật là vua trong hàng Thánh, thường nói pháp giáo hóa, những người tội như vậy, thường sinh nơi hoạn nạn, tâm cuồng loạn tai điết, vĩnh viễn chẳng nghe pháp.

Ở trong vô số kiếp
Nhiều như cát sông Hằng
Sinh ra luôn câm điết
Các căn chẳng đầy đủ.
Thường ở nơi địa ngục
Như dạo xem công viên
Ở trong các đường ác
Như nhà cửa của mình.
Lạc đà, lừa, heo, chó
Thường đến những chỗ đó
Vì khinh chê kinh nầy
Mắc tội nặng như thế.
Nếu được sinh làm người
Thường đui điết câm ngọng
Bần cùng các tướng suy
Dùng để tự trang nghiêm.
Bệnh phù thủng khô khát
Ghẻ lát và ung thư
Các chứng bệnh như thế
Dùng làm y phục mặc.
Thân thể thường hôi thối
Dơ bẩn chẳng sạch sẽ
Chấp sâu nơi tướng ta
Tăng thêm tánh nóng giận.
dâm dục hẫy hừng
Chẳng chừa loài cầm thú
Vì khinh chê kinh nầy
Mà mắc tội như thế.

Có những người căn lành chẳng đủ, bị nghiệp chướng làm chướng ngại, nghe Kinh giây lát thì bỏ đi. Tôi thường nói:

"Khuyên bạn làm điều lành,
Bạn bảo chẳng có tiền, có cũng không.
Hoạn nạn xảy đến dùng ngàn vạn, không cũng có.
Nếu nghe Kinh nghe pháp, đi cũng bận,
Khi hơi thở chấm dứt xuống âm ti, bận cũng đi".

Nếu ai trong vô lượng kiếp đến nay, trồng xuống căn lành sâu dày, mới có thể nghe được Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Ngài đại sư Huệ Tư với đại sư Trí Giả, từng cùng nghe Kinh Pháp Hoa ở tại núi Linh Sơn, cho nên có duyên gặp nhau ở tại Trung Quốc. Các vị đang ngồi nghe Kinh, đều đã từng nghe Kinh Pháp Hoa ở trên hội Linh Sơn, chỉ vì lâu quá rồi quên đi, mà nay tôi vì các vị nói lại Kinh Pháp Hoa mà thôi.

Ở trong vô số kiếp, nhiều như số cát sông Hằng, sinh ra luôn câm điết, các căn chẳng đầy đủ, thường ở nơi địa ngục, như ở trong nhà cửa của mình, hoặc sinh làm : Lạc đà, lừa, heo, chó, tất cả cử chỉ hành động đều như các loài đó. Cho nên, ở Ấn Độ có những ngoại đạo giữ giới chó, giới bò, tức là kiếp trước đã từng khinh chê Kinh Pháp Hoa, cho nên dù sinh làm người, mà tựa như súc sinh. Ra khỏi địa ngục, súc sinh, mà được sinh làm người thì: Đui, điết, câm, ngọng, hoặc bị bần cùng, vì kiếp trước giàu có mà chẳng cúng dường Tam Bảo, cho nên đời nầy nghèo khổ, hoặc thường gặp nghịch cảnh.

Như có câu chuyện Khương Thái Công bán bột: Khương Thái Công là thừa tướng của Chu Văn Vương, là sư phụ của Chu Võ Vương. Khương Thái Công tức là Khương Tử Nha, vận khí chẳng tốt, vào triều đại nhà Ân thì làm quan, sau từ quan trở về làm thường dân bán bột và muối. Bán muối cũng chẳng có người mua, về sau bán bột, suốt ngày cũng chẳng có ai mua bột, đến tối mới có người đến mua, vừa lúc ông ta đang đong bột, thì tướng quân Hoàng Phi Hổ cởi ngựa đi qua đá đổ cái thúng bột, bột đổ xuống đường lộn lạo với cát bùn, bột càng bán chẳng được, bèn đi về nhà. Về đến nhà gõ cửa, chẳng ai đáp bèn dùng tay đập cửa thì bị ong chích. Thời vận của ông ta xui xẻo như thế ! Kiếp trước ông ta vốn là một con gấu, thấy một vị tu đạo tên là Ngọc Hư Công, vì biết vị nầy là bậc cao Tăng, cho nên quỳ ở trước cửa động suốt năm trăm năm để cầu đạo, xương cốt cũng thành cát bụi, chỉ vì cầu đạo, cho nên sau được sinh làm người, ông ta cũng từng hủy báng Tam Bảo. Ông Khương Thái Công có người thiếp chẳng hiền, nên thời vận chẳng tốt, vận mạng Khương Thái Công có thể nói là "các tướng đều suy".
"Dùng để tự trang nghiêm". Những chúng sinh nầy dùng bần cùng và các tướng suy để trang nghiêm chính mình. Thân thể bệnh phù thủng, khô mòn hoặc có ghẻ lát rất khó chịu vô cùng. "Ung thư" là chứng bệnh thuộc về ngoại chứng. Các chứng bệnh như thế, như y phục thường mặc trên thân. Thân thường tỏa ra mùi hôi thối, dơ bẩn chẳng sạch sẽ, chấp sâu nơi tướng ta, tánh nóng giận càng bạo phát, dâm dục hẫy hừng. Như danh tướng Niên Canh Nhiêu đời nhà Thanh, mỗi đêm phải có mười hai cô gái ngủ với ông ta, thậm chí cũng làm hạnh bất tịnh với ngựa, bò. Vì phỉ báng Kinh nầy, nên thọ quả báo như vậy.

Phật bảo Xá Lợi Phất
Người phỉ báng Kinh nầy
Nếu nói tội lỗi họ
Cùng kiếp chẳng hết được.
Do bởi nhân duyên
Ta thường bảo các ông
Đối với người vô trí
Đừng nên nói Kinh nầy.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất! Người phỉ báng Kinh Pháp Hoa, nếu muốn nói tỉ mỉ tội lỗi của họ, thì cùng kiếp nói chẳng hết được. Do bởi nhân duyên đó, cho nên bảo các ông, trước mặt những người chẳng có trí huệ, thì chớ nói Kinh nầy. Vì sao ? Nếu những người chẳng có trí huệ, nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì sẽ sinh tâm phỉ báng mà tạo tội, vì muốn cho họ tránh khỏi tạo tội thọ quả báo, cho nên đối với người chẳng có trí huệ đừng nói Kinh Pháp Hoa.
Tôi giảng Kinh Pháp Hoa tại Phật Giáo Giảng Đường, vì các vị có trí huệ. Nếu các vị chẳng có trí huệ, mà tôi giảng Kinh nầy cho quỶ vị, thì các vị sẽ chạy mất, đâu có ở lại chỗ nầy nghe Kinh. Thiện tri thức giảng Kinh thuyết pháp đối với bạn, trước hết nhận thức am tường về Kinh điển, kế tiếp tham thiền đả toạ. Tham thiền đả toạ cần phải có các sự trợ duyên, nếu không thì gặp cảnh giới mà chẳng nhận thức được, dễ sa vào cảnh giới ma, chưa đắc nói đã đắc, chưa chứng nói đã chứng, đó là nói dối, quả báu phải đọa địa ngục. Có người oán trách Phật nói Kinh Pháp Hoa, cho rằng nếu Phật không nói Kinh nầy, thì chẳng có ai vì phỉ báng Kinh nầy, mà đoạ điạ ngục. Cho nên đổ lỗi vì Phật nói Kinh nầy, nên người mới vì Kinh nầy phỉ báng mà đoạ điạ ngục. Song, đức Phật chẳng nói Kinh Pháp Hoa, thì cũng chẳng có ai thành Phật. Phật đã nói rất rõ ràng, ai phỉ báng Kinh nầy thì có tội, biết rõ có tội thì đừng phỉ báng Kinh nầy, đừng biết rõ mà cố phạm, không phỉ báng Kinh nầy, thì sẽ không đoạ điạ ngục. Những người phỉ báng Kinh đoạ vào ba đường ác, may có Bồ Tát Điạ Tạng vì họ thuyết pháp, cứu vớt ra khỏi đường ác, được sinh về cõi trời, hoặc cõi người, còn người căn lành sâu dày, do nghe Kinh Pháp Hoa mà sớm thành Phật.

Nếu có người lợi căn
trí huệ sáng suốt
Học rộng trí nhớ tốt
Tâm mong cầu Phật đạo.
Những hạng người như thế
Mới nên vì họ nói
Nếu người đã từng thấy
Trăm nghìn ức vị Phật.
Trồng các gốc căn lành
Thâm tâm rất bền vững
Những hạng người như thế
Mới nên vì họ nói.
Nếu có người tinh tấn
Thường tu tâm từ bi
Chẳng hề tiếc thân mạng
Mới nên vì họ nói.

Phật nói những người phỉ báng Kinh Pháp Hoa, sẽ bị quả báo đọa địa ngục, là một cửa đại bi. Cho nên, không những không nên mở miệng phỉ báng Kinh Pháp Hoa, mà trong tâm dù một ý niệm phỉ báng Kinh cũng không thể sinh ra.
Nếu có người lợi căn, tức là tin sâu sắc chẳng nghi, những người đó đều là những người học rộng trí nhớ tốt, có tâm cầu Phật đạo, những hạng người như thế, mới nên vì họ nói Kinh Pháp Hoa, nếu có người ở trong quá khứ, đã từng gặp trăm ngàn ức vị Phật, trồng các căn lành, những người đó trong quá khứ, đã từng cúng dường Tam Bảo.
Người cúng dường Tam Bảo, nên một lòng cúng dường Phật, Pháp, Tăng, Tam Bảo, đừng sinh tâm phân biệt. Trồng căn lành sẽ phát sinh trí huệ Bát Nhã, có tâm kiên cố, những hạng người như thế, mới nên vì họ nói, nếu có người tinh tấn, thường tu tâm từ bi. Tâm từ bi mới không thấy lỗi chúng sinh, dù thấy họ có lỗi, cũng dùng từ bi đối đãi, chẳng tiếc thân mạng, mới nên vì họ nói.

Nếu có người cung kính
Chẳng sinh lòng khác biệt
Lìa xa các phàm ngu
Ở riêng trong núi đầm.
Những hạng người như thế
Mới nên vì họ nói
Lại nữa, Xá Lợi Phất !
Nếu thấy có người nào.
Rời bỏ ác tri thức
Gần gũi những bạn hiền
Những hạng người như thế
Mới nên vì họ nói.
Nếu thấy có Phật tử
Giữ gìn giới trong sạch
Như hạt châu sáng sạch
Ham cầu Kinh đại thừa.
Những hạng người như thế
Mới nên vì họ nói
Nếu người chẳng nóng giận
Chất trực và diệu hòa.
Thường thương xót hết thảy
Cung kính các đức Phật
Những hạng người như thế
Mới nên vì họ nói.

"Nếu có người cung kính, chẳng sinh lòng khác biệt": Có những người nghe Kinh rồi, bên ngoài biểu hiện cung kính tiếp thọ, nhưng bên trong khởi tâm nghi ngờ đối với vị pháp sư, nghĩ: "Những gì pháp sư này nói có đáng tin chăng ? Ta có bị lừa chăng" ? Người có trí huệ chân chánh, sẽ không bị lừa gạt, còn người chẳng có trí huệ, thì thường sợ người lừa gạt họ, song cuối cùng cũng vẫn bị lừa. Nếu gặp người cung kính mà chẳng sinh lòng khác biệt, xa lìa các phàm ngu, ở riêng trong núi đầm, những hạng người như thế, mới nên vì họ nói Kinh nầy.
Đức Phật lại bảo tôn giả Xá Lợi Phất ! Nếu thấy có người lìa bỏ ác tri thức, mà gần gũi bạn hiền, những hạng người như thế, mới nên vì họ nói Kinh nầy. Nếu thấy có người giữ gìn giới thanh tịnh trong sáng như hạt châu, ham cầu Kinh đại thừa, những người như thế, nên vì họ nói Kinh nầy. Những hạng người ở trên biết hối cải, cho nên có thể vì họ mà nói Kinh nầy.
Nếu gặp người chẳng có tâm sân hận, ai hay lìa bỏ tâm nóng giận, cũng sẽ lìa được tâm tham và tâm si, những người nầy bản tánh chất trực dịu hòa, thường có lòng thương tất cả, cung kính các Đức Phật, những hạng người như thế, mới nên vì họ nói Kinh nầy. Có những người chẳng biết cung kính lễ bái đối với Phật, Phật là cha lành của tất cả chúng sinh, cho nên chúng ta nên cung kính, không những lễ lạy đối với Phật, mà cũng phải đảnh lễ đối vớ các vị Tăng tu trì Phật pháp, cung kính Tam Bảo, cho nên nói "Cung kính các đức Phật".

Lại có các Phật tử
Ở trong các đại chúng
Thuần dùng tâm thanh tịnh
Đủ thứ các nhân duyên.
Ví dụ và lời lẽ
Nói pháp không chướng ngại
Những hạng người như thế
Mới nên vì họ nói.


Năm giới là: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, nếu giữ được năm giới nầy, thì sẽ được sinh làm người. Nếu tu mười điều lành, thì được sinh về cõi trời. Trồng nhân lành thì được quả lành, trồng nhân ác thì được quả ác. Trồng nhân thế nào, thì được qủa thế ấy, cho nên phải cẩn thận nhân quả.

Nếu có vị Tỳ Kheo
Vì cầu Nhất thiết trí
Cầu pháp khắp bốn phương
Chắp tay đảnh lễ thọ.
Chỉ vui thích thọ trì
Các Kinh điển đại thừa
Cho đến chẳng thọ trì
Một bài kệ Kinh khác.
Những hạng người như thế
Mới nên vì họ nói
Như có người chí tâm
Cầu xá lợi của Phật.
Cầu Kinh cũng như thế
Được rồi đảnh lễ thọ
Người đó lại chẳng có
Chí cầu các Kinh khác.
Cũng chưa từng nghĩ nhớ
Kinh điển của ngoại đạo
Những hạng người như thế
Nên vì họ mà nói.

Tỳ kheo là tiếng Phạn, có ba ý nghĩa:
1. Khất sĩ.
2. Bố ma.
3. Sát tặc.

Tỳ kheo đi cầu pháp khắp bốn phương, được Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Kim Cang, các Kinh điển đại thừa, chuyên tu những Kinh nầy, chí tâm đảnh lễ thọ trì, mà bỏ những Kinh khác, những hạng người như thế, mới có thể vì họ nói Kinh nầy.

Phật bảo Xá Lợi Phất !
Ta nói các sự tướng
Của người cầu Phật đạo
Cùng kiếp chẳng hết được.
Hết thảy những người đó
Tức có thể tin hiểu
Ông nên vì họ nói
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Phật bảo Tôn GiXá Lợi Phất! Mười hạng người cầu Phật đạo ở trên, cùng kiếp nói cũng chẳng hết được, cho nên phải vì những người đó, nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Có những người lại sinh ra nghi hoặc: Trong Kinh Hoa Nghiêm có nói: Chấp vào một Kinh cho là chánh quyết, mà chỉ các Kinh khác là hư cấu, đó là lối đi của ma, mà nay Kinh Pháp Hoa khiến cho người thọ trì một Kinh, đó chẳng phải là mâu thuẫn chăng ? Ý của Kinh Pháp Hoa nói là : Nếu sức của bạn thọ trì được một Kinh, thì thọ trì một Kinh, còn nếu có thể thọ trì được nhiều Kinh điển thì càng tốt, cho nên đừng chấp trước, nên linh hoạt biến thông.

 

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
14/06/2010(Xem: 57407)
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?