KINH DIỆU
PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN
Đại Sư Khuy Cơ biên
soạn – Việt dịch: Cố Hòa thượng Thích Chân Thường
Biên soạn: Giáo
sư Trương Đình Nguyên – Tu chỉnh và hiệu đính: Tỳ kheo: Thích Đồng Bổn
Nhà Xuất Bản Tôn
Giáo, Hà Nội 2005
QUYỂN THỨ BẢY (PHẦN
TRƯỚC)
Sa môn KHUY CƠ,
chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn.
PHẨM TÍN GIẢI
PHẦN CUỐI : KỆ KÝ
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Ma Ha Ca Diếp” tới “chẳng cầu mà tự được”.
Tán rằng : trong
văn trường hàng thì cả bốn người cùng lĩnh ngộ, trong tụng chỉ riêng một mình
Ca Diếp, vì là người lớn tuổi nhất. Kể về ý mọi người, nên trong phần tụng thuyết
cũng gián tiếp làm nổi bật các người khác.
Dưới có 86 tụng
rưỡi, chia làm hai phần :
• Phần đầu là 73
tụng rưỡi, tụng về ba đoạn văn trước.
• Phần sau gồm 13
tụng : Từ “Ơn lớn của Thế tôn” trở xuống, thuộc về đoạn thứ ba trong phẩm, nói
về việc “đội ơn sâu của Phật”.
Phần đầu có ba
đoạn :
- 2 tụng,
tụng về Pháp thuyết.
- 41 tụng,
tụng về Dụ thuyết.
- 30 tụng
rưỡi, tụng về Hợp thuyết.
Đây là đoạn đầu.
Chẳng tụng về ý
“ngày xưa chẳng cầu”, chỉ tụng về ý “ngày nay thu được”.
+ 1 tụng rưỡi đầu,
tụng về hai việc nghe pháp, nghe ký.
+ Nửa tụng sau,
tụng về ý thu hoạch được.
*
-Kinh văn : “Ví như chú đồng tử,
Thơ bé không hiểu biết”.
Tán rằng : dưới là
đoạn hai gồm 41 tụng, tụng về dụ thuyết trong đó chia làm hai phần :
• Phần đầu gồm 34
tụng, tụng về ý “ngày xưa chẳng cầu”.
• Phần sau gồm 7
tụng, tụng về ý “ngày nay thu được”.
Trong phần đầu có
6 mục :
- Nửa tụng đầu là
Dụ về tối sơ phát tâm.
- 1 tụng về Dụ
“thoái lưu sinh tử”.
- 7 tụng về Dụ
“nửa chừng quay về gặp Phật”.
- 14 tụng về Dụ
“chẳng chịu tu Đại thừa”.
- 9 tụng rưỡi nói
về Dụ “dùng nhị thừa mà giáo hóa”.
- 2 tụng rưỡi là
Dụ nói về ý “khai thị cho đại thừa mà chẳng mong cầu”.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Bỏ
cha mà trốn biệt” tới
“Hơn năm mươi năm dài”.
Tán rằng : đây là
mục thứ hai : là Dụ về “thoái lưu sinh tử”.
“Châu lưu” : có
nghĩa là đi khắp, chu đi khắp.
“Các nước” : ví
với năm nẻo (ngũ thú), gọi chung là “nước khác” (tha quốc).
*
-Kinh văn : “Cha
hắn lòng lo buồn” tới
“Dừng lại ở một thành”.
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ ba có 7 tụng, là Dụ về “nửa đường quay về gặp Phật”.
Trường hàng có ba
ý :
a) Con khôn lớn về
nước.
b) Cha trước đó đã
tìm con.
c) Con gặp cha ở
thành.
Nay đây chỉ tụng
về ý “cha trước đó đã tìm con”, còn hai ý khác chẳng tụng, bởi vì văn đã nhập
vào đoạn bốn cho ổn tiện. Trong này có bốn ý :
- 1 tụng : tìm
con, dừng chân tại thành.
- 2 tụng rưỡi :
tiền của rất nhiều.
- 1 tụng : nguồn
lợi của khách (lái buôn) rất to lớn.
- 2 tụng rưỡi :
người qua lại đông.
Đây là ý
đầu.
“Tìm khắp bốn
phương” : ý nói theo vào bốn loại chúng sinh (tứ sinh) để tìm con.
“Mệt mỏi” : chỉ sự
vất vả, nói về tướng tìm con.
“Đốn” : có nghĩa
là dừng, dừng chân ở thành lớn.
*
-Kinh văn : “Xây
dựng nên nhà cửa” tới
“Nhân dân rất đông đúc”.
Tán rằng : đây là
mục thứ hai, nói về của cải rất nhiều.
“Tạo trạch” (xây
dựng nhà cửa) : ví với khởi tâm từ bi.
“Lập xá” (dựng
nhà) : ví với việc hiển lộ thắng nghĩa của lý Không. Hoặc là “tạo” có nghĩa là
“khởi” ; “trạch” tức là “xá”, ví với tâm từ bi.
“Năm dục” : chỉ
năm thứ khoái lạc hoặc chỉ năm pháp tịnh pháp giới v.v…
* Chữ Ngu, nghĩa
như chữ Lạc, nghĩa là vui.
“Kiệu” (liễn) :
chỉ chân đế, chỉ riêng Pháp vương sử dụng.
“Xe” (dư) : chỉ
tục đế, mọi người cùng sử dụng, vì có sự hơn kém khác nhau.
“Xe cộ” (xa thừa)
: ví với ngũ thừa.
“Ruộng nương cơ nghiệp”
(điền nghiệp) : ví với trí đoạn.
Ý nghĩa các lời
văn khác có thể biết được.
*
-Kinh văn : “Việc
xuất nhập lợi tức” tới
“Ở chỗ nào cũng có”.
Tán rằng đây là
mục thứ ba, nói về mối lợi của khách : buôn rất to lớn.
* “Thương” nghĩa
như “Cổ”, chỉ người làm nghề buôn bán. Làm cho những thứ quí báu kỳ lạ của bốn
phương được lưu thông thì gọi là Thương. Ngồi một chỗ mà bán hàng thì gọi là
Cổ. Còn Cô [估] thì chỉ thuế chợ. Đi bán hàng rong thì
gọi là Thương, ngồi một chỗ mà bán thì gọi là Cổ. “Khách” thì chỉ chung cả hai
loại nói trên.
Qua lại sáu nẻo để
làm lợi cho chúng sinh thì ví với “Thương”. Trụ ở cõi tịnh độ, cõi người, cõi
trời để giáo hóa chúng sinh thì ví với “Cổ”. Đi khắp ba cõi để làm lợi cho
chúng sinh, ví như người buôn bán đi khắp chợ búa để làm ra nhiều lời lãi, tạo
ra nhiều thuế chợ, người buôn bán cùng chợ búa đều được lợi to lớn, cho nên
khắp cả ba cõi đều có Phật pháp. Đó gọi là “Ở chỗ nào cũng có”.
*
-Kinh văn : “Đông
ngàn vạn ức người” tới
“Có thế lực rất lớn”.
Tán rằng đây là
mục thứ tư “người qua lại đông”. :
Vì bậc vua chúa
thì yêu quí tưởng nhớ, bậc nhân vương thì tôn kính, hào tộc thì tôn trọng, thần
dân thì tôn sùng. Do nhân duyên này mà bốn chúng, tám bộ kẻ qua người lại rất
đông.
*
-Kinh văn : “Mà
tuổi tác già nua” tới
“Nên làm thế nào đây ?”.
Tán rằng dưới là
đoạn thứ tư nói về ý “chẳng chịu : tu đại thừa”, có 14 tụng chia làm 4 phần :
- 2 tụng nói về :
“cha thường nhớ con”.
- 9 tụng : “con nhìn
thấy cha, sợ hãi bỏ chạy”.
- 1 tụng rưỡi :
“cha sai người cấp tốc bắt lấy”.
- 1 tụng rưỡi :
“con bèn lo sợ”.
Đây là phần đầu.
“Tuổi già càng nhớ
con” : ví với đạo lâu thì lòng từ bi càng sâu sắc.
“Ngày đêm luôn
nghĩ nhớ” : ví với 6 phép phản quán, hoặc là ngày đêm 6 thời đếu soi lại
mình.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ người con khổ” tới
“Hoặc không được gì cả”.
Tán rằng đây là
phần thứ hai, có 9 tụng nói về “con trông : thấy (cha) bèn sợ hãi bỏ chạy”.
Trong lại có ba
phần :
• 3 tụng đầu, nói
về việc người con gặp cha ở nhà cha.
• 2 tụng rưỡi kế,
nói về tướng cha mà con nhìn thấy.
• 3 tụng rưỡi
cuối, nói về việc người con nhìn thấy rồi sợ hãi bỏ chạy.
Trong phần đầu lại
có hai đoạn nhỏ :
- 1 tụng rưỡi đầu
: nói về việc (người con) “đi lang thang để kiếm (ăn)” (du cầu).
- 1 tụng rưỡi sau
: nói về việc (người con) “khốn đốn mới tới” (khốn đáo).
Đây là đoạn
đầu.
* Chữ [索] có hai âm Sách và Tác : có nghĩa là “ăn xin”, cũng có nghĩa là
“cầu cạnh”.
Nghĩa của “quốc,
ấp”, trong văn trường hàng đã giải thích rồi.
“Có điều sở đắc” :
dụ cho việc gặp được bạn tốt chân thực trong Phật pháp.
“Không được gì cả”
: ví với gặp bạn xấu giả dối.
*
-Kinh văn : “Đói
lả dáng gầy còm” tới
“bèn tới chỗ nhà cha”.
Tán rằng đây là
mục nói về (người con) khốn đốn mới : tới chỗ nhà cha.
Pháp thực chẳng
đủ, cho nên “đói”. Diệu hạnh chẳng viên mãn, cho nên “gầy”.
Hoặc khởi ác kiến,
làm hư hại nặng, đó gọi là “sinh ra ung nhọt”. Chẳng kiên trì giới, làm hư hại
nhẹ, đó gọi là “sinh ghẻ lở”. Đó là dụ cho việc nảy ra kiến giải sằng bậy,
chẳng một mực trì giới.
“Tới thành cha ở”
: chỉ việc ngộ nhập đại thừa.
“Lần hồi làm thuê
làm mướn” : ví với việc siêng năng để cầu pháp.
“Tới chỗ nhà cha”
: chỉ việc nhập trung đạo đại thừa.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ ông trưởng giả” tới
“Và chú ký khoán sớ”.
Tán rằng : đây là
phần hai nói về “hình tướng của cha mà con nhìn thấy”.
“Trong cửa” : chỉ
lý ở trong giáo, quả ở trong nhân. Xưa hướng về sinh tử, gọi là ở ngoài cửa.
Nay hướng về Niết bàn, cho nên gọi là “ở trong cửa”.
“Tính toán vàng
bạc v.v…” : dụ cho việc các thánh làm.
Luận phân tích :
liệt kê đánh giá các pháp có công năng trợ giúp cho việc thành tựu Phật đạo
(Pháp thánh tài).
“Xuất nạp các tài
sản” : chỉ việc vận dụng, thực hành nhị lợi (tự lợi, lợi tha).
“Chú ký khoán sớ”
: chỉ việc các thầy viết chú thích (kinh điển), biên soạn văn ký.
* “Chú” [注] là “chú ký” : là ghi chú, ghi nhận, ghi chép. Theo Thiết Vận chữ
[注] đọc là Chú, có nghĩa là nước rót vào. Chẳng phải nghĩa gốc
là “chú ký”.
Sách Quảng Nhã
cũng đọc là Chú, có nghĩa là “chú sớ” tức là ghi chú , giải thích, chú thích.
Thông Tục văn giải
thích : ghi chép sự vật thì gọi là Chú. Nay cũng viết là [注].
*
-Kinh văn : “Người
con khổ gặp cha” tới
“Cớ sao lại tới đây ?”.
Tán rằng đây là
mục ba : thấy (cha) rồi thì bỏ chạy. Chia : làm hai phần :
• Phần đầu là 1
tụng rưỡi, nói (người con) hối hận vì đã tới.
• Phần sau là 2
tụng, nói về (người con) bỏ chạy.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Lại
thầm tự nghĩ rằng” tới
“Muốn đến đó làm thuê”.
Tán rằng đây là
nói về người con bỏ chạy. :
Lo sợ bị bắt
buộc thúc ép phải làm, cho nên vội chạy đi.
*
-Kinh văn :
“Trưởng giả lúc bấy giờ” tới
“đuổi bắt đem trở lại”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ ba nói về việc cha sai bắt gấp.
“Lẳng lặng mà nhận
ra” : chưa từng nói với mọi người rằng Thanh văn trước kia đã gặp ta, là con
của ta, đó gọi là “lẳng lặng mà nhận ra”.
*
-Kinh văn : “Người
con khổ sợ kêu” tới
“khiến tôi đến thế này !”.
Tán rằng đây là
đoạn thứ tư nói về việc người con bèn : lo sợ.
Lùi khỏi đại thừa
chẳng tu, lại trụ trong vòng sinh tử, đó gọi là “ngất lăn ra đất”.
Nếu tu hành hạnh
đại thừa, thì trái với bản ý sở cầu, chẳng khác gì chết cho nên gọi là “ắt sẽ
bị giết”,.
“Cần gì đến cơm
áo” : “cơm áo” dụ cho đại thừa vô lậu.
“Khiến tôi đến thế
này !” : một khi đến nỗi như vậy !
*
-Kinh văn :
“Trưởng giả biết con mình” tới
“Hạng người không uy đức”.
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ năm, có 9 tụng rưỡi là dụ về việc giáo hóa bằng nhị thừa.
Trường hàng có 6
mục. Ở đây có 4 mục, chẳng tụng 2 mục đầu.
• 3 tụng đầu : khiến
tu Giải thoát phần.
• 1 tụng kế : “con
bèn làm theo”.
• 4 tụng rưỡi tiếp
: “khuyên con nhập thiện căn”.
• 1 tụng cuối :
“con bèn thành thánh vị”.
Trong mục đầu lại
có 2 phần :
- 2 tụng đầu : cha
sai sứ giả.
- 1 tụng sau :
truyền lại lời cha.
Đây là phần
đầu.
“Ngu si” : là chỉ
Vô minh, “hẹp kém” : thì ý ít, “chột mắt” : thì nhìn chẳng chính xác.
* Thuyết Văn giải
thích chữ Diêu [ ] : là “thiếu một mắt”. Tròng mắt hõm
lép thì gọi là chột (diêu).
Chữ Diêu còn có
nghĩa là nhỏ (tiểu). Vì nhị thừa thuyết an lập đế giáo, có thể giải thích nghĩa
lý nhưng chẳng viên mãn nên ví với “chột mắt”.
Lý sinh không mà
nhị thừa giải thích còn thiếu sót, nên gọi là “lùn”.
Xấu, vì không có
đức pháp thân, nên gọi là “thô” (lậu).
Thần dụng chẳng
rộng, nên gọi là “không có uy đức”.
*
-Kinh văn : “Các
ngươi nên bảo nó” tới
“Cho ngươi giá gấp bội”.
Tán rằng đây là
mục “truyền lời”. :
*
-Kinh văn : “Người
con nghèo nghe rồi” tới
“Và tịnh các phòng xá”.
Tán rằng đây là
mục hai : “con bèn làm theo”. :
“Trừ phân uế” :
trừ phiền não, “tịnh các phòng xá” : tịnh nhà ngũ uẩn.
*
-Kinh văn :
“Trưởng giả từ cửa sổ” tới
“Thích làm việc hèn hạ”.
Tán rằng đây là
mục ba, có 4 tụng rưỡi : “khuyên nhập : thiện căn”.
Trường hàng có 3
phần, đây cũng có 3 phần :
- 1 tụng : trong
lòng thương xót.
- 1 tụng : thân
thể gần gũi.
- 2 tụng rưỡi :
cùng trò chuyện.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn :
“Thế là ông trưởng giả” tới
“Đi tới chỗ con làm”.
Tán rằng đây là
thân thể gần gũi. :
*
-Kinh văn :
“Phương tiện lần gần gũi” tới
“Như con đẻ của ta”.
Tán rằng dưới cùng
là mục “cùng trò chuyện”. :
Trường hàng có
hai, đây cũng có hai :
- Nửa tụng : trò
chuyện chung chung để động viên khuyến khích.
- 2 tụng : trò
chuyện riêng biệt để giáo hóa, khai thị.
Văn sau có hai
phần :
+ 1 tụng rưỡi đầu
: “cần gì cho nấy”.
+ Nửa tụng sau :
“giả xưng cha con”.
Mục a “cần gì cho nấy” :
“Dầu bôi chân” :
dân thường ở Tây phương có lệ phần nhiều đi chân đất, thời ấy nóng nực bụi bặm
bám vào, tới nơi rồi ắt phải rửa chân rồi lấy dầu bôi chân.
Nay gọi là “túc”
(chân), tức là Tứ thần túc gồm : Dục, Cần, Tâm, Quán.
“Dầu” (du) : ví
với Bát đoạn hạnh, tức là Dục, Tinh tiến, Tín, Khinh an, Chính niệm, Chính tri,
Tư, Xả.
Ba hạnh đầu là Gia
hạnh.
- Khinh an :
nhiếp thụ thân tâm.
- Chính niệm,
chính tri : là kế thuộc, vì chẳng quên sở duyên, an tâm một cảnh.
- Nếu tâm buông
lung (phóng dật) nảy sinh, thì biết rõ đúng như thực, cho nên Tư và Xả là đối
trị.
Nhờ hai loại lực :
sách tâm và trì tâm, nên các thứ hôn trầm, trạo cử đã nảy sinh, đều có thể xa
lìa được, đó gọi là “dầu bôi chân”, vì giống như việc trừ khử bệnh phong tê;
đoạn trừ chướng nhiễm vậy.
Hoặc là “chân”
(túc) : dụ cho giới, “dầu” : ví với lục chi :
1) Thụ học học
xứ.
2) Khéo hay phòng
hộ.
3) Biệt giải thoát
luật nghi.
4) Việc thi hành
quĩ tắc đều đầy đủ viên mãn.
5) Thấy tội nhỏ
nhặt thì rất sợ hãi.
6) Bồi dưỡng giới
hạnh.
Pháp thực đã sung
túc, đó gọi là “đồ ăn uống đầy đủ” (ẩm thực sung túc túc).
Không tham sân si
thì (ví như) “chiếu đệm dày”.
Kinh Vô Cấu Xưng
nói rằng : “Bốn tĩnh lự là giường. Tịnh mệnh là đệm”. Vì tịnh mệnh là hai
nghiệp thân ngữ do không tham khởi lên. Lấy không tham làm “chiếu” vậy. Chiếu là
thứ trải dưới đệm, trên giường.
* Chữ [薦] đọc là Tiến : nghĩa như Tịch [席], nghĩa là cái chiếu.
Sách Ngọc Thiên giải thích : “Tiến” là cỏ cho thú ăn, cũng có nghĩa là chiếu
trải giường. Bởi vậy Tiến [薦], Tạ [藉], Tịch [席] đều có nghĩa là chiếu. Theo sách Ngọc
Thiên chữ Tịch [席] còn có nghĩa là rộng lớn đông đúc. Sách
Thiết Vận viết là [蓆].
Mục a “Giả xưng cha con”
:
“Lại dùng lời dịu
ngọt : như con đẻ của ta”.
“Nhược” : nghĩa là
như, như con thật nhập thánh của ta.
Đây chính là trước
Kiến đạo vậy.
*
-Kinh văn : “Ông
trưởng giả có trí” tới
“chấp tác các việc nhà”.
Tán rằng đây là
mục bốn : “con bèn thành thánh vị”. :
Trong văn chỉ có
hạng Vô học dần khiến xuất nhập và tỏ rõ tu đạo. “Trong 20 năm” thường làm tốt
công việc dọn phân, đó gọi là “chấp tác các việc nhà”.
Qua đó về sau, tâm
tướng thể tín nhập xuất không khó. Song chốn con dừng vẫn tại bản xứ. Chỉ thể
hiện là “Kiến đạo”, nên gọi là Con, vì trong văn có sự tỉnh lược.
*
-Kinh văn : “Chỉ
cho xem vàng bạc” tới
“Tôi không có vật này”.
Tán rằng đây là Dụ
thuyết về việc Phật khai thị đại : thừa, mà (đệ tử) chẳng
mong cầu.
Hai lợi của đại
thừa tuy đã khiến biết rõ, đó gọi là “xuất nhập”, nhưng “vẫn ở ngoài cửa”, có
nghĩa là ngoài nhân môn của Giáo Hạnh đại thừa.
“Dừng ở nơi lều
cỏ” : ví với việc trụ ở nhị thừa.
* Chữ [庵] âm đọc là Am, là lều cỏ. Có bản viết là [菴]. Song chữ này chỉ tranh lợp lều, chứ chẳng chỉ nhà.
“Tự nghĩ mình
nghèo khó”, không có phận có được sự nghiệp đại thừa, không hề có một ý hy vọng
nào, nên chẳng cầu đại thừa.
*
-Kinh văn : “Cha
biết lòng của con” tới
“Hàng Sát lợi, cư sĩ”.
Tán rằng dưới là
đoạn lớn thứ hai, có 7 tụng nói rõ : “ngày nay thu hoạch được”.
Trong dụ trên có
hai :
- 5 tụng đầu : cha
giao phó cho con.
- 2 tụng sau : con
thu hoạch được.
Phần đầu lại có
hai :
+ 1 tụng rưỡi đầu
: biết rõ thời cơ, tập hợp
thân tộc.
+ 3 tụng rưỡi sau
: chính thức giao phó cho
việc
nhà.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Ở
trước đại chúng này” tới
“Mặc sức nó sử dụng”.
Tán rằng dưới là 3
tụng rưỡi, nói về việc người cha : chính thức giao phó việc nhà cho con.
Có 5 phần :
1) Nửa tụng đầu :
bắt đầu bảo phát tâm.
2) Nửa tụng :
thoái lưu sinh tử.
3) Nửa tụng : giáo
hóa bằng nhị thừa. Hoặc tại cõi người, cõi trời, căn cơ của con vừa mới thành
thục. Hoặc là tại hai đạo Gia hạnh và Vô gián. Hoặc là lúc ở hai địa vị đoạn
Ngũ hạ phần kết và Ngũ thượng phần kết.
Cho nên nói : “gặp
con đã 20 năm”. Hoặc nói “Đắc quả Hữu học và quả Vô học”.
4) Một tụng : xưa
thoái đại thừa, nay được gặp gỡ, vì căn cơ chín muồi.
5) Một tụng :
chính thức giao phó.
*
-Kinh văn : “Người
con nhớ xưa nghèo” tới
“Được thứ chưa từng có”.
Tán rằng đây là
mục “con thu hoạch được”. :
Công đức hữu vi,
đó gọi là “châu báu”.
Chân như Vô vi,
tâm từ bi v.v… đó gọi là “nhà cửa”.
Thêm nữa, Thức đạt
bản thức sẽ thành Kính trí. Cũng biết rằng, hết thảy chúng sinh ba cõi đều là
nhà cửa của mình và được tài vật báu, nên sinh hoan hỉ.
*
-Kinh văn : “Đức
Phật cũng như vậy” tới
“Là đệ tử Thanh văn”.
Tán rằng dưới là
đoạn lớn thứ ba, có 30 tụng rưỡi, : tụng về Hợp thuyết.
Trong chia làm 2
phần :
- 22 tụng rưỡi
đầu, tụng về hợp thuyết “xưa chẳng hy vọng (đại thừa)”.
- 10 tụng sau,
tụng về hợp thuyết “nay thu hoạch được”.
Trong hợp thuyết
đầu, trường hàng có 5 tụng, chẳng hợp thuyết về “nửa chừng quay về gặp
Phật”.
Nay trong tụng này
chỉ tụng về hợp thuyết “Phật khai thị đại thừa, mà đệ tử chẳng hy vọng”. Còn
các phần khác thì lược đi chẳng tụng.
Trong văn trường
hàng trước, mục “khai thị đại thừa, mà chẳng hy vọng” có ba ý, nay ở đây cũng thế
:
a) 2 tụng đầu,
tụng về ý “ban đầu biết tôi ưa thích tiểu thừa, Phật chẳng nói tôi sẽ được
thành Phật, cho nên tôi chẳng hy vọng đại thừa”.
b) 8 tụng sau,
tụng về ý thứ ba “chỉ thuyết cho Bồ tát, chẳng chính thức thuyết cho tôi, nên
tôi chẳng hy vọng”.
c) 10 tụng rưỡi
cuối, tụng ý thứ hai “tự được Niết bàn cho là đã đầy đủ, nên chẳng mong cầu đại
thừa”.
Đây là ý đầu :
“Phật chưa từng thuyết rằng : các ngươi sẽ làm Phật”. Chúng tôi cũng có phần
trong diệu trí của Phật, “mà chỉ nói chúng tôi được các đức Vô lậu, là đệ tử
Thanh văn”, cho nên tôi chẳng hy vọng vào đại thừa.
*
-Kinh văn : “Phật
lệnh cho chúng tôi” tới
“Rồi sẽ được thành Phật”.
Tán rằng dưới đây
có 8 tụng, tụng về ý thứ ba “Phật : chỉ thuyết cho Bồ tát, chẳng chính thức thuyết
cho tôi, nên tôi chẳng hy vọng”.
Trong đây có 6
phần :
1) Một tụng :
“Phật ra lệnh”.
2) Một tụng rưỡi :
“tôi theo lời Phật dạy”.
3) Một tụng :
“người khác theo lời tôi.
4) Một tụng :
“Phật thụ ký cho người khác”.
5) Một tụng rưỡi :
“Phật chính là thuyết cho Bồ tát, chứ chẳng thuyết cho tôi”.
6) Hai tụng cuối
cùng : kết luận về cả hai Pháp và Dụ.
Đây là phần
đầu : Phật gia trì ba nghiệp, bí mật ra lệnh sai thuyết các kinh Bát Nhã v.v…
*
-Kinh văn : “Tôi
vâng lời Phật dạy” tới
“Thuyết về đạo Vô thượng”.
Tán rằng : đây là
phần thứ hai : “tôi theo lời Phật dạy”.
*
-Kinh văn : “Các
hàng Phật tử thảy” tới
“Tinh cần siêng tu tập”.
Tán rằng đây là
phần thứ ba : “người khác theo lời tôi”. :
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ các đức Phật” tới
“Rồi sẽ được thành Phật”.
Tán rằng đây là
phần thứ tư : “Phật thụ ký cho người : khác”.
Nói “Chư Phật”, có
nghĩa là nêu bật hết thảy Phật pháp đều như nhau, cho nên chẳng riêng gì một vị
Phật (Thích Ca), ngài cũng là bậc thời quá khứ đã từng thụ hóa ở nơi các Phật
khác. Nếu chẳng phải thế thì một Phật làm sao có thể nói là Chư (Phật) được ?
Cho nên trước đã nói rằng “đã từng theo chư Phật, được nghe (các ngài)
phương tiện thuyết pháp”.
*
-Kinh văn : “Hết
thảy chư Phật thuyết” tới
“Thuyết pháp chân yếu này”.
Tán rằng đây là
phần thứ năm : “chính là thuyết cho Bồ : tát, chứ chẳng thuyết cho tôi, nên tôi chẳng
hy vọng”.
*
-Kinh văn : “Như
người con khổ kia” tới
“Cũng lại như vậy đó”.
Tán rằng đây là
kết luận về cả hai phần Pháp (thuyết) : và Dụ (thuyết).
*
-Kinh văn : “Chúng
tôi được nội diệt” tới
“Cũng đều chẳng ưa thích”.
Tán rằng dưới là
đoạn thứ ba, có 10 tụng rưỡi, tụng : về ý thứ hai “tự chứng được Niết bàn, cho là
đã đầy đủ nên chẳng mong cầu đại thừa”.
Trong đây có 2
phần :
- 2 tụng đầu, là
nêu lên ý “tự mãn, chẳng cầu đại thừa”.
- 8 tụng rưỡi sau,
là phần giải thích.
Đây là phần đầu.
“Nội diệt” : có
nghĩa là trong thì tự thân diệt các phiền não, chứng được Niết bàn. Chỉ xong
được thế đã cho là cứu cánh, ngoài ra không còn có sự lợi tha bên ngoài nào
khác, cho nên chẳng ưa thích đại thừa.
*
-Kinh văn : “Vì
sao lại như vậy ?” tới
“Cho đó là cứu cánh”.
Tán rằng : dưới
đây là 8 tụng rưỡi, là phần giải thích.
Trong đây có 3
phần :
- 3 tụng rưỡi đầu
: ở Phật cảnh trí, khởi quán Tam giải thoát môn, tự cho là đầy đủ rồi, nên
chẳng mong cầu đại thừa.
- 4 tụng sau : tự
cho là đắc đạo, đã báo ơn Phật rồi, dẫu thuyết cho nguời khác nhưng tự mình lại
chẳng cầu mong cầu.
- 1 tụng cuối :
kết luận Phật chẳng vì mình mà thuyết nên chẳng mong cầu.
Đây là phần
đầu.
+ 2 tụng đầu :
quán Không, Vô tướng.
+ 1 tụng rưỡi sau
: quán Vô nguyện.
“Chư pháp đều
không” : là quán Không vậy.
Vì nhị ngã (chỉ
Câu sinh ngã và Phân biệt ngã) đã không có, thì làm sao mà có sinh v.v… Dưới đó
là thuyết về Vô sinh diệt v.v… sáu loại Sở Vô và quán Vô tướng.
Xả ly tham trước,
chẳng tham hết thảy, cho nên đối với Phật trí cũng chẳng tham cầu, đó là quán
Vô nguyện.
Do được nghe
thuyết trong mật ý Bát nhã về Không, Vô tướng, Vô nguyện ; bèn hiểu sai, cho
rằng thực hành ba phép quán này, thì tự được Niết bàn ; sau đó cho
rằng hiểu như vậy là cứu cánh rồi, cho nên chẳng mong cầu đại thừa nữa.
*
-Kinh văn : “Chúng
tôi đã từ lâu” tới
“Đã báo đền ơn Phật”.
Tán rằng đây là
đoạn thứ hai, có 4 tụng nói về ý “tự : cho là đắc đạo, đã báo đền ơn Phật”, (cho nên)
tuy mình thuyết cho người khác, nhưng tự mình thì lại chẳng mong cầu.
Trong đây có hai
phần :
- 2 tụng rưỡi đầu
: cho rằng đã đền ơn Phật.
- 1 tụng rưỡi sau
: tuy thuyết cho người khác, nhưng tự mình lại chẳng mong cầu.
Đây là phần
đầu.
Nghiệm lời văn
này, ý trụ ở Hữu dư y Niết bàn, hồi tâm hướng đại thừa, chứ chẳng phải là trụ ở
Vô dư y Niết bàn.
*
-Kinh văn : “Chúng
tôi mặc dù vậy” tới
“Không hề muốn ưa thích”.
Tán rằng tuy
thuyết cho người khác, nhưng bản thân mình thì : lại chẳng mong cầu.
*
-Kinh văn : “Đấng
Đạo sư buông bỏ” tới
“Nói rằng có thực lợi”.
Tán rằng đây là ý
thứ ba : Phật chẳng thuyết cho tôi, cho : nên tôi chẳng hy vọng.
Phật có sự lựa
chọn đối với tôi, thấy căn cơ chưa chín nên buông bỏ tôi. Chưa từng khuyên tôi
tiến thủ tu đại thừa, nói rằng đại thừa có thực lợi ; cho nên tôi chẳng mong cầu.
“Thoạt đầu chẳng
khuyên” : đó là căn cứ vào đời này, chứ chẳng phải là đã từng chẳng khuyến
khích, vì từ lâu đã khuyến khích rồi.
*
-Kinh văn : “Như
trưởng giả giàu có” tới
“Bèn dạy cho trí lớn”.
Tán rằng trên là
20 tụng rưỡi, tụng về hợp thuyết “xưa : chẳng mong cầu”. Dưới đây là 10 tụng, hợp
thuyết “nay thu hoạch được”.
Có hai phần :
- 3 tụng đầu là
Pháp dụ đối minh (đem Pháp và Dụ đối đãi với nhau mà thuyết minh) đầu
tiên là dạy phương tiện, sau đó là thuyết chân thực.
- 7 tụng cuối nói
rõ “tôi nay đã thu hoạch được”.
Đây là phần đầu :
+ 1 tụng
rưỡi tụng về Dụ (thuyết).
+ 1 tụng
rưỡi tụng về Pháp (thuyết).
*
-Kinh văn : “Chúng
tôi ngày nay đây” tới
“Được vô lượng châu báu”.
Tán rằng dưới là 7
tụng nói về mục “nay thu hoạch được”. :
Trong chia làm ba
:
- 1 tụng rưỡi,
phân tích chung “nay được chẳng phải là thứ trước kia mong muốn”.
- 3 tụng nói về :
bắt đầu từ ngày nay mới gọi là “đắc quả thể”.
- 2 tụng rưỡi cuối
: ngày nay mới gọi là “đắc quả dụng”.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Thế
tôn ! Chúng con nay” tới
“Đắc Vô thượng đại quả”.
Tán rằng : đây là
mục thứ hai : “bắt đầu từ ngày nay mới gọi là đắc quả thể”.
- 1 tụng đầu phân
tích chung : quả chứng được trước kia chẳng phải là chân thực.
“Đắc đạo đắc quả”
: đạo là Chứng trí, quả là Vô vi.
- 2 tụng sau phân
tích : quả chứng được ngày nay là thực, do nhân trước mà chứng được. Trong đó :
+ Tụng đầu : nói
về ý nhờ trì giới mà được báo.
+ Tụng sau : do
phạm hạnh viên mãn mà đắc đại quả.
Thảy đều hơn ngày
xưa.
*
-Kinh văn : “Chúng
tôi ngày hôm nay” tới
“Đáng lãnh thụ cúng dàng”.
Tán rằng đây là
mục thứ ba : “nay mới gọi là đắc quả : dụng” :
- 1 tụng đầu :
được gọi là bậc Thanh văn chân thực, vì có tác dụng lợi tha.
- 1 tụng rưỡi sau
: được khen là bậc chân A la hán, vì thực sự là phúc điền.
Tức là nói rõ trụ
ở tiểu thừa thì chẳng phải là bậc chân Thanh văn, cũng chẳng phải là bậc chân A
la hán.
*
-Kinh văn : “Ơn
lớn của Thế tôn” tới “ai mà có thể báo đáp được”.
Tán rằng trên đây
là 73 tụng rưỡi, tụng về văn trường : hàng ở phía trước. Dưới đây là đoạn thứ ba
trong phẩm, có 13 tụng nói về ý đội ơn sâu của Phật.
Văn chia làm hai
phần :
- 6 tụng rưỡi đầu,
thuyết minh chung về ơn sâu khó báo.
- 6 tụng rưỡi sau,
thuyết minh riêng về các sự khó báo.
Trong phần đầu lại
chia làm hai :
+ 1 tụng rưỡi đầu,
tụng về ơn Phật từ bi sâu nặng, cho nên khó báo.
+ 5 tụng sau, tụng
về việc tiến hành cúng dàng nhưng cũng chẳng thể báo đáp được.
Đây là phần đầu.
Thời gian thì lâu
dài, cư xử thì rộng rãi, đạo hạnh thì viên mãn, bản tâm vẫn siêng năng trong
việc giáo hóa chúng sinh, tự mình chịu khổ để làm lợi cho người. Tình nghĩa sâu
nặng như vậy thì làm sao mà báo đáp được ? Ơn lớn như trời cao chính là ở chỗ
này.
*
-Kinh văn : “Chân
và tay cung cấp” tới “hết lòng mà cúng dàng”.
Tán rằng dưới là 5
tụng thuyết minh về việc cúng dàng. : Trong đây chia làm hai :
- 2 tụng đầu : sáu
loại nội tài chẳng thể báo đáp.
- 2 tụng cuối :
bốn sự ngoại tài và việc dựng tháp, cũng chẳng thể báo đáp.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn :
“Lại đem dâng cỗ ngon” tới
“cũng chẳng thể báo đáp”.
Tán rằng : đây là
nói về bốn sự ngoại tài cũng chẳng thể báo đáp.
- 2 tụng về bốn
sự.
- 1 tụng về kết
luận.
*
-Kinh văn : “Chư
Phật thực hiếm có” tới
“Tùy nghi mà thuyết cho”.
Tán rằng dưới là 6
tụng ruỡi, thuyết minh về sự khó báo : đáp.
Ở trong đây chia
làm ba phần :
- 2 tụng rưỡi đầu
: thuyết minh chung về Phật có thể làm các việc thấp hèn, tùy nghi mà thuyết
cho hạng phàm phu chấp tướng.
- 2 tụng sau :
(Phật) có thể biết điều ưa muốn và (khả năng) thắng giải của chúng sinh để mà
thuyết pháp cho họ.
- 2 tụng cuối :
thuyết minh về (Phật) có thể biết họ căn cơ đã chín hay chưa chín, rồi vì họ mà
thuyết về tam thừa.
Đây là phần đầu.
Phật giấu kỹ thực
đức của Báo thân, hiển hiện quyền hình của Hóa tướng ; giấu kỹ tông chỉ huyền
vi của Diệu lý, giương cao giáo hóa sơ sài của Nghĩa thô ; chẳng ở cõi tịnh độ
mà ở phương uế tạp này, theo đuổi hạng phàm phu.
Đó há chẳng phải
là sự khó sao !
*
-Kinh văn : “Chư
Phật nơi các pháp” tới
“Mà thuyết pháp cho ho ”.
Tán rằng đây là
phần hai, nói về Phật biết được dục : lạc, thắng giải của chúng sinh để mà thuyết
pháp cho họ.
“Chí lực” : nghĩa
là thắng giải.
Chẳng tùy theo ý
mình mà diễn giải rộng về các lẽ huyền vi, lại tùy theo tâm tình của người khác
mà đề xướng phương tiện này.
Đó há chẳng phải
là việc khó hay sao !
*
-Kinh văn : “Tùy
theo các chúng sinh” tới
“Tùy nghi thuyết tam thừa”.
Tán rằng đây là
phần ba, nói về Phật có khả năng biết : rõ đệ tử căn cơ chín hay chưa chín mà thuyết
cho họ về tam thừa.
Hoặc thô, hoặc tế
; hoặc thực, hoặc quyền ; quan sát căn cơ từ đầu đến cuối để mà tiến
hành.
Đó chẳng phải là
ơn sâu khó báo ư !
PHẨM DƯỢC THẢO DỤ
Dùng ba môn để
phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕI DỤNG Ý.
Có bốn ý :
1. Trước vì thượng
căn thuyết pháp vòng đầu, Thu Tử lĩnh ngộ về pháp, Phật pháp được thuật xong,
sau mới thụ ký. Nay vòng thứ hai đã vì hạng trung căn mà dụ thuyết, bốn người
lĩnh hội được Dụ, nay Phật lại thuật về Dụ cho xong xuôi, sau mới thụ ký. Cho
nên mới có phẩm này.
2. Luận thuyết về
việc đối trị Thất mạn (bảy thói kiêu mạn), trong đó loại thứ ba là người tu đại
thừa có kẻ một mực tăng thượng mạn, nói rằng không hề có Thanh văn, Bích chi
Phật thừa nào cả.
Để đối trị hai
loại này, nên thuyết hai (thí) dụ :
- Phẩm Thí Dụ
trước là để đối trị kẻ phàm phu cầu diệu quả nhân thiên.
- Thứ đến phẩm Tín
Giải để đối trị hạng hữu học nhị thừa chấp trước cho rằng thừa của mình ngang
với Như Lai thừa, nên chẳng cầu Phật thừa.
Nay phẩm này để
đối trị hạng tu đại thừa một mực kiêu mạn, nói rằng không có thừa thứ hai nào
khác, chỉ có nhất thừa.
Cho nên luận nói
rằng : đối với hạng người thứ ba ấy thì khiến họ biết nhiều thừa khác nhau. Chư
Phật Như Lai bình đẳng thuyết pháp, vì chủng tử thiện căn tùy theo chúng sinh
mà nảy mầm. Dụng ý nêu bật: dẫu rằng cùng một trận mưa nhưng ba loại cỏ, hai
loại cây sinh trưởng mỗi thứ mỗi khác. Phật dạy dẫu giống nhau nhưng ba thừa,
hai thánh phát tâm, tu tập lại có sự khác nhau, vì căn cơ khí độ mỗi loại mỗi
khác. Cũng có loại quyết định nhị thừa, vì căn cơ có tính khí khác nhau, cho
nên sự bẩm nhuận cũng khác nhau.
Kinh Thắng Man nói
rằng : “Thiện nam tử nhiếp thụ chính pháp gánh nổi bốn gánh”. Kinh Niết Bàn
cũng nói : “Ta ở mỗi một thời, thuyết một thừa một đạo. Đến nỗi đệ tử chẳng
hiểu ý ta, nói rằng Tu đà hoàn v.v… đều là đắc Phật đạo”. Nói rộng ra thì giống
như các kinh khác.
Dựa vào người mà
vận tải giáo v.v…, đó gọi là Thừa. Pháp Phật dẫu giống, cơ tu có khác, cho nên
thuyết phẩm này.
3. Phẩm Phương
Tiện đầu tiên nêu ra hai thứ Trí và Môn đều rất sâu, gọi là nhất thừa. Phẩm Thí
Dụ trước nói thừa có ba, thể chỉ có một. Bốn người lĩnh giải : thực một, giả
ba, hội được trí tuệ sâu. Nay hội môn này : môn tức A hàm. Giáo giống nhau, cơ
khác nhau, đó gọi là Hội môn. Như thuyết về Tứ đế, ba loại căn cơ đều nghe. Y
vào Uẩn, Xứ, Giới, duyên khởi, ba tính, mà quan điểm tu tập có sự khác nhau, đó
gọi là tam thừa. Cho nên biết rằng sự giáo hóa tuy giống nhau, nhưng căn cơ lại
khác nhau vậy. Cho nên mới có phẩm này.
4. Trong Thập Vô
thượng (mười loại Vô thượng) nói rằng : thứ nhất là để nêu rõ chủng tử Vô
thượng, cho nên lấy mưa làm thí dụ. Thập Vô thượng đều là Thất dụ, Tam bình đẳng
tàn. Song ở trong đó có thứ là văn tàn, có thứ là nghĩa tàn. Đây là nghĩa tàn,
chẳng phải là văn tàn.
Trong Thất dụ (bảy
thí dụ) đã có dụ về mưa. Trong Thập Vô thượng, lại thuyết lại lần nữa, đó vẫn
gọi là Tàn.
Trên đã nói thí dụ
về mưa tưới nhuần khắp ba cỏ. Ba cỏ đã khác nhau thì khiến (người nghe pháp)
biết là thừa cũng khác nhau. Đây nói thí dụ về mưa, trong ba cỏ được tưới
nhuần, Phật chủng gọi là cỏ lớn (Ví với đại thừa) nổi bật hơn so với hai cỏ còn
lại. Từ ngôi vị bản thân (cỏ này) mà so sánh thì thêm cho cái danh là “hai
cây”, thì nghĩa sở vọng có biệt danh là “nghĩa tàn”, hoặc đây là “văn tàn”, nghĩa
là “cỏ lớn” trong loại nhỏ.
Về văn là dụ về
mưa, nhằm đả phá cái bệnh cho rằng “thừa giống như nhau”. Các cây có cây to cây
nhỏ, tùy phẩm loại thượng, trung, hạ mà có sự hấp thụ khác nhau. Dụ về mưa này
là chủng tử Vô thượng. Văn trước văn sau khác nhau, cho nên là “văn tàn”. Chủng
tử lớn này được mưa tưới nhuần, thể dụng to lớn, quả hậu đắc đặc thù, cho nên gọi
là Vô thượng.
Luận dẫn lời kinh
nói : “chẳng lìa thân ta là nghĩa Vô thượng”. Chỉ có đại thừa được gọi là
“chẳng lìa”, cho nên dù là Chủng hay là Hiện, dù là Nhân hay là Quả đều chẳng lìa
đại thừa. Nay nêu bật đại thừa Vô lậu chủng tử, coi đó vốn là nhân gốc để thành
thân Phật. Bởi vậy để nêu bật chủng tử này là Vô thượng, cho nên mới có phẩm
này.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
Công hiệu thần
diệu, trừ được bệnh tật thì gọi là Dược (thuốc). Hình được tưới nhuần, đó gọi
là Thảo (cỏ); có loại “dược” chẳng phải là “thảo”; có loại “thảo” chẳng phải là
“dược”; có loại “thảo” có “dược”; có loại chẳng phải là “thảo” cũng chẳng phải
là “dược”.
Thứ sở dụ cũng như
thế, Giáo, Lý, Hạnh, Quả đều gọi là Dược. Nay lấy Hạnh dược thụ Giáo tu sinh,
chẳng lấy các loại thạch dược khác vì chúng chẳng thể sinh trưởng. Các loại Thế
chủng, Xuất thế chủng có khả năng sinh trưởng đều được dùng làm thí dụ gọi là
Thảo (cỏ).
Nay lấy nhân trí
tam thừa thiện chủng nhân thiên làm dược thảo (cỏ thuốc), vì chúng chống lại
được sự độc hại tà ác. Chẳng lấy loại cỏ sinh tử ác đạo, vì chúng chẳng bẩm thụ
chính pháp mà lại nẩy nở. Dụng ý nhằm phân biệt rạch ròi ba loại thừa, mỗi loại
thụ giáo khác nhau mà thành các thừa khác nhau, chẳng muốn thuyết minh chung
chung về các chủng loại. Cho nên lấy Dược Thảo làm tiêu đề của phẩm. Dược này
tức là Thảo, đó là Trì nghiệp (mà) thích danh (dựa vào nội dung mà giải thích
tên phẩm), để phân biệt với nghĩa Thảo có Dược một cách chung chung theo kiểu Y
chủ thích. Lấy đó mà làm ví dụ, gọi là Dược Thảo Dụ.
Nếu nói rằng :
phẩm này thuyết minh về thí dụ Dược (thuốc) và Thảo (cỏ), nên gọi là Dược Thảo
Dụ, chứ chẳng phải Dược tức là Thảo, há phải hết thảy cỏ đều lấy làm thí dụ đâu
?
Do đó cho nên biết
thuyết này là hay hơn. Đây lấy hai nghĩa làm dụ :
1/ Như cỏ kia tính
chất khác nhau, bẩm thụ sự tưới nhuần của mưa sinh ra các loại khác nhau. Ba
căn thụ giáo khác nhau mà thành ra ba thừa.
2/ Như cỏ kia bẩm
tính đều chẳng biết gì nhau. Ba căn cũng thế, chẳng thể biết chủng loại năm
thừa khác có sự khác nhau, vì cho rằng thừa không có sự khác nhau.
Chính vì vậy nên
mới lấy Dược Thảo làm Dụ.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
hỏi Câu - 1 : Luận giải bảy dụ
và mười Vô thượng, đều nói: dụ về mưa, cớ sao đầu đề của phẩm lại được gọi là Dược
Thảo Dụ, mà chẳng gọi là Vũ Dụ phẩm ?
Đáp : Luận
thuyết về pháp có khả năng tưới bón để nêu bật đối tượng được thí dụ (sở dụ),
cho nên gọi là vũ dụ (ví dụ về mưa). Kinh lấy cái thể năng dụ để phá trừ mối
nghi hoặc ấy, cho nên lấy tiêu đề là Dược Thảo. Vọng tưởng điên đảo ở đây là
cái bệnh cho rằng Thừa không có sự phân biệt khác nhau. Cách phá trừ bệnh ấy là
vạch rõ vì căn cơ có sự phân biệt khác nhau (nên mới có các thừa khác nhau).
Cho nên mượn dược thảo được tưới bón để ví với căn tính được tưới nhuần. Do đó
mà chẳng nêu mưa làm thí dụ, cũng chẳng nêu hai tính chất “vũ thảo” (mưa cỏ)
làm tên phẩm.
- Câu hỏi 2 : phẩm
này cũng nói tới nhị mộc (hai cây), cớ sao chẳng lấy tiêu đề là Nhị Mộc phẩm ?
Đáp : cứ thực
mà nói theo lýthì nân nêu cả hai. Song vì chính pháp cốt nhằm dựng cái
gốc, đả phá căn bệnh của chúng sinh: chúng sinh có tật cho rằng các thừa đều
giống nhau; cho nên phải dùng cái lý : các loài cỏ có sự khác nhau, để đả
phá.
Vô thượng thể hiện
Thể tối tôn cao, chưa phải là để phá trừ căn bệnh của chúng sinh, cho nên lấy
“Dược Thảo” làm tên gọi của phẩm, chẳng lấy “mộc vv…” làm tiêu đề.
“Thảo” chỉ rộng,
“Mộc” chỉ hẹp. “Thảo” chỉ tiểu, “Mộc” chỉ đại. Như vậy (thảo) để chỉ chung cho
ba thừa, chứ chẳng chỉ riêng đại thừa ; thể hiện chung sự tưới nhuần sinh
trưởng, chứ chẳng chỉ riêng sự thành thục.
Có người giải
thích rằng : “Dược” đó là mưa, pháp dược có thể tưới nhuần. “Thảo” chỉ căn cơ,
là tính chúng sinh được tưới bón. Lấy Dược ví với pháp, lấy Thảo ví với căn cơ.
Hai cặp thí dụ này đều rõ ràng, không còn gì phải thắc mắc cả.
Văn tuy chẳng
thế, lý có sai đâu !
Thêm nữa, phẩm
Thí Dụ trước có nhà lửa đáng ghét, ba xe đáng ưa, hai thí dụ ấp gộp lại chỉ có
thể nói được ý nghĩa chung.
Đây dùng cái lý
căn cơ được tưới bón khác nhau để đả phá căn bệnh chấp trước, cho là chỉ có một
(thừa giống nhau). Cho nên chỉ lấy Dược Thảo làm Dụ.
*
- Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “nói chẳng thể hết được”.
Tán rằng trong
phẩm này, văn lớn chia làm ba phần : :
- Phần đầu là tán
ấn.
- Phần hai từ “Ca
Diếp nên biết” trở xuống, là trần thuật.
- Phần ba là 2
tụng cuối phẩm kết thúc việc thuyết giảng về thực thừa, khơi mào cho việc thụ
ký.
Đây là phần đầu.
Thoạt tiên là tán
ấn, sau đó khen thêm vì lời nói hợp lý.
Khen là “thiện
tai” (hay lắm, tốt lắm) : vì nghĩa đúng với sự thực, cho nên ấn chứng. Thể hiện
rõ lời đã nói đó chưa nói hết được đức, cho nên tự tán thán Phật giống trưởng
giả, dùng cái nhỏ có thể ví dụ với cái lớn : “ngươi giống như người con cùng
khổ kia, thánh đức cũng na ná như vậy”, cho nên tán thán và ấn chứng cho.
“Thành như sở
ngôn” : “thành” có nghĩa là kính, là tín (đúng hệt).
Đúng như lời đã
nói, kính như điều đã thuyết. Cho nên ân đức của Phật khó thể tư lường, nói làm
sao hết được.
*
-Kinh văn : “Ca
Diếp nên biết” tới “chẳng sai”.
Tán rằng : dưới là
trần thuật. Chia làm hai :
- Đầu là trường
hàng. - Sau là kệ tụng.
Phần đầu có hai :
1. Trần thuyết.
2. Kết luận : đó
là đoạn từ sắp sửa đến phần kệ tụng, từ : “Như Lai biết một tướng một vị đó”
trở xuốâng.
Trong phần đầu lại
có ba phần :
1/- Pháp thuật.
2/- Dụ thuật. 3/- Hợp thuật.
Trong phần Pháp
thuật có bốn mục :
+ Phật xuất hiện ở
đời.
+ Pháp lợi quần
sinh.
+ Thụ đạo có sự
đặc thù.
+ Chẳng thể tự
đạt.
Đây là mục đầu :
Phật tự tại nơi các pháp, lời Phật thuyết chẳng sai, cho nên Phật xuất hiện ở
đời là để dìu dắt, làm lợi lạc cho chúng sinh.
*
-Kinh văn : “Ở
nhất thiết pháp” tới “nhất thiết trí địa”.
Tán rằng : đây là
mục hai : “Pháp lợi quần sinh”.
Phật đã vận dụng
Đại bi trí, dùng phương tiện thiện xảo, đem pháp lìa danh tướng mà thuyết giảng
một cách khéo léo để làm lợi lạc cho chúng sinh. Đạo lý mà ngài thuyết giảng cũng
khế hợp đạt tới Phật trí cảnh địa, vì thuyết hợp với chứng.
“Tới” (đáo) :
có nghĩa phù hợp đến (tận) nơi, hoặc Giáo thuận với Lý, Lý thuận với Hạnh, Hạnh
thuận với Quả, cho nên nói là “tới Phật quả địa”, vì lấy đó mà nhuần tưới cho
khắp cả các chúng sinh cần được hóa độ.
*
-Kinh văn : “Như
Lai quan sát biết rõ” tới “thông đạt vô ngại”.
Tán rằng đây là
mục ba : “Thụ đạo có sự đặc thù”. :
Do Phật nhận thức
được chân tính cứu cánh là sở quy của pháp không, pháp hữu và biết rõ xu hướng
tâm hành của chúng sinh, nên có thể khiến chúng đều được sinh trưởng.
Kinh Vô Cấu Xưng
nói rằng : “Sở thú của Hữu, Vô, là sở qui của ý lạc”. Cho nên sở quy thú tức là
quy thú cứu cánh của tam tính, tức chân như. Sở thú của tâm tức là sở hân biến
thú hành. Ở trong lý trí, thông đạt vô ngại về điều đó; hoặc do Phật thông đạt
về pháp và tâm hành của chúng sinh, cho nên có thể khiến ba thừa thụ đạo khác
nhau.
*
-Kinh văn : “Hơn
nữa đối các pháp” tới “nhứt thiết trí tuệ”.
Tán rằng : đây là
mục bốn : “chẳng thể tự đạt”.
Phật có thể biết
rốt ráo hết các pháp, có thể biết được căn tính của chúng sinh, cho nên thoạt
đầu bố thí pháp tam thừa, sau đó mới khai thị cho họ về trí tuệ của Phật. Chúng
sinh chẳng thế, lý nào mà có thể biết được tự tính, tha tính.
Dụ thuật và Hợp
thuật đều có cái thế như vầy, cho nên chia làm bốn khoa, hơn nữa có lời giải
thích.
Pháp thuật có hai
phần :
1) Đầu tiên là
thuyết minh chung về Phật tự tại nơi các pháp, sở thuyết chẳng sai.
2) Sau đó là
thuyết minh riêng về “chẳng sai” : đó là đoạn “về mọi pháp, dùng trí phương
tiện…”.
Phần thuyết minh
riêng về “những điều Phật thuyết chẳng sai” có bốn ý :
1/ Phật có khả
năng khai thị hai thể Bồ đề Niết bàn. Đó là việc khai thị cho tâm chúng sinh
hiểu rõ. Dùng trí phương tiện mà diễn thuyết.
2/ Phật có khả năng
hiện thị chân như, lấy đó để mà chỉ cho chúng sinh chỗ quy kết của pháp.
3/ Phật có khả
năng khai ngộ Bồ đề trí, cho nên lấy đó mà giác ngộ cho chúng sinh thông đạt vô
ngại.
4/ (Phật) tự mình
đã từng ngộ nhập cũng khiến người khác ngộ nhập, khai thị cho họ hết thảy trí
tuệ.
Tuy giải thích như
vậy mới thuận với nhất thừa ở trên, nhưng xét lời văn ở dưới đoạn này, thì
thành ý khác. Cho nên, mục thuyết minh riêng về “những điều Phật thuyết chẳng sai”
lại còn có bốn ý khác :
1 - Thấu hiểu đến
cùng thực tính của pháp.
2 - Biết rõ Không
hữu.
3 - Biết rõ ý
thích của chúng sinh.
4/ Có thể khai thị
được về quyền và thực.
Dùng a trí phương tiện . . .
nhất thiết trí địa” : pháp chân thực không lời, dùng lời để thuyết minh, đó gọi
là trí phương tiện. Pháp được trí phương tiện này thuyết giải tuy không hẳn là
chân thực, song cũng không có gì khác so với pháp mà Phật trí đã chứng
được.
“Địa” tức là y chỉ, là chỗ y chỉ của Phật trí quán chiếu.
Chân cảnh gọi là
Địa. Ý nói Phật thuyết chân tục đế lý, khế hợp với Phật trí cảnh địa, vì Thể
không khác, vì hợp với thực pháp. Hoặc Giáo có thể thuận với Lý, Lý có thể
thuận với Hạnh, Hạnh có thể thuận với Quả ; cho nên tới Phật địa. Vì Nhất thiết
trí là Phật trí.
a “Như Lai quan sát biết rõ…” : đây là nói Phật
biết được chỗ quy hướng của các pháp Không hữu, có nghĩa là tam tính pháp :
Biến kế sở chấp, Y tha khởi và Viên thành thực.
“Sở quy thú” : tức
là lý chân như, vì đó là chỗ quy hướng cứu cánh của các pháp.
a “Cũng biết sở hành trong thâm tâm của chúng
sinh” : có nghĩa là biết rõ tâm hành cùng những điều mà thâm tâm thích làm của
chúng sinh ; tức là biết tâm chúng sinh cùng sở biến thú hành thông đạt vô
ngại.
“Hơn a nữa đối với các pháp. .
. nhất thiết trí tuệ” : đã thông đạt các pháp, hiểu rõ rốt ráo. Cho nên có thể
chỉ rõ cho chúng sinh trí tuệ : ba Quyền, một Thực, khiến cho họ sinh ra ưa
thích muốn chứng.
Ý trên này nói :
những điều mà Phật thuyết khế hợp với trí cảnh, biết tính không, tính hữu của
các pháp, hiểu rõ tâm hành của chúng sinh thích ứng với việc học đạo như thế
nào, cho nên có thể khai thị cho chúng sinh về trí tuệ của Phật, khiến họ quy
nhập.
Do bốn nghĩa này
mà sở thuyết chẳng sai ngoa. Vì sở thuyết chẳng sai ngoa, cho nên Phật trí là
vô biên. Ngươi làm sao mà thuyết được ?
Phật biết rõ các
pháp, biết rõ tâm chúng sinh, cho nên có thể lúc đầu thì thuyết về quyền thừa,
sau đó mới thuyết về thực pháp. Chúng sinh tiếp thụ mà thành ra năm thừa khác
nhau.
Chúng sinh không
có công đức trí tuệ này, chẳng hiểu pháp thể và tâm chúng sinh, thì làm sao mà
có thể biết được tính chất quyền hay thực của pháp, cho nên mới chấp trước cho là
ba thừa không có gì khác biệt nhau.
*
-Kinh văn : “Ca
Diếp ví như…” tới “danh sắc mỗi thứ mỗi khác”.
Tán rằng : dưới là
Dụ thuyết.
Trong đây chia làm
hai :
1) Đầu là tổng dụ.
2) Sau là biệt dụ.
Đây là phần đầu
:
- Đoạn từ “thổ
địa” trở về trước, là dụ về có khả năng sản sinh.
- Từ “thổ địa” trở
về sau, là dụ về tất cả tam thiên đại thiên (thế giới), nêu bật Khí thế gian để
y chỉ vào.
Một cảnh nơi Phật
giáo hóa có bốn thứ :
1) Núi.
* Theo sách Ngọc
Thiên, Cấn là núi. Núi có nghĩa là sinh sản, tỏa khí ra sinh sản muôn vật.
2) Sông : quán
xuyến cho nước lưu thông.
3) Ngòi (khê).
* Sách Nhĩ Nhã nói
: dòng nước chảy vào sông thì gọi là ngòi.
4) Khe (cốc).
* Chữ [谷] đọc là Cốc. Theo Ngọc Thiên còn đọc là Dục, nước chảy vào suối
thì gọi là khe (cốc). Theo Thuyết Văn : suối thông với sông, đó gọi là khe
(cốc).
Các thứ trên đây
làm ví dụ, ví với việc trong đại thiên thế giới có bốn sinh loại. Trong “tất cả
các thứ sinh ra từ đất đai” (thổ địa sở sinh) ấy, thì :
“Huỷ” tức là “ba
cỏ”. “Mộc” chỉ “hai cây”.
* Chữ
[ ] đọc là Huỷ : là chỉ chung mọi thứ cỏ, chỉ số nhiều. Cỏ và
cây đều là thành bụi, thành rừng. Ý nói cỏ cây mỗi thứ đều rất nhiều.
Ở đây cỏ cây tuy
rất nhiều, nhưng trong đó chỉ có dược thảo được dùng để ví với chủng tử của
thiện pháp thế gian và xuất thế gian. Thể loại chủng tử năm thừa mỗi thứ mỗi
khác, cũng như chủng loại có nhiều thứ, tướng dụng có sự khác nhau như danh sắc
mỗi thứ mỗi khác. * Sắc: chỉ hình mạo cũng có nghĩa là sắc loại.
*
-Kinh văn : “Mây
dày kéo khắp” tới “đại thiên thế giới”.
Tán rằng : dưới là
biệt dụ. Có bốn :
1) Dụ về việc pháp
vương xuất thế.
2) Dụ về việc
(pháp vương) thuyết giáo để nhuần tưới khắp.
3) Dụ về việc
(chúng sinh) thụ giáo kết quả mỗi người mỗi khác.
4) Dụ về việc
(chúng sinh) chẳng tự mình giác ngộ biết đạo.
“Mây dày kéo khắp”
là dụ thứ nhất.
Từ “che khắp” trở
xuống là dụ thứ hai.
Pháp vương hóa
thân ẩn giấu thực tướng, tám tướng dần dần mới hiện rõ, để ngấm ngầm làm lợi
lạc rộng rãi cho chúng sinh, ví như mây kia càng kéo càng dày, chẳng phải là mây
bỗng dày ngay, cho nên chẳng gây ra tai họa.
Mây có mười đức,
trong tụng đã tự giải thích.
Một hóa Phật giáo
hóa “tam thiên đại thiên thế giới”, đồng thời xuất hiện, âm thanh cũng vang
khắp các cõi ấy. Cho nên nói là “đầy rãy khắp đại thiên thế giới”.
*
-Kinh văn : “Đồng
thời mưa tưới đều” tới “tới các dược thảo”.
Tán rằng đây là
đoạn ba là ví dụ nói về việc (chúng : sinh) hấp thụ tưới nhuần mỗi kẻ mỗi
khác.
Văn này có hai
phần :
- Phần đầu nói về
sự tưới nhuần của cùng một trận mưa.
- Phần thứ hai nói
về việc hấp thụ sự tưới nhuần đó có sự khác nhau.
Phần đầu lại có ba
mục :
a) Nêu chung. b) Tưới ngang. c) Mọc dọc.
Đây là mục
đầu.
“Nhất thời” (đồng
thời) : tức là ứng với căn cơ đã chín.
“Tưới đều” (đẳng
chú) : có nghĩa là một âm diễn thuyết, mỗi chúng sinh đều tùy theo căn cơ của
mình mà hiểu.
* Chữ [澍] có hai cách đọc Chú và Thú. Nay theo cách đầu, nghĩa là mưa tưới
đều khắp, làm lợi lạc giống nhau. Chữ [洽] đọc là Hiệp, có nghĩa
là ướt, là thấm nhuần.
“Biến” : có nghĩa
là khắp, là triệt để, có nghĩa là điều hòa tưới nhuần khắp cả.
“Cỏ cây rừng rú” :
dụ này giống như giải thích trước.
“Dược thảo” : ví
với thiện căn.
*
-Kinh văn : “Gốc
nhỏ thân nhỏ” tới “cành to lá to”.
Tán rằng đây là
mục “tưới ngang”. :
Tính chất ba thừa
khác nhau, đó là để đả phá căn bệnh coi các thừa giống nhau. Vì căn tính có ba,
cho nên chia làm ba loại.
Kinh Niết Bàn nói
rằng : Ví như bệnh nhân có ba loại :
1) Dù gặp thầy
thuốc giỏi hay không, cũng nhất định có thể khỏi. Đó là loại đại thảo.
2) Nếu gặp thầy
thuốc giỏi thì khỏi, chẳng gặp thì không khỏi. Đó là loại trung thảo.
3) Dẫu gặp thầy
thuốc giỏi hay không, cũng nhất định chẳng khỏi. Đó là loại tiểu thảo.
Trong ba thừa này,
mỗi thừa đều có khả năng hấp thụ riêng về bốn thứ Giáo Lý Hạnh Quả mà sinh
trưởng. Cho nên đều nói là có gốc thân cành lá.
Y theo Giáo mà chứng
Lý, y theo Lý mà khởi Hạnh, y theo Hạnh mà đắc Quả, như gốc thân v.v… lần lượt
mà sinh.
Hơn nữa, lại lần
lượt theo Quả Hạnh Lý Giáo mà phối hợp.
Ngoài ra, còn
giải thích trong ba thừa này lại có bốn pháp :
1/ Chủng tính. 3/
Tu hành.
2/ Phát tâm. 4/
Đắc quả.
Bốn pháp này chung
cho cả ba thừa, theo thứ tự mà phối trí, theo chiều ngang gọi là tam thừa (ba
thừa), theo chiều dọc gọi là tứ loại (bốn loại). Loại y vào tính mà có, cho nên
gọi là ngang (Hoành).
Cũng nói là có bốn
thứ : Thắng giải, Kiến, Tu và Vô học. Nghĩa này chẳng phổ biến, chỉ trong loại
tiểu thảo mới có, cho nên chẳng lấy nghĩa này.
*
-Kinh văn : “Các
cây lớn nhỏ” tới “đều có sự hấp thụ riêng”.
Tán rằng đây là
nói về sự “mọc dọc”. :
Luận chỉ nói “cây
to chẳng lìa thân ta”, đó là nghĩa chủng tử Vô thượng.
Ba bậc hạ, trung,
thượng của ba cỏ, hai cây được phân chia như sau :
I. Ba bậc của đại
thảo :
Trong đại thảo
chia ra làm cây to cây nhỏ. Trước Bất thoái vị là cây nhỏ. Sau Bất thoái vị là
cây to.
Đây có hai
cách chia cây nhỏ cây to :
CÁCH 1 :
- Thất địa trở về
trước thì gọi là cây nhỏ.
- Bát địa trở lên
gọi là cây to, vì có đủ Tứ bất thoái.
Theo tụng văn ở
dưới thì ở trong nhị mộc (hai cây) lại chia làm thượng, trung, hạ cho nên gộp
nhị mộc lại mà chia ra thành ba bậc.
1. Chia ba bậc
theo cách 1 :
- Ngũ địa trở về
trước thì gọi là bậc hạ, vì sáng tạo ra được Lạc ý sinh thân Tam Ma Bạt
Đề.
- Lục thất bát địa
là bậc trung, vì đắc Giác pháp tự tính ý sinh thân.
- Cửu địa và Thập
địa, đó gọi là bậc thượng, vì đắc Chủng loại câu sinh Vô tác hành ý sinh thân.
1. Chia ba bậc
theo cách 2 :
Trước Sơ địa
gọi là bậc gì, há chẳng phải là thuộc loại tiểu mộc sao ? Nếu y theo nghĩa này
thì :
- Sơ địa trở về
trước, gọi là bậc hạ, vì chỉ thuần túy tu pháp hữu lậu.
- Bảy địa đầu, gọi
là bậc trung, vì là tạp tu cả hai thứ hữu lậu và vô lậu.
- Bát địa trở về
sau, gọi là bậc thượng, vì là thuần tu về pháp vô lậu.
CÁCH 2 :
- Sơ địa trở về
trước thì gọi là cây nhỏ.
- Sơ địa trở lên
thì gọi là cây to, vì chứng được bất thoái.
Hai loại cây to
nhỏ, mỗi loại đều có ba bậc hạ, trung, thượng.
3. Ba bậc của cây
nhỏ :
Thập trụ, Thập
hạnh, Thập hồi hướng là ba phẩm của cây nhỏ.
Thập tín thì bao
gồm ở trong Sơ phát tâm trụ.
Tứ quyết trạch
phần thiện căn thì bao gồm trong Đệ thập hồi hướng.
Do đó, Kinh Hoa
Nghiêm chỉ thuyết về 30 vị, chẳng thuyết Thập tín vì đó là thành tám tướng
trong Phát tâm trụ ; cũng chẳng thuyết Tứ thiện căn, vì đó là trụ tứ quán trong
pháp giới vô lượng hồi hướng ; chỉ nói rằng Xá Lợi Phất tu đạo trải qua 60 kiếp
rồi thoái, tức là tới Đệ lục trụ mãn, chưa nhập trong Đệ thất bất thoái
trụ.
Cho nên biết Thập
tín không có vị riêng.
Do đó, chỉ thuyết
về 33 A tăng kỳ địa tiền là ba, chẳng nói về bốn.
Đối Pháp luận v.v…
nói rằng sơ kiếp mãn, đã tu tứ thiện căn; chẳng thuyết về sự tu hành ở các kiếp
khác trong thời gian dài. Cho nên Tứ thiện căn được bao gồm ở trong Thập hồi
hướng.
4. Ba bậc của cây
to :
- Sơ nhị tam địa,
gọi là bậc hạ, vì tướng giống thế gian.
- Tứ ngũ lục địa, gọi
là bậc trung, vì mới giống với xuất thế gian.
- Thất bát cửu
thập địa, gọi là bậc thượng, vì vượt qua thế gian nhị thừa đạo.
II. Ba bậc của
tiểu thảo.
- Nhân giới là bậc
hạ.
- Dục thiên là bậc
trung.
- Sắc thiên là bậc
thượng.
III. Ba bậc của trung
thảo.
- Thất phương tiện
là bậc hạ.
- Thánh hữu học là
bậc trung.
- Vô học là bậc
thượng.
Trước kia là ngang
xuyên ba thừa, nay thì dọc thông ba vị.
*
-Kinh văn : “Một
mây mưa tưới” tới “hoa quả phô thực”.
Tán đây : rằng là mục nói về sự hấp thụ tưới nhuần (tiếp
thu giáo hóa) đều khác nhau.
Giáo hóa có khả
năng tưới nhuần kia chỉ là một. Còn cỏ cây tiếp thụ sự nhuần tưới ấy, mỗi thứ
mỗi khác.
“Sinh” ví với sơ
tâm.
“Trưởng” ví với sự
tu tập sau này.
“Hoa phô” ví với viêïc
nghe Giáo, tu Hạnh.
“Quả thực” ví với
việc chứng Lý đắêc Quả.
* Chữ [敷] đọc là Phu, Phô : có nghĩa là hoa nở, còn có nghĩa là phô
bày.
Do cỏ cây đều tùy
theo chủng tính của mỗi loại mà tiếp thụ sự nhuần tưới, cho nên sinh trưởng hoa
quả mỗi thứ một khác. Lấy Giáo đối đãi với Lý mà quên Cơ, hoặc lấy Giáo đối đãi
với căn cơ thành thục như hạng Hậu bất định tính thì gọi là “một mưa” (nhất
vũ), cũng gọi là “một âm” (nhất âm) ; vì Lý pháp sở thuyết chỉ là một tướng, vì
thoái tính cứu cánh đều thành Phật cả.
Lấy Giáo đối với
Cơ mà quên Lý pháp đi, hoặc đối với địa vị sơ cơ chưa thành thục mà có sự
chuyển tải, thế thì đó gọi là tam thừa, cũng gọi là tam xa (ba xe), tùy theo cơ
nghi của chúng sinh để ban đầu dẫn dắt thuyết pháp, cho nên mới có ba.
Dùng Giáo bao hàm
cả Hạnh thì gọi là tam tạng, vì đã giải thích việc tu hành về giới định tuệ mỗi
thứ mỗi khác.
Nếu dùng Giáo bao
hàm cả Lý, đối đãi với Cơ mà thuyết thì gọi là nhị tạng, có nghĩa là Bồ tát
tạng và Thanh văn tạng.
Kinh A Xà Thế
Vương cũng gọi là tam tạng, đó là Bồ tát tạng, Độc giác tạng và Thanh văn
tạng.
Nay dùng Giáo để
đối đãi với Lý và hậu cơ, thì gọi là (cùng) một mây mưa, tưới nhuần cho ba loại
căn cơ đó, thích ứng với từng loại chủng tính, thì gọi là tam thừa. Thể hiện Lý
mà có nêu các thú đối đãi với các cơ, là làm rõ các thừa có sự khác nhau.
Giáo đối với Cơ,
Lý để thuyết minh cả ý nghĩa được bao hàm, cho nên đặt ra tên gọi các tạng.
Định thể hiện rõ Giáo về Lý để vận tải các cơ, nên đặt ra tên gọi các thừa. Đó
là hai cách khác nhau.
*
-Kinh văn : “Tuy
cùng một đất sinh ra” tới “mỗi thứ mỗi khác”.
Tán rằng dưới là
mục bốn, là dụ về “chẳng tự biết : rõ”.
Chủng tính ba thừa
đều cùng dựa vào một chân lý, một đất mà sinh ra, đều nhờ cùng một Phật giáo,
một trận mưa nhuần tưới. Như các cỏ cây kia tuy hấp thụ sự nhuần tưới khác nhau,
nhưng chẳng tự biết rõ, cũng chẳng biết cỏ cây khác được nhuần tưới sinh trưởng
ra sao.
Cách giải thích
này dường như sơ sài, nhưng xem phần hợp thuyết sẽ rõ hết.
*
-Kinh văn : “Ca
Diếp nên biết” tới “như đám mây lớn nổi lên”.
Tán rằng dưới là
phần thứ ba : hợp thuật. :
Cũng có bốn mục.
Mỗi mục đều chia làm hai : đầu tiên nêu pháp ; sau đó đều là dụ hợp, hợp thuyết
về việc pháp vương xuất thế vậy.
*
-Kinh văn : “Dùng
âm thanh lớn” tới “đại thiên quốc độ”.
Tán rằng đây là
mục hai, hợp thuyết về Phật giáo thấm : thuần khắp cả.
Vì chẳng những
thân Phật ở khắp nơi, mà âm thanh của Phật cũng vang khắp nơi.
*
-Kinh văn : “Ở
trong đại chúng” tới “đức Phật Thế tôn”.
Tán rằng dưới là
mục thứ, ba hợp thuyết về việc hấp : thụ sự tưới thuần mỗi loại mỗi khác.
Có hai phần : đầu
là pháp thuyết, sau là dụ hợp. Trong phần đầu lại có bốn mục :
1) Tự nêu
triệu tập.
2) Người khác
nghe thấy đều kéo tới.
3) Phật đáp
ứng lại, dẫn đạo làm lợi lạc cho.
4) Chúng sinh
nghe pháp được ích lợi.
Trong mục đầu lại
có hai phần : đầu là tự mình kêu lên, tự mình xướng xuất; sau đó là triệu tập
người khác tới.
“Nêu, xướng” có ba
ý :
1/ Xướng xuất đức
hiệu.
2/ Xướng xuất lợi
dụng.
3/ Xướng xuất tri
kiến.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Người
chưa độ” tới “khiến được Niết bàn”.
Tán rằng : đây là
“xướng xuất lợi dụng” (nêu lên lợi ích, tác dụng) : có khả năng thỏa mãn được
bốn nguyện.
“Độ” : có nghĩa
lìa khỏi, vượt qua.
“Giải” : có nghĩa
là đoạn ác tu thiện.
Bốn nguyện là
:
1) Người chưa lìa
khổ, nguyện khiến lìa được khổ.
2) Người chưa đoạn
ác tu thiện, nguyện đoạn ác tu thiện.
3) Người chưa an
lạc, nguyện làm cho họ được an lạc.
4) Người chưa
thành Phật đắc Niết bàn, nguyện làm cho họ được thành Phật đắc Niết bàn.
Kinh Anh Lạc nói :
“Biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo là bốn nguyện lớn”, cũng tức là đây.
Trong đây, bốn
loại Khổ, Tập, Diệt, Đạo, cứ theo thứ tự mà phối trí.
*
-Kinh văn : “Đời
nay đời sau” tới “người thuyết về đạo”.
Tán rằng :
đây là xướng xuất tri kiến. Có ba ý :
1) Xướng tam
minh.
2) Xướng nhị
trí
3) Xướng tam
pháp.
“Biết đời nay đời
sau” : đó là xướng tam minh. Đã thấy thì gọi là nay, hiện tại, quá khứ đều là
nay. “Nhất thiết trí” là chân trí. “Nhất thiết kiến” là tục trí. Hoặc đầu là
nhị trí, sau là ngũ nhãn.
“Biết đạo khai đạo
thuyết đạo” :
“Biết khai thuyết”
có nghĩa là :
- Biết các cảnh,
khai các hành, thuyết các quả.
- Biết chính tà,
khai thiện ác, thuyết đoạn tu.
- Hơn nữa biết đại
thừa, khai Độc giác, thuyết Thanh văn.
- Lại biết khai
thuyết về các loại Dị sinh, Hữu học, Vô học.
- Lại biết khai
thuyết về các loại Chính, Tà, Bất định, Tam tụ, Tam căn, Tam khoa, Tam
thế, Tam bảo, Tam độc, Tam đức, Tam giới, Tam lậu v.v…
Hơn nữa, lại biết
sinh tử, chỉ rõ tà chính, thuyết về thông tắc. Hơn nữa, giác ngộ biết được các
đạo, có khả năng khai thị sơ qua, có khả năng thuyết giải sâu rộng. Cứ theo thứ
tự mà phối trí.
Đạo có thứ chỉ một
loại, đó là chỉ một đạo nhất thừa. Có thứ có hai đạo (đối đãi với nhau); đó là
thiện và ác, thế gian và xuất thế gian. Cho đến mười nghiệp đạo v.v… , đều cứ
theo lý mà biết .
*
-Kinh văn : “Trời,
người các ngươi” tới “để nghe pháp”.
Tán rằng trên là
mục “nêu lên, xướng xuất”. Đây là : mục triệu tập.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ vô số” tới “mà nghe pháp”.
Tán rằng đây là
mục thứ hai, người khác nghe thấy thảy : đều kéo tới.
*
-Kinh văn : “Như
Lai bấy giờ” tới “khoái đắc thiện lợi”.
Tán rằng : đây là
mục thứ ba, Phật đáp ứng dẫn dắt làm lợi lạc cho chúng sinh.
Vì hạng lợi căn mà
thuyết đại thừa, vì hạng độn căn mà thuyết nhị thừa ; vì hạng lợi căn mà thuyết
nhị thảo, vì hạng độn căn mà thuyết tiểu thảo ; vì hạng tinh tiến mà thuyết về
tu hành, vì hạng lười nhác mà thuyết về mười niệm sinh Tây phương v.v…
*
-Kinh văn : “Các
chúng sinh này” tới “dần dần được nhập đạo”.
Tán rằng đây là
mục bốn, chúng sinh nghe xong được lợi : ích. Có hai quả :
1) Quả thế gian :
“đời này an ổn, đời sau được sinh ở chỗ tốt lành”. Như pháp theo lý mà thụ quả
báo, chẳng làm điều phi pháp, đó là “nhờ đạo mà được vui”.
2) Quả xuất thế :
“lìa chướng nhập đạo”. Đối với hạng không chủng tính thì khiến được quả
trước, hạng có chủng tính thì khiến được quả sau.
Thêm nữa Bồ tát
đạo có hai :
1/ Tăng thượng
sinh đạo.
2/ Quyết định
thắng đạo.
Cần biết, tùy theo
thứ tự đoạn trừ được hai chướng, cho nên tùy lực mà đắc đạo.
*
-Kinh văn : “Như
đám mây lớn kia” tới “mỗi thứ đều được sinh
trưởng”.
Tán rằng đây là hợp
thuyết về sự bẩm nhuận tiếp thụ : pháp mà Phật thuyết nói trên ở nơi mỗi chúng
sinh mỗi khác.
*
-Kinh văn : “Như
Lai thuyết pháp” tới “chẳng tựï biết rõ”.
Tán rằng dưới là
phần hợp thuyết thứ tư, có hai : mục : mục đầu là Pháp, mục sau là Dụ.
Trong Pháp thì :
đầu tiên nêu lên, sau đó giải thích.
Đây là phần nêu :
đầu tiên là Phật thuyết pháp, sau đó là chúng sinh nghe pháp.
“Một tướng” : có
nghĩa là không có tướng khác, vì là tướng Vô tướng.
Kinh Đại Bát Nhã,
quyển 73 nói rằng : “các pháp đều cùng một tướng đó gọi là vô tướng”. Kinh Vô
Lượng Nghĩa nói rằng : “thường thuyết các pháp chẳng sinh chẳng diệt, không có
cái này, không có cái kia, một tướng vô tướng”.
“Một vị” : có
nghĩa là một Vô lậu vị, một Thắng tư ích vị, vì không có cái Thể khác
nhau.
Kinh Thắng Man nói
: “một tướng một vị có nghĩa là minh giải thoát vị”. Tuy thuyết về rất nhiều
loại pháp chẳng giống nhau, nhưng rốt ráo đều quy về một tướng chân như, một vị
vô lậu, đều quy về thực tính cả.
Những gì là Thể
của một tướng một vị ? Đó là giải thoát Hoặc nghiệp khổ tướng, lìa tướng phân
biệt sở tri chướng, Chẳng phải là các pháp hữu vi khởi lên rồi hết tận, là giồng
như vô lậu, mà Thể là tướng tịch diệt. Các pháp sở khuyết rốt ráo chẳng lìa
Niết bàn trí tính. Đạt được điều này thì cứu cánh tới được Nhất thiết chủng
trí, chứng được Bồ đề.
Thêm nữa ,lý mà
Phật thuyết giảng chỉ có một tướng, vì rốt ráo tùy thuận khế hợp với trí trung
đạo. Chúng sinh nghe xong tùy thuận thụ trì, đọc tụng tu hành, được thành ba cỏ
hai cây khác nhau mà chẳng tự biết rõ.
*
-Kinh văn : “Vì
sao như vậy” tới “chủng tướng thể tính”.
Tán rằng dưới là
giải thích phần nêu ở trên. Có ba phần : nhỏ :
• Đầu tiên thuyết
minh về sự biết chung (tổng tri).
• Thứ đến thuyết
minh về sự biết riêng (biệt tri).
• Cuối cùng là kết
luận: Phật biết, chúng sinh chẳng biết.
Đây là phần
đầu.
“Chủng tướng” : là
loại biệt hữu vi.
“Thể tính” : là lý
bản vô vi.
Thêm nữa, tâm hành
tác dụng là chủng tướng. Tâm pháp thể tính gọi là thể tính
*
-Kinh văn : “Niệm
sự gì” tới “đắc pháp gì”.
Tán rằng đây là
thuyết minh về sự biết riêng “biệt tri”. : Có bốn pháp :
1) Tam tuệ sở
duyên.
2) Tam tuệ hành
tướng.
3) Tam tuệ thể.
4) Nhờ Hạnh gì mà
Qắc quả gì, nhờ Giáo gì mà được Lý gì.
Bốn loại pháp này
Phật đều biết cả, nhưng chỉ thuyết về Dược thảo. Chỉ thuyết về thứ này, cho nên
chẳng nói là biết về các thứ khác.
*
-Kinh văn : “Chúng
sinh trụ ở” tới “hiểu rõ, không bị trở ngại”.
Tán rằng đây là
phần kết luận : Phật biết, chúng sinh : chẳng biết.
“Địa” là chủng tử,
hoặc là các hành tướng thể tính của tâm gọi chung là Địa.
Chẳng giống với
địa đã nói đến trước đây, đó có nghĩa là nhất chân. Đó nói Phật giáo gọi là
nhất vũ (một trận mưa) nhất chân pháp giới gọi là nhất địa (một đất).
Trong đó tứ sinh
(các loại chúng sinh) gọi là cỏ cây v.v… chỉ ba thừa, năm thừa, hữu tính, vô
tính, Phật đều biết cả, chúng sinh chẳng biết.
*
-Kinh văn : “Như
cỏ cây kia” tới “thượng trung hạ tính”.
Tán rằng đây là
nêu thí dụ thứ tư hợp thành pháp trước. :
*
-Kinh văn : “Như
Lai biết đó” tới “nhất thiết chủng trí”.
Tán rằng về trần
thuật, có hai phần : :
- Phần trên, trần
thuyết xong xuôi.
- Phần dưới, kết
luận về phần trước.
Phần dưới đây có
hai :
• Đầu tiên nói rõ
Phật biết sâu, mà thuyết cho chúng sinh nông.
• Sau đó là tán
thành Ca Diếp có thể hiểu được nghĩa sâu.
Đây là phần đầu.
Từ “chung quy kết
ở không” trở về trước, nói rõ Phật biết sâu về tính Không, vì thể tức chân như,
phi không bất không.
Từ “quan sát tâm
của chúng sinh” trở về sau, Phật đã thuyết nông cho chúng sinh, nhưng vẫn khế
hợp với lý sâu : hai chướng hoàn toàn đoạn trừ rồi thì thành chủng trí.
Phật giữ lại ý ấy,
chẳng thuyết ngay cho chúng sinh về Nhất thiết chủng trí, mà tạm thời thuyết
cho họ về nhị thừa. Cho nên, Phật với Thanh văn do đó mà thành ra khác nhau.
*
-Kinh văn : “Các
ngươi Ca Diếp” tới “khó hiểu khó biết”.
Tán rằng : đây là
tán thành Ca Diếp hiểu được nghĩa sâu. Thoạt đầu nêu lên, sau đó giải
thích.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “thuyết rất nhiều pháp”.
Tán rằng dưới là
tụng, tất cả có 54 tụng rưỡi. Trong : đó 52 tụng rưỡi đầu, trùng tụng nghĩa trước
; còn 2 tụng sau, chuyển vào đoạn thứ ba của phẩm : kết thành thuyết
thực, chuẩn bị dần cho phần thụ ký.
Trong phần đầu lại
chia làm hai :
- 51 tụng đầu,
tụng về phần trần thuật trước.
- 1 tụng rưỡi sau,
tụng về phần kết thành trước.
Trong trần thuật
lại chia làm ba :
a) 4 tụng đầu.
tụng về phần Pháp thuật trước.
b) 10 tụng rưỡi
sau, tụng về phần Dụ thuật trước.
c) 36 tụng rưỡi
cuối, tụng về phần Hợp thuật trước.
Trong phần đầu có
hai mục :
+ 3 tụng đầu :
tụng về mục thứ nhất : Phật nổi lên ở đời, đó là vua về các pháp, lời Ngài
thuyết giảng chẳng hề sai.
+ 1 tụng cuối :
tụng về mục thứ tư : chúng sinh chẳng thể tự mình thông đạt.
Trong mục một này,
cũng có ba phần :
1/ Nêu rõ các điều
sở thuyết của pháp vương chẳng hề sai.
2/ Nói rõ Như Lai
thuyết pháp hiếm có,
3/ Nhắc lại thành
thuyết trước.
Đây là phần đầu.
“Phá hữu”, có
nghĩa là có thể :
- Phá nhất hữu :
cho rằng tam giới là sở hữu của một nghiệp hữu.
- Phá nhị hữu :
tức bản hữu và trung hữu.
- Phá tam hữu :
tức là tam giới;.
- Phá tứ hữu : tức
sinh hữu, tử hữu, trung hữu và bản hữu.
Kinh luận mới dịch
gọi là tiền thời hữu :
- Phá ngũ hữu :
tức là ngũ thú.
- Phá thất hữu :
tức ngũ thú, nghiệp hữu và trung hữu.
- Phá cửu hữu :
tức là cửu địa, cửu hữu tình cư.
- Phá nhị thập ngũ
hữu (25 hữu) : Tụng về 25 cõi rằng :
Tứ vực, Tứ ác thú.
Phạm vương, Lục
dục thiên.
Vô tưởng thiên,
Tịnh cư.
Tứ không, cùng Tứ
thiền.
Hoặc “Phá hữu” :
có nghĩa là Phá trừ cái tâm chấp hữu tam thừa vô biệt thể.
Hoặc trong tụng
này :
“Phá hữu pháp
vương” : là pháp thân.
“Xuất hiện thế
gian” : là báo
thân.
“Tùy chúng sinh
dục,
Chủng chủng thuyết
pháp” : là hóa thân.
*
-Kinh văn : “Đức
Như Lai tôn trọng” tới
“Chẳng cần phải thuyết ngay”.
Tán rằng đây là
thuyết minh về mục Như Lai thuyết pháp : hy hữu.
* “Mặc” [默] tức là Giam mặc [ 緘 默 ] : có nghĩa là im lặng, lẳng lặng. “Vụ” [務] có nghĩa là nôn nóng, vội vàng, chỉ chuộng.
“Im lặng” : vì cái
lý về một thực, ba quyền rất là vi diệu, cho nên Phật chẳng thích nôn nóng vội
vàng, chỉ chuộng việc trần thuật ngay tức thì, mà ắt còn phải đợi căn cơ của chúng
sinh thành thục, mới có thể thuyết cho.
*
-Kinh văn : “Người
trí nếu được nghe” tới
“Thế thì bị mất mãi”.
Tán rằng đây là
kết thành thuyết trước : vì sợ rằng : có sự nghi ngờ, hối lại, thành ra sẽ bị mất
mãi mãi, cho nên chẳng vội thuyết ngay.
*
-Kinh văn : “Thế
cho nên Ca Diếp” tới
“khiến họ được chính kiến”.
Tán rằng : đây là
tụng phần thứ tư : chẳng thể tự mình thông đạt.
Do Phật biết rõ
thấu đáo các pháp, biết rõ căn cơ của chúng sinh, biết cách giảng giải nào thật
thích nhất với sở thích của họ mà thuyết pháp, khiến họ được chính kiến. Còn
các chúng sinh thì chẳng thể tự biết thượng, trung, hạ tính. Lời văn nối tiếp ý
trước cho nên nói là “Thế cho nên”.
*
-Kinh văn : “Ca
Diếp ! Ông nên biết” tới
“Có thể bưng hứng được”.
Tán rằng dưới là
đoạn thứ hai, có 10 tụng rưỡi, tụng : về phần Dụ thuật trước kia, chia làm ba phần :
1. Đầu là 3 tụng :
hợp thuyết về hai dụ đầu : dụ về việc pháp vương xuất thế và dụ về thuyết
giáo nhuần tưới khắp.
2. Thứ đến 6 tụng
rưỡi : tụng về dụ thứ ba, là dụ về sự hấp thụ việc tưới nhuần (sự tiếp thu giáo
pháp) của chúng sinh mỗi người mỗi khác.
3. Cuối là 1 tụng
: tụng về dụ “chẳng tự giác ngộ biết rõ”.
Phần đầu lại
chia làm hai mục nhỏ :
a) Đầu 1 tụng :
tụng chung về hai dụ trước .
b) Cuối 2 tụng :
giải thích riêng về công đức của mây.
“Giống như đám mây
lớn nổi lên ở thế gian” : đây là dụ đầu.
“Che khắp hết
thảy” : là dụ thứ hai.
Ca tụng mây có 7
công đức :
1) Mây tuệ chứa
đựng các pháp để tưới nhuần (tuệ vân hàm nhuận) : như từ tâm, rồng khởi
mây lên chứa sẵn cơn mưa, trụ suốt 7 ngày, đợi người nông phu canh tác xong mới
đổ mưa. Đó là để ví với trong đám mây Từ của Phật có chứa đựng muôn đức, đợi
cho căn cơ chúng sinh chín muồi rồi mới đổ mưa pháp vũ xuống mà tuyên dương Phật
pháp để hóa độ cho.
2) Ánh chớp sáng
soi (điện quang hoảng loạn) : ví với sự giáo hóa dẫn đạo của Phật rất rõ ràng,
thân quang trí quang soi khắp mọi thứ.
* Chữ [晃] đọc là Hoảng, nghĩa như chữ Quang [光] : có nghĩa là sáng, ánh sáng. Chữ [耀] đọc là Diệu, có nghĩa là soi sáng chiếu dọi.
3) Tiếng sấm vang
xa (lôi thinh viễn chấn) : kinh động các loài chúng sinh ở tận nơi xa, ví với
việc đức Phật ra đời khiến bọn ma phải sợ hãi.
4) Khiến chúng
sinh vui mừng (lệnh chúng duyệt dự) : chúng sinh mừng vì thấy mây nổi
lên, vui vì sẽ được bóng rợp của mây che cho, ví với việc thấy Phật xuất hiện
thì mừng rằng sẽ được con thuyền giáo pháp do Phật thuyết chở cho cả năm loài
(ngũ thú).
* Chữ [豫] Dự : có nghĩa vui mừng sung sướng.
5) Che ánh mặt
trời (nhật quang yểm tế) : ví với việc diệt trừ phiền não, như trong Kinh Hoa
Nghiêm nói rằng : “che thói tà đi để thấy ánh mặt trời”.
6) Trên đất mát mẻ
(địa thượng thanh lương) : ví với việc khiến cho loài hữu tình dẫu ở địa vị
sinh tử mà vẫn chứng được Niết bàn.
7) Râm rợp rủ che,
như bưng hứng được (Ái đãi thùy bố, như khả thừa lãm) :
* Có sách
giải thích chữ [靉] Ái : là tối tăm (muội); chữ [靆] Đãi : là màu đen. Hai chữ này có âm đọc là Ái đãi, có nghĩa là
đen tối u ám, vì vậy bóng mây che gọi là “Ái đãi”.
Thêm nữa sách
Quảng Nhã còn giải thích nghĩa Ái đãi giống như “Ế hội” [翳薈], mà “ế hội” là từ nói về trạng thái mây đùn lên rất nhiều. (Vậy
có nghĩa là râm rợp). Sách Thông Tục văn giải thích : mây che khuất mặt trời
thì gọi là Ái đãi.
Đây là thí dụ ví
với việc đức Phật giáng linh, từ bi hưng thịnh, làm khuôn mẫu lớn, khiến chúng
sinh mừng rỡ ưa thích vì sẽ được làm Phật, cho nên gọi là Ái đãi (râm mát).
“Như bưng hứng
được” , “bưng hứng” (thừa lãm) : là nói về tình trạng có thể nắm được.
* Chữ [攬] đọc là Lãm, có nghĩa là cầm lấy, còn viết là [ ]. Sách thuyết Văn viết là [攬], có nghĩa là nắm
được.
Vì Bồ đề chẳng thể
dùng thân tâm mà chứng đắc, nếu có thể thì cũng chỉ dường như đắc, mà chẳng
phải thực sự đắc. Phải dùng trí mà chứng, cho nên nay phải thêm (cho mây kia)
ba công đức nữa :
1/- Tiếp theo ý
văn trên, sở dĩ (Phật như mây kia) khởi lên ở thế gian là vì xót thương tất cả
các loài chúng sinh.
2/- Rồng có khả
năng khiến mây nổi lên, vì ví như 2 thân : pháp thân và báo thân (của Phật)
thực hiện công cuộc giáo hóa này.
3/- Có thể đổ trận
mưa rào tưới nhuần cho các cây cỏ đâm chồi. Đây là ví với việc (đức Phật) có
thể thuyết pháp, làm lợi ích cho hết thảy.
Ba đức này gộp với
bảy đức nói trên trong kinh, tất cả là mười đức.
*
-Kinh văn : “Mưa
ấy khắp đều nhau” tới
“Cõi đất đều thấm ướt”.
Tán rằng dưới là
đoạn thứ hai, nói về sự thấm nhuần : của mỗi loài mỗi khác.
Đoạn này có 6 tụng
rưỡi, chia làm ba phần :
- 1 tụng nói về
công năng của mưa.
- 2 tụng rưỡi nói
về Thể của sự tưới nhuần trưởng dưỡng.
- 3 tụng nói về
Dụng của sự tưới nhuần trưởng dưỡng.
Đây là phần
đầu.
Kinh Niết Bàn nói
: “đối với chúng sinh, Phật chẳng cần xét tới chủng tính của họ, thậm chí họ là
hạng tôi tớ thấp hèn, mà chỉ xét tới chúng sinh có thiện tâm thì ngài đều thương
xót. Ví như sư tử nhìn thấy sư tử con kia bị hương tượng giết như thế nào, thì
lúc con thỏ bị nó giết cũng thế, chẳng sinh tâm khinh thường”.
Gọi là “phổ đẳng”
(phổ cập đều khắp), vì mưa ấy “đổ xuống cả bốn phương”, tưới cho khắp mọi loài
chúng sinh, khiến cho “cõi đất đều thầm ướt” đầy rẫy tràn trề.
*
-Kinh văn : “Nơi
sông, núi, hẽm, hang” tới
“Cây cỏ thuốc đều tốt”.
Tán rằng đây là
thuyết minh về Thể của sự tưới nhuần : trưởng dưỡng :
a) 1 tụng đầu là
nói chung.
b) 1 tụng rưỡi sau
là nói riêng về sự tưới nhuần cho từng chủng tính.
* “Bách cốc” (hàng
trăm loại cốc). Chữ Cốc [穀] có nghĩa là kế tục. Vật Lý luận của
Dương Tuyền nói : chữ Lương [粱] là tên chung của kê
nếp, kê tẻ (Thử tắc) [黍稷]. Chữ Đạo [稻] là tên chung của thóc tẻ, thóc nếp (Canh nga [ ]). Chữ Tề [齊] là tên chung của các loại đậu.
Ba loại cốc (tam
cốc) nói trên, mỗi loại lại chia làm 20 thứ, gộp lại là 60 thứ. Dưa rau mỗi
loại có 20 thứ. Tổng cộng thành ra 100 thứ cốc (bách cốc). Cho nên Kinh Thi có
câu : “gieo trăm thứ cốc”. Chu Dịch có câu : “trăm thứ cốc bám vào đất”.
Ba sự : “trăm thứ
cốc, mía, nho” : là để ví hai loại cỏ vừa và lớn, vì ba thừa có chủng
tính.
* Chữ [蔗] đọc là Giá. Chữ [萄] đọc là Đào, chữ này
còn viết là [桃.陶]. Trương Khiên đi sứ
sang Tây vực mang về được An thạch lựu, bồ đào [葡桃], hồ đào [胡桃]. Sách Quảng Chí nói rằng : bồ đào viết là [葡桃] có ba loại trắng, đen, vàng.
Loại cỏ nhỏ [小草] này ví với hạng Vô chủng tính được sinh ở cõi người, cõi trời.
Như “đất khô được tưới khắp” : không có xuất thế chủng. Tổng kết cả phần trên
thì nói rằng : tam thừa dược thảo, hai cây đại tiểu có chủng tính, nhân trận
mưa này mà “được tưới nhuần xanh tốt khắp cả”. Đây là theo nghĩa riêng mà phối
hợp với Dụ.
Cũng có bản nói :
núi, sông, hẽm, hang : lúa mạ ở đấy tức là bách cốc.
* Sách Thuyết Văn
nói : cỏ mọc ở ruộng thì gọi là Miêu [苗] (mạ). Các sách Thương
Hiệt, Ngọc Thiên nói : lúa [禾] (Hòa) chưa trổ bông
thì gọi là Miêu (mạ). Ví như câu “miêu nhi bất tú” (mạ chẳng trổ bông). Lúa đâm
bông nẩy hạt thì gọi là Giá [稼], cọng lúa thì gọi là
Hòa[禾]. Lại nói, khi còn ở ruộng thì gọi là Giá [稼].
Theo cách giải
thích, trước hai chữ Miêu giá (mạ lúa) có sự khác nhau, ví với nhân và quả có
sự khác nhau. Theo cách giải thích sau, thì Miêu tức là Giá, thế thì chỉ ví với
các loài cốc nói chung.
*
-Kinh văn : “Từ
mây ấy mưa tuôn” tới
“Đều tươi tốt mượt mà”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về Dụng của sự tưới nhuần trưởng dưỡng. Có hai ý :
• 2 tụng đầu nói
về ý nhờ được tưới nhuần mà được sinh trưởng.
• 1 tụng sau nói
về ý nhờ được tưới nhuần mà được tươi tốt mượt mà.
“Ba bậc thượng,
trung, hạ” khác nhau ở mỗi loại cây.
“Xứng với tiểu, đại
ấy” : có nghĩa là hai loại cây tiểu, đại đều có ba bậc cả.
“Gốc, thân và
cành, lá” : bốn nghĩa này như trước.
Các cây này đều có
“hoa” và “quả”, đều có “vẻ sáng” nhờ tác dụng ở bên ngoài.
Hoa ví chung với
nhân. Quả ví chung với quả.
Những lời văn khác
có thể hiểu được.
*
-Kinh văn : “Như
thể tướng của nó” tới
“Mỗi thứ được nhuần tốt”.
Tán rằng đây là
tụng về phần thứ tư “chẳng tự biết : rõ”.
Sự tưới nhuần chỉ
là một, vì sự thụ giáo giống nhau nhưng sự thấm nhuần tươi tốt mỗi thứ mỗi
khác. Chúng sinh ba thừa rốt cuộc chẳng tự biết rõ công đức mà mình đạt được.
Cho nên biết rằng ba thừa có sự khác biệt vì trí có sự khác nhau ví như ba cỏ
hai cây vậy.
*
-Kinh văn : “Đức
Phật cũng như vậy” tới
“Thực chất của các pháp”.
Tán rằng đây là
đoạn thứ ba, có 36 tụng rưỡi, tụng về : phần hợp thuyết trước kia.
Văn đây chia làm
hai phần :
- 2 tụng đầu, tụng
hai hợp thuyết đầu.
- 34 tụng rưỡi
sau, tụng về hợp thuyết của phần thứ ba “sự tiếp thụ nhuần tưới của mỗi loài
mỗi khác”.
Chẳng tụng về
hợp thuyết của phần thứ tư “chẳng tự biết rõ”.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Đấng
đại thánh Thế tôn” tới
“Cùng sự vui Niết bàn”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ hai, gồm 34 tụng rưỡi, tụng về hợp thuyết “sự tiếp thụ nhuần tưới mỗi
loài mỗi khác”.
Trong đó trường
hàng có bốn mục, đây chỉ có ba mục :
- 4 tụng rưỡi đầu
: tự nêu triệu tập.
- 9 tụng rưỡi sau
: Phật ứng dẫn đạo, lợi lạc (cho chúng sinh)
- 21 tụng cuối :
chúng sinh nghe xong, được ích lợi.
Chỉ không có hợp
thuyết về phần thứ hai : người khác nghe xong thảy đều kéo tới.
Trong mục đầu có
hai ý :
+ 3 tụng rưỡi đầu
là nêu.
+ 1 tụng sau là
triệu.
Đây là ý đầu : tuy
có chủng tính, chưa từng được nghe pháp. Thiếu thốn về pháp thì gọi là khô
héo.
* Chữ Cảo [槁] nghĩa như chữ Khô [枯].
*
-Kinh văn : “Các
chúng người, trời này” tới
“Ra mắt Vô thượng tôn”.
Tán rằng đây là
triệu vậy. :
*
-Kinh văn : “Ta là
đấng Thế tôn” tới
“Vì Niết bàn giải thoát”.
Tán rằng dưới là
đoạn thứ hai, có 9 tụng nói về việc : Phật ứng với căn cơ chúng sinh mà dẫn đạo làm
lợi lạc cho họ.
Trong đây có 5 mục
:
1) Đầu là 2 tụng :
Phật thuyết thắng pháp.
2) Thứ đến 1 tụng
: tụng đại thừa nhân.
3) Thứ đến 2 tụng
rưỡi : bình đẳng thuyết pháp.
4) Thứ đến 1 tụng
rưỡi : chuyên làm lợi ích.
5) Cuối cùng là 2
tụng : chẳng lựa lọc tốt xấu.
Đây là mục đầu.
Chính pháp vị
ngọt, có thể chữa khỏi chứng phiền não, cho nên ví với “cam lồ” (móc ngọt).
*
-Kinh văn : “Chỉ
dùng một diệu âm” tới
“Mà kết làm nhân duyên”.
Tán rằng : đây là
mục hai “đại thừa nhân”.
Giả thiết thuyết
về nhị quyền, vì đều là đại thừa nhất thiết chủng trí cả.
*
-Kinh văn : “Ta
xem hết thảy chúng” tới
“Lúc đông nhiều cũng thế”.
Tán rằng đây là
mục ba “bình đẳng thuyết pháp”. :
Đoạn trừ được tư
tưởng phân biệt ta và không phải ta (vật), cho nên không có sự phân biệt cái
này cái kia.
Vì đã đoạn trừ được
yêu ghét, cho nên không có tâm phân biệt kẻ oán người thân. Vì chẳng sẻn pháp,
nên ta không có thói tham trước. Vì chẳng ghen ghét, nên cũng không có ngăn
cách trở ngại.
Cho nên bình đẳng
thuyết pháp cho một người cũng như nhiều người. Tức là giống như ý bài kệ “nếu
ai tin theo Phật” đã nói trước đây.
*
-Kinh văn :
“Thường diễn thuyết pháp luôn” tới
“như mưa tưới nhuận khắp”.
Tán rằng đây là
mục bốn : “chuyên làm lợi ích”. :
“Đi, đến, ngồi
đứng” : ba uy nghi Phật, lược qua không có nằm. Vì lúc làm lợi lạc cho chúng
sinh, hoặc “đi” để thị hiện nhập Niết bàn, hoặc “đến” để thị hiện thành chính
giác, hoặc “ngồi” chỉ việc thuyết pháp lợi sinh, hoặc “đứng” để chờ chúng sinh
cơ duyên chín muồi, mà “chẳng hề mệt mỏi lười nhác”, đó là vì lòng từ bi sâu
sắc vậy.
*
-Kinh văn : “Sang
hèn cùng trên dưới” tới
“Mà không chút lười nhác”.
Tán rằng : đây là
mục năm : “chẳng lựa lọc tốt xấu”.
Chẳng chọn chủng
tính nghèo giàu, sang hèn, chỉ cần thấy có thiện căn là liền thuyết pháp cho,
ví như con sư tử con khi giết thỏ cũng như bị hương tượng giết, nó không có tâm
phân biệt lựa chọn.
*
-Kinh văn : “Hết
thảy hạng chúng sinh” tới
“Trụ ở nơi các địa”.
Tán rằng dưới là
đoạn thứ ba, có 21 tụng nói về việc : chúng sinh nghe pháp được lợi ích.
Chia làm ba phần
:
- Đầu 9 tụng rưỡi
: pháp dụ, hợp thuyết về sự hấp thụ nhuần tưới có chỗ khác nhau, với tính khác
nhau.
- Kế 3 tụng rưỡi :
pháp dụ, hợp thuyết về sự hấp thụ nhuần tưới khiến được nảy nở tươi tốt, với
nhân khác nhau.
- Cuối 8 tụng :
pháp dụ, hợp thuyết về sự hấp thụ nhuần tưới thành ra quả thực, với quả khác
nhau.
Phần đầu có hai
phần nhỏ :
+ Đầu tiên là 8
tụng về pháp.
+ Sau đó là 1 tụng
rưỡi về dụ.
Phần đầu này lại
chia làm hai mục :
- 1 tụng đầu, là phần nêu chung.
- 7 tụng sau, là phần thuyết minh riêng.
Đây là phần
đầu.
“Trụ ở các địa” :
chỉ Thập địa của tam thừa, gồm có : Càn huệ địa, Chủng tính địa, Bát nhân địa,
Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly lục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ tát địa, Như
Lai địa; vì dưới sẽ nói riêng về ba cỏ, đây nói trước về Thập địa cộng hành của
tam thừa.
Hoặc Phàm phu địa,
Hữu học địa, Vô học địa, Bồ tát địa, Như lai địa. Hoặc địa của tam thừa nói ở
đây tức là vô tính, nhị thừa chủng tính và đại thừa tính, tùy theo phận vị đó
mà gọi là “địa”.
*
-Kinh văn : “Hoặc
ở cõi người, cõi trời” tới
“Là dược thảo bậc thượng”.
Tán rằng dưới đây
là 7 tụng thuyết minh riêng, chia làm : hai phần :
- Đầu 4 tụng :
tụng về ba cỏ.
- Cuối 3 tụng :
tụng về hai cây.
Đây là phần đầu,
có ba mục :
a) 1 tụng : tiểu thảo.
b) 2 tụng : trung thảo.
c) 1 tụng : đại thảo.
Hạng người vô
chủng tính thích sự khoái lạc ở cõi người, cõi trời, thì gọi là tiểu
thảo.
Kinh Thiện Giới
nói rằng : “người vô chủng tính thì chỉ dùng thiện căn của người, trời mà khiến
họ thành thục”. Hoặc :
- Bảy phương tiện
cũng gọi là tiểu thảo.
- Nhị thừa gọi là
trung thảo.
- Bồ tát gọi là
thượng thảo.
Cũng tức là tứ
sinh mà Thắng Man phụ trách :
- Chúng sinh vô
văn phi pháp (không nghe pháp, làm sai pháp) tức là tiểu dược thảo.
- Giữa là nhị thừa
tức là trung dược thảo.
- Bồ tát là đại
dược thảo.
Đó tức là ba loại
bệnh nhân trong Kinh Niết Bàn vậy.
*
-Kinh văn : “Lại
nữa, các Phật tử” tới
“Đó gọi là cây lớn”.
Tán rằng đây là
thuyết minh về nhị mộc (hai loại cây) : :
- 1 tụng rưỡi đầu
: tiểu mộc.
- 1 tụng rưỡi sau
: đại mộc.
Tức là trong đại
thảo chia làm hai :
a) Địa tiền là
tiểu mộc, vì trừ được nghi hối, biết chắc chắn sẽ được làm Phật.
b) Thập địa gọi là
đại mộc, vì được nhị lợi, vì đã chứng được địa vị bất thoái chuyển, chẳng
còn phải tu hạnh bất thoái nữa.
Về nghĩa, xét
thấy nhị thừa chưa thành Vô học, cũng gọi là trung thảo.
Ba ý sinh thân căn
cứ vào sự quyết định, chỉ nói Vô học hồi tâm trở về sau mới thụ biến dịch sinh,
vì phần vị đã quyết định, khác với hạng Hữu học, cho nên ở đây chẳng bàn
tới.
Hạng chưa nhập
thánh vị và hạng vô chủng tính có thể gọi là tiểu thảo.
Căn cứ vào đó, thì
hạng Địa tiền chẳng gọi là tiểu mộc, nếu thế thì tiểu mộc bao gồm những gì ?
Cho nên cách giải thích trước tốt hơn.
Hoặc trước Thất
địa gọi là tiểu mộc, sau Bát địa gọi là đại mộc. Đây nói bất thoái, về tu hạnh
bất thoái. Hết thảy Bồ tát đều gọi là đại thảo.
Trí Độ luận nói
rằng : “ví như sấm động, chim nhỏ nghe thấy thảy đều kinh sợ, chim công nghe
thấy thì liền múa mênh, cho nên gọi là đại thảo”. Nhân đó mà giải thích nhị mộc
phần vị khác nhau. Trong các kinh luận nói về việc chứng đắc Bồ đề, lý chẳng
thống nhất.
Kinh Đại Bát Nhã
quyển 74 nói về năm loại Bồ đề. Kinh Kim Cương Bát Nhã nói rằng : “thực ra
không có tiểu pháp đắc Phật bồ đề. Nếu có tiểu pháp đắc Bồ đề thì Phật Nhiên
Đăng ắt chẳng thụ ký cho ta. Lại còn có lời dạy rằng : lúc mới phát tâm, liền
thành chính giác”.
Kinh này nói tới
tám lần sinh, thậm chí một lần sinh sẽ được Bồ đề. Cũng có thuyết nói : ba đại
kiếp tu mới lên chính giác. Ý kiến của các vị Luận sư về các nghĩa này khác
nhau.
Du Già luận nói rằng
: “kiếp” có hai loại :
1) Đó là số ngày,
tháng, năm, tức là ngày, đêm, tháng, mùa, năm nói trong luận này.
2) Chỉ A tăng kỳ
kiếp.
Các thứ vượt qua
được chỉ có thể vượt tiền kiếp, không thể vượt hậu kiếp.
Cho nên theo nghĩa
này, nếu căn cứ vào Vô vi chân như Vô tướng thì thực không có tiểu pháp đắc Bồ
đề, vì Kinh Bát Nhã chủ thuyết về Vô vi. Sơ địa Bồ đề, phát tâm liền chứng. Đây
là chứng phát tâm, chẳng phải như chủng tính phát tâm, giống với kinh này : Tám
lần sinh thậm chí một lần sinh sẽ được.
Hoặc trong kinh
này căn cứ vào chứng phát tâm. Luận giải chứng đắc Sơ địa Bồ đề, cho nên sơ
phát tâm đó liền lên chính giác, vì là nhân Bồ đề của chủng tính phát
tâm.
Ba đại kiếp tu mới
chứng được Bồ đề, đó là Vô thượng Bồ đề, là quả mãn Bồ đề, vì đại kiếp tu. Như
vậy thì cũng chẳng trái ngược nhau. Phật quả to lớn, chẳng phải là do
nhân nhỏ mà thành được. Nếu còn nghĩ khác thì rất trái với chính đạo.
Cho nên Kinh Niết
Bàn nói : “nói là Phật khó thành, thì mau thụ ký cho. Nói là Phật dễ thành thì
chậm thụ ký cho”.
*
-Kinh văn : “Phật
bình đẳng thuyết pháp” tới “bẩm thụ mỗi người mỗi khác”.
Tán rằng dụ này
nói về sự bẩm thụ của mỗi loại mỗi : khác vì tính khác nhau.
*
-Kinh văn : “Phật
dùng thí dụ này” tới “dần dần tươi tốt thêm”.
Tán rằng dưới là 3
tụng rưỡi là pháp dụ hợp thuyết : về sự bẩm thụ nhuần tưới rồi phát triển tươi
tốt về nhân của mỗi loài mỗi khác.
- 1 tụng rưỡi đầu,
ví với điều Phật thuyết ít ỏi “như một giọt trong biển” (như hải nhất
trích).
- 2 tụng sau, là
pháp dụ hợp thuyết về nhân tăng trưởng tốt tươi khác nhau.
* Chữ [滴] đọc là Trích. Thông Tục văn giải thích : rơi từng giọt gọi là
Ngưng. Sách Thiết Vận viết là [滴]. Có chỗ viết là
[ ] và đọc là Đế, có nghĩa là nước rơi xuống, chẳng phải là
nghĩa ở đây.
*
-Kinh văn : “Pháp
của các đức Phật” tới “đều được đầy đủ khắp”.
Tán rằng dưới có 8
tụng là pháp dụ hợp thuyết về sự : bẩm nhuận thành ra trái quả khác nhau.
Có hai phần
:
- Đầu 6 tụng rưỡi
: là pháp thuyết.
- Sau 1 tụng rưỡi
: là dụ thuyết.
Văn đầu có ba mục
:
+ 1 tụng đầu :
tụng chung về có thể khiến cho được quả được đầy đủ, cũng là tụng riêng về
khiến cho tiểu thảo quả mãn.
+ 2 tụng rưỡi kế :
về trung thảo.
+ 3 tụng rưỡi cuối
: tụng về đại thảo.
Đây là mục đầu :
thế gian đầy đủ gọi là nhân thiên mãn.
*
-Kinh văn : “Tuần
tự tu hành dần” tới “thảy đều được tăng trưởng”.
Tán rằng đây là
thuyết minh về trung thảo. :
Nhân người trời
sinh, “dần được đạo quả” nghĩa là nhị thừa mãn.
*
-Kinh văn : “Nếu
các vị Bồ tát” tới “mà đều được tăng trưởng”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về đại thảo.
Đại thảo tức là
nhị mộc (hai loại cây) :
- 1 tụng rưỡi đầu
: tiểu mộc.
- 2 tụng sau : đại
mộc.
*
-Kinh văn : “Như
vậy đó Ca Diếp” tới “thảy đều được thành quả”.
Tán rằng : đây là
dụ hợp thuyết về sự bẩm nhuận (tiếp thụ tưới nhuần) trước kia được thành trái
quả viên mãn.
*
-Kinh văn : “Ca
Diếp nên biết rằng” tới “chư Phật đều như thế”.
Tán rằng :
đây là đoạn thứ hai, tụng kết luận về những điều nói trên : ta giống chư Phật :
trước quyền sau thực. Các ngươi tín thụ, nên cực hiếm có.
*
-Kinh văn : “Ta
nay vì các ngươi” tới “thảy đều sẽ thành Phật”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ ba của phẩm, là phần kết luận : thuyết về thực thừa để làm đà dần dần
cho việc thụ ký.
Sự tu hành của
Thanh văn là nhân xa của việc thành Phật. Cho nên là đạo phương tiện mà Bồ tát
tu hành.
Luận nói rằng :
“điều các ngươi tu hành, đó là đạo Bồ tát”, có nghĩa là phát tâm Bồ đề, thoái
rồi lại phát, thiện căn tu hành được trước kia chẳng diệt, sau nay cùng được quả
cả.
Cho nên, việc tu
nhị thừa là cái nhân phương tiện xa của đại thừa, đó gọi là đạo Bồ tát.
PHẨM THỤ KÝ
Dùng ba môn để
phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH SAI
BIỆT.
III. GIẢI THÍCH
TÊN PHẨM.
I. NÓI RÕ
DỤNG Ý.
Có hai ý
:
1. Thu Tử là bậc
thượng căn, nghe pháp thuyết liền giải ngộ, Phật liền thụ ký cho. Bốn người
khác là hạng trung căn nghe dụ thuyết rồi mới hiểu, nên Phật cũng thụ ký
cho.
2. Vì ba loại
người không có phiền não nhưng lại nhiễm mạn mà thuyết tam bình đẳng, thoạt đầu
nói về thừa bình đẳng, cho nên Phật cũng thụ ký cho.
Trước kia Phật nói
: thể của thừa khác nhau, bèn có hạng Vô học chấp trước cho rằng thừa nhất định
khác nhau. Vì vậy mà phải ký biệt, để tỏ rõ là thừa bình đẳng. Chính vì vậy mói
có phẩm này, như phẩm Thí Dụ đã giải thích.
II. GIẢI THÍCH SAI
BIỆT.
Có ba loại có thể
thụ ký :
1. Thể tính là
có.
2. Thắng hữu đương
quả (có thể tính tốt, sẽ được thành quả).
3. Thắng nhân
thắng lý, đại nhân đại quả (người tốt lý tốt, nhân lớn quả lớn).
1. Thể tính có,
thì có thể thụ ký. Thể tính không có, thì chẳng thể thụ ký, như 14 loại Bất khả
ký. Lý sự vốn không thì chẳng thể thụ ký.
-Hỏi : có thể tính
thì có thể thụ ký cho, sao Kinh Hoa Nghiêm nói rằng : “Hữu thủy vô thủy là vô
ký ? Phật chẳng đáp. Lại một vị Tỳ kheo hỏi : mười hai nhân duyên tự tác, tha
tác. Vô minh tự khởi, là nghĩa vô thủy, gọi là tự tác. Lại từ tha khởi, là
nghĩa hữu thủy, có gọi là tha tác ?”
Đáp : “Phật đều
bác bỏ và nói : ví như người bị tên độc bắn trúng, chỉ nên mời thầy thuốc
nhổ cho, chẳng cần hỏi tên ấy vì sao mà trúng”. Cho nên, hạng có thể tính thì
có thể thụ ký ; không có thì chẳng thể thụ ký.
2. Hạng thắng hữu
đương quả thì có thể thụ ký, không thì chẳng thể thụ ký cũng như thiện pháp với
bất thiện pháp.
Thành Duy Thức
luận nói rằng : ký là nói về thiện ác. Hạng có tự thể thù thắng và sẽ thành quả
có thể ghi nhận, cho nên gọi là Ký. Hạng Vô ký chẳng thế, cho nên chẳng thể thụ
ký.
3. Thắng nhân
thắng lý, đại nhân đại quả thì có thể thụ ký, chẳng phải hạng ấy thì chẳng thể
thụ ký.
Biệt ký tức Ký
biệt kinh, ghi chuyện đệ tử sinh tử vì là thắng nhân (người nổi trội), ghi
nghĩa thâm mật vì là thắng lý (lý nổi trội), ghi người sẽ thành Phật vì là đại
nhân đại quả (nhân lớn quả lớn). Người kém lý kém, nhân nhỏ quả nhỏ thì gọi là
“bất khả ký” (chẳng thể được thụ ký). Nay ở đây chính là hạng đại nhân đại quả
trong loại thứ ba này, cho nên thụ ký cho họ.
Chẳng phải là hai
loại đầu được thụ ký toàn bộ và hạng sau cũng được thụ ký một bộ phận
nhỏ.
Thêm nữa, việc thụ
ký này có nhiều sai biệt.
Ở đây nêu lêu 6
loại như sau :
- 1 loại ký : như
thụ ký kinh trong 12 phần giáo.
- 2 loại ký : như
nói trong Kinh Niết bàn :
- Nếu người
nghe thuyết pháp tùy thuận thích nhập đạo chóng được thành Phật, rồi trong tâm
sinh ra khinh rẻ, thì thụ ký chậm cho họ.
- Nếu nói
đạo Phật khó thành, phải chịu vất vả khổ sở lâu rồi sau mới thành được, thì thụ
ký nhanh cho người đó.
Ngoài ra còn có
:
- Hạng thiện căn
chín rồi thì thụ ký nhanh cho.
- Hạng thện căn
chưa chín thì thụ ký chậm cho.
- Hạng chán ghét
sinh tử, muốn chóng chứng Bồ đề, Trí tăng thượng, thì thụ ký nhanh cho.
- Hạng thích ở
trong vòng sinh tử, hóa độ chúng sinh, Bi tăng thượng, thì thụ ký chậm
cho.
Lại còn có hai
loại :
1) Tổng ký (thụ ký
chung).
2) Biệt ký (thụ ký
riêng).
- 3 loại ký : như
Trí Độ luận nêu :
1/ Tự biết
tha chẳng biết, vì lợi tự mà chẳng
lợi tha.
2/ Tha biết tự chẳng biết vì lợi tha.
3/ Tự
tha đều biết, vì thực hành cả hai lợi.
- 4 loại ký : như
trước đã nói.
- 5 loại ký
: tức là Như lai tự ký trong kinh này.
- 6 loại ký : như
phẩm Thí Dụ lúc đầu đã nói.
III. GIẢI THÍCH
TÊN PHẨM.
Chữ [授] đọc là Thụ, nghĩa ở đây như các chữ Vi, Dữ, Phó, có nghĩa là
trao cho, truyền cho.
Chữ [記] Ký : ở đây có nghĩa như các chữ Quyết, Biệt, Nghiệm, Chí : để
quyết định dứt khoát sẽ thành quả, để phân biệt quả tướng sẽ tới và nghiệm với
nhân của nó, ghi nhận cái quả sau này, cho nên gọi là Thụ ký.
Phẩm này thuyết
minh về chuyện ấy nên gọi là phẩm Thụ Ký.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “vô lượng đại pháp”.
Tán rằng văn trong
phẩm này chia làm hai phần lớn : :
• Phần đầu là bốn
người hiện tiền đựơc biệt thụ ký.
• Phần cuối phẩm
có 2 tụng rưỡi, nêu rõ việc sẽ thụ ký. Đó là lý do của vòng thuyết pháp thứ
ba.
Phần đầu lại chia
làm hai phần :
- Phần đầu là Ca
Diếp được thụ ký.
- Phần sau là ba
vị đại Thanh văn thụ ký.
Phần đầu này lại
chia là hai :
- Trước là trường
hàng.
- Sau là kệ
tụng.
Phần trường hàng
trước lại có hai mục :
+ Đầu là nhân ký.
+ Sau là quả
ký.
Đây là mục đầu :
ngoài gặp duyên tốt, trong tu diệu hạnh.
* Chữ [覲] Cận : nghĩa như kiến, có nghĩa là “được thấy”, “được gặp”.
Cứ theo như lời
văn thì có thể biết, nhưng xét những người trên dưới được thụ ký thì nên chia
làm bốn câu :
1) Tại Tiểu (thừa)
không có sự hơn kém, tại Đại (thừa) thì có. Như năm trăm đệ tử cùng là bậc Vô
học, nên Tiểu không có sự hơn kém. Trước sau thành Phật, lần lượt thụ ký, nên
Đại có sự hơn kém.
2) Tại Tiểu có sự
hơn kém, tại Đại không có sự hơn kém. Như hạng Học nhân, hạng Vô học nhân, tại
Tiểu thì Học và Vô học hơn kém khác nhau. Đồng thời thành Phật, cho nên tại Đại
không có sự hơn kém.
3) Tiểu kém, Đại hơn.
Như A Nan tại học địa đắc quả Dự lưu, thành Phật trước La Hầu.
4) Tiểu hơn, Đại
kém. Như La Hầu là bậc Vô học thành Phật sau A Nan.
Nay bốn người này,
chẳng căn cứ vào căn tính mà luận ngôi thứ, là vì tại Tiểu không có sự hơn kém,
cùng là hạng Vô học, tại Đại có sự (phân biệt) hơn kém.
Ca Diếp được gặp
ba trăm vạn ức Phật.
Tu Bồ đề được gặp
ba trăm vạn ức Na do tha Phật.
Ca Chiên Diên lúc
đầu gặp tám ngàn ức Phật, sau gặp hai vạn ức Phật.
Đại Mục Kiền Liên
lúc đầu gặp tám ngàn chư Phật, sau gặp hai trăm vạn ức Phật.
Cúng dàng nhiều
ít, có sự khác nhau, cho nên biết rằng thành Phật cũng có kẻ trước người
sau.
Kinh Niết Bàn nói
: “Thứ tự, y Bồ tát cúng dàng tám Hằng hà sa Phật”. Nay nói Tiểu là chỉ người
thoái tâm, chẳng thích tu hành rộng. Hơn nữa, tới mỗi một địa vị, gặp Phật nhiều
hay ít mà thụ ký cho. Chẳng phải chỉ ở chốn này. Như thế thì cũng chẳng trái
ngược nhau.
Nay đây theo
thuyết của Kinh Niết Bàn : bậc Tu đà hoàn thì tám vạn kếp sẽ tới. Cho đến bậc A
la hán thì hai vạn kiếp sẽ tới. Đây là căn cứ vào hạng căn tính như nhau, tu
hành như nhau, nhanh chậm tương tự như nhau mà nói, chứ chẳng căn cứ vào hạng
căn tính khác nhau, tu hành khác nhau mà nói.
Nay căn cứ vào căn
hành lợi độn nhanh chậm, cho nên thành bốn câu. Chẳng thế thì ý nghĩa cực kỳ
trái ngược nhau.
*
-Kinh văn : “Ở
thân sau cùng” tới “Phật Thế tôn”.
Tán rằng đây là
quả ký, có bảy. Đây là ký tự thể, nhìn : thấy hào quang mà sinh tuệ sáng, được nghe
pháp nghĩa mà chói ánh vàng, huống chi lại tu lâu, nhân kim quang mà tự trang sức,
cho nên gọi là “Quang minh”.
*
-Kinh văn : “Tên
nước gọi là Quang Đức” tới “hai mươi tiểu kiếp”.
Tán rằng : đây có
ba mục :
1) “Tên nước Quang
Đức” : vì lấy Quang làm Đức.
2) “Tên kiếp Đại
Trang Nghiêm” : vì các hạnh trang nghiêm.
3) Thọ lượng.
*
-Kinh văn : “Quốc
giới nghiêm sức” tới “khắp nơi thanh tịnh”.
Tán rằng đoạn này
có một mục là “độ tướng”. :
Độ tướng (tướng
cõi nước) được biết qua 7 món :
1) Tạp nghiêm
(nhiều thứ trang nghiêm khác nhau).
2) Vô ác (không có
điều ác điều xấu).
3. Bình chính
(bằng phẳng ngay ngắn).
4) Bảo địa (đất
báu).
5) Cây cối.
6) Dây.
7) Hoa.
Cứ theo như phần
thụ ký cho Xá Lợi Phất, ở phẩm Thí Dụ, nơi quyển 5, phần trước của quyển này,
thì Thu Tử biết nhân, biết quả của 7 món nêu trên..
* Chữ [礫] Lịch : có nghĩa là cát, đá nhỏ (thường gọi là sỏi). Chữ [坑] Khanh : chỉ hào hố trống rỗng. Còn viết là [ ]
chỉ hầm hố.
“Đôi” : là gò đất.
Chữ Phụ [阜] có nghĩa như chữ Lăng [陵]. Sách Ngọc Thiên giải thích : cao mà phẳng thì gọi là Lăng. Lăng
lớn thì gọi là Phụ. Đó là chỉ đất to cao dài.
*
-Kinh văn : “Bồ
tát nước ấy” tới “đều ủng hộ Phật pháp”.
Tán rằng trong này
có hai ý : :
1. Quyến thuộc.
2. Không
ma.
Ca Diếp tính hạnh
điều thuận, giữ Đầu đà học giới, chẳng kiêu mạn đối với người khác, chẳng hoại
thiện sự, cho nên tuy có ma đều hộ Phật pháp.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ đức Thế tôn” tới “rồi sẽ được làm Phật”.
Tán rằng dưới là
12 tụng rưỡi, chia là ba phần : :
- 1 tụng rưỡi :
bảo “hãy nghe đây”
- 10 tụng rưỡi :
tụng ký.
- Nửa tụng : kết
luận.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Mà ở
đời vị lai” tới “trí tuệ bậc vô thượng”.
Tán rằng dưới là
tụng ký, có 10 tụng rưỡi chia làm hai : phần :
- Phần đầu
gồm 2 tụng rưỡi : tụng nhân ký.
- Phần sau gồm 8
tụng : tụng quả ký.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Ở nơi
thân sau cùng” tới “không có các gò hố”.
Tán rằng dưới là
quả ký, trong có bốn mục : :
- Nửa tụng
đầu : tự thể.
- 3 tụng :
độ tướng.
- 3 tụng :
quyến thuộc.
4 1 tụng
rưỡi : thọ lượng.
Đây là hai mục đầu
:
Độ tướng có tám
thứ :
1) Vô
ác. 2) (Bảo) địa.
3)
Cây. 4) Dây.
5)
Hương. 6) Hoa.
7) Trang
nghiêm. 8) Bình chính.
Hương : có một
loại, trong văn trường hàng không có. Giới hương : nhân đầy đủ, cho nên quả
nhiều hương. Muôn hạnh mãn tu, trang nghiêm cũng đủ, cho nên quả nhiều hương.
Muôn hạnh mãn tu, trang nghiêm cũng đủ, nhưng trước sau so với văn trường hàng
có sự khác nhau.
*
-Kinh văn : “Các
hàng Bồ tát chúng” tới “cũng chẳng thể đếm biết”.
Tán rằng đây là
quyến thuộc : :
- 1 tụng
rưỡi : Bồ tát.
- 1 tụng
rưỡi : Thanh văn.
*
-Kinh văn : “Phật
ấy sẽ thọ được” tới “của ngài như vậy”.
Tán rằng 1 tụng
rưỡi đầu nói về thọ lượng, nửa tụng : sau là kết luận.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Đại Mục Kiền Liên” tới “mắt chẳng tạm rờiû”.
Tán rằng dưới là đoạn hai, nói về ba người được thụ : ký.
Trong đó : thoạt đầu là thỉnh, sau đó là thụ.
Trong thỉnh, đều là văn trường hàng nói về nghi thức thỉnh, sau là tụng chính thỉnh.
Đây là phần đầu.
* Chữ Tủng [悚] có nghĩa là sợ hãi. Chữ Lật [慄] có nghĩa run vì kính cẩn lo sợ.
Tâm cầu ký quả, chẳng dám tự chuyên ngay, khiếp hãi oai nghiêm (của Phật), bởi vậy run sợ.
*
-Kinh văn : “Liền cùng đồng thanh” tới “giải nhiệt được mát mẻ”.
Tán rằng : dưới là 7 tụng, chia làm ba phần :
- 2 tụng đầu : tán thỉnh.
- 4 tụng : dụ thỉnh.
- 1 tụng : kết thỉnh.
Đây là phần đầu :
- 1 tụng đầu là tán.
- 1 tụng sau là thỉnh.
*
-Kinh văn : “Như từ nước đói tới” tới “sau đó mới dám ăn”.
Tán rằng dưới là dụ thỉnh, chia là hai phần : :
- 1 tụng rưỡi là dụ.
- 2 tụng rưỡi là thỉnh.
Đây là phần đầu.
Tiểu thừa thiếu thốn về pháp đại thừa, gọi là “nước đói”.
Nhất thừa của Phật gọi là “cơm vua”, nay được nghe, gọi là “bỗng gặp”.
Ngờ rằng mình không có phần, chẳng dám tu hành, gọi là “chưa dám ăn”.
Phật thụ ký cho, gọi là “được (lời) vua dạy”.
Nhờ thụ ký, sau mới lĩnh nạp đại thừa, tu hành đại hạnh, thích được làm Phật, đó gọi là “mới dám ăn”.
*
-Kinh văn : “Chúng con cũng như vậy” tới “mới là khoái an lạc”.
Tán rằng đây là thỉnh. :
Nghe âm thanh Phật thuyết về lý nhất thừa nói chung rằng ta làm Phật, đó gọi là “như thấy cơm vua”.
Chưa được biệt ký, thụ lĩnh tu hành, mừng là sẽ được quả Phật, đó gọi là “chưa dám ăn”.
Được biệt thụ ký, như “được vua dạy”, liền mong muốn tu hành thích được thành Phật, đó gọi là “Ăn”.
*
-Kinh văn : “Thế tôn đại hùng mạnh” tới “như đói phải bảo ăn”.
Tán rằng đây là kết về thỉnh. :
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “đủ đạo Bồ tát”.
Tán rằng dưới là biệt ký cho ba người. :
Văn đầu chia làm hai phần : trường hàng và kệ.
Trường hàng có hai : trước nhân, sau quả.
Đây là nhân ký.
*
-Kinh văn : “Ở thân sau cùng” tới “Thế tôn”.
Tán rằng dưới là quả ký, có 9 thứ. Đây là tự thể ký. :
Hiểu được rằng thể tướng của các pháp là không, chỉ có giả danh, nên gọi là Danh Tướng. Hoặc Danh và Tướng hai nghĩa đều là Không, cho nên gọi là Danh tướng.
Danh tức danh giả, Tướng tức thụ pháp, hai thứ đều giả.
*
-Kinh văn : “Tên kiếp là Hữu Bảo” tới “khắp đều thanh tịnh”.
Tán rằng trong này có ba mục : :
1. Tên kiếp : Hữu Bảo, lấy lý Không làm báu.
2. Tên nước : Bảo Sanh.
3. Độ tướng : tướng trạng đất nước.
Độ tướng có năm :
1) Đất đai bằng phẳng.
2) Đất đai (địa), chỉ sông núi.
3) Cây cối.
4) Không có điều xấu (vô ác).
5) Hoa thanh tịnh.
* Gò hố : sách Ngọc Thiên giải thích rằng : đất cao thì gọi là Gò (Khâu), đống đất lớn cũng gọi là Gò.
*
-Kinh văn : “Nhân dân đất ấy” tới “na do tha”.
Tán rằng trong này có hai mục : :
1) Người ở chốn ấy : trong thì hiểu thấu đạo lý, ngoài cảm ứng được châu báu.
2) Quyến thuộc.
*
-Kinh văn : “Phật thọ” tới “cùng với chúng Thanh văn”.
Tán rằng đây có ba : :
1) Thọ lượng.
2) Phật trụ Không, vì hiểu rõ Không.
3) Lợi ích.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “hãy lắng nghe ta nói”.
Tán rằng dưới là 12 tụng, chia làm hai phần : :
- 1 tụng đầu, là phần tiêu cáo (bảo “hãy nghe đây”).
- 11 tụng sau, là phần chính cáo (chính thức bảo ban).
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Đại đệ tử của ta” tới “giống như núi báu”.
Tán rằng dưới là phần chính cáo, chia ra làm 6 phần : :
1. Ba tụng : quả nhân hợp ký.
2. Một tụng rưỡi : độ tướng.
3. Ba tụng : quyến thuộc.
4. Một tụng : Phật hóa.
5. Một tụng : thính chúng.
6. Một tụng rưỡi : thọ lượng.
Đây là phần đầu, có ba mục :
1) Một tụng : danh.
2) Một tụng : nhân.
3) Một tụng : hình.
*
-Kinh văn : “Đất nước của Phật ấy” tới “độ thoát vô lượng chúng”.
Tán rằng đây là độ tướng (tướng trạng đất nước, : tướng quốc độ).
*
-Kinh văn : “Pháp hội của Phật ấy” tới “và có uy đức lớn”.
Tán rằng dưới là 3 tụng về quyến thuộc, có hai mục : :
- 1 tụng rưỡi : Bồ tát.
- 1 tụng rưỡi : Thanh văn.
*
-Kinh văn : “Đức Phật ấy thuyết pháp” tới “lắng nghe lấy lời Phật”.
Tán rằng :
1 - tụng đầu, nói về Phật hóa (sự giáo hóa của Phật).
- 1 tụng sau, nói về thính chúng (các chúng nghe pháp).
*
-Kinh văn : “Đức Phật ấy sẽ thọ” tới “cũng hai mươi tiểu kiếp”.
Tán rằng đó là thọ lượng. :
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn” tới “cung kính tôn trọng”.
Tán rằng dưới đây là tôn giả Ca Chiên Diên được thụ : ký.
Trường hàng chia làm hai, như trên trong phần nhân ký là phần đầu có hai phần :
• Phần đầu thuyết minh về thời đầu.
• Phần sau thuyết minh về thời cuối.
Thời đầu có hai giai đoạn :
1) Giai đoạn đầu : Phật còn tại thế.
2) Giai đoạn cuối : sau khi Phật diệt độ.
Đây là giai đoạn đầu.
*
-Kinh văn : “Sau chư Phật diệt độ” tới “cúng dàng tháp miếu”.
Tán rằng giai đoạn sau khi Phật diệt độ, có hai phần hợp : thành :
- Trước là xây tháp, các hoa.
- Sau là cúng dàng.
* “Mai khôi” : tức là ngọc Hỏa tề. Mạt hương (hương bột) : nếu lấy tay mà xoa nhàu bóp nát thì dùng chữ Mạt [抹]. Đất nát vụn cũng gọi là Mạt, còn sơn phết để trang sức thì viết là Miệt [ 蔑].
Nay đã có riêng loại Đồ hương (hương bôi, hương trát) thì phải viết là Mạt [抹]. Sách Ngọc Thiên có chữ [ 末] có hai âm đọc là Mạt và Miệt, được giải thích là “Chúc mi” [粥 糜] (cháo bột, cháo nhừ).
Hương nát như cháo nhừ, cho nên viết là Mạt [ 末]. Hương vụn như đất vụn tơi thì viết là [抹] .
*
-Kinh văn : “Qua đó về sau” tới “đủ đạo Bồ tát”.
Tán rằng đây là thuyết minh về việc thời sau (hậu thời) : cúng dàng Phật, gặp duyên tốt rồi mới có đủ đạo mà Bồ tát tu hành, trong tự tu hành.
*
-Kinh văn : “Sẽ được làm Phật” tới “Phật Thế tôn”.
Tán rằng quả ký có sáu, đây là tự thể. :
Thời quá khứ Ca Chiên Diên đã từng quét dọn đất của Tăng, thân thường sắc vàng, dung nghi nhàn nhã, nay lại được tận mắt thấy ánh hào quang, tận tai nghe thấy tiếng pháp âm, cho nên được gọi là “Diêm Phù Kim Quang”. Nói rộng ra thì như chuyện Xu Yếu độ cho vua Bát Đại Đa (có chỗ gọi là Bát Phạt Đa).
“Thiệm bộ na đề” : là tên một loại cây ở cạnh bờ hồ Vô nhiệt của châu này, có kinh nói cây ấy ở bắc ngạn châu này, gần dưới gốc cây ánh tử kim quang toả lên át cả ánh sáng mặt trời mặt trăng.
*
-Kinh văn : “Đất đó bằng phẳng ngay ngắn” tới “người nhìn thấy đều hoan hỷ”.
Tán rằng : đây là mục nói về độ tướng, có 5 thứ :
1) Bằng phẳng ngay ngắn. 4) Dây.
2) Đất (địa). 5) Hoa.
3) Cây.
Ca Chiên Diên (tướng mạo) đoan chính, ai thấy cũng ưa, do cái nhân quét đất (cho Tăng), cho nên độ tướng ai thấy cũng ưa.
*
-Kinh văn : “Không có bốn đường ác” tới “hai mươi tiểu kiếp”.
Tán rằng : trong này có 4 thứ :
1) Không có nẻo ác (ác thú). 3) Quyến thuộc.
2) Nhiều người, trời. 4) Thọ lượng.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ đức Thế tôn” tới “chân thực không khác”.
dưới : gnèar nùaT là 7 tụng, chia làm hai phần :
- 1 tụng : tiên cáo (“hãy nghe đây”).
- 6 tụng : chính cáo (chính thức bảo ban).
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Ông Ca Chiên Diên này” tới “để cúng dàng xá lị”.
Tán rằng dưới là ký, có hai phần : :
- 2 tụng đầu là nhân ký.
- 4 tụng sau là quả ký.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Thân cuối cùng ấy” tới “các thứ cúng dàng”.
Tán rằng đây là 4 tụng về quả ký, chia làm bốn. Trong đây : có hai :
- 1 tụng đầu là Độ tướng.
- 1 tụng sau là Phúc điền.
*
-Kinh văn : “Ánh quang minh của Phật” tới “trang nghiêm cho nước ấy”.
Tán rằng trong này có hai : :
- 1 tụng đầu là tự thể.
- 1 tụng sau là quyến thuộc.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ đức Thế tôn” tới “cung kính tôn trọng”.
Tán rằng đây là mục thứ ba : tôn giả Mục Liên được : thụ ký.
Trong văn này phân đoạn như trước. Nhân ký có hai phần :
• Phần đầu là thời đầu (sơ thời).
• Phần sau là thời sau (hậu thời).
Thời đầu có hai phần :
1) Hiện tại. 2) Sau khi diệt độ.
Đây là phần hiện tại.
*
-Kinh văn : “Sau khi chư Phật diệt độ” tới “để dùng cúng dàng”.
Tán rằng đây là nói về sau khi diệt độ, có hai mục : :
1) Đầu là xây tháp. 2) Sau là cúng dàng.
*
-Kinh văn : “Qua đây về sau” tới “cũng lại như vầy”.
Tán rằng đây là nhân thời sau. :
*
-Kinh văn : “Sẽ được làm Phật” tới “Thế tôn”.
Tán rằng : dưới là quả ký, có bảy.
Đây là tự thể.
“Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật” :
“Đa” nghĩa là tính.
“A ma la” : có nghĩa là Vô cấu (không nhơ bẩn), thanh thế gộp lại, nên lược đi chữ A,gọi là “Đa ma la”
“Bạt trì la” : có nghĩa là Hiền, gọi tắt là “Bạt” .
“Chiên đàn hương” : chữ Hương thì là âm thời Đường. Tức là : ” Tính Vô Cấu Hiền Chiên Đàn Hương Phật”.
Do Đại Mục Liên phiền não nhẹ nhỏ, nên gọi là tính Vô cấu, nhân đức như hương có thể xông cho thơm tho, nên gọi là “Hiền Chiên Đàn Hương Phật”.
*
-Kinh văn : “Tên kiếp là Hỉ Mãn” tới “ai thấy cũng ưa”.
Tán rằng trong này có ba : :
1) Tên kiếp. 2) Tên nước. 3) Độ tướng.
Độ tướng có bốn thứ :
1) Bằng phẳng ngay ngắn. 3) Cây.
2) Đất (địa). 4) Châu, hoa.
*
-Kinh văn : “Nhiều các trời, người” tới “bốn mươi tiểu kiếp”.
Tán rằng : trong này có ba :
1) Nhiều nẻo thiện (thiện thú).
2) Quyến thuộc.
3) Thọ lượng.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ đức Thế tôn” tới “phụng trì pháp của Phật”.
Tán rằng dưới là tụng về ký, có 10 tụng, chia làm hai phần : :
• Đầu có 5 tụng về nhân ký.
• Sau có 5 tụng về quả ký.
Nhân ký có hai phần :
1) Đầu có 3 tụng, nói về khi Phật tại thế.
2) Sau gồm 2 tụng, nói về sau khi Phật diệt độ.
Đây là phần đầu gồm :
- 1 tụng rưỡi : gặp duyên tốt.
- 1 tụng rưỡi : tu diệu hạnh.
*
-Kinh văn : “Sau khi chư Phật diệt” tới “đạo hạnh Bồ tát xong”.
Tán rằng đây là việc làm sau khi Phật diệt độ. :
“Trường biểu kim sát” : dùng vàng làm sát (cõi Phật). Tiếng Phạm gọi là Xiết Đa La. Đất ấy không có cán phướn khác, liền úp bát lên trên tháp, rồi treo phướn ở đầu cột. Nay gọi là Sái, là phiên âm sai. Dùng để nêu cao, cho nên gọi là “Trường biểu”.
*
-Kinh văn : “Ở nơi nước Ý Lạc” tới “mà diễn thuyết Phật đạo”.
Tán rằng dưới đây là 5 tụng về quả ký, có sáu thứ. :
Đây là phần đầu.
Gồm 2 tụng, trong này có bốn thứ :
1) Tên nước. 3) Phật thọ.
2) Tự thể. 4) Nẻo thiện (thiện thú).
*
-Kinh văn : “Chúng Thanh văn vô lượng” tới “tượng pháp cũng như thế”.
Tán rằng đây có hai thứ : :
1) Quyến thuộc. 2) Pháp trụ lượng.
*
-Kinh văn : “Các đệ tử của ta” tới “đều sẽ được thành Phật”.
Tán rằng dưới là đoạn thứ hai trong phẩm, nêu lên việc : sẽ thụ ký là lý do của vòng thuyết pháp thứ ba.
Trong đó có hai phần :
• Đầu gồm 1 tụng rưỡi : nêu lên việc sẽ thụ ký.
• Sau gồm 1 tụng : hứa sẽ thuyết.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Ta
cùng với các ngươi” tới “các ngươi hãy lắng
nghe”.
Tán rằng đây là
phần hứa sẽ thuyết cho, nhắc nhở tâm : họ để họ chú ý nghe pháp.
KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN
QUYỂN THỨ BẢY -
PHẦN TRƯỚC
ĐÃ XONG
Năm Bảo An
thứ ba, tháng Chạp, ngày mồng tám, di điểm xong xuôi, thì Sư Tăng Giác chùa
Pháp Long, dùng bản của Viên Như phòng chùa Hưng Phúc đem in
“ để pháp
được trụ lâu, để được vãng sinh Cực lạc”.
Các bản sử dụng
đều là điểm bản. Riêng bản…là dị bản.
QUYỂN THỨ BẢY (PHẦN
SAU)
Sa môn KHUY CƠ,
chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn.
PHẨM HÓA THÀNH DỤ
Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG
Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN
PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC
MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có bốn ý
:
1. Loại thượng
trung căn nghe pháp đắc ký. Loại hạ căn vẫn chưa hiểu rõ, cho nên (Phật) trình
bày về duyên đại thừa đã kết trong quá khứ, đồng thời nói về hóa thành ví với tiểu
quả (quả tiểu thừa) hiện tại.
Trình bày về nhân
xưa để khiến họ chứng thực (thừa), thuật về quả nay để khiến họ bỏ quyền thừa,
khiến họ biết họ hiểu rồi mới có thể thụ ký cho. Chính vì thế mà có phẩm này.
2. Luận giải để
đối trị bảy loại chúng sinh có đủ phiền não tính. Trong bảy loại Tăng thượng
mạn, hạng thứ tư là hạng người có định, thực ra là không có nhưng lại tưởng là
có, cho nên là tăng thượng mạn, vì có tam muội thiền định thế gian. Thực ra
không có Niết bàn mà lại sinh Niết bàn tưởng. Để đối trị loại này, cho nên
thuyết phẩm Hóa Thành Dụ.
Lại nói rằng : đối
với hạng người thứ tư, thì phương tiện khiến họ nhập Niết bàn thành.
Niết bàn thành :
là chư thiền tam muội thành. Qua thành đó rồi, thì khiến họ nhập đại Niết bàn
thành. Người có định, đó là đã đắc cái định của hạng phàm phu hữu học. Nay nói
việc xưa, khiến họ nhớ lại mạn sở khởi này hoặc là sự phân biệt ở dục giới,
hoặc là phiền não ở thượng giới.
Tam muội thành :
đó là chỉ thứ mà các hạng hữu học phàm phu chuyên tâm cầu mong tại Vô học thân,
sau hai trí : Tận trí và Vô sinh trí, là giải thoát sở biến, là lìa cái Vô năng
biến, thuộc thiền định thế gian, đó gọi chung là tam muội. Định này thuộc về
hữu lậu, gọi là thế gian.
Trong này ý nói
Phật thuyết ba sự gọi là đại bát Niết bàn, ba thừa cùng được Trạch diệt giải
thoát, tức là lý Sinh không mà hạng Vô học chứng được trong đạo giải thoát. Từ
đó về sau Hoặc khổ chẳng sinh, gọi là giải thoát. Phật nói giải thoát này gọi
là Hóa thành.
Chứng Sinh không
trí, gọi là “tạm nhập”. Vì dẹp các khổ, nên nói là “phương tiện nhập Niết bàn
thành”. Sau dẫn tới Bảo sở, đó mới gọi là tới đại Niết bàn thành.
Người nhị thừa Gia
hạnh trí, cầu biến tác tướng này, cho tới lúc chính thức chứng giải thoát trong
đạo giải thoát của bậc Vô học, đều không có tưởng phân biệt cái này cái nọ. Sau
khi ra khỏi đạo giải thoát rồi, thì cái sở đắc của thế gian định do tâm duyên
theo cảnh, niệm niệm tương tục.
Vì tâm thô cho nên
chẳng biết pháp mà chân trí chứng được, chỉ thấy tướng trạng giải thoát Niết
bàn mà gia hạnh mong cầu, liền cho đó là Niết bàn, cho là có thực diệt. Há
chẳng phải cái Giả giải đó là thế gian định hay sao ?
Cho nên nói rằng :
vì có thế gian tam muội, nên thực sự không có Niết bàn mà sinh Niết bàn tưởng.
Hạng phàm phu hữu học nghe Giả giải này, vì chẳng hiểu biết, cho nên cho là có thực
Niết bàn, khởi tâm kiên chấp, tác ý ưa thích tới đó, cho nên nay phải phá chấp
này, nói rõ thứ mà họ chứng giống như hóa thành, vẫn là chẳng thực. Chẳng nên
cầu đạt tới đó, huống hồ đó là thứ sở biến giả tại bậc Vô học !
Như Tứ đảo mà
người nhị thừa khởi lên, khi chính trí chứng Sinh không thì vẫn chưa khởi chấp,
về sau lại quán hành tướng chính trí, trước đó thì chẳng đích thân đắc, lại
thấy hành tướng mà gia hạnh mong cầu, liền cho đó là chân thực, bèn khởi Tứ
đảo. Đây cũng như thế. Chẳng phải Vô lậu tâm cùng Thế gian định đều là pháp
chấp, vì sau khi xuất tâm đó mới khởi chấp. Đây là nghĩa mà ngài Hộ Pháp và An
Tuệ sư nói. Ngay các Vô lậu tâm, Thế gian định tâm của đạo giải thoát ở địa vị
vô học cũng đều có pháp chấp.
Trạch diệt sở
chứng gọi là hóa thành, còn người khác cầu thứ đó là khởi tăng thượng
mạn.
Luận nói rằng : đó
là sở khởi của chúng sinh có đầy đủ phiền não tính, cho nên chẳng phải là Vô
học.
Lại còn có chỗ
giải thích rằng : đây là do thế gian phàm phu chấp trước cho rằng cái thiền
định thế gian (Tam ma bạt đề) đã chứng đắc, các Lục hành đã đắc, cái Giả phi trạch
diệt, đó là chân Niết bàn.
Phật nói Niết bàn
mà hạng vô học nhị thừa chứng đắc là trạch diệt Niết bàn, đó là phương tiện
khiến họ nhập, giống như hóa thành để họ nghỉ ngơi giữa đường cho đỡ khổ, rồi
phải đi nữa để tới bảo sở, chứ thực ra vẫn chẳng phải là chân diệt. Huống hồ là
Giả giải tam muội thế gian mà hạng phàm phu các ngươi chứng được mà lại chấp cho
là thực diệt ư !
Người hữu học
chẳng khởi chấp này, còn phàm phu có. Dưới nói : Đạo sư biết không mệt mỏi liền
diệt hóa thành. (Ngài) nói rằng : thành lớn trước đây là ta biến hóa làm ra.
Nói “hóa”, “diệt hóa” (thuyết về hóa thành, diệt hóa thành đi) đó là để phá cái
chấp cho rằng Niết bàn của nhị thừa là thực thành, đó là để diệt cái thành mà
kẻ phàm phu chấp là có thực. Cho nên ở đây nên giải thích như của ngài Hộ Pháp
v.v…
3. Trong mười
vô thượng (của Phật) thì thứ hai là thị hiện tu Hành vô thượng, cho nên mới
thuyết về bản sự của Đại Thông Trí Thắng Như Lai. Bồ đề đại thừa khó thể chứng đắc,
tu hành cũng khó thành, chẳng giống như Bồ đề nhị thừa chóng đắc, hạnh cũng dễ
tu. Cho nên mới thuyết về sự Đại Thông Trí Thắng Phật mười kiếp ngồi đạo tràng mới
đắc Bồ đề.
Đây là văn tàn, vì
là thuyết về cổ sự. Hoặc thuyết sự tích Đại Thông Phật chính là nói tự thân
Phật thời ấy tu hành, là một trong mười sáu vương tử, nay mới đắc Bồ đề.
Thêm nữa, các
Thanh vân thời đó phát tâm, thời nay căn cơ mới thành thục. Cho nên (tu) hành
Đại nhân chẳng phải bỗng chốc mà tu thành được. Đó gọi là Hành vô thượng. Chẳng
thuyết về hạnh của Đại Thông Phật, tức là sắp sửa thuyết về thời nay thì trước
tiên cần phải nói về thời xưa. Dẫu lấy quả này làm tên phẩm, nhưng nhân của nó
cũng tỏ ra ngay trong đó rồi. Chính vì vậy mà có phẩm này.
4. Trong mười vô thượng, thì thứ ba là thị hiện Tăng trưởng lực vô thượng. Cho nên thuyết Thương chủ dụ. Trước thuyết hóa thành, biết chẳng phải là chân diệt, chưa thuyết về thương chủ có khả năng đứng đầu các thương nhân, có thể dẫn họ tới Phật quả bảo sở. Nay nói về dụ này, chính vì vậy mà có phẩm này. Đây là nghĩa tàn, chẳng phải là văn tàn.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
Nơi ngự khấu an
thần (phòng chống giặc giã, ổn định tinh thần) thì gọi là Thành. Vốn là không
mà thành ra có thì gọi là Hóa.
“Ngự khấu” : có
nghĩa là dẹp được sự mệt mỏi trong vòng sinh tử.
“An thần” : là
chứng nghiệm được sự yên vui tĩnh tịch.
Cho nên ví với
Thành, đó là Phật tạm dùng phương tiện quyền nghi mà bày đặt ra, nên cũng gọi
đó là Hóa.
Thành đã là hóa,
nên gọi là hóa thành. Nay dụï pháp ấy, phẩm này thuyết minh rộng, nên gọi là phẩm
Hóa Thành Dụ.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : phẩm này
thuyết minh hai nội dung :
1) Sự Đại thông
xưa, tức Hành vô thượng.
2) Sự Hóa thành
nay, tức Tăng trưởng lực vô thượng.
Cớ sao chỉ
lấy Hóa thành làm tên gọi của phẩm này, mà chẳng nêu sự Phật (Đại Thông) làm
tên phẩm ?
Đáp : mục đích
chính của việc thiết lập giáo trong phẩm này, vốn nhằm trừ bệnh cho chúng sinh.
Chúng sinh vốn có bệnh tăng thượng mạn, đối với cái mà mình vốn không có mà cho
là có, chấp Phi trạch diệt là chân. Nay thuyết Trạch diệt là Hóa, để trừ bệnh
ấy, khiến họ xả bỏ hóa thành mà tiến dần tới bảo sở. Cho nên lấy Hóa thành làm
phẩm, chẳng lấy sự Phật làm phẩm.
Kinh Chính Pháp
Hoa gọi là Vãng Cổ phẩm, nhằm làm nổi bật việc Phật quá khứ đã từng giáo hóa
phát đại thừa chủng, khiến họ nhớ lại đó là nhân của sự thành thục ngày nay,
mong họ hiểu ý mà dẫn dắt họ nhập đại thừa. Chứ chẳng phải là chủ yếu phá (tâm)
bệnh. Cho nên kinh này chẳng lấy Vãng Cổ làm tên phẩm.
Hơn nữa, Hóa thành
là quả nay đang được; còn Đại Thông là sự tại nhân xưa. Lấy quả hiển hiện làm
tên phẩm, chẳng lấy nhân ẩn tàng làm tên phẩm, cũng không có gì sai trái.
*
-Kinh văn : “Phật
bảo các tỳ kheo” tới “a tăng kỳ kiếp”.
Tán rằng : dưới là
vòng thứ ba : thuyết cho hạng hạ căn.
Cứ theo như hai
vòng trước, cũng chia làm bốn đoạn :
1. Phẩm này Phật
dùng dụ để chính thức giáo hóa.
2. Phần đầu của
nửa sau phẩm nói về việc Mãn Từ lĩnh ngộ.
3. Phần giữa của
nửa sau phẩm là phần tiếp sau việc (Mãn Từ) lĩnh ngộ, đoạn từ “Bấy giờ Phật bảo
các tỳ kheo rằng : các ngươi thấy” trở xuống. Đó là Phật trùng thuật thành.
4. Đoạn từ “các tỳ
kheo (như) Phú Lâu Na cũng ở thời bảy Phật” trở xuống : đó là nói về việc
(Phật) thụ ký cho họ.
Đoạn đầu có hai
phần :
1) Phần đầu là
Phật thuyết về nhân xưa khiến cho họ nhớ lại việc lui khỏi đại (thừa) để theo
tiểu (thừa).
2) Phần sau từ
“Các tỳ kheo ! Hoặc Như Lai tự biết thời Niết bàn đã tới, chúng lại thanh tịnh”
trở xuống : nói rõ quả nay khiến họ biết bỏ quyền mà lấy thực.
Đây là phần đầu,
có hai ý :
a) Đầu tiên thuyết
về nhân duyên xưa, khiến họ tự hiểu rõ xưa kia đã tu nhân đại thừa, nhưng thoái
chuyển trụ ở tiểu quả. Luận gọi đây là Hành vô thượng, thuyết Đại Thông Như Lai
bản sự.
b) Sau đó thuật rõ
nay đắc quả. Luận gọi là “phá (chấp cho) người có “định”, đó là hạng tăng
thượng mạn, bởi vì thực sự là không có định mà lại cho là có định Tăng
thượng mạn. Hơn nữa, vì họ mà thị thiện Tăng trưởng lực vô thượng, nên thuyết
dụ về thương chủ.
Thuyết sơ phát đại
tâm khiến họ nay lấy quả đại (thừa). Thứ đến là thuyết quả sau là Hóa, khiến họ
nay bỏ quả tiểu (thừa). Do đó mà chia làm hai.
Phần đầu có hai
mục :
- Mục đầu thuyết
về sự nhân duyên quá khứ kết hội Phật tự thân.
- Mục sau là đoạn
từ “các tỳ kheo, chúng tôi lúc còn là sa di … giáo hóa từng người” trở xuống :
thuyết minh về sự nhân duyên quá khứ kết hội đệ tử.
Ý này thuyết minh
chung về quá khứ đã từng giáo hóa, đã kết duyên đại thừa khiến họ sinh tín
giải. Cho nên có sự giải thuyết này.
Mục đầu lại có hai
phần :
- Phần đầu gồm 1
trường hàng 1 kệ tụng, nói rõ Đại Thông cách thời nay bao lâu.
- Phần sau là đoạn
từ “Phật bảo cho các tỳ kheo biết thọ lượng của Phật Đại Thông Trí Thắng” trở
xuống : chính thức thuyết minh sự ấy.
Trường hàng ở phần
đầu lại có hai :
+ Đầu là thuyết
minh về Phật ấy ở thời nào.
+ Sau là nói về
mình có thể nhìn thấy.
Trong phần đầu lại
có hai mục :
• Mục đầu là mách
bảo chung chung.
• Mục sau là vấn
đáp.
Mục đầu có bốn ý
:
1) Thời đại. 2) Tên gọi.
3) Tên nước. 4) Tên kiếp.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ có Phật” tới “tên kiếp là Đại Tướng”.
Tán rằng : đây là
ba nội dung cuối của mục mách bảo chung (tổng cáo).
*
-Kinh văn : “Chư
tỳ kheo” tới “tận địa chủng mặc”
Tán rằng : dưới là
mục vấn đáp, có ba ý :
1) Hỏi.
2) Đáp.
3) Nói rõ
thời đại nào.
Trong mục hỏi có
hai phần :
a) Đầu là so sánh.
b) Sau là
hỏi.
Đây là phần
đầu.
* Chữ [種] đọc là Chủng. Chữ [磨] đọc là Má hoặc Ma, nên
viết là [摩] tức là Ma nghiên (xoa nghiền). Nếu là
ma quỷ thì viết là [魔]. Chữ Ma chỉ ni cô, ni sư thì viết là
[ ]. Chữ Ma chỉ bệnh tật thì viết là
[ ]. Không có trường hợp nào hai chữ [磨] và [摩] đọc như nhau (đây là nói âm Hán, riêng
âm Hán Việt thì âm đọc như nhau).
*
-Kinh văn : “Các
ngươi nghĩ thế nào ?” tới “không a ï! Thưa Thế tôn”.
Tán rằng : đây là
vấn và đáp.
*
-Kinh văn : “Các
tỳ kheo” tới “a tăng kỳ kiếp”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về thời đại xa hay gần.
Dưới là tiền trần
đã hết, lấy cõi trược trần chẳng trược trần nay, gọi chung là Mặc. Nếu một (vi)
trần là một kiếp thì kể từ lúc Phật đó diệt độ đến nay còn nhiều hơn số
đó.
* Chữ Mạt [抹] có nghĩa là xoa bằng tay.
*
-Kinh văn : “Ta
dùng sức tri kiến của Như Lai” tới “cũng như ngày
nay”.
Tán rằng : đây nói
rõ (bản thân Phật) đã có thể thấy trước, đó là do có cái biết của Túc mạng trí,
cái thấy của tuệ nhãn.
-Hỏi : Thích Ca tu
hành chẳng quá 3 (A tăng) kỳ. Cớ sao trần kiếp cực nhiều, bấy giờ ngài vẫn còn
xưng là vương tử ?
Đáp : Ý thú có bốn
:
1) Bình đẳng ý thú
: chỉ việc Phật nói rằng : ta ở thời ấy đã từng có tên là Thắng Quán, vì pháp
thân bình đẳng.
2) Biệt thời ý thú
: chỉ việc (ngài) nguyện sinh Cực lạc, (chúng sinh) đều được vãng sinh, tạm
nghe danh Phật Vô Cấu Nguyệt Quang, định ở Bồ đề, đắc bất thoái chuyển.
3) Biệt nghĩa ý
thú : chỉ việc ngài thuyết các pháp đều không có tự tính, không sinh không diệt
v.v.; bản lai Niết bàn.
4) Chúng sinh ý
lạc ý thú : có nghĩa là từ một thiện căn, hoặc khen hoặc chê để khiến cho tăng
tiến.
Nay đây y vào Bình
đẳng ý thú mà thuyết về các sự tích khác của Phật. Tức là ta đây mọi thân bình
đẳng. Nếu chẳng thế thì sao lại nói rằng : qua bao nhiêu kiếp số đó, thiện tâm
vẫn tương tục cho đến hết ba A tăng kỳ kiếp.
Đó là bàn chung về
các tâm, thế thì kiếp ấy tại thời Phật ấy, (Thích Ca) vẫn xưng là vương tử, nào
có hề chi ? Hơn nữa căn cứ vào ngày, đêm, tháng, mùa, năm (được gọi là kiếp)
thế thì việc Thích Ca tự thân ở trong ba A tăng kỳ kiếp, nào có hề gì ?
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Thế tôn” tới “tên là Đại Thông Trí Thắng”.
Tán rằng : dưới là
7 tụng, chia làm hai phần :
- Phần đầu là 5
tụng, nói về thời gian đã lâu.
- Phần sau là 2
tụng, nói về khả năng nhìn thấy.
Phần đầu lại chia
làm hai :
- 1 tụng đầu : bảo
rõ tên Phật.
- 4 tụng sau : bảo
rõ số kiếp.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Như
Lai vô ngại trí” tới “thông đạt vô lượng kiếp”.
Tán rằng : đây là
2 tụng, nói về khả năng thấy được.
*
-Kinh văn : “Phật
bảo các tỳ kheo” tới “na do tha kiếp”.
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ hai, chính thức thuyết minh sự đó, gồm trường hàng và kệ tụng.
Hội đầu là sự tích
bản thân (Phật). Văn có bốn phần :
1. Phật thọ thành
đạo.
2. Đoạn từ “thời
Phật ấy chưa xuất gia có 16 người con” trở xuống : nói về việc chính chuyển
pháp luân.
3. Đoạn từ “Bấy giờ
16 vương tử của Phật ấy đều là đồng tử xuất gia” trở xuống : nói về việc con
nối nghiệp truyền đăng.
4. Đoạn từ “Này
các tỳ kheo ! Nay ta báo cho các ông biết 16 vị Sa di là đệ tử của Phật đó” trở
xuống : nói về sự sẽ thành Phật ngày nay.
Đoạn đầu có ba mục
:
1) Thuyết minh về
tuổi thọ của Phật.
2) Pháp khó được.
3) Nói về sự đắc
đạo.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Phật
ấy vốn ngồi ở đạo tràng” tới “vẫn chẳng ở ngay trước
mặt”.
Tán rằng : dưới là
thuyết minh về pháp khó được. Có bốn mục :
1) Chẳng hiện
tiền. 3) Rắc hoa.
2) Bày tòa. 4) Nổi
nhạc.
Đây là mục
đầu.
Báo thân thành
đạo, về lý mà nói thì thực là khó. Hóa thân thành đạo, hóa hiện nào có trở ngại
gì. Nay đó là báo thân khác thị tướng khởi lên vậy – Luận nói rằng : đó là để
tỏ rõ Bồ đề khó mà chứng được.
Cứ theo Kinh Hoa
Nghiêm thì có mười sự. Cho nên ngồi ở đạo tràng bắt đầu từ sự chấn động hết
thảy mọi cõi Phật cho đến sự lực thiện căn của bản thân thảy đều có thể thụ trì
hết thảy chúng sinh.
Cho nên việc ngồi
đạo tràng phá lũ quân ma cũng có mười nghĩa : bắt đầu từ việc “chúng sinh trong
đời ngũ trược ác thế chinh phạt lẫn nhau”, muốn làm nổi bật lực công đức của Bồ
tát, cho tới việc “vì tùy thuận chúng sinh đời ngũ trược, cho nên thị hiện sự
hàng ma”. Chẳng thế thì ma oán có lực thắng trội gì mà dám đấu lực với Bồ tát,
Như Lai ?
Hơn nữa, về việc
Phật Thích Ca phá lũ quân ma, các bộ phái có ý kiến khác nhau. Có thuyết nói
rằng sau khi thành đạo rồi mới phá quân ma. Kinh Niết Bàn cũng theo thuỵết
này.
Có thuyết nói rằng
phá lũ quân ma rồi sau đó mới thành đạo. Kinh văn hiện có hai thuyết này. Cho
nên ở đây Phật phá ma rồi sau mới thành đạo. Sự này chẳng nhất định, vì còn
phải tùy theo sự thị hiện (của Phật).
Thêm nữa, Phật Di
Lặc ngay ngày xuất gia đã thành đạo liền. Còn Phật Thích Ca thì trước tiên phải
khổ hạnh sáu năm, nay mới thành đạo ở đây, mười kiếp Không tọa. Đó đều là tướng
thị hiện khác nhau chẳng thể nhất loạt như nhau.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Đao Lợi” tới “Tam Miệu Tam Bồ đề”
Tán rằng : đây là
mục hai : bày tòa.
Thắng thiên vương
Bát Nhã nói : chư thiên ai nấy đều hiến dâng một tòa. Đức Phật nhận để ngồi mà
có được Bồ đề, ngài dùng thần lực mà gộp lại làm một tòa, khiến chư thiên đó ai
nấy đều chỉ nhìn thấy Phật nhận tòa của mình để có được Bồ đề, phát tâm hoan
hỉ, chẳng thấy Phật thu nhận các tòa khác mà ngồi. Cho nên đây cũng nói chư
thiên làm tòa, chẳng phải là cùng nhau tạo chung một tòa.
*
-Kinh văn : “Đúng
vào lúc ngồi ở tòa này” tới “thường mưa hoa này”.
Tán rằng : đây là
mục ba : rắc hoa.
Hoa chất đống cao
như núi Tu Di, biết rõ đó là Tha thụ dụng thân.
*
-Kinh văn : “Tứ
vương chư thiên” tới “cũng lại như vậy”
Tán rằng : đây là
mục bốn : nổi nhạc.
* Chữ [伎] đọc là Kỹ, chỉ nghệ thuật. Nếu là nữ nhạc thì viết là [妓]. Còn viết là [伎] thì vốn có nghĩa là đứng.
Kinh văn nhân tiện
nên đã nói rằng thậm chí tới lúc cuối cùng thường cúng dàng nhạc.
*
-Kinh văn : “Chư
tỳ kheo” tới “Tam Bồ đề”.
Tán rằng : đây là
phần thứ ba, thuyết về việc đắc đạo.
*
-Kinh văn : “Phật
ấy khi chưa xuất gia” tới “tên gọi là Trí Tích” .
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ hai, nói về việc chuyển Chính pháp luân. Có hai phần :
• Phần đầu : cúng
dàng xin chuyển pháp luân.
• Phần sau : đoạn
từ “Bấy giờ Đại Thông Trí Thắng Như Lai nhận lời thỉnh cầu của các vị Phạm
thiên mười phương” trở xuống : nói về việc Phật nhận lời thỉnh cầu mà chuyển
pháp luân cho.
Phần đầu có hai
mục :
- Mục đầu nói rõ
16 vương tử cúng dàng thỉnh chuyển.
- Mục sau nói rõ
Phạm thiên vương cúng dàng thỉnh chuyển.
Vì thân tộc thì
hiện tiền. Còn nếu chẳng phải là thân tộc thì chẳng hiện tiền.
Mục đầu lại chia
làm hai :
+ Đầu tiên là tới
cúng dàng Phật.
+ Sau đó là thỉnh
chuyển pháp luân.
Phần đầu này lại
có hai mục nhỏ :
a Mục đầu nói về việc tới chỗ Phật.
a Mục sau nói về việc lễ tán Phật.
Mục “tới chỗ
Phật” có năm ý :
1) Nói rõ là Phật
tử.
2) Thuyết minh về
việc đi tới chỗ Phật.
3) Cha đưa.
4) Ông đưa.
5) Dụng ý của việc
tới chỗ Phật.
Đây là ý đầu : Tha
thụ dụng thân đều có cha mẹ v.v… Kinh Cổ Âm Vương nói : “Phật A Di Đà có cha là
Nguyệt Thượng, mẹ là Thù Thắng Diệu Nhan, có con có ma v.v… Vì trước hóa Thất
địa có Phân đoạn tử, nên có cha có mẹ v.v…
Từ hóa Bát địa trở
lên có Biến dịch sinh, về lý thì không có sự này vì chẳng tử sinh, vì Tha thụ
dụng thân được cùng Kim luân đều ra. Ông của Phật này là Chuyển luân thánh
vương.
*
-Kinh văn : “Các
con mỗi người đều có” tới “đi tới chỗ Phật”.
Tán rằng : đây là
ý thứ hai : “đi tới chỗ Phật”.
*
-Kinh văn : “Các
mẹ khóc lóc” tới “theo đến đạo tràng”.
Tán rằng : đây là
ý thứ ba “mẹ đưa”, ý thư tư “ông tiễn đưa”.
* “Thế khấp”: có
nghĩa là khóc lóc. Chữ [涕] đọc là Thế. Có chảy nước mắt thì gọi là
Thế. Khóc không thành tiếng thì gọi là Khấp [泣].
*
-Kinh văn : “Đều
muốn thân cận” tới “tôn trọng tán thán”.
Tán rằng : đây là
ý thư năm : “dụng ý của việc tới chỗ Phật”.
*
-Kinh văn : “Tới
nơi rồi, đầu mặt” tới “lành thay ! Tốt lành vô
thượng”.
Tán rằng : đây là
mục thứ hai : “lễ tán”.
Có hai phần :
1) Thân lễ. 2) Ngữ
tán.
Mục này gồm 8 tụng
chia làm ba phần :
- 1 tụng rưỡi đầu
: tán Phật nguyện mãn thắng đức.
- 2 tụng : tán
Phật tu nhân thắng đức.
- 4 tụng rưỡi :
nói rõ dụng ý quy y tán lễ Phật.
Đây là phần
đầu.
“Cát” có nghĩa là
cát tường, tốt lành, vì thiện sự viên mãn.
*
-Kinh văn : “Thế
tôn rất hiếm có” tới “an trụ pháp Vô lậu”.
Tán rằng : đây là
phần hai : tán tu nhân thắng đức.
“Ngồi một mạch
mười tiểu kiếp” : Kinh Hoa Nghiêm nói rằng có mười kiểu ngồi :
1) Kiểu ngồi
Chuyển luân vương : cho mười điều lành.
2) Kiểu ngồi Tứ
thiên vương : muốn hành tự tại đối với chính pháp chư Phật ở mọi thế giới.
3) Kiểu ngồi Đế
Thích : hành tự tại đối với mọi chúng sinh.
4) Kiểu ngồi Phạm
thiên vương : tự tâm, tha tâm được tự tại.
5) Kiểu ngồi Sư tử
: phân biệt diễn thuyết nghĩa rất sâu.
6) Kiểu ngồi Chính
pháp : muốn nói rõ về các lực tổng trì.
7) Kiểu ngồi Kiên
cố tam muội : cứu cánh đại
Bồ đề.
8) Kiểu ngồi Đại
từ : khiến kẻ ác tâm đều hoan hỉ.
9) Kiểu ngồi Đại
bi : nhẫn chịu được hết thảy mọi khổ não.
10) Kiểu ngồi Kim
cương : hàng phục được lũ ma cùng các ngoại đạo.
Nay đây chính là
kiểu ngồi Kim cương Kiên cố tam muội.
“Tĩnh nhiên” : là
chỉ thân định.
“Tâm đạm bạc” :
chỉ tâm định.
*Chữ
[ ] đọc là Đạm, sách Thuyết Văn giải thích là an là tĩnh, có
nghĩa là “đạm nhiên an lạc”. Sách Thiết Vận nói nếu là trạng thái yên tĩnh thì
chữ Đạm nên viết là [ ], nếu là “vô vị” (không có
vị gì) thì nên viết là [淡], (nhạt, lạt). Nếu là điềm tĩnh thì nên
viết là [ , ] .
Sách Ngọc Thiên
nói chữ [ ] có âm đọc là Đảm có nghĩa là tĩnh, là yên.
Có chỗ viết là [ ], sách Thuyết Văn nói đọc là
Đam, có nghĩa là ưu (lo âu). Chẳng phải là nghĩa trong kinh này.
Trong Tự thư viết
là [ ] và cũng đọc là Đạm. Chữ
[ ] ở đây đọc là Bạc, cũng nghĩa là tĩnh.
Ngọc Thiên giải thích là vô vi. Như vậy thì Đạm bạc
[ ] có nghĩa là yên tĩnh. Có chỗ chép là [淡 ], nhưng hai chữ này vốn có nghĩa là vô vị
(không có vị gì). Như vậy thì chẳng phải nghĩa trong này.
*
-Kinh văn : “Nay
thấy Thế tôn” tới “reo mừng rất hoan hỉ”.
Tán rằng : đây là
phần ba, có 4 tụng rưỡi, nói rõ ý đến qui y lễ Phật.
Có hai phần :
• Đầu là 1 tụng,
nêu rõ Phật đắc đạo, chúng con được ích lợi.
• Sau là 3 tụng
rưỡi, giải thích lý do.
Đây là phần
đầu.
*
-Kinh văn : “Chúng
sinh thường khổ não” tới “mãi chẳng nghe danh Phật”.
Tán rằng : dưới là
phần giải thích lý do, có hai mục :
- Đầu là 2 tụng :
nói rõ các chúng sinh chẳng gần thiện hữu, nên bị luân hồi khổ sở.
- Sau là 1 tụng
rưỡi : gặp được ích lợi, cho nên qui lễ.
Đây là mục đầu.
“Thường khổ”, đó
là Khổ đế.
“Mù tối” đó là do
Tập đế.
“Chẳng biết khổ
hết”, đó là thuộc Đạo đế.
“Chẳng cầu giải
thoát”, đó là thuộc Diệt đế.
Đối với bốn đế
này, đều chẳng nhận thức được : “Thiên chúng (phúc đức) tổn giảm, từ chỗ tối
lại vào chỗ tối, chẳng nghe danh Phật”.
* Chữ
[ ] đọc là Minh, theo Ngọc Thiên thì đọc là Mính, có nghĩa như Ám,
Muội (tối, tăm tối), có nghĩa là đêm.
“Minh minh” : có
nghĩa là tăm tối, che lấp con mắt người ta khiến không thể thấy gì.
*
-Kinh văn : “Nay
Phật được tối thượng” tới “quy mệnh Vô thượng
tôn”.
Tán rằng : đây là
nói về gặp được lợi ích, cho nên qui lễ (Phật).
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ mười sáu vương tử” tới “chư thiên, nhân dân”.
Tán rằng : dưới
đây là phần hai : thỉnh chuyển pháp luân.
Có hai phần : đầu
là trường hàng, sau là kệ tụng.
Đây là phần đầu.
“An ổn” : ban cho
vui, “xót thương” : cứu khổ.
*
-Kinh văn : “Lại
thuyết kệ rằng” tới “xin thuyết cho thế gian”.
Tán rằng : dưới là
4 tụng rưỡi, chia làm ba mục :
- 1 tụng đầu :
tụng Phật có đủ đức trong ngoài, cho nên thỉnh ngài chuyển pháp luân.
- 1 tụng rưỡi : vì
có lợi ích lớn, nên thỉnh.
- 2 tụng cuối : vì
Phật hiểu biết thông đạt, nên thỉnh.
Đây là mục đầu.
* Chữ Luân [倫] có nghĩa như chữ Loại, chữ Đẳng [類 ,等], có nghĩa “bằng vai, ngang hàng”.
*
-Kinh văn : “Độ
thoát cho chúng tôi” tới “chúng sinh cũng được
thế”.
Tán rằng : đây là
mục hai : “có lợi ích lớn” cho nên thỉnh.
*
-Kinh văn : “Thế
tôn biết chúng sinh” tới “sẽ chuyển vô thượng
luân”.
Tán rằng : đây là
mục ba : nói rõ vì Phật hiểu biết, thông đạt, cho nên thỉnh.
Đây biết năm thứ :
1) “Sở niệm” tức
dục lạc, thắng giải.
2) “Sở hành” đạo
biến thú hành.
3) “Trí tuệ lực”
tức căn hơn kém.
4) “Túc mệnh” tức
túc trụ lực.
5) “Nghiệp” tức tự
nghiệp trí lực.
Dục lạc ấy tức sở
tu niệm ; “tu phúc”, tức tự nghiệp. Cho nên chỉ nêu qua thứ này mà bao gồm cả
năm lực khác.
*
-Kinh văn : “Phật
bảo các tỳ kheo” tới “sáu thứ chấn động”.
Tán rằng : dưới là
Phạm thiên cúng dàng, xin chuyển pháp luân. Có hai phần :
• Phần đầu là thần
quang động chiếu.
• Phần sau là
thỉnh chuyển pháp luân.
Phần đầu có ba mục
:
1) Động 10
phương thế giới.
2) Quang chiếu
u minh.
3) Động chiếu
Phạm cung.
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Trong
các nước ấy” tới “bỗng sinh chúng sinh”.
Tán rằng : đây là
quang chiếu u minh, tức hai thế giới ở giữa núi Thiết Vi.
*
-Kinh văn : “Thêm
nữa bờ cõi nước ấy” tới “hơn cả ánh quang minh của chư
thiên”.
Tán rằng : đây là
mục “động chiếu Phạm cung”. Hé mở ra việc cúng dàng, thỉnh Phật.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ phương Đông” tới “cùng nhau bàn tán sự này”.
Tán rằng : dưới là
cúng dàng, thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Văn lớn này chia
làm năm :
1) Phương Đông. 4)
Lệ sáu phương.
2) Phương Đông
nam. 5) Thượng phương.
3) Phương Nam.
Trừ hai phương
sau, còn các phương khác trong mỗi phương, về văn đều có 4 mục :
1/ Nhìn thấy hào
quang, kinh ngạc bàn tán.
2/ Tìm ánh hào
quang, đi tới chỗ Phật.
3/ Lễ và tán thán,
thỉnh chuyển pháp luân.
4/ Phật lặng im
ưng thuận.
Mục đầu có hai ý :
- Đầu tiên là các
Phạm thiên kinh ngạc hỏi.
- Sau đó là một
Phạm thiên thỉnh cầu.
Đây là mục đầu.
Đây chung cho cả
Tứ thiềân Phạm vương, hoặc chỉ có Sơ thiền (Phạm thiên) thỉnh chuyển pháp luân,
vì Phạm phúc lượng. Văn mục này có ba ý :
a) Quang. b) Niệm.
c) Nghị.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ trong chúng đó” tới “chiếu khắp cả mười
phương”.
Tán rằng : đây là
một (Phạm) thiên thỉnh cầu. Trong chư thiên khi vị có đủ uy đức sắp sinh thì
ánh quang minh xuất hiện trước, cho nên ở đây nghi ngờ mà nói là vị thiên có
đức lớn sẽ sinh.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ năm trăm” tới “suy tìm tướng này”.
Tán rằng : đây là
mục hai : tìm ánh hào quang, đi tới chỗ Phật. Có hai ý :
1) Đem cung, hoa
để đi tìm.
2) Thấy Phật mọi
người vui mừng .
Đây là ý đầu.
*
-Kinh văn : “Thấy
Đại Thông Trí Thắng” tới “thỉnh Phật chuyển pháp
luân”.
Tán rằng : đây là
mục thấy Phật, mọi người vui mừng.
*
-Kinh văn : “Tức
thì chư Phạm thiên vương” tới “cao mười do tuần”.
Tán rằng : đây là
đoạn thứ ba : lễ tán Phật, thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Có hai ý :
- Đầu là
cúng dàng.
- Sau là
thỉnh chuyển.
Đầu là trường
hàng, có hai phần :
- Đầu là qui
lễ, rắc hoa.
- Sau là
hiến cung, thỉnh nạp.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Cúng
dàng hoa xong” tới “xin rủ lòng nạp thụ”.
Tán rằng : đây là
xin Phật nhận lấy cung để mà ở.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ các Phạm thiên vương” tới “khắp cả đều được ích
lợi”.
Tán rằng : đây là
4 tụng chia làm ba :
- 2 tụng đầu : tán
thán 5 đức (của Phật).
- 1 tụng sau :
trình bày về lý do tới đây.
- 1 tụng cuối :
xin Phật nạp thụ.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Chúng
tôi đi tới đây” tới “xin thương mà nạp thụ”.
Tán rằng : đầu
tiên tụng về lý do tới đây; sau đó tụng về thỉnh Phật nạp thụ.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ các Phạm thiên vương” tới “độ cho chúng sinh bị khổ
não”.
Tán rằng : đây là
thỉnh chuyển pháp luân.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Đại Thông” tới “lặng im ưng thuận”.
Tán rằng : đây là
đoạn lớn thứ tư : Phật lặng im ưng thuận.
-Hỏi : vì sao thời
Niết bàn Phật lặng im chẳng nhận các thứ cúng dàng của người khác, nay lặng im
lại là ưng thuận thuyết pháp cho người khác ?
Đáp : cứ theo sự
giải thích thời cổ thì cho rằng vẻ mặt của Phật có biểu hiện thư giãn, căng
thẳng khác nhau. Qua đó người thỉnh sẽ biết được là ưng thuận hay chẳng ưng thuận.
Lại nói rằng : qua
sự biểu hiện của thân quang Phật thì biết rằng ngài nạp thụ hay chẳng nạp thụ.
Lại còn nói rằng :
lúc Phật mới thành đạo, ngài đã tự nói rằng: lúc thường thì lặng im là thụ
thỉnh, thời Niết bàn thì lặng im là chẳng thụ thỉnh.
Thêm nữa, nếu nhận
các thức ăn, theo giáo lý thì cần phải chú nguyện. Phật lặng im thì biết là
ngài chẳng ưng. Nếu thỉnh Phật thuyết pháp, Phật im lặng là đã thuận theo lời
thỉnh, chẳng cần phải nói ra cũng biết là ưng rồi.
*
-Kinh văn : “Thêm
nữa, các tỳ kheo” tới “cùng nhau bàn tán sự này”.
Tán rằng : đây là
phần thứ hai, nói về phương Đông nam.
Văn lớn có bốn
phần : phần đầu là các Phạm thiên sửng sốt bàn tán.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ trong đám đông đó” tới “độ thoát cho chúng sinh bị
đau khổ”.
Tán rằng : đây là
phần thứ nhất : các Phạm thiên thỉnh cầu (Phật thuyết pháp).
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ năm trăm” tới “thỉnh Phật chuyển pháp luân”.
Tán rằng : đây là
phần thứ hai : tìm ánh hào quang, đi tới chỗ Phật. Có hai ý :
- Đầu là
đem cung, hoa để đi tìm Phật.
- Sau là
thấy Phật thì thiên chúng đều vui mừng.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ các Phạm thiên vương” tới “xin rủ lòng thương mà
nạp thụ”.
Tán rằng : dưới là
phần thứ ba : nói về lễ tán (Phật) và thỉnh (Phật) chuyển pháp luân. Có hai mục
:
- Đầu tiên là cúng
dàng.
- Sau đó là thỉnh
chuyển.
Đây là trường hàng
nói về cúng dàng.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ các Phạm thiên vương” tới “chúng con nay kính
lễ”.
Tán rằng : đây là
4 tụng rưỡi tán thán Phật, chia làm bốn :
- 1 tụng, tán lễ.
- 1 tụng rưỡi, tán
thán (Phật) hi hữu.
- 1 tụng, tán thán
Phật là mắt.
- 1 tụng, ca ngợi
Phật là cha hiền.
Đây là mục
đầu.
“Ca Lăng Tần Già”
: là tên loài chim có tiếng hót hay, vì tiếng hót của nó nhu nhuyễn, lảnh lót,
trong trẻo nên lấy làm tỷ dụ.
*
-Kinh văn : “Thế
tôn rất hiếm có” tới “các thiên chúng giảm
thiểu”.
Tán rằng : đây là
tán thán Phật hi hữu.
*
-Kinh văn : “Nay
Phật hiện ra đời” tới “nay được gặp Thế tôn”.
Tán rằng : 1 tụng
đầu ca ngợi Phật là mắt, 1 tụng sau ca ngợi Phật là cha hiền.
*
-Kinh văn : “Bây
giờ các Phạm thiên vương” tới “người nhẫn thiện tăng
ích”.
Tán rằng : đây là
mục thỉnh Phật chuyển pháp luân. Tán thán Phật sinh ích.
“Người nhẫn thiện
tăng ích” : chỉ việc nhập thánh đạo, nghĩa ấy có thể biết.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Đại Thông” tới “im lặng ưng thuận”.
Tán rằng : đây là
đoạn lớn thứ tư, nói về việc Phật im lặng ưng thuận.
*
-Kinh văn : “Thêm
nữa, các tỳ kheo” tới “vì Phật xuất thế gian”.
Tán rằng : đây là
phần ba, nói về phương Nam, cứ như lệ trước chia làm bốn mục. Đây là mục thấy
ánh hào quang, sửng sốt bàn tán. Có hai ý :
- Thoạt đầu các
Phạm thiên sửng sốt bàn tán.
- Sau đó một Phạm
thiên thỉnh cầu.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ năm trăm” tới “chuyển pháp luân”.
Tán rằng : đây là
mục thứ hai : tìm ánh hào quang đi đến chỗ Phật. Có hai ý :
- Đầu là đem cung,
hoa đi tìm Phật.
- Sau là thấy Phật
rồi, thiên chúng vui mừng.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ các Phạm thiên vương” tới “chỉ xin rủ lòng thương
mà nạp thụ”.
Tán rằng : dưới là
mục thứ ba : cúng dàng, thỉnh chuyển. Trong này, đầu tiên là cúng dàng, sau đó
là thỉnh chuyển.
Đây là ý đầu : đầu
tiên là 2 tụng rưỡi tán thán Phật, sau đó là 1 tụng thỉnh Phật nạp thụ.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ các Phạm thiên vương” tới “nên diễn âm sâu
xa”.
Tán rằng : đây là
mục thỉnh Phật chuyển pháp luân. Trong đó đầu là trường hàng, sau là kệ tụng. Ý
văn có thể biết được.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ” tới “im lặng ưng thuận”.
Tán rằng : đây là
đoạn lớn thứ tư : Phật im lặng ưng thuận.
*
-Kinh văn :
“Phương Tây nam” tới “cũng lại như thế”.
Tán rằng :
đây là mục thứ tư : sáu phương khác cũng theo lệ trên, sự ý giống trên, vì ngại
dài dòng cho nên nói theo lệ trên.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ thượng phương” tới “vì Phật xuất thế gian”.
- Tán rằng : đây là phần thứ năm : nói về thượng
phương, có ba mục đầu, không có mục thứ tư “ưng thuận”.
Đây là mục thấy
ánh hào quang, sửng sốt bàn tán. Có hai ý :
- Đầu là các Phạm
thiên sửng sốt bàn tán.
- Sau đó là một
Phạm thiên thỉnh cầu.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ năm trăm” tới “chuyển pháp luân”.
Tán rằng : đây là
mục thứ hai : tìm ánh hào quang đi tới chỗ Phật. Có hai ý :
- Đầu tiên là đem
cung, hoa đi tìm Phật.
- Sau đó là gặp
Phật rồi, thiên chúng vui mừng.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ các Phạm thiên vương” tới “xin rủ lòng thương mà
nạp thụ”.
Tán rằng : đây là
mục thứ ba : cúng dàng, thỉnh chuyển. Có hai phần :
- Đầu là cúng
dàng.
- Sau là thỉnh
chuyển.
Trong phần đầu lại
có hai phần : trường hàng và kệ tụng. Đây là trường hàng.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ các Phạm thiên vương” tới “độ rộng cho hết
thảy”.
Tán rằng : đây là
10 tụng rưỡi, chia làm bốn phần :
- 7 tụng rưỡi đầu,
tán thán công đức của Phật.
- 1 tụng kế, được
thấy Phật sinh ra vui mừng.
- 1 tụng kế
đến, thỉnh Phật nạp thụ.
- 1 tụng cuối, hồi
hướng.
Phần đầu có hai
mục :
- 2tụng đầu : nêu
lên.
- 5 tụng rưỡi sau
: giải thích.
Đây là mục đầu :
a) Tụng đầu tán
thán Phật năng cứu khổ.
b) Tụng sau tán
thán Phật hay cho vui.
* Chữ [免] ở đây đọc là Vãn, còn viết là [挽], có nghĩa là dẫn. Có
chỗ viết là [勉] đọc là Miễn, có nghĩa là khuyến khích.
Sách Quốc Ngữ có câu : “Phụ miễn kỳ tử, huynh miễn kỳ đệ” (cha khuyến khích
con, anh khuyến khích em). Nghĩa như “khuyến cưỡng” tức là khuyến khích khiến cố
gắng.
Chữ [萌] đọc là Manh, có nghĩa là mầm mống. Cũng có nghĩa như Thủy [始] là khởi đầu. “Minh muội”: chỉ sự ngu muội của đám đông. Sách Hán
thư có chữ [眠] manh : chỉ đám dân đen.
Niết bàn gọi là
Cam lồ môn, ý nói thánh đạo thành lý, nên gọi là Cam lồ, giáo gọi là môn.
*
-Kinh văn : “Trong
vô lượng kiếp xưa” tới “chết nhiều đọa đường ác”.
Tán rằng : dưới là
5 tụng rưỡi, là phần giải thích. Trong đây chia làm hai :
- 4 tụng rưỡi đầu,
nói về sinh tử luân hồi.
- 1 tụng sau ,giải
thích Phật hay cứu khổ.
Trong mục đầu này
lại chia làm hai :
- 2 tụng đầu : thụ
ác quả.
- 2 tụng rưỡi sau
: hành ác nhân.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Chẳng
theo Phật nghe pháp” tới “thường đọa vào đường
ác”.
Tán rằng : đây là
gây nhân ác. Ý có thể biết được. Văn có hai phần :
- 2 tụng rưỡi đầu
: tại gia làm điều ác.
- 1 tụng sau :
ngoại đạo làm điều ác.
“Lạc” : là lạc quả
nhân thiên. “Lạc tưởng” : là lạc nhân.
Thêm nữa, “Lạc” là
lạc cảnh sở thủ. “Lạc tưởng” là tưởng năng thủ lạc.
Lại nữa, “Lạc” là
tự thể của lạc thụ. “Lạc tưởng” là lạc đối trị khổ, chỉ khi nóng lạnh
v.v... tạm thời bị dẹp diệt, giả danh là Lạc.
*
-Kinh văn : “Phật,
mắt của thế gian” tới “nên hiện ở thế gian”.
Tán rằng : đây là
1 tụng, giải thích Phật có khả năng cứu khổ.
*
-Kinh văn : “Siêu
xuất thành chính giác” tới “vui mừng chưa từng có”.
Tán rằng : đây là
mục hai : nói rõ chúng sinh thấy Phật thì sinh ra vui mừng.
*
-Kinh văn : “Các
cung điện chúng con” tới “đều cùng thành Phật
đạo”.
Tán rằng : đoạn ba
là 1 tụng : thỉnh (Phật) nạp (thụ) ; đoạn bốn là 1 tụng : hồi hướng.
*
-Kinh văn: “Bấy
giờ năm trăm” tới “tu pháp vô lượng kiếp”.
Tán rằng : đây là
tán thán Phật, thỉnh Phật chuyển pháp luân : 1 tụng tán ; 1 tụng thỉnh.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Đại Thông Trí Thắng Như Lai” tới “pháp luân mười
hai hành”.
Tán rằng : trên là
thuyết minh về cúng dàng, thỉnh chuyển ; dưới đây là đoạn hai, thuyết minh về
việc Phật ưng thuận chuyển pháp luân cho. Có 4 mục :
1) Nêu rõ việc
Phật ưng thuận chuyển pháp luân cho.
2) Nói rõ người
khác chẳng thể chuyển được.
3) Nói rõ pháp được
chuyển.
4) Nói rõ chúng
sinh nghe pháp, được ích lợi.
Đây là mục
đầu.
Tam chuyển có hai
:
1) Tự. 2) Tha.
Nay là tha chuyển,
chẳng phải là Phật tự chuyển.
- Khổ thánh đế này
gọi là Thị tướng chuyển.
- Ứng biến tri này
là Khuyến tu chuyển.
- Dĩ biến tri này
là Tác chứng chuyển.
Hành pháp luân này
vì di chuyển vận động, cho nên có nghĩa là chuyển. Đó là nhất nhất chuyển (từng
pháp một) khiến cho người nghe sinh ra được Vô lậu chân thánh tuệ nhãn, theo
thứ tự mà lần lượt sinh ra được Trí, Minh, Giác từ trong khổ đế của quá khứ, vị
lai, hiện tại.
Cứ như vậy mỗi một
chuyển bốn hành Tổng, Biệt; ba chuyển các đế, mỗi đế đều có 12 hành tướng, song
vì số bằng nhau, nên chỉ nói “tam chuyển thập nhị hành tướng”, tam chuyển đúng
theo thứ tự lần lượt hiển thị khiến nhập ba mức Kiến, Tu, Vô học như phần sớ
giải của quyển bốn trước đây đã giải thích.
*
-Kinh văn : “Hoặc
là Sa môn” tới “chẳng thể chuyển nổi”.
Tán rằng : đây là
mục thứ hai : nói rõ người khác chẳng chuyển nổi (pháp luân), vì chưa chính
chứng, chỉ có Phật là chuyển nổi, vì ngài là Nhất thiết sư (thày về mọi mặt,
thày của hết thảy), vì ngài biết mọi thứ.
*
-Kinh văn : “Bảo
đó là khổ” tới “là khổ diệt đạo”.
Tán rằng : dưới là
thuyết minh về cảnh của pháp luân được chuyển. Từ đó, sinh trí gọi là Hành pháp
luân. Cảnh pháp luân có hai :
1) Tứ đế
2) Thập nhị nhân
duyên.
Đây là mục
đầu.
Chỉ nêu Thị tướng,
còn các thứ khác cứ theo lệ ấy là có thể biết được.
TỨ ĐẾ
Đại để được phân
biệt bằng năm môn :
I. Xuất
thể.
II. Thích danh
(giải thích tên gọi).
III. Phế lập.
IV. Giải đáp thắc
mắc.
V. Các
môn.
I. Xuất thể.
1. Khổ đế :
Đối Pháp luận v.v…
nói : hữu tình thế gian và khí thế gian là pháp hữu lậu có đặc tính bị bức
bách, cho nên đều là khổ đế.
2. Tập đế :
“Tập” có hai nghĩa
:
a. Nghĩa là chiêu
cảm các quả dị thục vô ký.
- Đối pháp v.v…
nói : các phiền não cùng sở khởi nghiệp, đó gọi là Tập đế.
- Duy Thức v.v…
nói : trong 12 chi thì năm chi cũng bao gồm trong Tập đế, vì nghiệp phiền não
tính. Còn pháp vô ký khác đều chẳng phải là Tập đế. Song chỉ nói Ái là Tập đế, vì
Ái tối thắng.
b. Nghĩa là nhân
có thể được quả hữu lậu. Tức là các hữu lậu ở trong thân, các pháp tam tính có
thể làm y nhân, có dị thục đều là Tập đế.
- Du Già luận v.v…
nói : trong 12 chi, quán ngược lão, tử có hai loại nhân :
a) Thô
sinh, đó tức gọi là sinh chi.
b) Tế
sinh, đó tức là ái, thủ, hữu.
Thậm chí quan sát
thời trước, biết rõ thời sau. Những thứ này gọi là Tập của lão tử, cho nên biết
các pháp y nhân, vô ký v.v… cũng gọi là Tập. Chẳng nói các pháp chẳng phải thuộc
12 chi đó cũng gọi là Tập.
3. Diệt đế :
Các pháp vô vi
chân như, trạch diệt, bất động, tưởng thụ diệt gọi là Diệt đế.
Đối pháp luận nói
: chân như, trạch diệt, phiền não chẳng sinh, đó gọi là Diệt đế. Đây nói diệt
y, năng diệt, diệt tính, trên cảnh chân như mà chánh trí chứng được, pháp hữu
lậu diệt, giả thực gộp lại đều là tướng của Diệt đế.
4. Đạo đế :
Năm uẩn Vô lậu gọi
là Đạo đế.
Đối pháp v.v… nói
: Tư lương đạo, Gia hạnh đạo, Kiến đạo, Tu đạo, Cứu cánh đạo, đều gọi là Đạo
đế.
Căn cứ vào tự tính
của đạo cùng quyến thuộc của đạo để nói rõ về Đạo đế. Vì bốn đế này bao gồm hết
mọi pháp, cho nên trong Kinh Niết Bàn, Ca Diếp hỏi rằng : “như Phật một thời
vào rừng Thân Thủ, ngài đã lấy chiếc lá cây nhỏ mà bảo với các tỳ kheo rằng :
những pháp của ta đã thuyết chỉ như chiếc lá trong tay này, còn những pháp ta
chưa thuyết giống như lá trong rừng kia”.
Vậy mà lại nói là
bốn đế bao gồm hết mọi pháp. Nếu là bao gồm hết rồi, thì tức là đã thuyết hết
thảy mọi pháp rồi. Cớ sao lại bảo rằng pháp chưa thuyết nhiều như lá trong rừng
? Nếu chẳng bao gồm hết thì phải có năm đế.
Thế tôn bảo rằng :
“bốn đế bao gồm hết. Song, nếu thuyết chung nói đó là khổ đế, thì nhị thừa
chẳng thể biết phân biệt các khổ có vô lượng tướng, vì đó mà điều mà các Thanh
văn, Duyên giác chẳng biết được. Cho đến Đạo đế cũng lại như vậy”.
Trong này ý nói :
Tuy bốn đế bao gồm hết cả các pháp, song lớn nhỏ có sự phân biệt mà nhị thừa
v.v… chẳng biết, cho nên nói là “chưa thuyết”, chứ chẳng phải là có năm
đế.
Dựa theo giải
nghĩa để thuyết minh về thực tướng (y thuyên hiển thực), thì chân như cũng được
bao gồm trong Diệt đế.
Đối pháp luận nói
: diệt tính chính là thứ được bao gồm trong Diệt đế, Kinh Niết Bàn cũng nói là
được bao gồm trong tứ đế. Cho nên nói : nhị thừa có khổ, có đế mà không có
thực. Bồ Tát có đủ. Ba đế khác cũng thế.
Phế bỏ cách giải
nghĩa, chỉ bàn đến ý chỉ thì chẳng phải là diệt đế (Phế thuyên đàm chỉ tức phi
diệt đế). Cho nên theo Du Già thì ngoài Tứ đế, còn thuyết về Phi an lập đế.
Trên dựa theo chủng loại mà thuyết chung về Tứ đế.
Nếu căn cứ vào
pháp thể có thô có diệu, Trí năng tri có cao có thấp, thì Kinh Thắng Man đã căn
cứ vào đó mà nói là có Bát đế, tức là Tứ thánh đế hữu tác và Tứ thánh đế vô
tác. Tám thánh đế như vậy, nhị thừa chẳng biết được. Đó tức là An lập đế và Phi
an lập đế, theo cách nói trong kinh mới dịch.
Tứ thánh đế hữu
tác thì :
- Phân đoạn sinh
tử, 12 nhân duyên đó gọi là Khổ.
- Phiền não và
nghiệp, đó gọi là Tập.
- Trạch diệt, đó
gọi là Diệt.
- Sinh không trí
phẩm, gọi là Đạo.
Tứ thánh đế
vô tác thì :
- Biến dịch sinh
tử ngũ uẩn gọi là Khổ.
- Sở tri chướng,
gọi là Tập.
- Vô trụ Niết bàn,
gọi là Diệt.
- Pháp không trí
phẩm, gọi là Đạo.
Như trên đã nói,
nay y theo tổng tướng hoặc y theo phân đoạn mà chuyển Tứ đế luân cho hạng nhị
thừa.
II. Thích danh
(giải thích danh từ).
“Tứ” : là chỉ số.
“Đế” : có nghĩa là thực.
Chỉ có bậc thánh
mới biết được thực, cho nên gọi là “Tứ thánh đế”.
(Quyển) Ngũ thập
ngũ nói : “Đế, nghĩa là thế nào ? Có nghĩa là đúng như tướng sở thuyết, chẳng
xả ly”. Căn cứ vào điều này mà xét, cho nên tới nghĩa thanh tịnh cứu cánh thì đó
là nghĩa của đế. Đó là giải thích kèm cả số.
“Khổ” : có nghĩa
những thứ do bức bách, phiền não gây ra.
“Tập” : chỉ sự
chiêu cảm hay sinh ra khổ đế.
“Diệt” : chỉ tĩnh
tịch, có nghĩa là đó đều tĩnh tịch.
“Đạo” : chỉ chung
cái nhân có thể hình thành ba nghĩa. Ba nghĩa trong này là : khổ sự, khổ lý,
khổ như. Khổ thực là khổ, không còn khổ khác. Cho đến đạo-đế cũng có ba như
thế.
Khổ sự gọi là Đế,
là trì nghiệp thích. Hai thứ còn lại gọi là Đế, là y chủ thích.
Hai thứ Lý, Như
cùng khổ sự đó tuy chẳng phải nhất, chẳng phải dị ; song ở đây chẳng phải là
bức bách.
III. Phế lập.
(Quyển) Cửu thập
ngũ nói :
- Khổ đế như Thể
các bệnh.
- Tập đế như nhân
của các bệnh.
- Diệt đế như bệnh
nảy sinh rồi được chữa khỏi.
- Đạo đế thì như
khi bệnh chữa khỏi rồi, sau này thì chẳng để sinh ra nữa.
Những người có bệnh
đến chỗ lương y, chỉ nên tìm kiếm chính pháp nơi đó. Các vị lương y, chỉ nên
trao cho chính pháp nơi đó. Cho nên không còn có Thánh đế thứ năm..
Chư Phật Như
Lai là các bậc lương y vô thượng nhổ mũi tên độc lớn, cũng chỉ tuyên thuyết
chính pháp nơi đó. Cũng như thầy thuốc chữa bệnh : biết rõ bệnh, biết nguyên
nhân gây ra bệnh, biết bệnh đã khỏi, biết phương pháp chữa. Đức Phật quán sinh
tử khổ, nguyên nhân gây ra khổ, khổ bị diệt và phương pháp diệt khổ cũng giống
như thế. Cho nên cũng nói rằng : “thú khổ diệt hành” (theo cách tu hành
để diệt khổ).
IV. Giải đáp thắc
mắc.
-Hỏi : (quyển)
Ngũ thập ngũ nói : vì nguyên nhân gì mà thuyết về bốn sự tri khổ (biết khổ),
đoạn tập chứng diệt, tu đạo khác nhau ?
Đáp : vì Khổ
đế ấy là chỗ dựa của bốn thứ điên đảo. Để trừ điên đảo thì phải biết khắp mọi
sự khổ. Đã biết hết mọi sự khổ rồi thì tức là biết cả Tập, vì Tập đế đó bao gồm
ở trong Khổ đế. Tuy biết khắp mọi khổ nhưng vẫn bị Tập đế theo đuổi. Cho nên
phải nói thêm là đoạn hẳn Tập đế.
Nói xúc chứng : có
nghĩa là “hiện thấy”. Do hiện tiền thấy Diệt đế cho nên chẳng sinh sợ hãi,
nhiếp thụ ái lại, cho nên phải nói “xúc chứng Diệt đế”.
Nếu siêng tu đạo
thì mới có thể thành biện được ba nghĩa đã nói. Cho nên sau đó nói đến việc tu
tập Đạo đế.
Vì sao mà Tứ đế
lại có thứ tự sắp xếp như vậy ?
Ở đó mà khổ, nên
Khổ đế là thứ nhất. Như thế nên khổ, cho nên Tập đế là thứ hai. Hai thứ này bao
gồm trong Hắc phẩm cứu cánh. Ở đó mà vui, nên Diệt đế xếp thứ ba. Như thế nên
vui, cho nên Đạo đế xếp thứ tư. Hai thứ này bao gồm Bạch phẩm cứu cánh.
Ví như bệnh nặng,
nguyên nhân gây bệnh, bệnh khỏi, thuốc hay. Lại như trình tự của việc gặp cảnh
khổ, qua đó lần lượt xây dựng thánh đế. Như các cái khổ từng gặp trong thế
gian, tức là ở chốn ấy trước tiên nảy ra các ý niệm (tác ý), thứ đến nguyên
nhân gây ra khổ, thứ đến việc giải thoát khỏi khổ, cuối cùng đến phương tiện
giải thoát (khỏi khổ), cứ lần lượt như vậy phát khởi tác ý.
V. Các môn phân
biệt.
Phân biệt bằng
mười môn :
1. Nhiếp thụ trong
mấy uẩn?
Ba đế lần lượt
thay nhau được nhiếp thụ trong năm uẩn, riêng Diệt đế chẳng thế, vì đế ấy tĩnh
tịch.
2. Mỗi đế có mấy
hành, là những hành gì ?
Mỗi đế có bốn hành
theo thứ tự như sau :
1) Vô thường, Khổ,
Không, Vô ngã.
2) Nhân, Tập,
Sinh, Duyên.
3) Diệt , Tĩnh, Diệu,
Ly.
4) Đạo, Như, Hành,
Xuất.
3. Vì sao Khổ đế
là Tứ hành quán để trừ Tứ đảo ?
- Vô thường : trừ
Thường đảo.
- Khổ : trừ hai
đảo, tức Lạc đảo và Tịnh đảo.
- Không, Vô ngã
trừ Ngã đảo.
Vì Tập đế tứ quán
trừ tứ ái. Do dựa vào Thường đảo mà khởi Hậu hữu ái.
Thứ đến y vào hai
đảo : Lạc và Tịnh mà khởi lên tham hỷ câu hành ái, cùng đủ mọi thứ hỷ nhạo ái
khác.
Thứ đến y
vào Ngã đảo mà khởi Độc ái. Diệt là tứ quán thấy rõ bốn loại ái bị diệt. Đạo là
tứ quán nhờ đó mà có thể chứng được bốn loại ái ấy bị diệt.
4.Gì là giải thoát
môn, bao gồm bao nhiêu hành ?
5.Nhập đế hiện
quán có mấy loại ?
6.Tam thừa quán đế
có gì khác nhau ?
7. Tứ đế này là
thế tục, hay là thắng nghĩa ?
Kinh Niết Bàn
quyển 55 cho rằng đó chỉ là thắng nghĩa. Quyển 66 nói về Đối phi an lập, cho
rằng đó chỉ bao gồm trong thế tục. Thực ra thì chung cho cả hai loại.
8. Các đế nhiếp
thụ lẫn nhau.
9. Khổ có mấy loại
? Ba đế khác cũng thế.
10. Hư không, Phi
trạch diệt thì được bao gồm trong đế nào ?
Tất cả đều giống như
trong Du Già, Đối Pháp, Duy Thức, Hiển Dương v.v… đã nói, e rườm, nên ngừng.
*
-Kinh văn : “Và
nói rộng ra” tới “ưu bi khổ não”.
Tán rằng : dưới là
thuyết minh về mười hai duyên khởi.
Đây có tạp nhiễm,
thanh tịnh. Tạp nhiễm, thanh tịnh đều có thuận quán và nghịch quán. Trong này
có hai :
1. Nêu tạp nhiễm
thuận quán và thanh tịnh thuận quán.
2. Lệ cho tạp
nhiễm nghịch quán và lệ cho thanh tịnh nghịch quán. Đây tức là nhiễm thuận
quán. Sinh tử tương sinh, cho nên lấy cái nhiễm thuận quán này làm mẫu mực (lệ)
cho nhiễm nghịch quán.
*
-Kinh văn : “Vô
minh diệt” tới “Ưu bi khổ não diệt”.
Tán rằng : đây là
thanh tịnh quán. Nếu bắt đầu bằng đoạn sinh tử, thì là lệ nghịch quán.
Mười hai duyên
khởi được phân biệt bằng sáu môn :
1. Xuất thể. 4. Y thế
2. Thích danh 5.
3. Duyên tướng 6. Nhiễm tịnh thuận nghịch
1. Về xuất thể.
1) Thể của chi Vô
minh : là chính thủ phân biệt trong phiền não chướng và gồm thêm nhậm vận ngu
si.
Thành Duy Thức
luận nói rằng : “trong này vô minh chỉ lấy cái năng phát chính cảm thiện nghiệp
ác nghiệp đời sau”. Còn nói : cái “chính phát nghiệp” thì chỉ lấy cái sở đoạn, thứ
hỗ trợ thì chẳng nhất định, những gì có khả năng phát ra Hành mới là chi này.
Chi này không chung cho cả các pháp tương ưng, bất cộng, triền và tùy miên.
2) Thể của chi
Hành : chung cho cả các nghiệp thân, ngữ, ý, thiện và bất thiện, chỉ cảm tổng
báo và cảm chung cả hai nghiệp tổng nhgiệp và biệt nghiệp. Đó là thể tính của
chi Hành. Nếu chỉ là biệt báo nghiệp thì chẳng phải là chi Hành. Cho nên Duy
Thức nói rằng : “thứ do nó (chỉ Vô minh) phát ra mới gọi là Hành”. Do đó mọi
thuận hiện thụ nghiệp, biệt trợ đương nghiệp đều chẳng phải là chi Hành. Thể
của chi Hành cũng chung cho cả biện chủng sắc tư.
3) Thể của chi
Thức : chỉ lấy chủng của thức thứ tám là dị thục thức làm thể. Cho nên Duy Thức
nói : trong này thức chủng gọi là Bản thức nhân, chỉ lấy chủng của thức thứ tám
là dị thục thức, vì là sơ kết sinh, vì là tổng dị thục, chỉ tại chủng vị, chẳng
lấy hiện hành.
Có chỗ thuyết
chung cả thân sáu thức đầu, thuyết rộng cả thân gồm mọi thức và căn cứ vào phần
vị đương lai (tức tương lai), hiện khởi (biện tại) mà nói là có cả hiện hành.
Cho đến chi Thụ cũng lại giống như thế.
4) Thể của chi
Danh sắc : Thành Duy Thức nói : “trừ ba nhân cuối, các nhân khác đều là danh
sắc chủng nhiếp thụ”. Ba nhân cuối là đúng như thứ tự tên gọi, tức là ba chủng cuối.
Đây nói năm chi chẳng pha trộn lẫn lộn với nhau, là chi được duyên khởi lên bởi
Hành gom lại trong một sát na. Có nghĩa là chủng dị thục của sáu căn thì gọi là
chi Lục xứ. Chủng dị thục của Xúc thụ thì gọi là chi Xúc thụ. Trừ bản thức
chủng và ba chủng này, còn chủng của dị thục uẩn khác đều là chi Danh sắc.
Khế kinh còn nói :
“Danh, chỉ bốn uẩn phi sắc. Sắc, chỉ Yết lạt lam v.v...”. Căn cứ vào trước và
sau phân vị lúc đang khởi lên ở trong nhân, thuyết về chi tạp duyên khởi. Nếu chẳng
thế thì làm sao thông suốt cả năm uẩn, hoặc nói chung cho mọi Danh sắc được ?
Duy thức còn căn
cứ vào tạp thể mà nói rằng : hoặc Danh sắc chủng tổng nhiếp năm nhân, ở trong
tùy thắng lập bốn chủng khác. Lục xứ và thức tổng biệt cũng thế.
5) Thể của chi Ái
: chỉ là trung hạ phẩm tham. Đây tuy duyên chung vào cả hai quả nội ngoại, các
luận khác phần nhiều lấy duyên ngoại cảnh ái tăng thượng quả sinh.
6) Thể của chi Thủ
: thông dụng hết thảy phiền não, lấy đó làm tự thể, vì phiền não cả cõi đều kết
sinh. Trong thể của Thủ dù là Năng thủ, Sở thủ, Sở vi thủ đều tùy thuận phiền
não, chẳng lấy pháp khác. Có chỗ chỉ nói Ái tăng thêm thì gọi là Thủ.
Duy Thức hội nói :
tuy trong chi Thủ bao gồm các phiền não khác, nhưng Ái thắng trội hơn, nên nói
là “Ái tăng”. Hơn nữa, căn cứ vào đầu và cuối mà chia ra làm Ái và Thủ hai chi,
nhưng thực ra nhiếp thụ cả các Hoặc khác. Hai chi Ái và Thủ chung cho cả hiện
và chủng, vì đều có thể thắng nhuận thêm.
7) Thể của chi Hữu
: tức là sáu chi Hành v.v… được Ái, Thủ thắng nhuận thêm mà đổi tên là Hữu. Có
thuyết nói (thể của Hữu) chỉ là nghiệp.
Duy Thức hội nói :
“vì cái đó có thể chính cảm quả dị thục”. Có thuyết nói (thể của Hữu) chỉ có
năm thứ. Duy Thức lại nói : “vì là năm thứ thân sinh, đương lai sinh, Lão tử
vị, Thức v.v…” đây chỉ nói có chủng tử là thể của Hữu, vì có thể có được
quả.
8) Thể của chi
Sinh : Thành Duy Thức nói : bắt đầu từ trung hữu cho tới bản hữu, trong đó chưa
tới sự suy biến, thì đều bao gồm trong chi Sinh. Các suy biến vị gọi chung là
Lão. Thân hoại, mệnh chung thì gọi là Tử. Thể của ba chi này đều chung cho cả
năm uẩn. Chỉ là bao gồm trong hiện hành dị thục quả.
Có chỗ còn nói
(thể của ba chi này) chung cho cả chủng tử. Như Duyên Khởi kinh nói : “do năng
sở dẫn sinh một thời mà có, lần lượt theo thứ tự mà tuyên thuyết nghĩa loại, không
có gì khác”. Chẳng phải là hai chi này cũng chung cho cả chủng tử.
9) Ưu bi khổ não :
vì Lão tử mà khởi lên, chứ chẳng phải là bị nhiếp thu trong chi Lão tử này.
Thập Địa Kinh nói : “lúc tử biệt ly ; ý căn tương đối Lão tử gọi là Ưu. Khóc
lóc thành tiếng gọi là Bi. Ngũ căn tương đối gọi là Khổ. Người ngu tâm nhiệt
gọi là Não”.
Ở hai cõi dưới thì
có đủ các chi như Sắc v.v… cõi Vô sắc thì chẳng thế, tùy theo sự cảm ứng mà có.
2. Thích danh
(giải thích danh từ).
Du già có năm điều
giải thích :
1) Do phiền não hệ
phược đi tới các nẻo, trong đó luôn luôn sinh khởi đó gọi là Duyên khởi. Có
nghĩa là y vào duyên mà khởi lên. Đó là giải thích theo nghĩa mặt chữ.
2) Dựa vào các
duyên, mau chóng hủy diệt rồi lại tiếp tục hòa hợp mà sinh ra, cho nên gọi là
Duyên khởi. Đó là dựa vào nghĩa Sát na mà giải thích tên gọi. Theo Đại Chúng bộ
thì mười hai duyên khởi là pháp vô vi. Còn theo Chính Lượng bộ thì là một kỳ
bốn tướng.
3) Các duyên qua
đi mà chẳng lìa bỏ, dựa vào tự thân tương tục mà được sinh khởi, cho nên gọi là
Duyên khởi. Như nói rằng : “cái này có, nên cái kia có; cái này sinh, nên cái
kia sinh. Chẳng phải là thứ gì khác”. Nay dựa theo nghĩa này để mà giải thích
duyên khởi.
- “Cái này có, nên
cái kia có” : nói rõ cái nghĩa vô tác duyên sinh.
- “Cái này sinh,
nên cái kia sinh” : nói rõ cái nghĩa vô thường duyên sinh.
- “Chẳng phải là
thứ gì khác” : có nghĩa là chỉ do duyên mà quả pháp mới có được.
Chẳng phải là
duyên có tác dụng thực sự có thể sinh ra được quả pháp, cũng chẳng phải là vô
sinh pháp là nhân, cho nên có chút pháp sở sinh đã được thành lập.
4) Luôn luôn tàn
tạ hủy diệt nhưng rồi lại tương tục mà khởi lên, cho nên gọi là Duyên khởi. Đây
là dựa vào nghĩa luôn luôn hoại diệt mà giải thích.
5) Ở đời quá khứ
giác ngộ được duyên tính rồi, vẫn tương tục khởi lên, cho nên gọi là Duyên
khởi. Như Thế tôn nói rằng : “Ta đã giác ngộ được các thứ (duyên) rồi mới khởi
tuyên thuyết”. Tức là do cái danh này được truyền lại mãi, cho nên được gọi là
duyên khởi.
Lại nói : vì lìa
nghĩa hữu tình, không có tự nhiên ngã, cho đến nghĩa tự nghiệp sở tác là nghĩa
duyên khởi, vì ở sự tương tục khác chẳng thụ quả.
Thêm nữa, Đối Pháp
luận và Duyên Khởi kinh đều có 11 cách giải thích về duyên khởi.
Đối Pháp còn nói :
“vì vô tác duyên sinh, vì vô thường duyên sinh, vì thế dụng duyên sinh”. Hai
thứ đầu thì như trước. Vô minh duyên hành v.v… thể hiện thành thế dụng duyên sinh.
Dẫu vẫn là chư pháp vô tác, vô thường, song chẳng theo một pháp làm duyên cho
nên mọi quả sinh. Vì công năng các pháp đều có sự khác nhau.
3. Duyên tướng.
1 - Vô minh có hai
:
1) Chân thực nghĩa
ngu, gồm cả hai loại : trung phẩm và hạ phẩm.
2) Dị thục ngu :
chỉ hạng thượng phẩm.
Hai thứ ngu này
đều duyên vào nội thân dị thục quả mà khởi lên.
2 - Hành có hai
loại :
1) Thiện. 2) Bất thiện.
Hoặc chia làm ba
:
a) Bất động. b) Phúc. c) Phi phúc.
Đây là bao gồm
trong hữu phần huân tập. Năm thứ thức v.v… gọi là huân tập. Năm thứ này vô ký,
thế lực yếu kém, chẳng thể tự sinh, xứ sở chưa định, phải nhờ hữu phần huân tập
mới khởi lên được. Do hạ phẩm ngu mà phát ra bất động nghiệp. Do trung phẩm ngu
mà phát ra phúc nghiệp. Do thượng phẩm ngu mà phát ra phi phúc nghiệp.
3 – Thức . . . Lão
tử.
Tùy theo sự phát
nghiệp rồi thì tích tập thành chủng tử của năm chi Thức v.v… nhiếp thuộc ở
Hành, có đương sinh xứ, tức là các phần vị Sinh, Lão tử đương lai được xác
định, không có tướng sai biệt trước sau của năm thể. Y vào Đương khởi vị mà nói
nhân là Năm (5). Cho nên Duy Thức nói rằng : đó là duyên mê nội dị thục quả
ngu, phát chính năng chiêu cảm các nghiệp hậu hữu, làm duyên dẫn phát năm quả
chủng của các phần vị thân Sinh, đương lai Sinh, Lão tử. Rồi sau đó y vào mê
ngoại tăng thượng quả ngu, duyên ngoại giới thụ, phát khởi tham Ái. Duyên vào
Ái lại sinh ra bốn Thủ là dục v.v…
Ái, Thủ hợp nhuận
có thể dẫn tới nghiệp chủng cùng sở dẫn nhân, chuyển gọi là Hữu. Từ trung hữu
tới bản hữu, trong đó chưa suy biến, thì là thể của chi Sinh. Khởi suy biến, mệnh
chung thì xuất hiện chi Lão tử, rồi các thứ ưu bi khổ não tùy theo đó mà nảy
sinh.
Đây nói do mê nội
thân Vô minh, duyên dị thục Thụ, có khả năng phát các nghiệp, rồi tích tập lại
thành chủng tử của năm chi thuộc phân vị Sinh, Lão tử đương lai, có đương sinh
xứ. Lại do mê ngoại cảnh giới Vô minh, duyên cảnh giới Thụ, khởi Ái và Thủ,
nhuận thêm chủng tử sáu chi trước là Hành v.v…, hậu quả gần là Hữu, chuyển lập
danh Hữu.
Từ sau năm chi
hiện hành bèn khởi lên cái gọi là Sinh, Lão tử, đó gọi là Duyên khởi, là tướng
của duyên.
Du Già lại có ba
cách giải thích : thứ tự tương sinh như trong Du Già đã nói.
4. Y thế.
Thành Duy Thức nói
: “mười nhân, hai quả nhất định chẳng đồng thời, phải sinh hậu báo mới gọi là
chi, hiện báo thì chẳng phãi”. Nghĩa là : quá khứ 10 chi nhân, hiện tại 2 chi
quả ; hiện tại 10 chi nhân, vị lai 2 chi quả.
Trong nhân, bảy
chi trước với Ái, Thủ, Hữu hoặc dị thế, hoặc đồng thế. Sinh báo nhất định phải
đồng thế. Hậu báo thì dị thế. Có nghĩa là quá khứ 7 chi, hiện tại 3 chi, vị lai
2 chi. Nếu hai, ba, bảy đều nhất định đồng thế (đồng thời), thì hai chi Sinh và
Lão tử, ba chi Ái, Thủ và Hữu và bảy chi trước đều nhất định đồng thế, vì thế
tương sinh, vì lực tương tự.
5. Về các duyên
sinh nhiếp.
Nhiếp Luận quyển
hai nói : nếu nói qua về duyên khởi thì có hai loại :
1) Phân biệt Tự
tính duyên khởi : có nghĩa là y vào A lại da thức mà các pháp sinh khởi.
2) Phân biệt Ái,
Phi ái duyên khởi : có nghĩa là vì mười hai duyên khởi ở nẻo thiện ác có thể
phân biệt Ái, Phi ái duyên khởi tự thể là duyên tính.
Nay đây chính là
nói loại duyên khởi sau, về nghĩa cũng nhiếp thu cả loại trước, nên chẳng chính
thức thuyết minh loại này.
Ba a loại duyên khởi :
Lại có thuyết nói
có ba loại (duyên khởi) : ngoài hai loại trên còn thêm loại Thụ dụng duyên
sinh.
Biên Trung Biên
nói có hai loại :
1/- Loại thứ nhất
gọi là Duyên thức.
2/- Loại thứ hai
gọi là Thụ giả.
Trong này năng thụ
dụng, phân biệt, suy tâm, sở thụ dụng duyên sinh. Tức sáu chuyển thức cũng
nhiếp thu ở nghĩa này, đó chẳng phải là chính thức phân tích về nghĩa
này.
Bốn a loại duyên sinh :
Du Già lại nói có
bốn loại duyên sinh :
1/- Năng dẫn : gồm
Vô minh và Hành.
2/- Sở dẫn : gồm
5 thứ như Thức v.v…
3/- Năng sinh :
gồm Ái, Thủ và Hữu.
4/- Sở sinh : gồm
Sinh và Lão tử.
Tập Luận nói :
Thức cũng là năng dẫn, vì nghiệp chủng trong thức gọi là chi Thức, vì Dị thục
thức chủng gọi là Sắc nhiếp.
Duyên Khởi kinh
nói : chi Thức bao gồm cả năng dẫn và sở dẫn, vì nghiệp chủng, thức chủng đều
gọi là thức. Thức là danh sắc y, chẳng phải là danh sắc nhiếp.
Câu Xá luận quyển
9 lại nói về bốn loại :
a) Sát na.
b) Liên phược.
c) Phân vị.
d) Viễn tục.
Sao gọi là sát na
? Có nghĩa là trong khoảnh khắc sát na, do Tham nên đủ cả mười hai chi
đều khởi lên. Si có nghĩa là Vô minh. Tư tức là Hành. Hiểu biết đối với các
cảnh sự, đó gọi là Thức. Thức đủ ba uẩn, gọi chung là Danh sắc. Trụ danh sắc
căn, gọi là Lục xứ. Lục xứ hòa hợp với các thứ khác thì có Xúc. Lãnh xúc gọi Tà
thụ. Tham tức là Ái. Các triền phược tương ứng với chi này thì gọi là Thủ. Hai
nghiệp thân, ngữ được khởi lên thì gọi là Hữu. Các pháp như vậy khởi lên thì
gọi là Sinh. Thục biến, đó gọi là Lão. Hoại diệt, đó gọi là Tử. Nay theo đại
thừa thì tám thức cùng khởi, phiền não cùng sinh, khác với thuyết ấy. Về lý cần
phải suy cho đúng.
Lại có thuyết nói
rằng : sát na, liên phược, đúng như phẩm loại thì là (pháp) hữu vi cụ túc, câu
khởi, phổ biến, chẳng giống nghĩa trước. Vị trí của mười hai chi sở hữu ngũ uẩn
đều là Phân vị nhiếp, những thứ này nối tiếp nhau từ xa xôi vô thủy thì gọi là
Viễn tục. Nghĩa đại thừa cũng giống thế, không sai vì chung một lý.
6. Nhiễm tịnh
thuận nghịch.
Đối Pháp luận quyển
4 nói : đó là tạp nhiễm thuận nghịch và thanh tịnh thuận nghịch.
1) Tạp nhiễm thuận
nghịch :
Có nghĩa là nếu
căn cứ vào trình tự lưu chuyển mà nói thì Vô minh duyên Hành, cho tới Sinh
duyên Lão tử, cứ thuận theo thứ tự mà nói. Đây nói sinh tử theo trình tự tương
sinh.
Nếu căn cứ vào An
lập đế thì nói là Lão tử, Lão tử tập, Lão tử diệt, Lão tử thú diệt hành. Cứ như
vậy cho tới Hành, Hành tập, Hành diệt, Hành thú diệt hành, làm thành 44 trí. Vì
Vô minh không nhân, nên chẳng phải là 48 trí, do chủng bị khuyết. Đây là hậu
quán, gia hạnh ở trước cũng thành 77 trí.
Có nghĩa là duyên
(vào) hiện tại Sinh mà có Lão tử. Chẳng phải chẳng duyên vào hiện tại Sinh mà
có Lão tử. Vì hiện tại tự thân tự mình làm ra, cho nên thành ra hai trí. Duyên
quá khứ sinh và duyên vị lai sinh mỗi thứ cũng có 2 trí, gộp lại mà thành 6
trí.
Quan sát từ vô
thủy tới nay hết thảy Lão, tử đều duyên vào Sinh. Vị lai tuy chưa khởi, nhưng
có hàm chứa trong nghĩa tạp nhiễm hoàn diệt. Nay quán tạp nhiễm, cho nên thành
hai trí. Trong ba thời này (chỉ ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai); trí đầu
quán quả có nhân, thể hiện nguyên do; trí sau quán quả có nhân, chẳng phải là
chẳng quyết định. Phá tư tưởng vọng chấp của ngoại đạo cho rằng sự sinh không
có nguyên nhân.
Trí thứ bảy nghĩa
là các hữu lậu tuệ biến tri, chẳng bao gồm trong chi quán trước, tức là Pháp
trụ trí, biết khắp giáo pháp duyên khởi trong ba đời, gọi là Chi. Vì chẳng bao
gồm trong các trí trước, nên thành ra trí thứ bảy. Sáu trí trước là Chân thực
trí, gộp với một trí này là Pháp trụ trí này, thành bảy trí. Dị sinh thánh giả
đều có trí này.
Đây là quán hành
của phàm vị trước khi kiến đạo. Từ đây về sau mới nhập 44 trí, vì 44 trí gần
với Tứ đế.
Trụ giáo pháp là
văn tuệ, cho nên gọi là Pháp trụ trí. Như thực nghĩa mà biết, đó là tư tu tuệ,
đó gọi là Chân thực trí.
Đây là hữu lậu
quán, nên gọi là tạp nhiễm. Văn chỉ có thuận (quán) mà không có nghịch (quán).
2) Thanh tịnh
thuận nghịch :
Có nghĩa là Vô
minh diệt nên Hành diệt. Cho đến Sinh diệt, nên Lão, tử diệt, cứ thuận theo thứ
tự mà thuyết. Đây là y theo thứ tự đoạn vị mà thuyết.
Do cái gì không,
nên Lão tử không; do cái gì diệt nên Lão tử diệt. Cho đến do cái gì không, nên
Hành không; do cái gì diệt nên Hành diệt. Đây là căn cứ vào vị trí đắc
quả cứu cánh mà quán sát rồi thuyết theo trình tự ngược lại. Văn chỉ có thuận
quán mà không có nghịch quán. Nói rộng ra thì như U Tán quyển hạ, vì ngại rườm
rà nên thôi.
Tuy không ai là
người hiện tiền thành Độc giác, nhưng để chứng Thanh văn, cũng thuyết duyên
này, y vào đó mà thuyết Tứ đế, cũng thành ba vòng mười hai hành tướng.
*
-Kinh văn : “Phật
đối với trời, người” tới “có đủ tám giải thoát”.
Tán rằng : thứ tư
là nêu bật việc chúng sinh được lợi ích. Có hai phần :
- Phần đầu thuyết
minh về việc được lợi ích.
- Phần hai thuyết
minh về số đông.
Trong phần đầu lại
chia làm hai mục :
1) Mục đầu thuyết
minh về hội đầu.
2) Mục sau thuyết
minh về các hội thứ hai, thứ ba, thứ tư.
Đây là hội
đầu.
“Thụ” : đây có
nghĩa là (tham) “trước”. Chẳng tham trước mọi pháp, cho nên được tâm giải
thoát.
“Tâm giải thoát” :
có nghĩa là do giải thoát được khỏi phiền não, vô minh v.v… , cho nên thành ra
tâm tương ứng với Tuệ giải thoát. Chẳng còn duyên vào cảnh mà khởi phiền não nữa,
đó gọi là tâm giải thoát. Hoặc thiền định gọi là tâm, vì là năng trụ tâm. Được
Câu giải thoát thì gọi là tâm giải thoát.
*
-Kinh văn : “Thứ
hai thứ ba” tới “tâm được giải thoát”.
Tán rằng : đây là
thuyết minh về các hội thứ hai thứ ba thứ tư. Di Lặc ba hội thuyết, Thích Ca
chẳng thuyết hội, về lợi ích thì căn cơ chúng sinh khác nhau, nên khác nhau.
*
-Kinh văn : “Từ
đấy về sau” tới “nhiều không kể xiết”.
Tán rằng : đây là
nói rõ số đông. Trên nói về Thanh văn, nên không có Bồ tát.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ mười sáu vị vương tử” tới “Tam Bồ đề”.
Tán rằng : dưới là
đoạn lớn thứ ba : con tiếp nối việc truyền đăng. Có 5 phần :
1. Xuất gia
khải thỉnh.
2. Ưng thuận chính
thuyết: đoạn từ “bấy giờ Phật ấy nhận lời thỉnh cầu của Sa di” trở xuống.
3. Các con truyền
đăng : đọan từ “thuyết kinh này xong liền nhập tịnh thất” trở xuống.
4. Phật khởi tán
thán : đoạn từ “Đại Thông Trí Thắng Phật trải qua tám vạn bốn ngàn kiếp” trở
xuống.
5. Người được giáo
hóa thường được ích lợi : đoạn từ “Phật bảo các tỳ kheo : mười sáu vị Bồ tát
này” trở xuống.
Phần đầu có hai
đoạn :
- Đoạn đầu nói về
các con xuất gia khải thỉnh.
- Đoạn hai nói về
việc bề tôi tùy tòng xuất gia.
Đoạn đầu lại có ba
mục :
1/- Mục đầu thuyết
minh về đức của con.
2/- Mục hai thuyết
minh về việc khải thỉnh.
3/- Mục cuối
thuyết minh về ý khải thỉnh.
Đây là mục đầu :
thuyết minh đức của con, có sáu đức :
1) Đã vượt qua
được lưới trói buộc mà xuất gia làm sa di.
2) Nghe pháp liền
chóng giác ngộ, vì căn cơ thông lợi.
3) Tính tình thông đạt, trí tuệ sáng suốt.
4) Từ lâu được gặp
duyên lành, từng cúng dàng Phật.
5) Kiên trì thắng
giới, tịnh tu phạm hạnh.
6) Chí mong đại
quả (quả đại thừa) , cầu chính đẳng giác.
*
-Kinh văn : “Đều
bạch Phật rằng” tới “Phật tự chứng tri”.
Tán rằng : đầu
tiên là thuyết minh về việc khải thỉnh : “xưa (Phật) thuyết tiểu thừa pháp
luân, lợi ích chúng Thanh văn rồi, ý con cầu đại thừa, thỉnh (Phật) thuyết đại
thừa pháp luân”. Sau đó là thuyết minh về ý khải thỉnh : “chúng con chí cầu
chính pháp đại thừa, tri kiến của Như Lai, Phật tự chứng hết, Phật tự chứng
minh, xin Phật thuyết cho chúng con”.
-Hỏi : vì sao khi
thỉnh trước kia thì vương tử ở trước, còn nay khi thuyết pháp cho thì vương tử
lại ở sau ?
Đáp : trước thì
căn cứ vào tình thân sơ ; sau thì tỏ rõ về quyền thực.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Chuyển luân thánh vương” tới “vương
liền ưng thuận”.
Tán rằng : đây là
nói rõ việc các bề tôi tùy tùng xuất gia. Đầu là thỉnh cầu, sau là ưng thuận.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ Phật ấy” tới “Phật Sở Hộ Niệm”.
Tán rằng : dưới là
đoạn hai : ưng thuận chính thuyết. Có năm phần. Trong này có hai :
- Đầu tiên là lúc
sắp thuyết pháp phải đợi căn cơ chín muồi, cho nên trải qua hai vạn kiếp.
- Sau là trình bày
pháp sở thuyết : Diệu Pháp Liên Hoa. Diệu Pháp Liên Hoa chính vì Thanh văn. Vô
Lượng Nghĩa kinh chính vì Bồ tát. Vì sao trong này lại vì các Bồ tát mà thuyết Pháp
Hoa ? Giải thích giống như mục “Nhật Nguyệt Đăng Minh nhân Diệu Quang pháp sư,
hai mươi ức Bồ tát thích muốn nghe pháp” trước kia.
-Hỏi : vì sao
chuyển nhị thừa pháp luân lại gọi là tam chuyển thập nhị hành tướng, còn đại
thừa thì chẳng thế ?
Đáp : lý phải như
vậy. Chỉ vì cái nghĩa Thanh văn hễ ngồi là có thể thành Kiến đạo, Tu đạo và Vô
học đạo. Bồ tát thì chẳng thế. Do đó mà khác nhau, vì đây thuyết mười hai nhân
duyên cũng là dựa vào Tứ đế.
*
-Kinh văn :
“Thuyết kinh này xong” tới “đọc tụng thông lợi”.
Tán rằng : đây là
phần thứ ba : Sa di lĩnh ngộ.
*
-Kinh văn : “Lúc
thuyết kinh này” tới “chưa từng nghĩ bỏ”.
Tán rằng : trong này có hai :
• Phần thứ tư : ba
căn lĩnh ngộ.
• Phần thứ năm :
thời gian thuyết pháp.
Bồ tát thượng căn
nghe rồi tín thụ, Bồ tát trung căn cũng có sự tín giải. Các loại hạ căn khác
đều sinh nghi hoặc, vì Kinh Pháp Hoa này khó tin, khó hiểu, vì chúng sinh hạ
căn căn cơ chưa thành thục. Để khơi mào cho việc thuyết pháp ngày nay, cho nên
nói là thời ấy có kẻ nghi hoặc.
*
-Kinh văn :
“Thuyết kinh này xong” tới “bốn ngàn kiếp”.
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ ba : nói về các con truyền đăng. Có ba mục :
1) Phật nhập tịch
định.
2) Các con thuyết
pháp.
3) Số chúng sinh
được độ bao nhiêu.
Đây là mục đầu :
biết con căn cơ thành thục, để con truyền đăng, cho nên (Phật) nhập tịch định.
*
-Kinh văn : “Bấy
giờ mười sáu vị Bồ Tát” tới “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.
Tán rằng : các con
thỉnh pháp, lợi ích đã nhiều. Thời gian thuyết pháp dài.
*
-Kinh văn : “Nhất
nhất đều độ” tới “Tam Bồ đề tâm”.
Tán - rằng : đây nói về số
được độ nhiều ít bao nhiêu.
Về thị giáo lợi hỉ
: tức là về thị hiện, giáo đạo, tán lệ, khánh hỉ – theo như kinh mới dịch.
Hiển Dương quyển
12 còn thêm mục “Khiến lìa dục” : có nghĩa là phê phán các hành, khiến lìa ái
nhiễm, đó gọi là “khiến lìa dục”.
Thị hiện bốn loại
đạo lý chân thực, đó gọi là “thị hiện”. Đã được tín giải rồi thì khiến chính
thụ hành, đó gọi là “giáo đạo”.
Nếu họ thụt lùi
thì động viên họ tiến lên, đó gọi là “tán lệ”. Nếu họ theo pháp hành thì khen
ngợi khiến họ vui bụng thì đó gọi là “khánh hỉ”. Còn có nhiều điều giải thích
nữa, nhưng ngại rườm nên thôi.
Nay ở đây chỉ bốn
điều, trừ điều thứ nhất là “lìa dục”. Vì điều này khác với điều “thị hiện khiến
đều tu hành tín giải”. Đó là do người dịch sơ xuất bỏ sót, chứ nghĩa thì nhất
định phải là thế, vì năm điều ấy là phương pháp giáo hóa dần dần. Nghĩa hẳn là
thế.
*
-Kinh văn : “Đại
Thông Trí Thắng Phật” tới “khiến vào trong đó”.
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ tư nói về việc Phật khởi tán thán. Có hai mục :
- Muc đầu : (Phật)
lên tòa tán thán.
- Muc sau : khuyên
người ta thân cận, tín thụ.
Đây là mục đầu :
tán thán có bảy thứ :
1) Hiếm có. 5) Tu
hành.
2) Căn lợi. 6) Thụ
trì Phật trí.
3) Trí sáng. 7)
Khai thị chúng sinh.
4) Gần thánh.
*
-Kinh văn : “Các
người đều nên” tới “tuệ của Như Lai”.
Tán rằng : đây là
khuyên người ta nên thân cận, tín thụ.
- Đầu tiên nêu lên
việc khuyên nên thân cận.
- Sau đó giải
thích khiến tín thụ.
*
-Kinh văn : “Phật
bảo các tỳ kheo” tới “thảy đều tín giải”.
Tán rằng : đây là
mục thứ năm : người được giáo hóa thường được lợi ích. Có ba ý. Trong này có
hai :
- Thường thuyết
Pháp Hoa.
- Người được giáo
hóa thường được lợi ích.
Thường được lợi
ích có hai :
1) Cùng được
lợi như Bồ tát.
2) Nghe pháp
tín giải.
*
-Kinh văn : “Vì
nhân duyên này” tới “tới nay chẳng hết”.
Tán rằng : đây là
ý thứ ba : giải thích nghĩa vì sao trở thành “thường được lợi ích” : nêu rõ
trong hội Pháp Hoa ngày nay đều là các chúng sinh thường được lợi ích thời
đó.
Chúng sinh đời đời
đều được lợi ích “mà vẫn chưa hết” : đó là lý do họp hội Pháp Hoa này.
*
-Kinh văn : “Các
tỳ kheo” tới “coi là quyến thuộc”.
Tán rằng : dưới là
đoạn thứ tư : sẽ thành Phật ngày nay. Có hai phần :
• Phần đầu : nêu
lên việc thành Phật hiện làm lợi cho chúng sinh.
• Phần sau :
nêu rõ nơi chốn thành Phật với tên khác
Đây là phần
đầu.
*
-Kinh văn : “Hai
Sa di đó” tới “vị thứ hai tên là Sư Tử Tướng”.
Tán rằng : đây là
nói rõ nơi chốn thành Phật với tên khác.
“A Súc” : có nghĩa
là vô động, vì tướng dụng phiền não hết thảy đều chẳng động.
* Chữ
[ ] đọc là Súc. Nếu là chữ Súc với nghĩa “cùng
làm” thì viết là [ ]. Nếu là chữ Súc với nghĩa “thẳng
tắp” thì viết là [ ]. Nếu là chữ Súc với nghĩa “liêm khiết
cẩn thận” thì viết là [齪]. Còn chữ [ ] này
chẳng biết xuất xứ từ đâu.
“Tu DiĐảnh” : biểu
thị cực tôn cao.
“Sư Tử Âm” : thể hiện
tinh thần vô úy.
“Sư Tử Tướng”
: biểu thị khả năng hàng phục được ma oán.
*
-Kinh văn : “Hai
Phật ở phương nam đó” tới “vị thứ hai tên là Phạm
Tướng”.
Tán rằng : thường
chứng pháp tính thì gọi là “Hư không trụ”.
Hằng tịch sinh tử
thì gọi là “thường diệt”.
Đắc đại tự tại
thì gọi là “Đế tướng”.
Năng sinh các
thánh thì gọi là “Phạm tướng”.
*
-Kinh văn : “Hai
Phật ở phương tây” tới “vị thứ hai là Tu Di Tướng”.
Tán rằng : “A Di
Đà” : là vô lượng thọ, tuệ mệnh dài (trường).
“Độ Nhất Thiết Thế
Gian Khổ Não” : là thường khởi bi.
“Đa Ma La Bạt
Chiên Đàn Hương” : là Tính Vô Cấu Hiền hương.
Chúng đức trang
nghiêm gọi là “Tu Di Tướng”.
*
-Kinh văn : “Hai
Phật phương bắc” tới “Tam Bồ Đề”.
Tán rằng : năng
thí pháp vũ (mưa pháp) thì gọi là “Vân Tự Tại”.
Che rợp cực rộng
nên gọi là “Vân Tự Tại vương”.
Năng phá sinh tử
thì gọi là “Hoại Nhất Thiết Thế Gian Bố Úy”.
Có khả năng diệt
được ba nghiệp sinh tử phiền não, chứng được lý tịch mặc, nên gọi là “Thích Ca
Mâu Ni”. Danh hiệu này ở đây có nghĩa là Năng Tịch.
“Thế giới Sa
bà” : chữ Sa bà ở đây có nghĩa là “kham nhẫn” (có khả năng chịu đựng nổi).
Chúng sinh cõi này chẳng hiếu thảo với cha mẹ, chẳng kính trọng sa môn, đi theo
con đường làm mười nghiệp ác, ngày đêm tăng thêm vô lượng nỗi khổ sở trong ba
đường tám nạn, Bồ tát ở trong đó kham nhẫn khổ não mà làm lợi ích, cho nên (cõi
này) gọi là kham nhẫn.
*
-Kinh văn : “Các
tỳ kheo” tới “ Tam Bồ đề”.
Tán rằng : trên
hội về công việc của Phật. Dưới hội về công việc của đệ tử, có hai phần :
- Đầu tiên là
chính thức hội về công việc của
đệ tử.
- Sau đó là giải
đáp thắc mắc, đó là đoạn từ “sau khi ta diệt độ rồi lại có” trở xuống.
Phần đầu lại chia
làm hai phần nhỏ :
+ Đầu tiên thuyết
minh về sự giáo hóa trước kia.
+ Sau là chính
thức kết luận về hội ấy, đó là đoạn từ “những người được giáo hóa lúc đó” trở
xuống.
Phần đầu tiên này
lại chia làm hai phần nhỏ :
1- Phần đầu :
thuyết minh về sự giáo hóa trước kia.
2- Phần hai : gồm
đoạn từ “các người này” trở xuống : thuyết minh về lý do trụ ở tiểu thừa.
Đây là phần đầu :
vốn (Phật) giáo hóa về đại thừa, nhưng cho đến nay vẫn còn có người trụ ở địa
vị Thanh văn (tức tiểu thừa). Song trước hội Pháp Hoa, (ta) thường thuyết cho
họ về các kinh như Kinh Bát Nhã v.v…, dùng phương tiện bí mật giáo hóa cho họ
về đại thừa. Song họ chẳng biết sự giáo hóa của ta.
*
-Kinh văn : “Những
người này” tới “khó tin, khó hiểu”.
Tán rằng : đây là
nói rõ lý do vì sao mà trụ ở tiểu thừa.
Bởi vì thoái tính
của hạng người này là thuộc loại Bất định tính, cần phải dùng quyền thừa mà
giáo hóa cho họ, khiến họ dần dần nhập đạo. Vì trí tuệ Phật khó tin khó hiểu chẳng
thể bỗng chốc mà học được, nên ta giáo hóa cho họ bắt đầu bằng quyền thừa, cuối
cùng bằng thực thừa.
*
-Kinh văn : “Người
được giáo hóa thời đó” tới “chính là đệ tử vậy”.
Tán rằng : chính
thức kết về hội ấy.
*
-Kinh văn : “Sau
khi ta diệt độ” tới “sẽ nhập Niết bàn”.
Tán rằng : dưới là
giải đáp thắc mắc.
Có người hỏi rằng
: nếu các Thanh văn đều sẽ làm Phật, thì khi họ gặp Phật được Phật giáo hóa lẽ
ra phải thành Phật. Thế mà sau khi Phật diệt độ rồi, còn có kẻ cầu Thanh văn,
chẳng nghe kinh này, chẳng giác ngộ, chẳng biết rằng hạnh của Bồ Tát rộng lớn
to xa, ở trong hai công đức hữu vi và vô vi mà tự mình chứng được, tưởng là hữu
dư Niết bàn diệt độ, cầu sẽ nhập vô dư Niết bàn. Những người ấy vì sao mà sẽ
được thành Phật ?
Cho nên, văn giải
thích ở dưới chia làm ba phần :
1) Đầu tiên nói về
người bị nghi.
2) Thứ đến nói về
họ cũng thành Phật.
3) Cuối cùng là
giải thích lý do.
Đây là mục nói về
người bị nghi là hàng Thanh văn.
*
-Kinh văn : “Ta ở
nước khác” tới “được nghe kinh này”.
Tán rằng : đây là
giải thích về việc họ cũng thành Phật.
“Ta ở nước khác
làm Phật, còn có tên khác” : Bồ Tát Xử Thai kinh nói : “từ đây mà diệt độ rồi
thì lại thành Phật ở mười phương các nước chư Phật, mỗi phương có ba tỷ hai
trăm triệu nước (32 cai), để giáo hóa chúng sinh”. Trong dụ Thày thuốc ở dưới
sẽ nói cụ thể về nghĩa này.
Người đó tuy tưởng
là diệt độ, cầu nhập vô dư Niết bàn, nhưng có duyên đối với ta. Ta sẽ dùng
phép thần thông mà tiếp dẫn hắn, (khiến hắn) gặp ta và được nghe kinh
này. Hoặc là hạng phàm phu hay là hạng hữu học, cầu hữu dư hoặc vô dư Niết bàn,
tưởng rằng Niết bàn này là thực sự diệt độ, cầu chứng nhập hai loại Niết bàn
này, tu hạnh nhị thừa, do chủng tính an bài, nhờ từ bi tiếp dẫn mà sinh ở đó,
được gặp ta mà cầu trí tuệ Phật.
Hoặc ta từ đây mà
đi làm Phật ở nước khác, người ấy tưởng là ta đã diệt độ, cho rằng ta đã nhập
vô dư Niết bàn, thì ta sẽ dẫn tới đó, khiến người ấy cầu Phật trí.
Đây nói : người
nào đối với ta dù có duyên được gặp ta, hay không gặp được ta, thì cũng sẽ được
Phật khác và các Bồ tát tiếp dẫn, giáo hóa nghe kinh điển này sẽ được thành
Phật. Cũng có sự giáo hóa ngấm ngầm, thành tựu cho người này khiến hướng về đại
thừa.
Nay nói về việc
giáo hóa công khai (hiển hóa), có duyên với ta, nên nói là người đó cầu trí tuệ
Phật; hoặc tuy có duyên với Phật khác mà đi đến đó, nhưng vì ý thú bình đẳng
nên vẫn nói có duyên với ta.
*
-Kinh văn : “Chỉ
dùng Phật thừa” tới “phương tiện thuyết pháp”.
Tán rằng : đây
giải thích về duyên do.
Do nhất Phật thừa
cứu cánh diệt độ, vì không có nhị thừa cứu cánh thể nào khác. Nếu phương tiện
thuyết giáo thì có thể có ba thừa; hoặc đối với cực quả thể duy nhất mà phương
tiện nói là có ba nhân; nhờ ngôn thuyết mà tăng trưởng cho lý lẽ.
Còn phẩm Cao Quý
Đức Vương trong Kinh Niết Bàn nói : “Thế nào là Niết bàn ? Thế nào là đại
Niết bàn ? Nơi trụ tám vạn kiếp, sáu vạn kiếp, bốn vạn kiếp, hai vạn kiếp,
một vạn kiếp của Thanh văn, Duyên giác đó gọi là Niết bàn. Trụ xứ của Vô thượng
Pháp vương thánh chúa thì gọi là đại Niết bàn”. Người xưa giải thích rằng : các
quả nhị thừa trải qua từng ấy thời gian thì nhập vô dư Niết bàn.
“Cuối cùng khởi
hồi tâm” : thì dẫn lời văn Lăng Già (nói là do) các Bồ tát và Phật hóa tác,
trải qua từng ấy thời gian ham rượu tam muội, say rồi từ đó mà khởi hồi tâm hướng
theo đại thừa.
Nay giải thích
chẳng thế. Các người ở địa vị nhị thừa kia, đã trải qua từng ấy thời gian tu
hành hướng Đại, thì trước khi họ hồi tâm, thứ mà họ cần chứng đắc là hữu dư
Niết bàn, đó gọi là Niết bàn. Còn Niếât bàn mà pháp vương chứng được, thì gọi
là đại Niết bàn.
Chẳng phải là hạng
nhị thừa ở các địa vị hữu học đã trải qua tám vạn kiếp cho đến bốn vạn kiếp là
đã nhập Niết bàn. Cũng chẳng phải là bậc vô học nhập vô dư y (Niết bàn)
thì Thân trí đều không có, nhập Niết bàn rồi liền khởi Thân trí trải qua hai
vạn kiếp v.v… tu hành hạnh đại thừa.
Phẩm Tín Giải nói
:
“Chúng con đã từ
lâu,
Chuyên tu tập pháp
Không.
Đặng thoát khỏi
hoạn nạn,
Khổ não của ba
cõi,
Trụ ở tối hậu
thân,
Hữu dư y Niết
bàn.
. . . . . .
Thời là đã có
thể,
Báo được ân Phật
rồi”.
Trang Nghiêm
luận nói : “khi Niết bàn, những người khác thì thiện căn hết, Bồ tát thì chẳng
thế. Còn hạng nhị thừa nhập vô dư Niết bàn thì thiện căn dường như hết”.
Nếu giống như điều
Trang Nghiêm luận đã nói, thế thì cớ sao trải qua một vạn kiếp tu hành mới nhập
Thập tín vị, sau này trải qua ba lần vô số kiếp mới được Bồ đề ? Bản thức
đã không có, thì không có thức để giữ chủng, thân ấy đều tận, thế thì làm sao
mà tu hành và ai sẽ được Bồ đề ? Nhập vô dư (Niết bàn) rồi, nếu còn có
thiện căn, thế thì chẳng những trái với giáo, mà còn trái với chính lý. Thân
trí nếu còn thì làm sao mà gọi là vô dư Niết bàn ?
Chẳng giống với
Như Lai. : “Vô lậu y” mà còn, thì gọi là hữu dư y. “Hữu lậu y” mà tận, thì gọi
là vô dư y.
Kinh Thắng Man
cũng nói : “hạng nhị thừa mà đắc Niết bàn, đó là do Phật phương tiện mà nói”.
Thành Duy Thức nói
: “chẳng được vô vãng (không cần qua lại, tới lui nữa)ï, đó là phương tiện.
Hoặc trụ hữu dư, hồi tâm hướng theo đại thừa, chẳng đắc vô dư, đó gọi là đắc
phương tiện”.
Phẩm Bệnh Hành,
Kinh Niết Bàn nói : “bậc Tu đà hoàn là sau 7 lần trở lại cõi người cõi trời,
đoạn được kết, thì nhập Niết bàn. Người đó thời vị lai trải qua 8 vạn kiếp sẽ
đắc thành A nậu Bồ đề. Bậc Tư đà hàm sau 1 lần qua lại, đoạn kết, nhập Niết
bàn, tới thời vị lai trải qua 6 vạn kiếp thì được A nậu Bồ đề. Bậc A na hàm
chẳng trở lại, thời vị lai qua 4 vạn kiếp sẽ đắc Bồ đề. Bậc A la hán qua 2 vạn
kiếp sẽ đắc Bồ đề. Hàng Bích chi Phật qua 1 vạn kiếp sẽ đắc Bồ đề”.
Kinh ấy còn nói :
qua 8 vạn kiếp sẽ được A nậu Đa la Tam miệu Tam Bồ đề tâm, chẳng phải thành
chính giác thì gọi là “đắc Bồ đề”.
Thày xưa giải
thích về A la hán như sau : đã từng trải qua 7lần sinh thì gọi bằng danh hiệu
Tu đà hoàn, đã từng trải qua 2 lần sinh thì gọi bằng danh hiệu Tư đà hàm, đã
từng trải qua 1 lần sinh ở thượng giới thì gọi bằng danh hiệu A na hàm, chẳng
trải qua lần sinh nào cả nhưng nhờ giáo mà đắc quả thì gọi là A la hán. Chẳng
trải qua lần sinh nào mà đắc Độc giác, thì gọi bằng danh hiệu Bích chi
Phật.
Ba loại đầu thì
phàm thân đắc quả, thánh thân Niết bàn. Hai loại sau thì phàm thân đắc quả,
phàm thân Niết bàn. Trải qua nhiều lần sinh là loại độn căn, bởi vậy thời tịch
lâu. Trải qua ít lần sinh là loại lợi căn, bởi vậy thời tịch ngắn.
Hạng trải qua 8
vạn kiếp, đó là dẫn lời giải thích của Bồ Đề Lưu Chi. Song nhờ Bi tưởng lấy 8
vạn kiếp làm 1 ngày đêm, gom ngày đêm này lại lâu năm mà thành ra đại kiếp. Họ
thọ vô lượng đại kiếp. Qua đó về sau mới bắt đầu phát tâm. Xét cách giải thích
này chưa có căn cứ trong kinh điển.
Kinh giải thích :
Tu đà hoàn là hạng 7 lần sinh, đoạn kết, được nhập Niết bàn. Thế thì bậc Tu đà
hoàn này trải qua 8 vạn kiếp mới đắc đại Bồ đề tâm. Vị đầu Thập tín, ai bảo là
8 vạn kiếp trụ ở Niết bàn ? Đây A la hán gọi là Tu đà hoàn trải qua 8 vạn kiếp
mới được phát tâm. Thật đáng nực cười !
Thêm nữa, nếu nhập
vô dư, thì thân y hết hẳn. Cớ sao không có nhân mà sau đó lại khởi lên được.
Chẳng thế thì vô dư là nói nghĩa gì ? Nếu giống như
Phật nhập vô dư
Niết bàn, hữu lậu hết hẳn, lại được vô lậu, vô lậu đã viên mãn, thì sao chẳng
gọi là Phật ? Nếu đoạn trừ hết phược gọi là nhập vô dư, thân trí chẳng
mất thế thì vô dư ở chỗ nào ? Vì thân hữu y, thế thì hai loại vô dư, hữu
dư khác nhau ở chỗ nào ?
Suy xét mọi mặt về
nghĩa thì thấy khó hợp khó tin. Song nghĩa của việc “bậc Tu đà hoàn trải qua
8 vạn kiếp v.v…” như trong Kinh Niết Bàn, thì như trên đã nói, thực ra là
chỉ quả ấy, chứ chẳng phải là A la hán vì thế mà được danh hiệu, cũng chẳng
phải là A la hán phải từng trải qua lần sinh. Như ý của kinh kia, thì chỉ nói
chung về bậc A la hán, thực ra hạng hữu học phát tâm hướng theo đại thừa lại phải
trải qua bao nhiêu thời gian nữa thì được Niết bàn ?
Trong kinh không
có hạng hữu học mà lại hồi tâm. Do đó nên coi cách giải thích trong Kinh Niết
Bàn cùng giống với Du Già luận là hay nhất.
QUYỂN THỨ BẢY - PHẦN SAU
ĐÃ XONG
Ngày cuối
tháng Năm, năm Bảo An thứ ba, Sư Tăng Giác chùa Pháp Long đem in sau khi viết
xong.
Ngày 10 tháng
12 cùng năm này, ngắt văn mạch xong, Sư Tăng Giác chùa Pháp Long đem in theo
bản của Viên Như phòng, chùa Hưng Phúc,
“để pháp được
trụ lâu, vãng sinh Cực lạc”.
Đây là bản di
điểm (có ngắt câu) của bậc nổi tiếng, đã được hiệu đính so với bản. . . . .v.v…