- 00-lời Đầu Sách
- 01-pháp Hội Nhân Do
- 02-thiện Hiện Khải Thỉnh
- 03-đại Thừa Chánh Tông
- 04-diệu Hạnh Vô Trụ
- 05-như Lý Thật Kiến
- 06-chánh Tín Hy Hữu
- 07-vôđắc Vô Thuyết
- 08-y Pháp Xuất Sanh
- 09-nhất Tướng Vô Tướng
- 10-trang Nghiêm Tịnh Độ
- 11-vô Vi Phước Thắng
- 12-tôn Trọng Chánh Giáo
- 13-như Pháp Thọ Trì
- 14-ly Tướng Tịch Diệt
- 15-trì Kinh Công Đức
- 16-năng Tịnh Nghiệp Chướng
- 17-cứu Kính Vô Ngã
- 18-nhất Thể Đồng Quán
- 19-pháp Giới Thông Hoá
- 20-ly Sắc Ly Tướng
- 21-phi Thuyết Sở Thuyết
- 22-vô Pháp Khả Đắc
- 23-tịnh Tâm Hành Thiện
- 24-phước Trí Vô Tỷ
- 25-hóa Vô Sở Hóa
- 26-pháp Thân Phi Tướng
- 27-vô Đoạn Vô Diệt
- 28-bất Thọ Bất Tham
- 29-uy Nghi Tịch Tĩnh
- 30-nhất Hiệp Tướng Lý
- 31-tri Kiến Bất Sinh
- 32-ứng Hoá Phi Chân
KINH KIM CANG
GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
ĐOẠN 3
ĐẠI THỪA CHÁNH TÔNG.
Phật cáo Tu-bồ-đề:
DỊCH:
CHÁNH TÔNG CỦA ĐẠI THỪA.
Phật bảo Tu-bồ-đề : Các vị Bồ-tát lớn nên như thế mà hàng phục tâm kia.
Có tất cả các loài chúng sanh hoặc loài sanh bằng trứng, hoặc loài sanh bằng
thai, hoặc sanh chỗ ẩm ướt, hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không hình
sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng có tưởng chẳng không tưởng, ta
đều khiến vào vô dư Niết-bàn mà được diệt độ đó. Diệt độ như thế vô lượng, vô
số, vô biên chúng sanh mà thật không có chúng sanh được diệt độ. Vì cớ sao? Này
Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ
giả tức chẳng phải là Bồ-tát.
GIẢNG:
- Chín loài chúng sanh chỉ trùm tất cả chúng sanh.
- Niết-bàn nghĩa là vô sanh. Niết-bàn có hữu dư y Niết-bàn và vô dư y
Niết-bàn. Những vị chứng quả A-la-hán, được vô sanh nhưng còn thân hình tướng
thì gọi là hữu dư Niết-bàn; được Niết-bàn sau khi xả thân nghĩa là được vô sanh
sau khi không còn thân tướng thì gọi là vô dư Niết-bàn.
- Bốn tướng:
Tướng ngã: Thấy có mình thật.
Tướng nhân: Thấy có người thật.
Tướng chúng sanh: Thấy tất cả loài có thật.
Tướng thọ giả: Thấy có mạng sống tiếp nối trong một thời gian.
Đây là đến phần Phật trả lời hai câu hỏi trước của ngài Tu-bồ-đề. Câu hỏi
đầu là an trụ tâm, câu hỏi thứ hai là hàng phục tâm, nhưng khi trả lời đức Phật
đổi lại trả lời câu hỏi hàng phục tâm trước và câu hỏi an trụ tâm sau. Trong
đoạn này Phật dạy cách hàng phục tâm tức chỉ phương pháp tu hành. Đức Phật dạy:
Đối với tất cả loài chúng sanh ta đều đưa họ vào chỗ Niết-bàn không còn hình
tướng để họ được diệt độ. Diệt độ như thế không biết bao nhiêu chúng sanh mà
thật không có một chúng sanh nào được diệt độ. Đó là hàng phục được tâm, quí vị
làm được điều đó không? Phật lại bảo tiếp: Tại sao thế? Vì nếu Bồ-tát còn một
tướng ngã hay tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì không phải là Bồ-tát.
Phật trả lời khó hiểu quá, thấy như lạc đề. Đây là chỗ chính yếu nhưng
vừa mở đầu chúng ta thấy ngỡ ngàng, chúng ta mong Phật trả lời làm sao hàng
phục tâm mà đức Phật trả lời như thế này thì làm sao hàng phục tâm được. Tôi không
nói loài sanh bằng trứng, những loài sanh chỗ ẩm ướt, những loài sanh do biến
hóa, những loài có sắc, không sắc v.v. mà chỉ nói những loài thai sanh và trong
loài sanh bằng thai, tôi hạn chế trong loài người thôi. Chừng nào chúng ta độ
tất cả loài người vào vô dư Niết-bàn mà không thấy họ được diệt độ, chừng đó
chúng ta mới hàng phục được tâm. Vậy chừng nào chúng ta làm được việc đó? Nếu
như không làm được việc đó thì hàng phục tâm không được. Tại sao hỏi hàng phục
tâm mà Phật dạy độ chúng sanh ở ngoài? Đó là điều khó, từ xưa đến giờ chính khi
chúng tôi học, đến chỗ này chúng tôi cũng lắc đầu, điều Phật dạy rất khó áp
dụng trong việc tu hành. Nếu chúng ta hiểu theo lời theo chữ thì sẽ có hai điểm
không thể thực hiện được. Điểm thứ nhất là chúng ta thấy Phật chưa thành Phật.
Tại sao? Vì khi đức Phật thành Phật, thử hỏi tất cả người - chỉ nói là người
thôi - ở Ấn Độ, Phật đã độ được vào vô dư Niết-bàn hết chưa? Chúng ta thấy rõ
rằng lúc đó còn ngoại đạo rất nhiều, Ngài chỉ độ một số mấy ngàn vị thôi chớ
đâu phải tất cả, vậy tại sao Ngài được thành Phật? Nếu hàng phục tâm chưa được
thì làm sao thành Phật? Điểm thứ hai là Phật dạy chúng ta làm một việc mà không
bao giờ chúng ta làm nổi. Thử hỏi tất cả quí vị cũng như chúng tôi, ai đã được
vô dư Niết-bàn? Thế mà chúng ta phải đưa tất cả chúng sanh vào vô dư Niết-bàn,
chừng đó mình mới hàng phục
Điểm thứ nhất ta thấy mâu thuẫn với Phật, điểm thứ hai mâu thuẫn với
chúng ta, như thế làm sao có thể áp dụng trong việc tu hành? Nhưng đến sau này
khi tu thiền và đọc sách thiền rồi, chúng tôi mới giật mình, không ngờ mình
không hiểu lời Phật nói. Kinh nói trong chúng ta có đủ cả thập pháp giới, đó là
tứ thánh và lục phàm. Quí vị thấy có khi chúng ta phát lòng từ bi giống như
Phật, như Bồ-tát, có khi chúng ta xấu xa như con heo, con bò, có khi chúng ta
hung dữ như con cọp, con sói. Trong chúng ta có đủ trăm thứ nghĩ, tốt xấu lẫn
lộn. Thế nên mỗi một dấy niệm về người thì đó là một chúng sanh thai sanh, một
dấy niệm về chim chóc thì đó là chúng sanh noãn sanh, một dấy niệm về con bướm,
con ong thì đó là hóa sanh, một dấy niệm về con đom đóm đó là thấp sanh, nghĩ
đến hư không đó là chúng sanh vô sắc, dấy niệm về con người có tưởng, đó là chúng
sanh có tưởng, dấy niệm buông hết vọng tưởng, buông hết cảnhững tâm tưởng đó là
chúng sanh vô tưởng. dấy niệm là sanh. Tại sao? Bởi vì khi lặng thì không có
niệm, mà niệm dấy lên là do duyên với cảnh hoặc người, hoặc vật. Vọng thức bên
trong duyên theo bóng dáng của vọng trần, cả hai phối hợp nhau mà sanh nên gọi
là chúng sanh. Mỗi một niệm dấy lên như vậy là một chúng sanh. Những chúng sanh
do niệm vừa dấy lên đó chúng ta liền độ vào vô dư Niết-bàn. Làm sao độ? Chúng
sanh đó dấy lên, ta biết chúng sanh này giả tức nhiên nó lặng xuống chỗ không
sanh và khi nó lặng xuống không còn thấy tăm dạng nên gọi là vô dư Niết-bàn.
Như thế chúng ta thấy đức Phật độ hết chúng sanh, Ngài hàng phục được tâm, Ngài
thành Phật. Như thế mới có lý, mới đúng sự thật.
Cũng thế nếu những vọng tưởng của chúng ta đang điên cuồng chạy ngược,
chạy xuôi theo có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng. theo tất cả hình tướng
bên ngoài, bây giờ chúng ta đưa nó vào vô dư Niết-bàn,vào chỗlặng lẽ không sanh
diệt, tâm chúng ta không còn loạn nữa, đó là chúng ta hàng phục được tâm. Hiểu
như vậy chúng ta mới tu được. Như thế chúng ta mới thấy rõ đức Phật thành Phật
trong khi tất cả chúng sanh vẫn còn. Ngài hàng phục được tâm của Ngài nên mới
được đến chỗ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như bây giờ chúng ta vừa phát tâm
tu thì chúng ta cũng hàng phục như vậy, lần lần tâm an định chúng ta mới tiến
bộ được. Nếu cứ lo độ chúng sanh ở ngoài trong khi chính mình chưa độ được mình
thì độ được ai?
Hiểu như vậy rồi chúng ta thấy kinh Phật rất cao siêu, lời lẽ diễn tả
những hình ảnh mà chúng ta không hiểu là những hình ảnh đó quy về mình rồi
chúng ta cứ tưởng là việc bên ngoài. Khi chúng ta tưởng như thế chúng ta sẽ
thối chí không biết làm sao thực hành. Thế nên ngày xưa chính tôi đã từng nói
rằng: Kinh Đại thừa chắc chỉ để trên gác thờ, không thể áp dụng trong việc tu
hành, nhưng nay chúng ta hiểu rõ rồi, mới thấy chính đoạn này trả lời rất sát
câu hỏi của ngài Tu-bồ-đề. Ngài Tu-bồ-đề hỏi làm sao hàng phục được tâm? Phật
dạy: Một niệm dấy lên là một chúng sanh, đưa những niệm đó vào chỗ vô sanh là
hàng phục tâm. Đây là tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ. Rõ ràng là Phật trả lời
việc hàng phục tâm. Nếu nói độ tất cả chúng sanh thì ta thấy như là người hỏi
việc bên trong mà Phật trả lời việc bên ngoài, không dính dáng gì với nhau.
Nhưng ở đây, chúng ta đã thấy rõ ý nghĩa độ tất cả chúng sanh, đó là đưa tất cả
niệm vào chỗ không còn sanh diệt. Khi nào thực hành quí vị mới thấy rõ. Một niệm
dấy lên nghĩ về người, chúng ta liền nói niệm đó giả dối không thật, không
theo. Khi biết nó giả, ta không theo thì nó lặng xuống, lặng xuống chỗ không
còn thấy tướng mạo, đó là vô dư Niết-bàn. Không sanh là Niết-bàn, không còn
tướng mạo là vô dư . Bao nhiêu niệm đều đưa vào đó nên nói độ tất cả chúng sanh
mà không thấy có chúng sanh nào được diệt độ, nghĩa là đưa tất cả vào đó hết mà
không còn thấy có một người nào hay một niệm nào thật. Quí vị thấy thật là khó,
khó ngay ở buổi đầu.
Thế nên Phật nói tiếp: Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề!Nếu
Bồ-tát còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, thì không
phải là Bồ-tát. Tại sao vậy? Bởi vì một niệm dấy lên tức là có
chấp ngã trong đó. Quí vị nhớ từ cái chấp ngã của Đại thừa đi lần đến chấp ngã
sâu kín vi tế của Thiền tông. Hai cái tương ưng nhau. Chấp ngã của Đại thừa là
chấp thân làm ngã và chấp tâm làm ngã. Từ cái chấp thân, tâm làm ngã đến niệm
dấy lên chấp niệm đó là mình, đó cũng là chấp ngã. Niệm dấy lên cho là mình
nghĩ, đó là chấp ngã. Tại sao? Dấy niệm là suy nghĩ về người, suy nghĩ về cảnh,
thử hỏi ai nghĩ, ai nghĩ về người, ai nghĩ về cảnh? Thô thì chấp thân này, tế
thì chấp một niệm, vì vậy còn thấy một niệm thật là còn có tướng ngã, tướng
nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả; nếu đưa hết những niệm vào vô dư
Niết-bàn rồi thì đâu còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ
giả. Người làm được như vậy, đức Phật nói: Đó là Bồ-tát độ chúng sanh.
Quí vị thấy mỗi ngày chúng ta ngồi ở tảng đá chơi, hoặc ngồi ở trước hành
lang nhà, hoặc ngồi trong vườn, nếu chúng ta cứ lo độ chúng sanh như vậy, nghĩa
là mỗi chúng sanh dấy lên chúng ta đưa vào vô dư Niết-bàn, đó cũng là Bồ-tát độ
chúng sanh rồi. Tại sao gọi là Bồ-tát? Vì Bồ-tát là một chúng hữu tình giác ngộ
và đem sở giác của mình giáo hóa kẻ khác, tức là tự giác và giác tha. Niệm dấy lên
chúng ta biết nó là hư giả, đó là giác; giác rồi đưa nó vào chỗ vô sanh, đó là
độ chúng sanh. Như vậy quí vị thấy giờ nào mà không độ chúng sanh? Chúng ta độ
chúng sanh đó thì sẽ đi đến chỗ an trụ Niết-bàn. Tóm lại đức Phật chủ yếu dạy
chúng ta đối với tất cả niệm khởi về người về vật v.v. muôn ngàn hình tướng đều
cho lặng xuống hết, lặng vào chỗ không còn sanh diệt, khi đó là hàng phục tâm.
Tâm chúng ta không còn loạn động nữa, mà hết loạn động tức là chúng ta hàng
phục được tâm thuần thục. Như thế câu trả lời rất là xác đáng. Và như vậy mới
hết tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Hiện giờ có nhiều
người không hiểu, cho thân này là ngã nên bảo: "Thôi tôi xả thân, tôi
không nghĩ gì đến tôi hết, tôi bố thí tất cả thức ăn, thức mặc, cái gì tôi cũng
không kể", nhưng niệm của họ vẫn còn khởi thì cái xả đó vẫn chưa sạch. Tỉ
dụ cứ nghĩ ta là người bố thí, ta là người nhẫn nhục tức là còn ngã chớ gì? Cho
nên còn một niệmlà còn ngã, cái ngã tế nhị như vậy. Thành ra có nhiều người làm
việc coi như xả ngã mà chính là nuôi cái ngã thêm to, đó là cái ngã vọng tưởng
ở tâm. Thế nên khi hiểu rồi quí vị mới thấy ở đây đức Phật bảo: Độ tất cả chúng
sanh mà không thấy có một chúng sanh nào được diệt độ. Tại sao? Vì nếu Bồ-tát
còn bốn tướng đó không phải là Bồ-tát. Còn bốn tướng là còn dấy niệm thấy có
mình tức có ngã, mà có ngã tức là có nhân, có chúng sanh, có thọ giả. Có dấy
niệm mới chấp, mới nghĩ ta phải người quấy, mới thấy ta hay người dở v.v.nếu không
dấy niệm thì chấp cái gì? Đó là chỗ cứu kính