- 00-lời Đầu Sách
- 01-pháp Hội Nhân Do
- 02-thiện Hiện Khải Thỉnh
- 03-đại Thừa Chánh Tông
- 04-diệu Hạnh Vô Trụ
- 05-như Lý Thật Kiến
- 06-chánh Tín Hy Hữu
- 07-vôđắc Vô Thuyết
- 08-y Pháp Xuất Sanh
- 09-nhất Tướng Vô Tướng
- 10-trang Nghiêm Tịnh Độ
- 11-vô Vi Phước Thắng
- 12-tôn Trọng Chánh Giáo
- 13-như Pháp Thọ Trì
- 14-ly Tướng Tịch Diệt
- 15-trì Kinh Công Đức
- 16-năng Tịnh Nghiệp Chướng
- 17-cứu Kính Vô Ngã
- 18-nhất Thể Đồng Quán
- 19-pháp Giới Thông Hoá
- 20-ly Sắc Ly Tướng
- 21-phi Thuyết Sở Thuyết
- 22-vô Pháp Khả Đắc
- 23-tịnh Tâm Hành Thiện
- 24-phước Trí Vô Tỷ
- 25-hóa Vô Sở Hóa
- 26-pháp Thân Phi Tướng
- 27-vô Đoạn Vô Diệt
- 28-bất Thọ Bất Tham
- 29-uy Nghi Tịch Tĩnh
- 30-nhất Hiệp Tướng Lý
- 31-tri Kiến Bất Sinh
- 32-ứng Hoá Phi Chân
KINH KIM CANG
GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
ĐOẠN 15
ÂM:
TRÌ KINH CÔNG ĐỨC.
Tu-bồ-đề! Nhược hữu thiện nam tử thiện nữ nhân, sơ nhật phần, dĩ Hằng hà
sa đẳng thân bố thí, trung nhật phần phục dĩ Hằng hà sa đẳng thân bố thí, hậu
nhật phần diệc dĩ Hằng hà sa đẳng thân bố thí. Như thị vô lượng bách thiên vạn ức
kiếp dĩ thân bố thí. Nhược phục hữu nhân văn thử kinh điển, tín tâm bất nghịch,
kỳ phước thắng bỉ, hà huống thư tả, thọ trì độc tụng vị nhân giải thuyết. Tu-bồ-đề!
Dĩ yếu ngôn chi, thị kinh hữu bất khả tư nghị, bất khả xứng lượng, vô biên công
đức, Như Lai vị phát Đại thừa giả thuyết, vị phát Tối thượng thừa giả thuyết. Nhược
hữu nhân năng thọ trì độc tụng, quảng vị nhân thuyết, Như Lai tất tri thị nhân,
tất kiến thị nhân, giai đắc thành tựu bất khả lượng, bất khả xứng, vô hữu biên,
bất khả tư nghị công đức. Như thị nhân đẳng tắc vi hà đảm Như Lai A-nậu-đa-la
tam-miệu tam-bồ-đề. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược nhạo tiểu pháp giả, trước ngã kiến,
nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức ư thử kinh bất năng thính thọ độc
tụng, vị nhân giải thuyết. Tu-bồ-đề! Tại tại xứ xứ, nhược hữu thử kinh, nhất thiết
thế gian thiên, nhân, a-tu-la sở ưng cúng dường. Đương tri thử xứ tắc vi thị
tháp, giai ưng cung kính tác lễ vi nhiễu, dĩ chư hoa hương nhi tán kỳ xứ.
DỊCH :
CÔNG ĐỨC TRÌ KINH.
Tu-bồ-đề! Nếu có người thiện nam thiện nữ, buổi sáng đem thân mạng bằng
số cát sông Hằng ra bố thí, buổi trưa lại đem thân mạng bằng số cát sông Hằng
ra bố thí, buổi chiều cũng đem thân mạng bằng số cát sông Hằng ra bố thí, như
thế vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp đem thân mạng bố thí. Nếu lại có người nghe
kinh điển này, lòng tin không nghịch, phước của người này hơn phước của người
kia, huống là chép viết, thọ trì, đọc tụng, vì người giải nói.
Này Tu-bồ-đề! Tóm tắt mà nói, kinh này có công đức vô biên không thể
nghĩ, không thể lường. Như Lai vì những người phát tâm Đại thừa mà nói, vì
những người phát tâm Tối thượng thừa mà nói. Nếu có người hay thọ trì đọc tụng,
rộng vì người nói, Như Lai ắt biết người ấy, ắt thấy người ấy đều được thành
tựu công đức không thể lường, không thể tính, không có bờ mé, không thể nghĩ
bàn. Những người như thế tức là gánh vác pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác
của Phật. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề! Nếu người thích pháp nhỏ tức chấp ngã, chấp
nhân, chấp chúng sanh, chấp thọ giả tức là đối với kinh này không thể lắng nghe,
thọ trì, đọc tụng vì người giải nói. Này Tu-bồ-đề! Ở nơi nào nếu có kinh này
thì tất cả thế gian trời, người, a-tu-la đều nên cúng dường, nên biết chỗ này
tức là tháp, đều nên cung kính làm lễ vây quanh, dùng các thứ hương hoa mà rải
cúng nơi ấy.
GIẢNG:
Trong đoạn này đức Phật nói về công đức trì kinh Kim Cang. Quí vị nhớ
trong đoạn trước đức Phật đã từng nói, giả sử như đem bảy báu đầy cả tam thiên
đại thiên thế giới bằng số cát sông Hằng ra bố thí, cũng không bằng công đức trì
kinh này. Ở đây Ngài lại nói nếu có người buổi sáng đem thân của mình nhiều
bằng số cát sông Hằng để bố thí, buổi trưa đem thân nhiều bằng số cát sông Hằng
bố thí, buổi chiều cũng như vậy thì một ngày bố thí chừng bao nhiêu thân? Chỉ
buổi sáng cũng tính không hết! Lại không phải chỉ một ngày mà trải vô lượng
trăm ngàn muôn kiếp thì bố thí chừng bao nhiêu thân? Đem thân bố thí nhiều như vậy
mà nếu có người nghe kinh Kim Cang, lòng tin không nghịch thì phước của người
này còn hơn phước của người đó, quí vị tin nổi không? Giả sử có ai nói: Người
đem thân bố thí, ai cần mũi thì cho mũi, ai cần tai thì cho tai, cần phần nào
trong thân thể đều cho hết không tiếc, với người nghe kinh này tin nhận, thọ
trì thì phước của người thọ trì kinh hơn phước của người bố thí, điều đó chúng
ta còn chưa tin thay! Cho cái mũi đâu phải dễ, cho cái tai đâu phải dễ, vậy tại
sao cái khó làm có phước ít hơn cái dễ làm? Phần nhiều nếu so sánh thì cái khó
làm phải có công đức nhiều hơn cái dễ làm. Tại sao ở đây Phật bảo cái dễ công
đức nhiều, cái khó công đức ít? Chỉ bố thí một thân thôi mà còn không làm nổi,
huống nữa là vô lượng thân trong vô lượng kiếp, thế mà phước lại thua người trì
kinh, thật là khó hiểu! Cho nên nói: Phật nếu nói đủ, người ta sẽ hoang mang,
hồ nghi, không tin. Thật ra nếu chúng ta, ai ai cũng đều thấy thân này là thật
thì chắc chắn không bao giờ tin nổi kinh này. Trái lại nếu chúng ta biết rõ
thân này như hạt sương buổi sáng, như đám mây chiều, không có gì lâu bền thì
người đem những vật tạm bợ bố thí sánh với người biết trở về pháp thân bất sanh
bất diệt, người nào hơn? Pháp thân bất sanh bất diệt mới là hơn chứ�? Xả một
triệu, một muôn, một ức cái thân bèo bọt này để được cái bất sanh bất diệt mới là
quí chứ! Nhưng chắc là chúng ta không chịu. Vì chúng ta thấy không phải là bèo
bọt. Tuy nghe Phật nói như thế song trên thực tế chúng ta còn thấy thân là
thật, cho nên bảo xả nó chúng ta thấy thật là khó. Bởi thấy nó thật nên khi
nghe Phật bảo xả bao nhiêu thân cũng không sánh được người trì kinh này, chúng
ta không thể tin nổi. Chỉ có hàng Bồ-tát thấy thân như huyễn như hóa, khi nghe
Phật nói, các Ngài cười và tin ngay. Thế nên đức Phật bảo rằng "Lòng tin
không nghịch thì phước còn nhiều hơn người kia", huống nữa là cố gắng biên
chép ra, thọ trì, đọc tụng, vì người giải nói thì phước vô kể. Như vậy trong
hai việc bố thí thân và trì kinh, quí vị chọn việc nào? Tại sao chúng ta chọn
trì kinh? Có phải vì chúng ta biết thân này là giả nên trì kinh để trở về cái
chân thật, hay vì chúng ta sợ đau không dám bố thí thân? Như vậy để thấy rằng
chúng ta trì kinh với cái niệm xem thân là quí, chớ không phải vì biết thân là
giả và việc trì kinh chánh đáng hơn. Tuy còn cho thân là quí nhưng biết hướng
về trì kinh để ứng dụng tu thì từ từ rồi cũng thấm, thân lần lần cũng hết quí,
như vậy cũng có công đức lớn.
Ở đây chúng ta thuộc về hạng Tối thượng thừa hay hạng Đại thừa? Hay là
hạng gì? Hạng Nhân thừa. Vì còn thấy thân là quí, muốn bỏ thân này được thân
khác tốt hơn đó là thuộc Nhân thừa, chớ không phải Đại thừa, huống nữa là Tối
thượng thừa! Trong kinh này, Phật vì người Đại thừa, vì người cầu Tối thượng
thừa mà nói, nên nhiều khi chúng ta thấy khó hiểu. Nếu thật chúng ta thuộc hai
hạng trên thì nghe kinh này, trì tụng và ứng dụng tu hành không có gì khó, vì
chuyện đó dễ tin quá. Tất cả chúng ta không biết mê lầm từ thuở nào mà hiện giờ
ai cũng đều thấy thân mình là thật. Nhưng ngày nay không bảo đảm được ngày mai,
lấy gì gọi là thật? Nếu thật thì có bảo đảm. Trái lại không bảo đảm được một
ngày, huống nữa đến một năm! Pháp thân là cái chưa từng sanh chưa từng diệt, là
bảo đảm, nghĩa là sống được với cái đó rồi thì muôn kiếp ngàn đời không hoại.
Còn sống với thân này thì không bảo đảm ngày mai. Như vậy đem cái không bảo đảm
đổi cái bảo đảm mà tiếc không muốn đổi. Bố thí gồm có tài thí và pháp thí.
Trong tài thí có chia hai phần: ngoại tài và nội tài. Ngoại tài là của cải, nội
tài là thân mạng. Trong đoạn trước Phật nói về bố thí ngoại tài, đoạn này đức
Phật nói đến bố thí nội tài. Đem thân này bố thí thì ngã không còn, ngã không
còn thì niềm tin đối với phápnày không lui sụt. Thế nên đức Phật bảo rằng: Nếu
người nào hay thọ trì, đọc tụng kinh này, rộng vì người nói thì Như Lai ắt biết
người ấy, ắt thấy người ấy đều được thành tựu công đức không thể nghĩ, không
thể lường, không thể suy tính được, người ấy ắt là hay gánh vác pháp Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác của Như Lai. Người nào hiểu đúng kinh này, ứng
dụng để sống, lại vì người giảng nói thì Phật biết chắc người đó là người gánh
vác pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tức pháp thành Phật, người đó xứng đáng kế thừa Phật.
Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, nếu người ưa pháp nhỏ là chấp ngã, chấp nhân,
chấp chúng sanh, chấp thọ� giả. Ưa pháp nhỏ là pháp gì? Tỉ dụ chúng ta đem bố
thí chừng năm, mười đồng bạc thì chúng ta nghĩ với số tiền bố thí này đời sau
mình sẽ được giàu có. Như vậy chúng ta chỉ thích được giàu sang, sung sướng ở
đời sau mà sự giàu sang đó nhiều lắm chỉ là năm, sáu chục năm thôi, đó là tướng
sanh diệt, mà mình thích cái sanh diệt thì không phải ưa pháp nhỏ là gì? Người
ưa pháp nhỏ là còn nghĩ đời sau mình hưởng đó là ngã kiến, người giúp cho mình được
hưởng đó là nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến đầy đủ. Vì thế đối với
kinh này, người đó khó mà nghe, thọ trì, đọc tụng, vì người giải nói.Người chấp
ngã đối với kinh Kim Cang thì khó nghe, khó nhận, khó thọ trì đọc tụng tại vì
không tin. Kinh Kim Cang chỉ thẳng ngã là tướng hư dối, các pháp hiện tại là
tướng hư dối, chỉ sống trở về với trí tuệ Bát-nhã, sống trở lại với pháp thân,
cái đó mới chân thật. Vậy người biết rõ thân và cảnh giả dối, đó là hiểu kinh
Kim Cang (Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng) và biết ngay nơi mình có cái trí
tuệ Bát-nhã bất sanh bất diệt, đó là trì kinh Kim Cang. Biết rõ cảnh không
thật, thân không thật mới nhận ra mình có cái chân thật, trong người giả có
lồng cái chân thật, nhận được như thế mới tin kinh Kim Cang. Như vậy được bao
nhiêu người tin? Lời Phật dạy, ai cũng tin cả. Nói thì nói thế, nhưng tin được
lẽ đó là lẽ thật thì hơi khó, vì thấy mình thật mà Phật nói giả, thấy cảnh thật
mà Phật nói giả thì làm sao mình chịu, còn cái Phật nói là thật thì mình lại
không thấy, thế nên nói kinh này rất khó tin. Nhưng nếu tin được thì người đó
không còn bốn tướng ngã nhân chúng sanh thọ giả, còn người chưa tin là còn
nguyên bốn tướng. Người ấy không làm sao tu pháp cao siêu giải thoát được, họ
chỉ thích những pháp nhỏ, nghĩa là đời này tu đời sau hưởng, hoặc bây giờ làm
mai mốt hưởng.
Kết luận Phật nói rằng kinh này ở nơi nào thì tất cả thế gian trời, người, a-tu-la đều nên cúng dường như là cúng dường tháp, đi nhiễu chung quanh, đem hương hoa dâng cúng. Đây là đức Phật chỉ pháp này cao siêu tối thượng vượt hơn tất cả pháp thế gian, ai hiểu được pháp đó đều nên cung kính cúng dường.