6. Năm Cấp Độ Trong Phật Giáo

20/09/20204:22 CH(Xem: 3410)
6. Năm Cấp Độ Trong Phật Giáo
6.
NĂM CẤP ĐỘ TRONG PHẬT GIÁO

(THÍCH TRUNG ĐỊNH)

Phật giáo khi nhìn bên ngoài chúng ta thấy có quá nhiều kiểu cách, mô thức như thể không có tổ chức chỉn chu. Đây cũng là những nhận định chung của đại đa số mọi người, kể cả một số nhà nghiên cứu. Tuy nhiên khi tìm hiểu kỹ, chúng ta thấy bởi Phật giáo quá rộng lớn, phủ trùm, bao gồm Phật giáo tín ngưỡng, Phật giáo bác học , và Phật giáo của con đường thực tập tâm linh, do vậy cần phải phân định các cấp độ để thấy được sự lớn lao của Phật giá o như thế nào. Đồng thờ i nhằm chấn chỉnh những nhận định phiến diện về Phật giá o từ một số người, kể cả giới trí thức. Ở đây, chúng tôi phân chia Phật giá o ra năm cấp độ đó là :

1. Phật giáo đại chúng

Phậ t giá o đạ i chú ng là Phậ t giá o dà nh cho đạ i đa số mọi người thuộc mọi tần g lớp xã hội . Phật giáo đại chú ng bao gồ m cả Phậ t giá o gắ n liề n vớ i cá c tí n ngưỡ ng dân gian, phong tục tập quán , văn hóa vùn g miền . Ngườ i đế n chù a đủ mọ i thà nh phầ n, mang theo căn nghiệ p, tậ p khí thườ ng tì nh củ a họ . Ngườ i thiế u phú c cầ u phú c, ngườ i thiế u sứ c khỏ e cầ u sứ c khỏ e, ngườ i hiếm muộn con cái cầu tự, người mong cầu danh vọn g đị a vị cầ u danh vọ ng đị a vị . Có nhữ ng em bé , nhữ ng cụ già có thể không hiểu gì về đạo Phật nhưng cũn g đến chù a vì họ có cả m tì nh vớ i đạ o. Trong kinh Pháp hoa đề cậ p đế n chú ng đương cơ và chú ng kế t duyên, thì Phậ t giá o đạ i chú ng là chú ng kết duyên. Họ chỉ biết ăn chay, niệm Phật , bỏ ác làm làn h như vậy là đủ đối với họ. Có thể thấy Phật giáo đại chú ng như thể hiệ n toà n bộ nghiệ p và nghiệ p quả củ a mỗi chún g sanh, mang tín h phổ quát mà ai cũn g có thể đến chùa để hàn h lễ và cầu nguyện . Phật giáo đại chún g đáp ứn g cho nhu cầu số đông, mang tín h phổ quát , có thể gọi là Phật tử ngoài cổn g chùa .

2. Phật giáo học thuật

Từ trong Phậ t giá o đạ i chú ng, bắ t đầ u có nhữ ng ngườ i chịu khó tìm hiểu nền minh triết trong giáo lý Phật giáo , dầ n dầ n hì nh thà nh nên mộ t Phậ t giá o họ c thuậ t. Có năm cấp độ học thuật đi từ Nhân thừa , Thanh văn thừ a, Duyên giá c thừ a, Bồ -tá t thừ a và Phậ t thừ a. Nhân thừa có cá c phá p họ c đưa đế n sự thà nh tự u về tư cá ch đạ o đứ c là m ngườ i. Thanh văn thừ a có cá c phá p họ c và thự c hà nh đưa đến thàn h tựu phạm hạn h, đưa đến các quả vị giải thoát . Duyên giá c thừ a là hệ giáo lý chú trọng về sự tự giác,

tự ngộ. Những bậc Thánh giả Duyên giác ra đời không gặp Phật, tự mình ý thức về khổ và tự mình tu tập giác ngộ sự thật về khổ qua Mười hai chi duyên khởi. Bồ-tát thừa là hệ giáo lý bao gồm cả Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừaDuyên giác thừa, nhưng lại phát triển ý thức tự giác, tự ngộ lên một tầm cao và rộng, ấy là ngoài tự giác còn phải nỗ lực giác tha, ngoài tự ngộ phải phát khởi tâm Bồ-đề để độ tha và làm cho chúng sinh cũng được giác ngộ với sự thực hành mười ba-la-mật hay sáu ba-la-mật. Phật thừa là điểm quy hướng của các thừa gồm: Nhân thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồtát thừa. Nên, Phật thừa còn gọi là Nhất thừa. Trong Phậ t giá o họ c thuậ t có tí nh chọ n lự a, gạ n lọ c và trạ ch phá p. Có nhiề u cấ p độ họ c thuậ t trong Phậ t giá o. Ở hà ng nam nữ cư sĩ Phậ t tử , có nhữ ng lớ p tu họ c giáo lý từ cơ bản đến chuyên sâu. Phần lớn các lớp tu học giáo lý đều do quý Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử có trìn h độ Phậ t họ c đả m trá ch. Đố i vớ i ngườ i tu sĩ , Phậ t giá o học thuật thể hiện rõ qua các trườn g Phật học từ trung cấp đến đại học và sau đại học . Thông qua học thuật , hà nh giả hiể u rõ cá c yế u chỉ củ a lờ i Phậ t dạ y, phá trừ tà kiế n cố chấ p, loạ i trừ cá c tệ nạ n mê tí n dị đoan, chá nh tín Phật pháp để ứn g dụn g lời dạy của Phật vào trong cuộ c số ng hằ ng ngà y. Trong học Phật , Phật giáo chú trọn g đến Tam vô lậu họ c giớ i, đị nh và tuệ . Hà nh giả cầ n phả i có giớ i họ c, đị nh họ c và tuệ họ c. Kẻ theo đuổi giải thoát đạo cần học kỹ ba học, đó là tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng thượng tuệ học. Có giới học, có tăng thượng giới học. Có định tâm học, có tăng thượng tâm định học. Có tuệ học, có tăng thượng tuệ học. Đây là ba phá p họ c căn bả n trên con đườ ng tu tậ p. Khi có giớ i họ c, đị nh họ c và tuệ họ c ngườ i tu họ c Phậ t bướ c thêm mộ t bướ c nữ a đó là tu giớ i, tu đị nh và tu tuệ để thà nh tự u đạ o nghiệ p.

3. Phật giáo tổ chức

Có thể nói rằn g không có một tôn giáo nào có quy củ, tổ chứ c như Phậ t giá o. Trong tam tạ ng, kinh, luậ t, luậ n thì Luậ t tạ ng có nhữ ng quy đị nh mộ t cá ch chi tiế t. Cấu trúc của Luật tạn g cho thấy hệ thốn g tổ chức trong Tăng đoà n là rấ t chặ t chẽ. Ngườ i Phậ t tử tạ i gia có Tam quy, ngũ giới , thập thiện giới ; người xuất giagiới luật của người xuất gia. Trong luật còn có các trườ ng hợ p khai, giá , trì và phạ m đượ c quy đị nh mộ t cá ch rõ rà ng. Thông qua Tạ ng luậ t, Tăng đoà n đượ c sắ p xếp có một hệ thốn g tổ chức quy củ, nề nếp đưa đến thanh tị nh và hò a hợ p. Ngoài cấu trúc tổ chức trong Tăng, Phật giáo còn có các tổ chức từ hội , đoàn , Giáo hội . Việc quy địn h phẩm trật trong hàn g ngũ Tăng như được quy địn h trong nội quy Ban Tăng sự, việc tín h đếm hạ lạp , phân chia thứ bậ c đề u đượ c quy đị nh rõ trong Luậ t tạ ng. Do tí nh tổ chứ c quy mô và bà i bả n như thế nên trong Phậ t giá o luôn giữ được sự ổn địn h và phát triển . Giới luật giữ sự ổ n đị nh trong Tăng đoà n và đưa đế n sự thanh tị nh và hò a hợ p.
4. Phật giáo thực nghiệm
Từ Phậ t giá o đạ i chú ng đế n Phậ t giá o họ c thuậ t và Phật giáo tổ chức đó chỉ mới chỉ là cái bên ngoài , chưa phả i bả n chấ t thự c sự củ a Phậ t giá o. Phậ t giá o thự c nghiệm là trí giả nội chứn g, nghiên cứu thực nghiệm . Bởi chỉ học thuật thôi mà không có sự thực nghiệm nộ i chứ ng thì không phả i Phậ t giá o. Đứ c Phậ t thườ ng dạy , tu là phải học và học thì phải thực hàn h. Nếu tu mà không học thì tu mù; học mà không tu là đãy đựn g sác h. Trong Kinh tạn g Đứ c Phậ t ví ngườ i tu mà không hàn h, không tự thực nghiệm thì như cái muỗn g để trong tô canh không biết mùi vị ngon dở của tô canh. Ngườ i có hà nh, tứ c có thự c nghiệ m trải nghiệ m thì như cá i lưỡ i nế m vị củ a tô canh biế t sự ngon dở củ a nó . Như nhơn ẩm thủy , lãn h noãn tự tri. Như người uốn g nước , nóng lạ nh tự biế t. Ngườ i tu cũ ng vậ y, phả i thự c hà nh lờ i dạ y củ a Đứ c Phậ t mộ t cá ch thấ u đá o để cả m nhậ n đượ c hương vị củ a sự an lạ c giả i thoá t. Nế u tu mà chưa nế m trải hương vị củ a sự an lạ c giả i thoát thì chưa phải là sự tu hàn h chân chín h. Phật giáo thực nghiệm là yêu cầu hàn h giả đến để thấy biết chứ không phải đến để mà tin. Niềm tin chỉ là phương tiện ban đầ u, sự thấ y biế t như thậ t mớ i thự c sự là giá trị nộ i chứ ng trong tu họ c. Đạo Phật không phải là một tôn giáo theo nghĩa những chân lý thần khải không thể kiểm điểm mà chỉ có thể tiếp nhận bằng đức tin. Đạo Phật trước hết là những phương tiện chỉ dẫn thực nghiệm tâm linh để khám phá thực tại. Kinh sách có giá trị như những đồ biểu hướng dẫn và phương pháp thiền quángiá trị như một con tàu để đưa người hành giả tới bến bờ hiểu biết và để thực hiện sự hiểu biết ấy trong sự sống bản thân và sự sống xã hội. Chữ budh có nghĩa là hiểu biết do đó có chữ buddha, người hiểu biết, và sau này chữ buddhism, con đường của sự hiểu biết. Hiểu biết ở đây không phải là cái hiểu biết sách và kinh điển mà là bản thân của chính thực tại hiện rõ dưới khả năng trí tuệ bát-nhã (prajna) chỉ có thể đạt đến do công phu tu tập thiền quán. Theo nguyên tắc đạo Phật, một cá nhân nào đó khi muốn bước vào con đường thực nghiệm, phải khảo sát những nhận thứcđạo Phật xem nhưcăn bản, rồi khi đã chấp nhận những nhận thức ấy thì kiểm điểm lại nguyên tắc thực hành rút ra từ những nhận thức kia. Khi đã kiểm nhận kỹ lưỡng rồi, cá nhân ấy mới bước vào con đường thực nghiệm với thái độ cương quyết nhưng hết sức tỉnh táo, khách quan. Nếu sự thực nghiệm không mang lại kết quả thì phải bắt đầu trở lại, và nếu quả thực phương thức đề nghị không thích hợp thì phải bỏ đi để chọn một phương thức khác. Đạo Phật không phải là một nền triết học, bởi vì đạo Phật không có ý định miêu tảgiải thích thực tại bằng những hệ thống tư tưởng dựa trên căn bản suy luận và khái niệm. Đạo Phật cho rằng trên một căn bản như thế, công việc miêu tảgiải thích thực tại là một công việc không thể thực hiện được: chỉ có thể bằng thực nghiệm tâm linh, diệt trừ cố chấp, vô minh và phát triển trí tuệ bát-nhã thì con người mới trực nhận được chân lý của thực tại1. Nói đến thực nghiệm tâm linh là nói đến nền tảng căn bản của đạo Phật. Bởi vì đạo Phật cho rằng thiếu sự tiếp xúc của con người và những nguyên lý mầu nhiệm của thực tại thì mọi hình thái của sự sống phải mang tính cách khổ đau và tàn tạ. Thế cho nên ở thời nào thiếu chứng ngộ thiếu sự khám phá thì ở thời ấy giáo pháp suy mạt, và sự sống nghèo khổ.

Nơi những con người đạt đạo, sức sống tràn trề rạt rào và thấm nhuần trong mọi sinh hoạt xã hội. Ở nơi người đạt đạo, tỏa chiếu nghệ thuật linh động của sự sống, nghệ thuật ấy soi sáng cho đường lối nhân sinh của địa phương và thời đại. Mọi sinh hoạt xã hội cần được xây dựng trên cái nhìn bao quát và khế hợp căn cơ của người đạt đạo. Cho nên đạo Phật không những chỉ là thực nghiệm tâm linh mà lại còn là sự thể hiện trên cuộc sống những nguyên lý linh động đạt tới do công trình khám phá thực tại của những thực nghiệm ấy.
blank5. Phật giáo chứng ngộ

Sau thực nghiệm là sự chứn g ngộ. Chứn g ngộ là mụ c đí ch cuố i cù ng củ a sự tu tậ p theo Phậ t giá o. Chứ ng ngộ là sự trả i nghiệ m giả i thoá t an lạ c thự c sự và là sự khai mở tuệ giá c, sự thể nhậ p phá p lạ c, niế tbà n tị ch tị nh. Có bố n cấ p độ chứ ng ngộ trong thiề n đó là : sơ thiề n, nhị thiề n, tam thiề n và tứ thiề n. Chứ ng ngộ sơ thiề n là do ly dụ c ly cá c bấ t thiệ n phá p, chứ ng và trú thiề n thứ nhấ t mộ t trạ ng thá i hỷ lạ c do ly dụ c sanh có tầ m có tứ . Chứ ng đạ t nhị thiề n là vị Tỷ-kheo làm cho tịnh chỉ tầm và tứ… chứng đạt và an trú thiền thứ hai, nội tĩnh, nhất tâm, không tầm, không tứ với hỷ lạc do định sanh. Chứn g đạt tam thiềnchấm dứt sự bám víu vào nhị thiền, hành giả tập trung tâm ý để đạt đến tam thiền, một trạng thái có vẻ cao thượng hơn vì có lạc và nhất tâm không bị ảnh hưởng dao động của hỷ. Hành giả tái lập lại định trên đề mục thiền của mình với mục đích vượt qua nhị thiền. Chứ ng đạ t tứ thiền là khi định sâu hơn nữa, vi tế hơn nữa, thì ngay cả an lạc cũng được vượt qua, tâm hành giả có thể đi thẳng vào định không cần qua tầm, tứ, hỷ, lạc, chỉ còn chi thiền nhất tâm. Vì nhất tâm ở đây kiên cố hơn nhất tâm trong các bậc thiền trước nên tâm hoàn toàn bất động, hoàn toàn vô cảm đối với thế giới bên ngoài. Vì vậy trong tâm tứ thiềnyếu tố xả luôn xuất hiện bên cạnh nhất tâm, kinh dạy : “Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm, thanh tịnh”. Trong sự chứ ng ngộ , kinh điể n mô tả có bố n quả vị tu chứn g, gọi là Tứ thán h quả, đó là: Thánh quả Dự lưu (Tu-đà-hoàn – Sotāpanna) là bậc Thánh đầu tiên trong bốn Thánh quả. Thánh quả này được gọi là đã “Mở con mắt của Pháp” (dharmacakkhu), chứng đắc pháp nhãn, tức là nhận ra rằng bất cứ điều gì sinh ra điều sẽ hoại diệt (vô thường). Niềm tin của họ trong giáo pháp thực sự sẽ là không thể lay chuyển hay gọi là “bất hoại tín”. Bậc thánh này cũng được gọi là Thánh quả “Thất lai”, tức là còn bảy lần sanh tử nữa mới chứng Thánh quả A-la-hán. Vị ấy đã đoạn trừ ba kiết sử đầu là: thân kiến (sakkāyadiṭṭhi), nghi (vicikicchā), và giới cấm thủ (sīlabbataparāmāsa). Thánh quả Nhất laiquả vị thánh thứ hai trong tứ thánh quả. Sao gọi là nhất lai? Bởi vì thánh quả này phải còn trở lại một lần sanh tử nữa mới chấm dứt khổ đau, đạt đến quả vị vô sanh. Những ai đoạn tận ba kiết sử như trong trường hợp của Thánh quả dự lưu, và làm muội lược hai kiết sử tiếp theo, đó là dục (kāmacchando) và sân (byāpāda), được gọi là Thánh quả Nhất lai (Tư đà hoàn – Sakadāgāmi). Thánh quả Bất lai (A-na-hàm_ là Thánh quả thứ ba, vị ấy đã đoạn trừ hoàn toàn năm hạ phần kiết sử (orambhagiya saṃyojana), sau khi thân hoại mạng chung sẽ được tái sinh cõi Phạm thiên, và không bao giờ tái sinh trở lại nữa. Đức Phật dạy: “Vị Tỷ-kheo đã đoạn dứt năm hạ phần kiết sử, thành vị hóa sanh, nhập Niết-bàn tại đây, không còn phải trở lại thế giới này nữa”. Sau khi phá luôn năm kiết sử cuối cùng, tức hữu ái, vô hữu ái, mạn, trạo hốivô minh, một vị A-na-hàm sẽ chứng A-la-hán, nghĩa là đạo đức đã trở thành tuyệt đối hoàn hảo. Không một thần Thánh thiên tử nào có thể tìm thấy lỗi lầm của một vị A-la-hán được nữa. Ngoà i bố n thá nh vị tu chứ ng, trong Phậ t giá o cò n có Bồ -tá t và Phậ t đạ o. Bồ -tá t thì chứ ng thậ p trú , thậ p đị a, bấ t thố i Bồ -tá t. Phậ t thì chứ ng tam minh, lụ c thông và Vô thượ ng Chá nh đẳ ng Chá nh giá c đồng thời thà nh tựu mười danh hiệu : Như Lai, Ứng cún g, Chán h biến tri, Minh hạn h túc , Thiện thệ, Thế gian giải , Vô thượn g sĩ , Điề u ngự trượ ng phu, Thiên nhơn sư, Phậ t Thế Tôn. Như vậy , Phật giáo tu chứn g là kết quả cuối cùn g củ a mộ t lộ trì nh trên con đườ ng thự c tậ p tâm linh. Người tu học cần trải nghiệm sự chứn g ngộ trong các cấ p độ ấ y. Trong hà nh thiề n hay trên con đườ ng đoạ n tậ n cá c phiề n nã o kiế t sử thì hà nh giả cầ n đặ t mụ c tiêu củ a sự chứ ng ngộ trong Phậ t phá p, đó là mụ c đí ch tố i thượ ng, mụ c đí ch sau cù ng trong Phậ t giá o.
Tóm lại năm cấp độ trong Phật giáo cho thấy sự to lớn , bao trù m và đa dạ ng củ a Phậ t giá o. Hiể u đú ng cá c khí a cạn h của Phật giáohiểu rõ năm cấp độ này . Thông qua đó Phật giáo giải thíc h toàn bộ nhữn g hiện tượn g sự vật từ bản chất đến tướn g trạn g. Dưới nhãn quan của Phật giáo , nhân sinhvũ trụ đều là do nhân duyên. Do đó nhữn g ai vội vàn g đán h giá một khía cạn h nào đó của Phật giáo thì đó chỉ là võ đoá n, phiế n diệ n. Năm cấ p độ ấ y cho thấ y sự toàn diện , chỉn chu của đạo Phật như thế nào . Đạo Phật – một tôn giáo , một con đườn g sốn g tỉn h thứ c vô cù ng cầ n thiế t cho thế giớ i loạ i ngườ i trong hiệ n tạ i và trong cả tương lai. 
Ghi chú : 1. Thíc h Nhất Hạn h, Đạo Phật: Con đường thực nghiệm tâm linh; https://phatgiao.org.vn/dao-phat-con-duong-thucnghiem-tam-linh-d39021.html.

THÍCH TRUNG ĐỊNH

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
04/03/2024(Xem: 45749)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.