CÁC KỲ KIẾT TẬPKINH ĐIỂN THEO PHẬT GIÁO THERAVADA Hòa thượng Rewata Dhamma - Đăng Nguyên dịch
Những lời dạy chân thực của
Đức Phật Gotama được lưu giữ và truyền lại cho chúng tahiện diện ở trong Tam
tạng (Tipitaka). Từ Pāli “Tipitaka” có nghĩa đen là “ba giỏ” (ti = 3 + pitaka =
giỏ). Tất cả những lời dạy của Đức Phật được chia thành ba phần. Phần thứ nhất
là Kinh tạng (Suttanta Pitaka), bao gồm các bản kinh. Phần thứ hai được gọi là
Luật tạng (Vinaya Pitaka), chứa đựng tất cả những luật lệ mà Đức Phật đã chế
định cho hàng Tăng Ni. Phần thứ ba được gọi là Luận tạng (Abhidhamma Pitaka),
bao gồm những lời dạy của Đức Phật về triết học tâm lý-đạo đức của Ngài. Cũng
được biết rằng, trong 45 năm hoằng hóa của Đức Phật, mỗi khi Ngài thuyết giảng
một bản kinh cho những đệ tửxuất gia hay hàng tại gia, hoặc chế định một giới
luật, những vị Tăng quảng học và nhiệt tâm ngay khi ấy sẽ ghi nhớ nguyên văn những
lời dạy của Ngài. Như vậy, những lời dạy của Đức Phật được bảo lưu một cách
chính xác và được truyền thừa bằng miệng từ thầy đến đệ tử. Một số Tỳ-kheo đã
nghe Đức Phậtthuyết giảng, với tư cách là những A-la-hán, và như vậy theo định
nghĩa là “những người thanh tịnh” thoát khỏi tham, sân và si, và do đó rõ ràng
có thể duy trìtrọn vẹn những lời dạy của Đức Phật. Như vậy họ bảo đảm những
lời dạy của Đức Phật được lưu giữ một cách chính xác cho hậu thế. Trong số
những Tỳ-kheo nhiệt tâm, có những người dù chưa đạt đượcquả vị A-la-hán nhưng
đã đạt được ba thánh quả đầu và có năng lực, có trí nhớ lâu, cũng có thể nhắc
lại nguyên văn những gì Đức Phật đã thuyết giảng và vì vậy có thể xứng đáng là
những người lưu giữ những lời dạy của Đức Phật. Một trong số những vị Tăng như
vậy là Tôn giả Ananda, người em họ của Đức Phật và người được chọn làm thị giả
và thường xuyên thân cận Đức Phậttrong suốt 25 năm cuối đời của Ngài. Ananda
rất thông minh và có khả năng ghi nhớ bất cứ những gì mà thầy đã nghe nói. Sự
thực, chính sự bày tỏ mong muốn của thầy mà Đức Phật đã luôn thuật lại những
bản kinh cho thầy khi Ngài thuyết giảng mà vắng mặt thầy. Và mặc dù chưa phải
là một vị A-la-hán, thầy ghi nhớ nguyên văn những bản kinh của Đức Phật. Những
nỗ lựcphối hợp của những vị Tăng nhiệt tâm và có khả năng này đã làm cho Pháp
(Dhamma) và Luật (Vinaya) như được Đức Phật dạy, được lưu giữ ở trạng tháinguyên thủy của nó.
Tam tạng Pāli
và những văn họcliên hệtồn tại như một kết quả của sự khám phá của Đức Phật
về thánh đạo và con đườnggiải thoát của tịnh pháp. Con đường này giúp những
người theo nó có thể sống một đời sống tự tại và an lạc. Sự thực, hiện nay
chúng tamay mắn có được những lời dạy chân thực của Đức Phật mà chúng được lưu
giữ cho những thế hệ tương lai thông qua những nỗ lựctận tâm và hợp tác của
những đệ tửxuất gia của Ngài qua các thời đại. Đức Phật nói với những đệ tử
của Ngài rằng khi Ngài không còn nữa, thì điều cốt tủy là Tăng-già nên tập hợp
với nhau để cùng tụng đọc lại Pháp, chính xác như những gì Ngài đã dạy. Làm
đúng với lời chỉ dạy này, những vị Trưởng lão đầu tiên hợp thời đã triệu tập
một hội nghị và sắp xếp một cách có hệ thống tất cả những bài kinh và những
giới luật của Đức Phật và tụng đọc chính xác chúng với nguyên văn trong sự đồng
thuận.
Những lời dạy
chứa đựng trong Tam tạng (Pāli) cũng được gọi là Học thuyết của các Trưởng lão
(Theravāda). Những bản kinh này có con số hàng trăm và luôn được tụng đọc
nguyên văn ngay từ khi kỳ kiết tập lần thứ nhất được triệu tập. Sau đó, thêm
những kỳ kiết tập khác đã được triệu tập vì một số lý do, nhưng ở mỗi kỳ kiết
tậptoàn bộgiáo pháp của Đức Phật đã luôn được những thành viên Tăng-già tham
gia tụng đọc nguyên văn và bằng sự đồng thuận. Kỳ kiết tập thứ nhất xảy ra ba
tháng sau Đức Phậtnhập diệt và thêm năm kỳ kiết tập khác nữa, mà hai trong đó
được triệu tập vào thế kỷ XIX và XX. Những việc tụng đọc tập thể mà chúng được
chư Tăngthực hiện tại những kỳ kiết tậpPhật giáo được gọi là “Dhamma Sangiti”
- tụng đọc Pháp. Chúng được định rõ như vậy bởi vì sự quyết định được đặt ra ở
kỳ kiết tập lần thứ nhất, khi tất cả giáo pháp được tụng đọc đầu tiên bởi một
vị Trưởng lão của Tăng-già và sau đó được tất cả các vị Tăng có mặt tại hội
nghịđồng thanh tụng đọc lại một lần nữa. Việc tụng đọc lại như vậy được xem là
xác thực, khi và chỉ khi, nó được các thành viên của hội nghịnhất tríchấp
thuận. Dưới đây là một lịch sửtóm tắt về sáu kỳ kiết tậpkinh điển.
Kiết tậpkinh điển lần thứ nhất
Vua Ajatasattu
(A-xà-thế) bảo trợ kỳ kiết tập lần thứ nhất. Kỳ kiết tập này được triệu tập vào
544 (tr.TL) tại động Satiapanni nằm bên ngoài Rajagaha (Vương Xá) ba tháng sau
Đức Phậtdiệt độ. Một miêu tảchi tiết về hội nghịlịch sử này có thể tìm thấy
ở trong Cullavagga (Tiểu phẩm) của Luật tạng. Theo tài liệu này, sự việc khiến
Trưởng lão Mahakassapa triệu tậphội nghị này là ngài nghe được một nhận xét
đáng buồn về luật lệ sống nghiêm khắc dành cho Tăng sĩ. Sự việc là như sau: Vị
tu sĩ có tên Subhadda, trước đó là một thợ cắt tóc, đã thọ giới muộn vào cuối
đời, khi nghe rằng Đức Phậtnhập diệt, cất giọng oán giận là phải tuân theo tất
cả những luật lệ dành cho Tăng sĩ mà Đức Phật đã chế định. Trong khi nhiều vị
Tăng đang đau buồn trước sự diệt độ của Đức Phật và vô cùng tiếc thương, thì
Trưởng lão Mahakassapa đã nghe Subhadda nói: “Thôi đủ rồi các Tôn giả, chớ có
sầu bi, chớ có than khóc. Chúng ta được thoát khỏi vị Đại ẩn sĩ này (Đức Phật).
Chúng tađau khổ khi ông ấy nói, ‘điều này các ngươi được phép làm, điều này
các ngươi không được phép làm’, còn bây giờ chúng ta sẽ có thể làm những gì
chúng ta thích và không làm những gì chúng ta không thích’”.
Mahakassapa lo
ngại khi nghe lờinhận xét này và sợ rằng Pháp và Luật có thể bị sai lạc và
không tồn tại nguyên vẹn nếu những vị Tăng khác cũng có thái độ như Subbhada và
giải thích Pháp và Luật như họ muốn. Để ngăn chặn điều này ngài quyết định rằng
Pháp phải được giữ gìn và hộ trì. Cuối cùng, sau khi đạt được sự đồng thuận của
Tăng-già, ngài triệu tập một hội nghị gồm 499 vị A-la-hán cùng với Ananda. Với
Trưởng lão Mahakassapa làm chủ toạ, 500 vị Tỳ-kheo đã hội họp trong suốt mùa
mưa. Điều đầu tiên mà Mahakassapa làm là hỏi người tinh thống nhất về Vinaya
vào thời bấy giờ, Tôn giả Upāli, về những trường hợpcụ thể của giới luật.
Chính Tôn giả Upāli có đủ khả năng cho nhiệm vụ này vì Đức Phật đã dạy cho thầy
tất cả Vinaya. Trước hết Trưởng lão Mahakassapa đã hỏi thầy một cách cụ thể về
luật định của giới thứ nhất (parajika), liên quan đến chủ thể, duyên khởi, cá
nhân được giới thiệu, lời tuyên bố, lặp lại lời tuyên bố, sự vi phạm và trường
hợp không vi phạm. Upāli đã trình bày những câu trả lời một cách tinh thông và
thỏa đáng, và những nhận xét của thầy nhận được sự đồng thuận của Tăng đoànhiện diện. Như vậy Vinaya chính thức được chấp thuận.
Trưởng lão
Mahakassapa sau đó hướng đến Ananda bởi vì khả năng đáng phục của thầy về tất
cả những vấn đềliên quan đến Pháp. Thật hoan hỷ, vào đêm trước kỳ Hội nghị
được tổ chức, Ananda đã chứng đắcthánh quả A-la-hán. Trưởng lão Mahakassapa,
do đó, cuối cùng có thể hỏi thầy với lòng tintuyệt đối về Pháp với sự đề cập
cụ thể những bản kinh của Đức Phật. Sự thẩm vấn về Pháp đòi hỏi thẩm tra địa
điểm nơi tất cả những bản kinh được thuyết giảng và đối tượng được giảng.
Ananda, được hỗ trợ bởi trí nhớ siêu xuất chính xác đến từng chữ của mình có
thể trả lời một cách chính xác, và như vậy các bản kinh nhận được sự chấp thuận
của Tăng đoàn. Kỳ kiết tập lần thứ nhất khép lại nơi những thắc mắc về các giới
luật phụ và thứ yếu, và sự chấp thuậntuân thủ chúng. Chư Tăng đã mất bảy tháng
để tụng đọc toàn bộ Luật và Pháp và những vị Tăng đó được phú cho đầy đủ trí
nhớ tốt để nhớ lại tất cả những gì đã được tụng đọc. Kỳ kiết tậplịch sử lần
thứ nhất này được gọi là Ngũ bách kiết tập (Pancasatika), bởi vì có 500 vị
A-la-hán giác ngộtham gia vào đó.
Kỳ kiết tập thứ hai
Kỳ kiết tập thứ
hai được tổ chức 100 năm sau Đức Phật nhập Niết-bàn để giải quyết một tranh cãi
nghiêm trọng về “mười điều”. Điều này đề cập đến một số tu sĩ phạm phải mười
giới khinh. Chúng được liệt kê như sau:
1. Chứa muối
trong ống bằng sừng.
2. Ăn sau ngọ.
3. Ăn một lần
rồi và sau đó lại đi đến một ngôi làng khất thực.
4. Thực hiện lễ
Bố-tát (Uposatha) cùng với các vị Tăng ở cùng một trú xứ.
5. Nghị quyếtpháp sự khi hội chúng không đầy đủ.
6. Thực hành
một số việc mà chúng được Hòa thượng hay giáo thọ sư trước đó làm.
7. Ăn sữa chua/
sữa hòa nước sau giờ ngọ.
8. Uống thức
uống (nước trái cây) lên men (để trị bệnh).
9. Sử dụngtọa
cụ không đúng kích cỡ.
10. Sử dụngvàng bạc.
Những việc làmsai trái của họ trở thành một vấn đề và gây nên sự tranh luậnnghiêm trọng khi
việc vi phạm những luật lệ này được nghĩ là trái với những lời dạy nguyên thủy
của Đức Phật. Vua Kalasoka là người bảo trợ cho kỳ kiết tập lần thứ hai và hội
nghị được tổ chức ở Vesali. Chi tiết vụ việc là như sau: Một ngày, trong khi viếng
Đại Lâm (Mahavana) tại Vesali, Trưởng lão Yasa biết rằng một nhóm Tăng sĩ đông
đảo được gọi là những người Vajji đang vi phạmgiới khôngcho phép Tăng sĩ nhận
vàng bạc khi họ công khai xin những thứ này từ các đệ tửtại gia của họ. Ngài
trực tiếp phê bình hành xử của nhóm này và phản ứng của họ là dâng cho ngài một
phần những thứ có được không đúng pháp với hy vọng ngài sẽ ngã theo họ.
Tuy nhiênTrưởng lão Yasa đã khước từ và tỏ thái độxem thường hành xử của họ. Các vị
Tăng này lập tứcbuộc tội ngài đã khiển trách những tín đồtại gia của họ, và
yêu cầu ngài thực hiệnnghi thứchòa giải. Trưởng lão Yasa do đó đã hòa giải
với những tín đồtại gia, nhưng đồng thờithuyết phục họ rằng những Tăng sĩ
Vajji đã làm điều sai trái bằng việc trích dẫn lời dạy của Đức Phật về việc cấm
Tăng sĩ nhận hay xin vàng bạc. Những người tại gialập tứcthể hiện sự ủng hộ
đối với Yasa và tuyên bố rằng những Tăng sĩ Vajji là những người làm điều sai
trái và dị giáo. Họ nói rằng “Chỉ Trưởng lão Yasa là chân Tăng, Thích tử. Còn tất
cả những người khác không phải là Tăng, không phải là Thích tử”.
Những Tăng sĩ
ương ngạnh Vajji lúc ấy kéo đến đuổi Trưởng lão Yasa mà không có sự chấp thuận
của những thành viên còn lại của Tăng đoàn. Khi ấy họ biết ảnh hưởng việc gặp
gỡ của Trưởng lão Yasa đối với những tín đồtại gia của họ. Tuy nhiên, Trưởng
lão Yasa đã tránh sự công kích của họ và đi tìm sự ủng hộ từ những vị Tăng
khác, những người ủng hộquan điểm của ngài về Vinaya. 60 vị Tăng cư trú trong
rừng từ Pava và 80 vị Tăng từ những vùng phía Nam Avanti mà họ có chung suy
nghĩ, đã bày tỏ giúp đỡ ngài để ngăn chặn sự suy thoái Vinaya. Họ cùng nhau
quyết định đi đến Soreyya để hội ý với Tôn giả Revata vì ngài là một tăng sĩ
rất được kính trọng và là một người tinh thông Pháp và Luật. Ngay khi biết được điều này, những tăng sĩ Vajji cũng
đến tìm sự ủng hộ của Tôn giả Revata bằng việc cúng dường cho ngài bốn vật dụngcần thiết nhưng ngài lập tức từ chối. Những vị Tăng này sau đó lại sử dụngphương cách ấy để thuyết phục vị thị giả của Tôn giả Revata là thầy Uttara.
Đầu tiên thầy Uttara cũng thẳn thắn khước từ sự
cúng dường của họ nhưng họ đã thuyết phục thầy hãy nhận sự cúng dường của họ,
nói rằng khi những vật dụngcần thiết dành cho Đức Phật đã không được Ngài
nhận, Ananda được yêu cầu nhận chúng và thường được đồng ý làm như vậy. Thầy
Uttara bèn đổi ý và nhận những vật dụngcần thiết. Bị họ nài nỉ, thầy này sau
đó đồng ý đi đến thuyết phụcTôn giả Revata để tuyên bố rằng những Tăng sĩ
Vajji thật sự là những người nói chân lý và những người hộ trì Pháp. Tôn giả
Revata thấy rõ thủ đoạn của họ và khước từ ủng hộ họ. Sau đó ngài tẩn xuất
Uttara. Để giải quyếtvấn đề một cách dứt khoát, Tôn giả Revata khuyên nên tổ
chức một hội nghị tại Valikarama và chính ngài sẽ hỏi người cao niên nhất trong
số những Trưởng lão vào thời đó, Trưởng lão Sabbakami, về 10 điều vi phạm.
Mỗi khi ý kiến
của ngài được trình ra nó phải được một hội đồng tám vị Tăng lắng nghe, và tính
hợp lệ của nó được quyết định bởi việc biểu quyết của họ. Tám vị Tăng được mời
đến để phán quyếtvấn đề là Sabbakami, Salha, Khujjasobhita và Vasabhagamika từ
miền Đông; và bốn vị tăng từ miền Tây là Revata, Sambhuta-Sanavasi, Yasa và
Sumana. Họ thảo luậntriệt đểvấn đề với Revata là người đặt câu hỏi và
Sabbakami trả lời những câu hỏi của ngài. Sau khi cuộc thảo luận được lắng
nghe, tám vị Tăng quyết địnhphản đối những Tăng sĩ Vajji và phán quyết của họ
được thông báo đến hội chúng. Sau đó, 700 vị Tăng tụng đọc lại Pháp và Luật và
việc tụng đọc này được gọi là Sattasati (Thất bá kiết tập), bởi vì có 700 vị
Tăng đã tham gia vào. Hội nghịkiết tậplịch sử này cũng được gọi là Yasatthera
Sangiti (Trưởng lão Yasa kiết tập) bởi vì vai trò chính của Trưởng lão Yasa ở
trong đó và sự nhiệt tâm của ngài đối với việc hộ trì Vinaya. Các Tăng sĩ Vajji
dứt khoát khước từ quyết định của hội nghị và thách thức bằng việc triệu tập
một hội nghịkiết tập được gọi là Mahasangiti.
Kỳ kiết tập thứ ba
Kỳ kiết tập thứ
3 được tổ chức chính yếu để tẩn xuất những tu sĩ suy thoái và giả dối, nhưng
người theo quan điểmdị giáo. Kỳ kiết tập được triệu tập vào năm 326 (tr. TL)
dưới triều Vua Ashoka ở Pataliputta. Trưởng lão Moggaliputta Tissa chủ trì hội
nghị này và 1.000 vị Tăng dưới sự bảo trợ của Hoàng đế Ashoka.
Ashoka lên ngôi vua vào năm thứ 218 sau Đức Phật
nhập Niết-bàn. Lúc đầu ông tỏ lòng tôn kính Pháp và Tăng và cũng ủng hộ những
thành viên của các bộ pháitôn giáo khác như cha của ông đã từng làm trước đó.
Tuy nhiên, tất cả điều này đã thay đổi khi ông gặp vị sa-di đức hạnh tên là
Nigrodha, người đã thuyết cho ông Appamada-vagga (chương thứ hai của kinh Pháp
cú). Sau đó ông chấm dứt việc ủng hộ các nhóm tôn giáo khác, và sự quan tâm
cũng như nhiệt tâm của ông đối với Phật pháp càng sâu đậm hơn. Ông sử dụngtài
sản khổng lồ đề xây dựng, như được nói, đến 84.000 ngôi chùa, tháp và tịnh xá
và hào phóng ủng hộ các Tỳ-kheo bốn vật dụngcần thiết hàng ngày.
Con trai của ông là Mahinda và con gái là
Sanghamitta xuất gia và gia nhậpTăng đoàn. Rốt cuộc, sự hào phóng của ông gây
nên những vấn đềnghiêm trọng trong Tăng đoàn. Bấy giờ Tăng đoàn bị những thành
phần bất hảo, những người có quan điểmdị giáo, trà trộn vào. Những người này
gia nhậpTăng đoàn với mục đích nhận lấy sự ủng hộ hào phóng của nhà vua và để
được cúng dườngdồi dàothực phẩm, y phục, nơi ở và thuốc men. Một số lớn những
người tham lam và xảo trá, những kẻ theo những quan kiến sai trái, tìm cáchgia
nhậpTăng đoàn mà được xem là không đạt tiêu chuẩnthọ giới. Bất chấp điều đó,
họ nắm lấy cơ hội khai thác sự hào phóng của nhà vua cho những mục đích riêng của
họ, và khoác y, gia nhậpTăng đoàn nhưng không được thọ giới đúng pháp. Do vậy
sự kính trọng của dân chúng đối với Tăng đoàn bị suy giảm. Khi điều này bị phơi
bày, một số vị chân tucự tuyệtthực hiện lễ Bố-tát cùng với nhóm những vị Tăng
dị giáo và suy đồi.
Khi nhà vua biết được điều này, ông tìm cáchđiều
chỉnh lại tình hình và phái một đại thần của ông đến gặp những vị Tăng với mệnh
lệnh rằng họ phải thực hiện lễ Bố-tát. Tuy nhiên, nhà vua đã không trao cho vị
đại thần những điều lệnh cụ thể về cách thức gì nên được sử dụng để thực hiện
mệnh lệnh của ông. Các Tăng sĩ bất tuân lệnh và vẫn không thực hiện lễ Bố-tát ở
trong một hội chúng những người dối trá và lường gạt. Trong sự tuyệt vọng, vị
đại thần giận dữbước xuống chỗ những vị Tăng đang ngồi và rút kiếm lần lượt
chém đầu tất cả họ, cho đến khi ông đi đến người anh của nhà vua là Tỳ-kheo
Tissa.
Vị đại thần dừng lại việc sát hại và biến mất khỏi
hội đường, quay về tường thuật lại với Hoàng đế Ashoka. Nhà vua vô cùngđau khổ
và bi thương bởi những gì đã xảy ra và khiển trách mình đã gây nên sự giết hại.
Ông tìm sự chỉ bảo của Trưởng lão Moggaliputta Tissa. Trưởng lão Tissa đề nghị
rằng cần tẩn xuất những Tăng sĩ dị giáo ra khỏi Tăng đoàn và một kỳ kiết tập
thứ ba được triệu tập. Như vậy, kỳ kiết tập lần thứ ba được triệu tập vào năm
thứ 17 dưới triều Hoàng đế Ashoka. Trưởng lão Moggaliputta Tissa đứng đầu danh
sách và đã chọn 1.000 Tăng sĩ từ 6.000 người tham gia cho việc tụng đọc truyền
thống lại Pháp và Luật mà nó kéo dài 9 tháng. Chính nhà vua đã hỏi các Tăng sĩ
từ một số tu viện về giáo pháp của Đức Phật. Những người nào có quan điểmsai
trái sẽ bị vạch trần và lập tức bị trục xuất khỏi Tăng đoàn. Bằng cách này Tăng
đoàn Tỳ-kheo đã thanh lọc những vị Tăng dị giáo và vô dụng.
Kỳ kiết tập này
cũng đạt được một số điều quan trọng khác. Trưởng lão Moggaliputta Tissa để bác
bỏ một số quan điểmdị giáo và bảo đảm Pháp được giữ thanh tịnh, đã biên soạn
một cuốn sách trong kỳ đại hội được triệu tập, đó là cuốn Kathavatthu.
Cuốn sách này bao gồm 23 chương, tập hợp những tranh luận (katha) và bác bỏ
những quan điểmdị giáo về những vấn đềtriết học mà những giáo phái khác nhau
đã chủ trương. Nó là cuốn thứ năm trong số bảy cuốn sách của Abhidhamma Pitaka.
Một trong những thành tựu có ý nghĩa nhất của kỳ
kiết tập này và mang lại những thành quảtốt đẹp cho những thế kỷ sau đó, là
việc nhà vua phái những Tăng sĩ, những người tinh thông Pháp và Luật của Đức
Phật, những người có thể tụng đọc thuộc lòng tất cả, đến truyền báPhật pháp ở
chín quốc gia khác nhau. Những vị Tăng tinh thôngPhật pháp này bao gồmTrưởng
lão Majjhantika, người đã đi đến Kashmir và
Gandhara. Ông được yêu cầuthuyết giảngPhật pháp và thiết lập một Tăng đoàn ở
đó. Tôn giả Mahadeva được phái đến Mahinsakamandala (Mysore
hiện nay) và Trưởng lão Rakkhita được phái đến Vanavasi (Bắc Kanara ở Nam
Ấn). Trưởng lão Yonaka Dhammarakkhita được phái đến Thượng Aparantaka (bắc
Gujarat, Kathiwara, Kutch và Sindh). Trưởng
lão Maharakkhita đi đến Yonaka-loka (mảnh đất của người Lonia, Bactria
và Hy Lạp). Trưởng lão Majjhima đi đến Himavant (vùng tiếp giáp với Himalaya). Trưởng lão Sona và Uttara được phái đến
Suvannabhumi (hiện nay là Miến Điện). Trưởng lão Mahinda, Trưởng lão Ittiya,
Trưởng lão Uttiya, Trưởng lão Sambala và Trưởng lão Bhaddasala được phái đến Tambapanni
(hiện là Sri Lanka).
Những phái đoàntruyền báPhật pháp này đã thành công và mang lại những kết quả lớn vào thời
ấy, và đi tiếp một con đường dài trong việc chuyển hóa dân chúng ở những vùng
đất này với món quà Phật pháp và đang ảnh hưởng những nền văn minh và văn hóa
của họ.
Kỳ kiết tập thứ tư
Kỳ kiết tập thứ
tư được tổ chức ở Tambapanni (Sri
Lanka) vào năm 29 (tr.TL) dưới sự bảo trợ
của Vua Vattagamani. Lý do chính cho việc triệu tập là do nhận thấy rằng bấy
giờ đối với đại đa số các Tăng sĩ, họ không thể nhớ được toàn bộTam tạng bằng
trí nhớ như trường hợpTôn giả Mahinda và những người theo ngài ngay sau đó. Do
đó, khi việc viết chữ, vào thời điểm đó, về cơ bản đã được phát triển, người ta
nghĩ rằng có một bộ đầy đủ trọn vẹngiáo pháp của Đức Phật được viết thành chữ
là điều thích hợp và cần thiết. Vua Vattagamani ủng hộý kiến của chư Tăng và
một hội nghị được tổ chức để rút gọn lại toàn bộTam tạng nhằm viết thành văn
bản. Do đó, để Pháp chân thực có thể được giữ gìnlâu dài, Tôn giả Maharakkhita
và 500 vị Tăng đã tụng đọc lại những lời của Đức Phật và sau đó viết chúng trên
lá cọ. Công trìnhđặc biệt này xảy ra ở một hang động có tên gọi là Alokalena,
tọa lạc ở khe nứt của một vùng đất lở cổ xưa gần Matale ngày nay. Như vậy mục
đích của kỳ kiết tập được thành tựu, và Pháp chân thực được bảo lưu bằng văn
bản. Vào thế kỷ XVIII, vua Vijayarajasiha đã cho tạc hình Đức Phật tại hang
động này.
Kỳ kiết tập thứ năm
Kỳ kiết tập thứ 5 được tổ chức ở Mandalay, hiện
nay là Miến Điện, vào năm 1871 dưới triều vua Mindon. Chủ đề chính của kỳ hội
nghị này là để tụng đọc lại tất cả những lời dạy của Đức Phật và xem xét kỹ
lưỡng để xem có điều nào trong đó bị thay đổi, xuyên tạc hay đánh mất không.
Hội nghị được chủ trì bởi ba vị Trưởng lão: Mahathera Jagarabhivamsa,
Narindabhidhaja và Mahathera Sumangalasami, cùng với khoảng 2.400 vị Tăng. Việc
cùng tụng đọc Pháp của họ kéo dài 5 tháng. Cũng chính công việc của hội nghị
này đã giúp toàn bộTam tạng được viết xuống cho hậu thế ở trên 729 phiến đá
bằng chữ Miến sau khi việc tụng đọc được hoàn tất và được mọi người đồng thuận.
Công việc vĩ đại này được thực hiện bởi khoảng 2.400 vị Tăng uyên bác và nhiều
thợ thủ công thiện xảo…
Kỳ kiết tập thứ sáu
Kỳ kiết tập thứ sáu được triệu tập tại Kaba Aye ở
Yangon (trước đây là Rangoon) vào năm 1954, 83
năm sau kỳ kiết tập thứ 5 được tổ chức ở Mandalay.
Nó được Chính phủ Miến Điện đứng đầu là Thủ Tướng U Nu bảo trợ. Ông cho phépxây dựng Maha Passana Guha, “Đại động”, một động nhân tạo giống như động
Sattapanni nơi kỳ kiết tập lần thứ nhất được tổ chức. Kỳ kiết tập được tổ chức
vào ngày 7-5-1954. Như trường hợp của những kỳ hội nghị trước, mục đích trước
hết của nó là xác quyết và giữ gìn Pháp và Luật chân thật. Tuy nhiên, điều đáng
chú ý là chư Tăngtham gia kỳ kiết tập đến từ 8 quốc gia. Có 2.500 Tăng sĩ
quảng học theo truyền thống Theravāda đến từ Miến Điện, Cam Pu Chia, Lào, Tích
Lan, Thái Lan và Việt Nam. Cố Hòa thượng Mahasi Sayadaw được chỉ địnhnhiệm vụ
cao quý là đặt những câu hỏi thiết yếu về Pháp cho Hòa thượng Bhadanta
Vicittasarabhivamsa, người đã trả lời tất cả một cách tinh thông và làm mọi
ngườihài lòng.
Việc tụng đọc truyền thống những kinh điểnPhật
giáo mất hết 2 năm và Tam tạng cùng văn họcliên quan bằng tất cả những loại
chữ viết được xem xét một cách cẩn thận và những khác biệt của chúng được chú
thích và những hiệu chỉnh cần thiết được thực hiện và tất cả các bản sau đó
được đối chiếu. Thật hoan hỷ, nó cho thấy rằng không có sự khác nhau nhiều giữa
nội dung của các bản. Cuối cùng, sau khi Hội nghịchính thứcđồng lòngchấp
thuận, tất cả những bản kinh của Tam tạng và những luận giải về chúng đã được
in bằng kỹ thuật in hiện đại và được xuất bản bằng chữ Miến. Sự thành tựu cao
quý này được thực hiện qua những nỗ lựctận tâm của 2.500 vị Tỳ-kheo và nhiều cư
sĩ. Công việc của họ kết thúc vào tháng 5-1956, 2.500 năm sau Đức Phật nhập
Niết-bàn. Công việc của kỳ kiết tập này là thành tựuphi thường của những người
đại diện từ toàn thểthế giớiPhật giáo...
Kính thưa quý vị khá thính giả của chương trình Phố Bolsa TV. Hiện nay tôi đang có mặt ở tỉnh Surin Thái Lan cùng đòan bộ hành với sư Minh Tuệ đi Đất Phật Ấn Độ và hôm nay nơi giữa đường thì chúng ta sẽ có một buổi nói chuyện trực tiếp với sư Minh Tuệ. Những câu hỏi đã được tôi soạn ra trước nhưng không hề có việc gửi tới trước cho Sư hoặc là cho anh Đoàn Văn Báu (Trưởng đoàn)
Vào năm 2015 ngôi chùa Linh Thứu tại thủ đô Berlin của xứ Đức, đã đảm nhận trọng trách tổ chức một khóa An Cư Kiết Đông cho hơn 100 vị Chư Tăng Ni đến từ các nơi, chủ yếu là Âu Châu. Gần mười năm sau, Chùa lại được hân hạnh đón tiếp lần thứ hai gần 100 Vị đến tu tập những 10 ngày từ mùng 9 đến 18 tháng 12 năm 2024, đó là khóa An Cư Kiết Đông kỳ thứ 12, nếu không trừ ra vài khóa vắng bóng thời Cô-Vít ngày nào!
Ngày 3/1, ngày thứ tư kể từ khi đặt chân tới đất Thái Lan, đoàn của sư Minh Tuệ đang đi bộ dọc đường 217 trên khu vực thuộc huyện Phibun Mangsahan, tỉnh Ubon Ratchathani ở miền đông bắc Thái Lan.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.