PHẬT TÁNH Phật tánh là đề tài mà Đức Phật đã không thuyết giảng rõ ràng trong lần chuyển pháp luân đầu tiên. Không phải là Ngài giữ lại một số khám phá lớn chỉ có thể trao truyền cho những người đệ tử khá nhất và thông minh nhất. Giống như một vị thầy có trách nhiệm, Ngài tập trung vào những nguyên lý căn bản trước khi đề cập đến những chủ đề cao hơn. Nói về Phật tánh, nó không liên hệ gì đến đạo hạnh và cung cách của một người trong bộ y vàng trên đường đi khất thực. Chữ Phật trong Phạn ngữ được dịch theo nghĩa đen là “bậc giác ngộ”. Nếu được coi là một danh hiệu, chữ này thường được chỉ cho Đức Tất-đạt-đa Cồ Đàm, người đã đạt được giác ngộ tối thượng 2.500 năm trước dưới cây bồ đề. Từ và bi chiếu sáng xuyên qua những chiếc cửa sổ trong những khoảnh khắc này khi chúng ta, một cách tự phát, giúp đỡ hay an ủi một người nào đó, không phải vì sự lợi ích bản thân, mà vì cảm thấy việc đó nên làm. Có thể là một điều kiện rất đơn giản như cho một người tựa vào vai để khóc khi họ đau khổ, giúp một người băng qua đường, ngồi bên cạnh một người đang bịnh hay đang hấp hối. Tất cả chúng ta đã từng nghe có những người không nghĩ đến nguy hiểm nhảy vào dòng nước sâu để cứu người không quen biết… Sức mạnh của Phật tánh thường thể hiện trong sự vượt qua những biến cố khó khăn. Gần đây tôi có gặp một người đã thực hành Phật pháp lâu năm. Anh ta đầu tư vào chứng khoán từ năm 1990, và khi chứng khoán tuột, anh mất tất cả. Nhiều người bạn và người cộng tác với anh cũng mất tiền và một số bị rơi vào tình trạng khủng hoảng tinh thần. Một số người mất tự tin và không còn khả năng quyết định; một số rơi vào tình trạng nản chí; một số giống như trong đợt khủng hoảng kinh tế 1929, nhảy qua cửa sổ. Nhưng anh thì vẫn vững tâm, không mất lòng tự tin, không thối chí. Anh bình tĩnh đầu tư trở lại và xây dựng lại nền tảng tài chánh vững vàng. Nhìn về mặt trầm tĩnh của anh trong những biến cố lớn, một số bạn bè và người cộng tác hỉ anh làm thế nào anh có thể giữ được sự bình tĩnh. Anh trả lời: “Vâng. Tôi có được tất cả số tiền đó từ thị trường chứng khoán, rồi nó trở về với thị trường chứng khoán, và giờ thì nó quay trở lại. Điều kiện thay đổi, nhưng tôi vẫn còn. Tôi có thể thực hiện những quyết định. Tôi có thể ở trong một ngôi nhà lớn trong một năm, rồi ngủ trên ván ở nhà một người bạn trong năm kế, nhưng điều đó không làm thay đổi sự việc rằng tôi có thể chọn lựa cách tôi suy nghĩ về chính mình và tất cả những vấn đề xảy ra quanh tôi. Thật sự, tôi thấy tôi rất may mắn. Một số người không có khả năng lựa chọn và một số nguòi không nhận thấy khả năng lựa chọn của mình”. Tôi cũng từng nghe những nhận xét tương tự từ những người đương đầu với những chứng bịnh kinh niên nơi họ, nơi cha mẹ, con cái họ, hay những thành viên trong gia đình, bạn bè. Một người đàn ông tôi gặp gần đây ở Bắc Mỹ nói về việc anh cố gắng giữ việc làm cũng như mối quan hệ tốt với vợ và con, trong khi vẫn tiếp tục thường xuyên thăm viếng người cha bị bịnh Alzheimer (một chứng mất trí). Anh ta nói: “Dĩ nhiên là khó mà giữ thăng bằng mọi chuyện Nhưng đó là điều tôi thực hiện. Tôi không thấy có cách nào khác”. Lời phát biểu đơn giản mà tươi mát làm sao! Mặc dù anh ta chưa bao giờ đến tham dự một buổi học Phật pháp, chưa bao giờ nghiên cứu kinh điển Phật giáo, và cũng không cần nhận mình là một Phật tử, sự diễn tả của anh về cuộc sống của mình và cách anh tiếp cận với cuộc sống đã là tiêu biểu cho một sự biểu lộ tự phát về ba phương diện của Phật tánh: trí tuệ nhìn thấy chiều sâu và chiều rộng trong hoàn cảnh của mình, khả năng giải thích sự việc và hành động theo cái thấy của mình, cách cư xử tự phát theo tâm từ bi. Khi tôi nghe anh nói chuyện, tôi nhận ra rằng ba tính chất này của Phật tánh có thể được tóm tắt bằng một từ đơn giản: can đảm – đặc biệt là can đảm để là, như chúng ta là, ngay tại đây và ngay bây giờ, với tất cả những nghi ngờ, bất quyết của chúng ta. Đối diện trực tiếp với kinh nghiệm mở ra cho chúng ta khả năng nhận thấy rằng điều mà chúng ta kinh nghiệm –tình yêu, sự cô độc, ganh ghét, niềm vui, lòng tham, nỗi buồn, và vân vân – từ bản chất là một sự biểu hiện tiềm năng vô hạn nền tảng của Phật tánh nơi chúng ta. Nguyên lý này nằm trong sự “chẩn bịnh” của chân lý thứ ba của Tứ diệu đế – Diệt đế. Bất cứ sự phiền nào nào chúng ta cảm nhận – vi tế, mãnh liệt, hoặc ở mức độ trung gian – sẽ chìm xuống và chúng ta sẽ vượt qua sự dính chặt vào cái thấy giới hạn, tùy thuộc và bị tùy thuộc về chúng ta, để bắt đầu nhìn thấy bằng khả năng thật sự của chúng ta, thể nghiệm sự việc một cách toàn bộ. Cuối cùng, đến và dừng lại trong Phật tánh – như một con chim dừng nghỉ khi trở về tổ ấm của mình. Ở đó, sự đau khổ chấm dứt. Không có gì để sợ hãi, không có gì để chống cự. Ngay cả cái chết cũng không làm chúng ta bối rối. Yongey Mingyur Rinpoche là một bậc thượng thủ của cả hai dòng truyền thừa Karma Kagyu, một nhánh của tông phái Kagyupa (Ca-nhĩ-cư), và tông phái Nyingmapa (Ninh-mã). Ngài ra đời tại Nepal vào năm 1975, được cả hai tông phái nói trên công nhận là thân tái sinh của Kagyur Rinpoche, một trong những vị khai quật kho tàng kinh điển truyền thống Tây Tạng có công truyền bá Phật giáo Tây Tạng cho phương Tây trong suốt thập niên 1960 và đầu thập niên 1970. Yongey Mingyur Rinpoche là tác giả của nhiều tác phẩm nghiên cứu về kinh điển Mật tông. |