Đặng Hữu Phúc 1. Trong Tiểu luận quy kết: Tính hợp nhất của Tư Tưởng Long Thọ (Concluding Essay: The Unity of Nagarjuna’s Thought), Chr. Lindtner viết: 2. “Khi Đức Phật, đại thánh chủ, quốc vương của chân lí, vị khai hiển của tất cả các chân lí xuất hiện, điệp khúc thì được vang lên từ cây cỏ, cây con và cây lớn và cây nhỏ, từ sỏi đá và các núi non: tất cả các tập hợp của đời sống đều là tính không / tính chân không diệu hữu” “Bất kì xa xôi cách nào chỉ thuần các đơn vị chữ viết, lời nói vươn tới cõi thế tục, tất cả đều là tính không/ tính chân không diệu hữu, chẳng có cái chi là thật [thật = chẳng biến dịch]; và vang xa là tiếng gọi của đức Phật, vị hướng dẫn và vị thầy của tất cả loài người”. *** Vâng, chẳng có chi là thật, do vì thật, tức là chẳng biến dịch; do vì tất cả chỉ là tương tục của trở thành. 3. Bây giờ ở đây chúng ta là người Việt, chúng ta chỉ có bây giờ ở đây một đời sống vô cùng khó khăn, khắc nghiệt, trước cảnh có quá nhiều kẻ đang làm cạn giòng sông để lội qua để đi tới mục đích tối hậu, do vì họ chủ trương một tự ngã thường hằng, vượt ngoài năm uẩn, vượt ngoài thân tâm, thế nên cái tự ngã này cũng ở ngoài các nghiệp quả của năm uẩn, của thân tâm, do thế họ sẵn sàng thay trời, đổi đất, sắp đặt lại giang sơn. “Thay trời đổi đất sắp đặt lại giang sơn”, là khẩu hiệu chính thức của thời kì cải cách ruộng đất 1953-1956 tại Việt Nam. “Đìu hiu ngoài bãi gió tịch dương, Bay vàng đôi lối nhớ càng thương” Chúng ta hãy buông bỏ ngôn ngữ sáo mòn hai ngàn năm Phật giáo Việt Nam, Phật giáo đồng hành với dân tộc, v.v… Hãy nói một ngôn ngữ giản dị và thực tế hơn: Ta và kẻ khác chẳng đồng nhất, chẳng dị biệt; ta và môi trường sinh sống chẳng đồng nhất chẳng dị biệt; Chánh pháp chẳng thể nở hoa trong bất công và đói nghèo; Bình đẳng là tương tức tương nhập, nghĩa là không có một lằn ranh; Công lí là công bằng (Justice is Fainess); Chỉ có công lí khi có tự do. Chúng ta hãy nói cùng một ngôn ngữ với thế giới, nghĩa là danh và sự, danh và đối tượng thì chẳng đồng nhất, cũng chẳng dị biệt; nghĩa là chúng ta hãy xa rời lối nói, lối viết dối gạt, hiển bày vọng kiến, tà kiến, ác kiến của người Việt hiện nay. Chánh pháp, cũng đồng nghĩa với duyên khởi. Chánh pháp không thể nở hoa trong bất công và đói nghèo . Duyên khởi không thể nở hoa trong bất công và đói nghèo. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói trong Trung Đạo. Chính tín căn cứ trong suy lí, chúng ta tích tập phúc đức trên căn bản (sở y) của phương diện hiển lộ của duyên khởi, và chúng ta tích tập trí tuệ trên căn bản (sở y) của phương diện chân không diệu hữu của duyên khởi. Nói thế nghĩa là mỗi khi nói đến, nghĩ đến chánh pháp là phải nghĩ đến duyên khởi /duyên hội. 4. Nói vắn tắt, chúng ta nhớ đến cam lộ của giáo pháp của Đức Phật, đựợc ngài Long Thọ trình bày tóm tắt trong các tác phẩm của ngài, và nhớ đến tiêu điểm của các tác phẩm của ngài Long Thọ là Bồ đề thành lập / Thành lập Bồ đề (Bodhisadhana), và thuật ngữ tương đương của Bồ đề thành lập là Phúc Tuệ tích tập /Tích tập Phúc Tuệ (Punyajnanasambhara). Các tiến bộ của khoa học kĩ thuật cho chúng ta thấy nhân loại tích tập phúc đức trên căn bản (sở y) của phương diện hiển lộ của duyên khởi và tích tập trí tuệ trên căn bản (sở y) của phương diện chân không diệu hữu của duyên khởi. Nói chung cả thế giới đang nỗ lực tích tập phúc tuệ trong sinh hoạt thường tục. Các tích tập phúc tuệ hiển bày quả hải của vạn đức. Khi nghĩ đến empty, emptiness, chúng ta có thể nghĩ empty = open; emptiness= openness, và không = khai mở; tính không = tính khai mở. Như vậy tính không mở ra các khả hữu cho các biến hiện (manifestation), tương tục của trở thành (continuity of becoming), thế nên cũng mở ra các trách nhiệm, các hệ quả đến từ trách nhiệm có tính làm chưng hửng, lúng túng, sững sờ, rụng rời, choáng váng, hoảng vía, kinh hoàng (astounding implications). Mong rằng chúng ta hãy đặt tiêu điểm của đời mình trên Thành lập Bồ đề, đó cũng là Tích Tập Phúc Tuệ, đó cũng là Quả hải của vạn đức. 5. Giải thích về Tâm Yếu của Kinh Trí Tuệ Siêu Việt của Đức Cát Tường/ Thế Tôn / Bạt Già Phạm. Ngọn Đèn Chiếu Sáng Diệu Nghĩa. Tôi đỉnh lễ nhiều lần với chánh tín và tôn kính đối với mẫu thân của chư tối thắng trong ba thời (quá khứ hiện tại, vị lai), sự bình đẳng của hiện hữu thế gian và sự tịch tĩnh, đối với bản chất tương tợ bảo châu của các bản kinh văn, giảng dạy các phương tiện thiện xảo để đem lại đại lạc cho những kẻ chuyển cư sáu cõi. Commentary on the Bhagavati Heart of the Perfection of Wisdom Sutra, Lamp of the Meaning. I bow down again and again with faith and respect to the mother of the conquerors of three times, the equality of mundane existence and peace, to the jewel-like nature of the texts, teaching the skillful methods for bringing bliss to transmigrators. 6. Long Thọ. Ca tụng Đức vượt ngoài ca tụng (Stutyatitastava) Như Lai ngài du hành * Long Thọ. Hiển bày Bồ đề tâm. 112. Bằng phúc đức vô đẳng mà tôi nhận được hiện nay do ca tụng bồ đề tâm tuyệt hảo mà chư Tối Thắng tuyệt hảo ca tụng, nguyện cho các chúng sinh bị trầm luân trong đại hải của các con sóng của luân hồi đến được điểm xuất phát trên đạo lộ thiết lập bởi vị đạo sư của chư thiên và loài người. Nagarjuna. Boddhicittavivarana. 112. Through the incomparable merit I have now collected by praising the excellent bodhicitta praised by the excellent Jinas, may living beings submerged in the waves of life’s ocean gain a foothold on the path followed by the leader of those who walk on two legs. (Trích từ: In Praise of Dharmadhatu by Nagarjuna. Commentary by the Third Karmapa. Translated and Introduced by Karl Brunnhollzl. Snow Lion, 2007) ***** Chú thích Skt. Tirthikas: Forders; Những kẻ lội qua sông cạn. Chủ trương tự ngã thường hằng, ở ngoài năm uẩn, và ở ngoài thân và tâm. Các bộ luận có tên là Forders to the End (Các kẻ lội qua sông cạn để tới Cứu Cánh). Các tác giả của các bộ luận như thế được gọi là Makers of the ford to the End (Tirthankara) (Các kẻ làm cho giòng sông cạn để lội qua để đi tới Cứu Cánh) . (Trích từ Jeffrey Hopkins. Meditation on Emptiness). Đức Phật có nói tới các tirthika trong Kinh Lăng già, khi ngài giảng về Như Lai Tạng. Kinh Lăng già, bản dịch Anh ngữ của D.T. Suzuki, chapter II, đoạn XXVIII, p.68, dịch tirthikas thành philosophers ; bản dịch Thích Chơn Thiện và Trần Tuấn Mẫn , p.166 ; dịch philosophers thành các triết gia ; trong khi Kinh Lăng già bản Hán dịch của Cầu na bạt đà la, Việt dịch của Thích Duy Lực thì tirthikas thành các nhà ngoại đạo. Ngài Long Thọ có nói tới các Tirthika trong Ca tụng Đức Bất Khả Tư Nghị (Đức Phật) (Acintystasva) và trong các tác phẩm khác . * Sydney 01.09.2016 Giữa lòng cuộc đời: các ghi chú về Phật học.
|