CÚNG THAY CHO NGƯỜI CHẾT CHƯA SIÊU THOÁT Cúng dường chư Tăng thay cho người chết chưa siêu thoát là một phương pháp do Đức Phật dạy từ Kinh Tirokudda Sutta. Chúng ta sẽ dễ ngộ nhận về nhóm chữ “người chết chưa siêu thoát,” vì có thể liên tưởng tới một “cái tôi” nào bất bíến từ người đã lìa đời. Thực sự, không hề có cái tôi nào bất biến, vì các pháp vô thường, liên tục biến diệt; nhưng rất nhiều chúng sinh vẫn chấp rằng có một “cái tôi” bất biến, và chấp này sẽ trói buộc họ. Thân này nằm xuống, là tứ đại tan rã, sắc thọ tưởng hành thức khi qua thân mới sẽ không như cũ. Và ngay trong trung ấm thân, cái lưu chuyển được Đức Phật gọi là “thức” cũng không phải như những ngày sinh tiền. Người chết chưa siêu thoát có thể hiểu là hai dạng: thứ nhất là trung ấm thân, hay thần thức, trong bài “Đức Phật dạy cầu nguyện cho thân trung ấm” (1) đã ghi lời Đức Phật chỉ dẫn cách cầu siêu; thứ hai là thành phần chúng sinh chữ Pali gọi là peta, thường dịch là ma đói, cũng có nghi thức giải thoát do Đức Phật dạy qua Kinh Tirokudda Sutta. Chữ peta thường được dịch là spirits (vong linh), the departed (người đã chết), hungry ghosts (ma đói). Quý Thầy Bắc Tông thường dù chữ ngạ quỷ là tương đương. Nói cúng đây cũng không nên hiểu là chuyện vàng mã, vì Phật giáo không có chuyện cúng với vàng mã hay tiền âm phủ. Thực ra không có gì huyền bí, vì trong Kinh này Đức Phật dạy người thân của vong linh làm lễ cúng dường chư Tăng và hồi hướng phước để vong linh được siêu thoát. Peta là những người chết, đã sinh vào cõi ma đói, nhưng vẫn chấp là còn thân cũ và cứ tìm lẩn quẩn ở nơi người thân trong kiếp vừa qua. Họ có thể thọ khổ ở cõi ma đói nhiều ngàn năm, thậm chí từ thời Đức Phật này tới thời Đức Phật kia, cho tới khi hết nghiệp dữ, trong đó có một loại ma đói có thể được siêu thăng khi người thân cúng dường chư Tăng nhân danh họ, và hồi hướng phước cho họ. Theo Piya Tan, có tranh luận bộ phái từ thời xa xưa: một số thầy nói rằng oai lực người thân cúng dường chư Tâng sẽ giải thoát cho người thân thoát cõi ma đói, trong khi đó nhiều thầy khác nói rằng chính tâm hoan hỷ của ma đói khi thấy người thân nhân danh mình cúng dường chư Tăng sẽ làm nghiệp dữ tan biến. Nơi đây, bài này không đi sâu vào lý luận tranh biện, vì phức tạp và không cần thiết. ** Duyên khởi của Kinh này được kể như sau. Đức Phật sau khi thành đạo, trước tiên là tới thuyết pháp cho 5 vị đầu tiên là nhóm ngài Kiều Trần Như, rồi tới gặp 3 ba giáo sĩ khổ hạnh và đồ chúng của ba vị này. Sau đó, Đức Phật đi cùng ba vị này tới gặp vua Bimbisara. Vị vua này sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, tức khắc chứng quả Nhập Lưu. Sang ngày hôm sau, những thân nhân đã chết của vua Bimbisara trong cõi ma đói trước đó hy vọng rằng vua sẽ cúng dường để hồi hướng phước cho họ, nhưng vua bận tâm về việc xây một tự viện cho Đức Phật. Các vong linh thất vọng, mới quậy phá, la hét suốt đêm trong cung điện vua. Hôm sau, vua Bimbisara hỏi Đức Phật về các chuyện xảy ra. Đức Phật bảo vua là chớ sợ hãi gì, vì những người thân chưa siêu thoát của vua muốn được cúng Tam Bảo để siêu thăng vào cõi lành. Vua mới hiểu rằng vua có thể giúp người thân đang ở cõi ma đói, nên thỉnh Đức Phật tới hôm sau để cúng dường. Vừa khi vua dâng nước cúng Phật và làm nghi thức cúng dường, phát nguyện rằng lễ cúng này là cho thân nhân quá cố của vua, các hồ sen hiện ra để các ma đói tắm và uống. Khi vua cúng dường cháo, thực phẩm mềm và đoàn thực, thức ăn này hiện ra thanh tịnh trước mặt các ma đói để họ thọ thực. Khi vua cúng dường trang phục và nơi ở, các thức này hiện ra thanh tịnh cho các ma đói. Kết thúc lễ cúng để giúp siêu thăng các ma đói, Đức Phật mới đọc lên các câu thơ, và đó là Kinh này. Trong tác phẩm biên khảo “The Four Planes of Existence in Theravada Buddhism” của Tiến sĩ Sunthorn Na-Rangsi, dẫn theo các tích Petavatthu trong Tạng Pali, nói rằng các ma đói không có nơi đặc biệt nào để cư trú, họ sống chung thế giới với người, như ở rừng, núi, đảo, nghĩa địa, vân vân. Nhưng mắt người không thấy họ được. Người thấy được ma đói là chỉ khi ma đói muốn được thấy. Một số người tu thiền định có thể thấy được ma đói. Sách Petavatthu trong Pali Canon có một truyện kể rằng Đại sư Sariputta (Xá Lợi Phất) gặp một nữ ma đói hiện ra trong thân gầy gò, xấu xí, trần truông. Đại sư hỏi và nữ ma đói này kể khi mang thân người, ba mẹ và thân nhân không ai chỉ cho bà nghiệp lành như cúng dường Tam Bảo, giữ giới, vân vân. Do vậy, chết đi mới thọ sanh làm ma đói, đã đói và khát cả 500 năm rồi. Bà xin Đại sư Sariputta làm nghi thức cúng dường thay mặt bà. Ngài Sariputta ưng thuận, mới cúng một số thực phẩm, một miếng vải nhỏ và nước cho một tỳ kheo. Ngài hồi hướng phước cúng dường cho nữ ma đói kia. Lập tức, ma đói này được thọ thực, trang phục đẹp, và siêu thăng vào cõi trời, trở thành thiên nữ. Vị thiên nữ này hiện ra trước mặt Ngài Sariputta. Không nhận ra, Đại sư hỏi đó là ai vậy. thiên nữ mới kể nguyên là ma đói, vừa được ngài cứu.(2) ** Sau đây sẽ dịch theo bản Anh dịch của Bhikkhu Anandajoti. The Beyond the Walls Discourse Kinh Bên Ngoài Bức Tường But when abundant food and drink, Nhưng khi nhiều thức ăn và nước uống Thus those who are compassionate Do vậy, những người có tâm từ bi Thinking: “May this go to our relatives, Nghĩ rằng: “Nguyện các phẩm vật này tới người thân của chúng tôi Nguyện người thân của chúng tôi hạnh phúc!” saying: “ May our relatives live long! nói rằng: “Nguyện người thân của chúng tôi trường thọ For in that place there is no ploughing, Vì ở nơi này (cõi peta) không có việc cày bừa The departed in that place who have died, have to subsist on gifts. Những người đã chết đang ở nơi này phải dựa vào đồ cúng Just as rivers that are full Y như sông khi đầy Thinking: “He gave to me, he worked for me, Nghĩ rằng: “Y đã cho tôi, y đã làm việc cho tôi, For no tears, or grief, Vì không nước mắt nào, không đau đớn nào, But that gift that has been given, Nhưng khi phẩm vật cúng dường đưa ra This then is the definition of a relative’s duties— Đây là bổn phận của người thân Links của hai bản Anh dịch và bản Việt dịch của HT Thich Minh Châu sẽ đặt ở (3). GHI CHÚ: (1) Xem: http://thuvienhoasen.org/a25024/duc-phat-day-cau-nguyen-cho-than-trung-am (2) Xem: http://www.bps.lk/olib/wh/wh462-p.html (3) Bản của Bhikkhu Anandajoti: https://suttacentral.net/en/kp7 Bản của Thanissaro Bhikkhu: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/pv/pv.1.05.than.html Bản của HT Thích Minh Châu:http://thuvienhoasen.org/p15a1271/2/kinh-tieu-tung-viet-anh |
Bài đọc thêm:
Ý nghĩa của cầu nguyện, cầu an và cầu siêu