QUÊ HƯƠNG CỰC LẠC
Việt Dịch: HT Thích Thiền Tâm
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản
Diệu Hiệp Đại Sư
( Đại sư người ở Tứ Minh thường nghiên cứu Thiên Thai Giáo Quán và tu phép Niệm Phật Tam Muội. Thời bấy giờ, các nhà học Phật thường nhận lầm thuyết duy tâm tự tánh; với cõi Cực Lạc, không cầu ở Tây, mà tìm nơi thức tâm phân biệt, Đại sư thương xót cho cảnh nhân thuốc mà thành bịnh ấy, soạn ra hai quyển “Bảo Vương Tam Muội, Niệm Phật Trực Chỉ”. Nhân đó, các nhà tu thiền tịnh sai lầm mới nhận được bờ bến. Lúc ấy thuộc vào khoảng đời Hồng Võ nhà Minh năm thứ 28. Hai trăm năm sau, Liên Trì Đại Sư mến bộ sách ấy, vì bị thất truyền, nên tìm mãi không gặp. Về sau Vạn Dung thiền sư ngẫu nhiên được thấy, mới đem truyền bá ra. Ngẫu Ích đại sư đã góp bộ này vào pho “Tịnh Độ Thập Yếu”.
*Đại sư dạy: Hành giả phát tâm niệm Phật, trước khi vào đạo tràng phải xét nghĩ ta với chúng sanh thường ở trong biển khổ sanh tử, nếu không độ cho tất cả đều được thoát ly, sao gọi là chánh hạnh? Nhân đó, xem người oán kẻ thân đều bình đẳng, khởi lòng đại bi, như thế quyết không bị tệ ma, ác đảng làm cho thối chuyển. Sau khi đã lập đại tâm, nên nghiên cứu những chánh hạnh niệm Phật của người xưa, lập đạo tràng đúng pháp, khiến cho hết sức trang nghiêm thanh tịnh.
Kế đó, phân ngày đêm sáu thời, đem tâm chí thành gieo mình quy mạng ngôi Tam bảo, tỏ bày hết tội lỗi, cầu xin sám hối. Lại quỳ trước Phật, tay cầm hương hoa cúng dường, vận tâm quán tưởng khắp pháp giới, xét mình cùng tất cả chúng sanh từ trước đến nay ở trong vòng mê khổ, rơi lệ cảm thương, cầu Phật gia bị, nguyện độ muôn loài. Như thế, dùng hết sức mình kham khổ tu hành, nếu nghiệp chướng sâu, chưa được cảm cách, phải lấy cái chết làm kỳ hạn, không được giây phút nào nghĩ đến sự vui ngũ dục của thế gian.
Như kẻ
căn cơ non kém, không làm được
thắng hạnh trên dây thì cũng ở trong
tịnh thất, giữ cho
thân tâm nghiêm sạch,
tùy ý tu hành. Hoặc định thời
lễ Phật sám hối, nguyện
tinh tấn không thối chuyển, hoặc
chuyên niệm hoặc kiêm
trì chú,
tụng kinh. Nếu được thấy
tướng hảo, thì
biết mình được
diệt tội, có duyên lành.
Hỏi:
Dụng tâm thế nào mà được không tán loạn? Đáp: Nên vận dụng thân miệng mà niệm, không kể đến tánh hay định, chỉ làm sao cho câu Phật không hở dứt, tự sẽ được
nhất tâm, hoặc cũng có thể gọi chính đó là
nhất tâm. Nhưng phải niệm mãi không thôi, trạng như mẹ lạc con thơ, rồng mất trái châu bổn mạng, thì không còn lo chi
tán loạn, không cầu
nhất tâm mà tự được
nhất tâm. Chẳng nên cưỡng ép cho tâm quy nhất, vì dù cưỡng ép cũng không thể được, thật ra chỉ do người tu siêng săng hay biếng trễ mà thôi! Nghĩ thương cho người đời nay, phần nhiều
tu hành mà không
hiệu nghiệm, ấy cũng bởi
lòng tin cạn cợt, nhân hạnh không chơn.
Lắm kẻ chưa từng lập hạnh, đã muốn cho người
biết trước, trong thì tự phụ, ngoài lại khoe khoang,
tỏ ý có chỗ sở đắc để được moi người
cung kính. Thậm chí có kẻ
nói dối là mình trông thấy
tịnh cảnh, hoặc thấy được
cảnh giới nhỏ, hay những tướng tốt trong giấc
chiêm bao. Thật ra chính họ cũng không
phân biệt cảnh đó là chơn hay vọng, nhưng cũng cứ khoe khoang bừa ra. Những kẻ tâm hạnh kém ấy, tất là bị ma làm
mê hoặc,
nguyện hạnh lần lần lui sụt, trôi theo dòng
sanh tử luân hồi. Như thế, há chẳng nên dè dặt ư?
Người
tu hành, đối với một tội dù nhỏ, cũng phải đem lòng kiêng sợ, sự hiểu nên theo hàng
đại thừa,
việc làm phải bắt chước kẻ
sơ học. Người
tu hành nếu bị
túc nghiệp ngăn che, khiến cho nghiệp hạnh lui kém, phải
nhất tâm trì
tụng chú Vãng Sanh. Chú này gọi là môn
đà la ni nhổ trừ tất cả cội gốc
nghiệp chướng, tụng một biến,
tiêu diệt hết tội
ngũ nghịch thập ác trong thân, tụng mười muôn biến, được không quên mất
bồ đề tâm, tụng hai mươi muôn biến, liền cảm sanh mầm mộng
bồ đề, tụng ba mươi muôn biến. Phật
A Di Đà thường trụ trên đảnh,
quyết định sanh về
Tịnh Độ.