QUÊ HƯƠNG CỰC LẠC
Việt Dịch: HT Thích Thiền Tâm
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản
Ngẫu Ích Đại Sư
Đại sư là vị tổ thứ 9 trong Liên Tông, họ Chung, hiệu Trí Húc, quê ở Ngô huyện. Người cha trì chú Đại Bi mười năm, mộng thấy đức Quán Âm bồng con trao cho mà sanh ra ngài. Ban sơ ngài theo Nho Giáo, làm sách bài bác đạo Phật, đến khi đọc qua bộ Trúc Song Tuỳ Bút, liền đốt bản thảo sách mình. Năm 24 tuổi, ngài xuất gia, tập tham thiền, nhân bị bịnh nặng gần chết, mới chuyển ý tu tịnh nghiệp. Về sau ở ẩn nơi chùa Linh Phong, trứ thuật rất nhiều. Khi lâm chung ngài trối dặn thiêu hóa sắc thân, lấy tro xương hòa với bột làm hoàn thí cho chim cá, đặng kết duyên Tây Phương, rồi ngồi ngay mà tịch. Ba năm sau, hàng môn nhơn mở khám ra, thấy sắc diện đại sư như lúc sống, tóc mọc dài lấp cả tai không nỡ theo lời di chúc, xây nhục tháp thờ ở Linh Phong.
Đại sư dạy: Pháp môn niệm Phật không chi kỳ lạ, chỉ tin sâu, nguyện thiết, gắng sức thật hành mà thôi. Điều cần yếu là tin cho thấu đáo, giữ cho bền lâu, một lòng chuyên niệm, mỗi ngày đêm hoặc mười muôn, ba muôn, hay năm muôn câu, lấy số quyết định không thiếu làm lệ. Hành trì như thế trọn một đời, thề không thay đổi, nếu không vãng sanh, thì chư Phật ba đời thành ra nói dối. Khi được vãng sanh, tất không còn bị thối chuyển, bao nhiêu pháp môn đều được hiện tiền. Rất kỵ tâm không thường hằng, nay vầy mai khác, thấy ai nói pháp chi huyền diệu liền xu hướng theo, thì không môn nào thành tựu. Đâu biết nếu một câu A Di Đà niệm được thuần thục, thì ba tạng mười hai phần kinh những giáo lý cực tắc đều ở trong đó; một ngàn bảy trăm công án, đường lối hướng thượng đều ở trong đó; ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, ba tu tịnh giới cũng ở trong đó.
Người chơn
niệm Phật, buông cả
thân tâm thế giới là đại
bố thí, không còn
khởi tâm tham giận mê là đại
trì giới, không so đo
phải quấy hơn thua là đại
nhẫn nhục, không
gián đoạn xen tạp là đại
tinh tấn, không để
vọng tưởng buông lung là đại
thiền định, không bị đường lối khác làm
mê hoặc là
đại trí huệ. Thử tự nghiệm xét, nếu đối với
thân tâm thế giới còn chưa
buông bỏ, niệm tham giận mê vẫn còn hiện khởi,
việc phải quấy hơn thua còn
do nơi lòng, tâm
vọng tưởng buông lung còn chưa
trừ diệt, các đường lối khác còn làm
mê hoặc ý chí, như thế không gọi là người chơn
niệm Phật.
Muốn được
cảnh giới “Một lòng không loạn”, cũng chẳng có
phương chước chi lạ, lúc mới
dụng công,
cần phải lần chuỗi ghi số, mỗi ngày đêm định khóa là bao nhiêu câu đừng cho
thiếu sót. Giữ đúng như thế, lâu ngày
niệm lực sẽ
thuần thục, thành ra cảnh “không niệm tự niệm”, chừng ấy ghi sổ hay không cũng được. Nếu lúc
ban sơ muốn vội nói lời cao siêu, muốn không trước tướng, muốn học
viên dung tự tại thì
niệm lực khó thành. Như thế là tin không sâu,
hành trì không
hết sức, dù cho ngươi có giảng được mười hai phần giáo, tỏ được một ngàn bảy trăm
công án, đều là việc bên bờ
sống chết luân hồi, khi
lâm chung quyết định không dùng được.
Niệm Phật có sự trì và lý trì. Sự trì là tin có Phật
A Di Đà ở phương Tây, mà chưa hiểu
lý tâm này
làm Phật, chỉ
quyết chí cầu sanh,
niệm Phật như con nhớ mẹ, không lúc nào tạm quên. Lý trì là tin Phật
A Di Đà ở
Tây Phương là tâm mình sãnh có đủ, là tâm mình tạo ra, đem
hồng danh sẵn đủ, tạo ra của mình mà làm cảnh buộc tâm, khiến
cho không tạm quên.