QUÊ HƯƠNG CỰC LẠC
Việt Dịch: HT Thích Thiền Tâm
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản
Hoằng Nhất Đại Sư
(Đại sư họ Lý, húy Diễn Âm, tự Thúc Đồng, từng sang Nhật học về chuyên khoa mỹ thuật và làm giáo sư nhiều học hiệu trong nước Trung Hoa. Năm dân quốc thứ 7, ngài xuất gia nơi chùa Đại Từ tại Hàng Châu, sau thọ đại giới ở chùa Linh †n, Đại sư cảm thấy luật học suy vi, mới phát tâm chấn chỉnh. Nhân đó, ngài vân du qua vùng Mân, Triết, chuyên về giảng thuật, có trứ tác bộ “Nam sơn luật uyển tòng thơ” lưu hành ở đời. Ngài chuyên tu tịnh nghiệp, rất mến phục „n công ở Linh Nham, hằng lấy việc “sống hoằng truyền giới luật, chết vãng sanh Tây Phương” làm chí nguyện. Mùa thu năm Dân quốc thứ 31, đại sư ở Ôn Lăng, dự biết lâm chung, niệm Phật mà tịch, hưởng 64 tuổi đời, 24 tăng lạp. Sau khi thiêu hóa, được xá lợi hơn 1800 hột).
Đại sư dạy: Cổ thi nói: “Ta thấy người khác chết. Trong lòng nóng xót xa. Chẳng phải xót kẻ mất. Vì sẽ đến phiên ta”. Vậy việc lớn rốt sau của đời người, đâu tạm quên trong giây phút ư!
Khi bịnh nặng, phải buông bỏ tất cả việc nhà cho đến thân tâm của mình, chuyên nhất niệm Phật, một lòng mong cầu vãng sanh Tây phương. Làm như thế, nếu thọ mạng đã hết, quyết định được vãng sanh. Như thọ mạng chưa dứt, tuy cầu vãng sanh mà trở lại mau lành bịnh, do vì lòng mình chuyên thành, nên có thể diệt trừ nghiệp ác đời trước. Trái lại, nếu chẳng buông bỏ muôn duyên, chuyên nhất niệm Phật, như thọ mạng đã hết, quyết định không thể không vãng sanh, vì mình chỉ chuyên cầu lành bịnh chớ không cầu vãng sanh, nên không do đâu được về Cực Lạc. Nếu như thọ mạng đã dứt, chẳng những không được mau thuyên giảm, mà bịnh lại tăng thêm, vì mình nhân cầu lành bịnh vọng sanh lòng lo lắng sợ hãi vậy
Khi bịnh chưa nặng, cũng nên uống thuốc, nhưng vẫn phải tinh tấn niệm Phật, chớ tưởng nghĩ rằng: uống thuốc rồi bịnh sẽ lành. Lúc bịnh đã nặng, có thể không cần dùng thuốc. Khi ta bịnh nằm ở Thạch thất, có kẻ khuyên nên rước thầy hốt thuốc, liền từ tạ mà nói kệ rằng:
“A Di Đà Phật. Vô thượng y vương. Bỏ đây không cầu. „y là si cuồng! Một câu niệm Phật. Là thuốc Dà đà. Bỏ đây không uống. Lầm to lắm mà!”.
Nhân vì bình nhật ta đã tin pháp môn niệm Phật, thường giảng nói cặn kẽ cho mọi người nghe. Nay chính mình bị bịnh lại bỏ đây cầu thuốc sao?
Nếu mình bịnh trở nặng, đau khổ qúa lắm, rất không nên kinh hoàng, vì cơn bịnh khổ này do bởi túc nghiệp, hoặc nhân ta tu hành nên chuyển nghiệp báo của ác đạo thành ra qủa nhẹ bịnh khổ, để trả xong tất rồi mới sanh về Tây phương.
Khi bịnh nặng, những y phục vật dụng của mình, nên đem thí cho kẻ khác, hoặc y theo phẩm “Như lai Tán Thán” trong kinh Địa Tạng, đem vật liệu ấy cúng dường kinh tượng lại càng hay.
Lúc bịnh nhân đau nhiều, như thần thức còn thanh tỉnh, người nhà nên thỉnh bậc thiện tri thức đến thuyết pháp. Vì thiện tri thức phải hết sức an ủi, đem việc lành, công tu của bịnh nhân kể rõ ra và khen ngợi, khiến cho người bịnh sanh lòng vui mừng không còn nghi ngại, tự biết khi mình chết sẽ nương nơi nghiệp lành ấy sanh về Tây Phương.
Khi bịnh nhân sắp chết, người thân cận không được hỏi han về di chúc, cũng được nói chuyện tạp vô ích, khiến cho người bịnh động tâm niệm tình ái, quyến luyến thế gian, có ngại cho sự vãng sanh. Nếu muốn để di chúc, thì trong lúc còn mạnh khỏe làm di ngôn trước giao cho người cất giữ.
Lúc bịnh nhân gần qua đời, tự họ muốn tắm gội thay y phục, thì có thể thuận theo, nhưng nhẹ nhàng cẩn thận mà làm. Như họ không chịu, hoặc á khẩu không nói được, thì không nên miễn cưỡng mà làm. Bởi người sắp chết thường thường thân thể đau nhức, nếu ép khuyên dời động, tắm rửa, thay y phục, thì bịnh nhân càng đau đớn thêm nhiều. — đời có người tu hành phát nguyện cầu về Cực Lạc, nhưng khi lâm chung vì bị quyến thuộc di động nhiễu loạn, phá hoại chánh niệm, nên không được vãng sanh, việc này xả ra rất nhiều. Lại có kẻ mạng chung có thể được sanh về cõi lành, nhưng bị người khác không biết, xúc chạm làm cho đau đớn, nên sanh lòng giận tức, do đó phải bị đọa vào đường ác. Như Vua A Xà Thế, tu nhiều phước lành, khi lâm chung nhân bị người hầu cận ngủ gục làm rớt cây quạt trên mặt nên giận, chết đọa làm rắn mãng xa. Gương này há không nên răn sợ ư!
Khi
lâm chung, hoặc ngồi hoặc nằm, đều tùy tiện chớ nên
gắng gượng. Nếu
cảm thấy khí lực
suy nhược chỉ có thể nằm, mà muốn xem cho ra vẻ,
gắng gượng ngồi dậy là điều nguy hại không nên. Hoặc theo
lẽ phải nằm nghiêng bên mặt, hướng về Tây, nhưng vì
thân thể đau nhức phải
nằm ngửa, hay
nằm nghiêng bên trái, hướng về Đông, cũng cứ để
tự nhiên không nên
gắng gượng. Đây là chính bịnh nhân phải hiểu như thế mà tự
xử sự. Còn người
thân thuộc cũng phải hiễu lẽ này, chẳng nên
cầu danh bắt người bịnh
nằm nghiêng bên mặt hướng về Tây, hay đỡ dậy mặc
áo tràng sửa ngồi kiết dà. Đâu biết rằng chỉ vì cầu chút hư danh mà khiến cho người chết phải đọa
tam đồ, chịu
vô lượng sự khổ.
Khi
đại chúng trợ niệm, nên thỉnh tượng
Di Đà tiếp dẫn để trước bịnh nhân, khiến cho họ trông thấy.
Người
trợ niệm, không luận nhiều ít, nếu được nhiều, nên
luân phiên mà niệm, khiến cho tiếng Phật không
gián đoạn. Muốn niệm bốn chữ hay sáu chữ, hoặc niệm mau niệm chậm, phải hỏi trước bịnh nhân. Lại phải tùy chỗ tập quán
ưa thích thuở bình nhật của bịnh nhân mà niệm, khiến cho họ có thể niệm thầm theo. Thường thấy kẻ
trợ niệm không vì người sắp chết, chỉ niệm theo ý mình. Như thế đã trái chỗ tập quán
ưa thích của bịnh nhân, họ làm sao niệm thầm theo được?. Nguyện những người
trợ niệm đặc biệt lưu ý đến điều này!. Nếu mình
phá chánh niệm của kẻ khác tức là có tội, đến phiên mình
lâm chung cũng bị qủa báo gặp kẻ khác
phá hoại mà không được vãng sanh!
Thông thường, người
trợ niệm hay đánh khánh hoặc đánh mõ nhỏ. Theo
kinh nghiệm, kẻ mang bịnh,
thần kinh suy nhược, rất sợ nghe tiếng khánh và mõ nhỏ, vì
âm thanh của những thứ này chát chúa đinh tai,
kích thích thần kinh khiến cho họ
tâm thần không an. Theo
thiển ý, chỉ nên niệm suông là
thỏa đáng hơn hết. Hoặc nếu có, thì chỉ đánh thứ chuông, khánh hay mõ lớn, mấy món này
âm thanh hùng tráng, khiến cho người bịnh sanh niệm nghiêm kính, thiệt hơn đánh khánh và mõ nhỏ nhiều. Thứ mõ
âm thanh đục cũng không nên đánh, vì làm cho bịnh
nhân tâm thần hôn trược. Nhưng
sở thích của mỗi người không đồng,
tốt hơn là nên hỏi trước bịnh nhân. Nếu có chỗ nào không hợp, phải
tùy cơ cải biến, chớ nên
cố chấp.
Người mới tắt hơi, điều thiết yếu là không nên vội
di động, hoặc kẻ chết thân mình dính chất dơ cũng không nên gấp lau rửa, phải đợi qua tám tiếng đồng hồ, mới được tắm rửa thay
y phục. Trước và
sau khi chết, người nhà không được khóc lóc, khóc là
vô ích mà lại có hại vì làm cho kẻ
mạng chung, sanh niệm
quyến luyến, không
được giải thoát, chỉ nên
gắng sức niệm Phật là thật ích cho
vong nhân. Nếu muốn khóc lóc phải đợi tám giờ sau. Tại sao thế? Vì bịnh nhân tuy tắt hơi, nhưng
thức A Lại Da còn chưa đi. Nếu khi ấy lay động, tắm rửa, thay
y phục, hoặc kêu khóc họ vẫn còn
cảm giác đau đớn, hoặc sanh buồn giận, thương bi mà phải xa đọa. Điều này rất quan hệ, rất
cần yếu, nên
để ý ghi nhớ kỹ.
Cái thuyết
thăm dò hơi nóng để nghiệm xem sanh về đâu tuy có
chứng cớ, nhưng cũng không nên
cố chấp. Nếu bịnh nhân bình thời
tín nguyện chân thiết, khi
lâm chung chánh niệm rõ ràng, có thể
chứng nghiệm là
vãng sanh. Nhiều kẻ không kỹ, cứ mãi
thăm dò, rời chỗ này chỗ kia làm động niệm kẻ
mạng chung, cũng có hại lớn lắm. Sau khi bịnh nhân tắt hơi,
trợ niệm xong, phải
đóng cửa phòng lại canh chừng cho kỹ, kẻo loài mèo, hoặc kẻ không
am hiểu đổ
xô vào xúc chạm, đợi qua tám giờ sau sẽ tắm rửa thay
y phục.
Trong vòng tám giờ, nếu có người ở gần bên
niệm Phật luôn là điều rất tốt,
ngoài ra cấm
tuyệt không nên làm
điều chi khác. Xin nhắc lại,
trong khoảng thời gian này, người chết vẫn còn cảm giác!
Sau tám giờ, nếu tay chân người chết đã cứng không thể chuyển động, nên dùng vải thấm nước nóng đắp bao
xung quanh các khớp xương, giây lâu có thể co duỗi tay
chân như thường.
Khi làm những
Phật sự truy tiễn cho
vong nhân, nên
hồi hướng công đức ấy đến
chúng sanh trong
pháp giới. Như thế
công đức sẽ càng thêm lớn mà sự
lợi ích của
vong nhân đó cũng được tăng thêm nhiều.
Buổi
lâm chung là lúc rất quan yếu trong
một đời người, nếu trước
dự bị tư lương vãng sanh cho đầy đủ, đến chừng ấy khó khỏi
kinh hoàng bối rối, rồi kêu mẹ réo cha,
nghiệp ác trong nhiều kiếp
đồng thời hiện ra, làm sao giải thoát? Cho nên khi
lâm chung tuy nhờ người
y theo phương pháp mà
trợ niệm, nhưng chính mình lúc bình nhật phải
cố gắng tu trì, chừng ấy mới được
tự tại.
Hỡi người tu tịnh nghiệp! Xin sớm dự bị là hơn.!
Việt dịch: HT Thích Thiền Tâm.